Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Chuyên đề: Các phương pháp chế biến thức ăn trong nuôi dưỡng động vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.94 KB, 20 trang )

1

CÁC PHƢƠNG PHÁP CHẾ BIẾN THỨC ĂN
TRONG NUÔI DƢỠNG ĐỘNG VẬT

I. PHƢƠNG PHÁP LÊN MEN
Có 2 phương pháp lên men thức ăn:
- Phương pháp lên men ướt (lên men thức ăn với nhiều
nước).
- Phương pháp lên men khô - ẩm (với lượng nước ít).
1. Phƣơng pháp lên men ƣớt
- Rất dễ làm, không tốn công, cho lên men nhanh trong
mọi điều kiện; có
thể lên men các loại
bã đậu, bã sắn, các
loại rau cỏ đã
nghiền nát bằng
máy 3A, thức ăn lên
men đạt chất lượng
tốt.
- Phương pháp
này áp dụng tốt nhất
với các hộ chăn nuôi gia đình, với lượng thức ăn ít, có thể cho
ăn hết trong ngày.
Để tạo ra 200kg thức ăn gia súc đã ủ men làm như sau:
- Cân lấy 60kg các nguyên liệu khô như ngô, thóc, sắn…
đưa vào máy băm nghiền đa năng 3A dùng chế độ nghiền bột
khô, nghiền nhỏ thành dạng bột.
2

- Cân lấy 40kg các nguyên liệu như rau, bèo, cỏ, bã đậu,


bã sắn… đưa vào máy băm nghiền đa năng 3A dùng chế độ
nghiền nhuyễn để nghiền nát ra.
- Tạo nước men bằng cách lấy 0,5kg men vi sinh BTV và
4kg bột đã nghiền cho vào thùng, sau đó cho vào 100 lít nước
sạch (nước không có sắt, không nhiễm mặn ), khuấy đều để
trong 1 giờ.
- Tiếp theo lấy 66kg bột đã nghiền cộng với 30kg nguyên
liệu rau, bèo đã nghiền nát trên trộn cho đều, đổ từ từ vào
thùng có nước men cho đến hết, thấy nước hơi ngập mặt bột
là được.
- Để hở miệng thùng 4-5 giờ sau mới đậy kín thùng.
Thùng để ở nơi ấm trong mùa đông, thoáng mát trong mùa hè
để lên men được tốt.
Thời gian lên men: Phụ thuộc nhiệt độ ngoài trời (nhiệt
độ từ 30°C trở lên thì để khoảng 24 giờ, nhiệt độ từ 30°C trở
xuống thì từ 24 - 48 giờ), khi nào thức ăn có mùi thơm mát và
chua nhẹ thì có thể làm thức ăn cho đàn gia súc.
2. Phƣơng pháp lên men khô - ẩm
Quy trình lên men chặt chẽ hơn và chỉ dùng lên men với
các loại bột (không tận dụng được rau cỏ nghiền hoặc bã đậu,
bã sắn, ), có thể áp dụng cho các cơ sở chăn nuôi lớn.
Cách làm như sau:
Cho 100kg bột ngô, cám vào máy trộn sơ qua, sau đó
cho nước men vi sinh BTV (thành phần tạo nước men gồm:
0,5kg men vi sinh BTV và 2kg bột ngô hoặc cám và 40 lít
nước), trộn đều cho đến khi bột tơi và ẩm. Sau đó cho vào
thùng hoặc bao tải có lót ni lông nhưng không được lèn chặt,
3

để hở miệng bao tải, sau 5 - 6 giờ thì buộc chặt hoặc đậy kín,

ủ ở nơi ấm (trời lạnh), nơi thoáng mát (trời nóng).
Thời gian ủ lên men: Nhiệt độ ngoài trời cao (trên 30°C)
để khoảng 24 - 36 giờ, nhiệt độ ngoài trời thấp (dưới 25°C)
để khoảng từ 36 - 48 giờ. Thức ăn có mùi thơm mát và chua
nhẹ là dùng được (100kg bột sau khi lên men ẩm sẽ được 135
- 140kg thức ăn đã lên men).
Cả hai phương pháp đều cho hiệu quả tốt. Bà con chăn
nuôi có thể lựa chọn cách nào cho phù hợp với điều kiện thực
tế. Nên sử dụng lượng thức ăn đã lên men trong 1 - 2 ngày, để
lâu thức ăn sẽ quá chua, ảnh hưởng đến chất lượng. Do thức
ăn đã được lên men bằng những vi khuẩn có ích nên lượng
phân của gia súc ít, không có mùi, có thể sử dụng để làm
phân bón trực tiếp cho các loại cây trồng trong vườn nhà.
Áp dụng mô hình ủ thức ăn bằng “Men vi sinh BTV” sẽ
mang lại hiệu quả cao: Đàn lợn phát triển tốt, tăng trọng
nhanh; Giảm nhân công lao động và chi phí thức ăn; Giảm tỷ
lệ mắc bệnh, đặc biệt là bệnh đường ruột; Tạo môi trường
trong sạch, ít bị ô nhiễm.

II. CHẾ BIẾN THỨC ĂN TỪ CÂY KHOAI MÌ
1. Chế biến lá khoai mì làm thức ăn trong chăn nuôi
Cây khoai mì là cây màu lương thực quan trọng được
trồng rộng rãi ở các nước nhiệt đới Nam Mỹ, Châu Phi, Châu
Á và nhất là vùng Đông Nam Á và Ấn Độ.
Ở nước ta, hàng năm có khoảng gần 300.000ha mì. Lúc
thu hoạch củ có thể tận dụng nguồn lá và ngọn mì để làm
4

thức ăn cho gia súc, gia cầm. Ngọn, lá khoai mì khá nhiều
năng lượng, đạm, khoáng và Vitamin.

Đặc biệt, hàm lượng protein trong ngọn, lá mì rất lớn,
chiếm khoảng 18 - 27% trong vật chất khô, tùy theo lá già
hay non. Hàm
lượng protein
trong lá mì tương
đuơng với đậu
nành, giá đậu, các
lá cây bộ đậu. Mặt
khác, thành phần
axit Amin trong lá
lại rất cân đối.
Với những ưu
điểm trên, nếu sử dụng rộng rãi lá mì vào chăn nuôi sẽ mang
lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, trong ngọn và lá mì lại chứa rất nhiều chất
độc (axit Cyanhydric HCN). Hàm lượng HCN trong lá tươi
khá cao, đắng, có tới 25mg%, còn lá mì ngọt thường trên
10mg%. Đây là điều trở ngại duy nhất cho việc sử dụng lá mì
vào chăn nuôi gia súc, gia cầm. Để khắc phục trở ngại trên,
tập thể tác giả thuộc Bộ môn Dinh dưỡng - Viện Chăn Nuôi
quốc gia đã tiến hành một loạt các biện pháp chế biến có khả
năng khử được độc tố trên trong lá để làm thức ăn trong chăn
nuôi như:
- Băm nhỏ, nấu chín.
- Băm nhỏ, ủ chua 1 tuần.
- Băm nhỏ, phơi khô, tán bột.
5

- Băm nhỏ, ngâm nước muối 5% trong 12 giờ, phơi khô,
tán bột.

- Băm nhỏ, sấy khô ở 90
0
C, tán bột.
- Băm nhỏ, ngâm nước 12 giờ, phơi khô, tán bột.
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các phương pháp chế
biến trên đến hàm hượng độc tố HCN cho thấy:
- So với lá tươi, hàm lượng HCN trong lá mì sau khi chế
biến đều giảm đáng kể từ 82,5 đến 91,9% (từ 21,61mg HCN
trong 100g chất tươi của lá mì tươi xuống còn 74mg - 3,36
HCN trong 100g chất tươi sau chế biến).
- Trong phương pháp trên thì phương pháp băm nhỏ lá mì
tươi, sau ngâm nước với 12 giờ rồi phơi khô, tán thành bột là
phương pháp hữu hiệu nhất trong việc khử độc tố HCN ra
khỏi lá mì. Ở phương pháp này, hàm lượng HCN giảm từ
8,76mg% xuống còn 0,22mg% - 1,74mg, có nghĩa là giảm
được từ 91,95 % - 97.48 % hàm lượng HCN trong lá mì.
Hy vọng các phương pháp trên đơn giản dễ làm và ít tốn
kém để lá mì giàu chất dinh dưỡng thành nguồn thức ăn quý
trong chăn nuôi gia súc, gia cầm.
2. Kỹ thuật ủ chua củ sắn làm thức ăn cho gia súc
Củ sắn tươi có thành phần nước, tinh bột và chất độc
(axit Cyanhydric HCN) cao, khó bảo quản, hàm lượng dinh
dưỡng (nhất là chất đạm) thấp. Quá trình băm, bào và làm
khô sắn gặp nhiều khó khăn nếu trời không nắng. Áp dụng
“Kỹ thuật nghiền ủ chua củ sắn” làm thức ăn cho gia súc
chẳng những tăng được hàm lượng dinh dưỡng cho thức ăn,
khử được chất độc, gia súc lại ham ăn, chóng lớn và còn dự
trữ được lượng lớn thức ăn bổ sung có chất lượng tốt.
6


2.1 Nguyên tắc ủ chua
- Đảm bảo hoàn toàn yếm khí: Ủ chua củ sắn tươi là
phương pháp ủ chua yếm khí. Do đó đảm bảo yếm khí là điều
kiện tiên quyết của ủ chua. Nghĩa là phải giảm lượng không
khí trong bao ủ tới mức tối đa và không khí từ bên ngoài
không thể vào trong bao được, nếu không thì thức ăn ủ sẽ bị
thối, mốc. Vì vậy nên ủ thức ăn trong bao nilon hai lớp hoặc
bể, thùng kín.
- Sử dụng một số phụ gia (bột men) có hàm lượng vật chất
khô và đạm cao để ủ vì củ sắn tươi có hàm lượng nước lớn,
hàm lượng đạm
lại thấp mà không
thể phơi héo
được.
- Có thể sử
dụng một số
nguyên liệu làm
phụ gia như: dây
lá khoai lang,
ngọn lá lạc tươi,
bột lá sắn, cám
gạo, bột phân gà khô và muối ăn làm phụ gia để ủ chua củ sắn
tươi. Các phụ gia này đóng vai trò quan trọng trong việc làm
giảm tỷ lệ nước của thức ăn ủ, cung cấp cơ chất cho vi sinh
vật lên men phát triển nhanh, đồng thời cung cấp tinh bột và
đường để chuyển hoá thành axit (axit axêtic và axit lactic). Vì
thế giá trị pH có thể giảm nhanh và sớm ổn định. Chất lượng
của thức ăn ủ chua được đảm bảo và ổn định lâu dài.
7


2.2 Thứ tự các bước ủ chua củ sắn tươi như sau
- Nghiền hoặc băm nhỏ củ sắn tươi: Nghiền hoặc thái lát,
băm củ sắn càng nhỏ càng tốt. Loại bỏ phần củ bị thối. Nên
tiến hành khâu này ngay sau khi thu hoạch sắn càng sớm càng
tốt.
- Cân nguyên liệu: Cân củ sắn đã băm, nghiền và các phụ
gia tuỳ theo phụ gia sẵn có ở địa phương theo 1 trong 3 công
thức sau:
 Công thức 1: 55 hoặc 70 hoặc 85kg củ sắn tươi nghiền
nhỏ + 45 hoặc 30 hoặc 15kg dây lá khoai lang tươi băm
nhỏ (không phải phơi héo) + 0,5kg muối ăn.
 Công thức 2: 55 hoặc 70 hoặc 85kg củ sắn tươi nghiền
nhỏ + 45 hoặc 30 hoặc 15kg ngọn lá lạc tươi băm nhỏ
(không phải phơi héo) + 0,5kg muối ăn.
 Công thức 3: 90kg củ sắn tươi nghiền nhỏ + 20kg cám
gạo hoặc bột lá sắn khô hoặc bột phân gà khô nghiền
nhỏ + 0,5kg muối ăn.
- Trộn và ủ:
Nguyên liệu sau khi đã cân được đổ vào đống và trộn
đều với nhau bằng tay hay bằng xẻng. Để đảm bảo lượng
muối ít được trộn đều trong thức ăn ủ thì trước hết phải trộn
đều muối với các phụ gia (cám gạo, phân gà, bột lá sắn, )
sau đó mới trộn đều với củ sắn tươi đã nghiền, băm nhỏ.
8

Có thể cho thức ăn vào chum, vại, bể hoặc túi nilon để ủ.
Nhưng tốt hơn cả là ủ trong hai lớp bao (trong là 1 bao nilon
lành lồng vào bao dứa), như vậy tiện cho ăn hơn và đảm bảo
kín không khí trong quá trình cho ăn. Nên cho hỗn hợp thức
ăn ủ này vào bao theo từng lớp, sau mỗi lớp dày độ 15-20cm

thì dùng hai bàn tay ép lại, nén mạnh cho không khí ra khỏi
khối thức ăn ủ.
Chú ý nén mạnh,
càng chặt càng tốt
và tránh không
làm rách bao, đảm
bảo điều kiện yếm
khí và nước sắn
không rò rỉ ra
ngoài. Ngay sau
khi kết thúc công
việc này phải buộc
kín ngay bao ủ.
Nhớ là phải làm
cho không khí ra hết khỏi bao trước khi buộc miệng bao.
- Cất giữ các bao thức ăn ủ: Những bao chứa thức ăn ủ
chua cần được giữ, bảo quản ở nơi khô ráo, mát và cần tránh
chuột, bọ, gián cắn thủng bao, không khí có thể xâm nhập vào
bao làm mốc, thối thức ăn.
Chú ý: Trong 1-2 ngày đầu sau khi ủ phải kiểm tra lại các
bao ủ. Nếu thấy bao nào bị căng phình do có không khí bên
trong thì phải mở để xả hết không khí ra và buộc kín lại
miệng bao. Đây là không khí phát sinh ra do kết quả của quá
9

trình hô hấp trong củ sắn tươi vẫn chưa được ngừng hẳn trong
1-2 ngày đầu.

III. CHẾ BIẾN THỨC ĂN THÔ XANH CHO GIA SÚC,
GIA CẦM

1. Thức ăn ủ xanh (ủ chua)
Là dựa trên nguyên lý tạo môi trường yếm khí cho thức
ăn ủ chua lên men nhẹ giữ được phẩm chất thơm, ngon
miệng, dễ tiêu. Ủ xanh các loại cỏ thường có độ pH = 4,2-4,4
nhằm dự trữ cỏ, thân lá ngô, v.v ở vụ thu hoạch rộ để dành
cho mùa thiếu thức ăn xanh cho trâu bò ở vụ đông xuân.
Nguyên liệu ủ xanh là cỏ trồng, thân lá ngô gieo dày khi
có bắp ngậm sữa, cắt ngắn ủ riêng từng loại hoặc ủ chung, có
dây lạc, lá keo dậu trộn khoảng 15-20% thì tốt. Cỏ, thân lá
ngô, lạc nên phơi héo để có độ ẩm 70-80%, bổ sung 2-4% rỉ
mật đường tùy loại cỏ nhiều hay ít đường như cỏ voi đường
nhiều thì chỉ trộn thêm 2%, cỏ sả ít đường thì 4%. Khi gặp
trời mưa ẩm không phơi được cỏ thì dùng rơm khô, bã mía
khô băm ngắn trộn vào để hút bớt ẩm nhưng rỉ đường vẫn cần
bổ sung. Nên bổ sung ít muối đề phòng chua quá, nếu cỏ ủ
chua thì trộn thêm bột sò hay vôi chết trước khi cho gia súc
ăn.
1.1 Hố ủ thức ăn xanh
Hố có mái che, nền đất nơi cao, lót ni lông hoặc lát gạch
xi-măng nửa nổi nửa chìm. Nếu cho 1 bò ăn đủ mùa đông cần
1 tấn thì hố ủ dài 1,6m, rộng 1,2m, sâu 1m, từ đây tính cho số
lượng gia súc nuôi. Xung quanh hố ủ có rãnh thoát nước.
10

1.2 Phương pháp ủ
Ở đáy hố rơm dày 10-12cm, cỏ, thân lá ngô cắt ngắn
10-15cm, lần lượt từng lớp dày 20-30cm đầm nện chặt cả ở 4
góc, khi đầy hố đầm kỹ (nếu ở trang trại hố to có thể dùng
máy kéo lăn đi lăn lại), phủ lớp rơm 10-20cm, có thể dùng ni
lông dày phủ, ngoài cùng trát đất chắc nhất là đất sét cho kín

hố.
1.3 Quá trình chuyển hóa
Khi ủ xanh hoạt động hiếu khí chỉ xảy ra rất ngắn vào
lúc mới ủ, sau đó quá trình hoạt động yếm khí khi có đủ độ
ẩm. Lúc này vi khuẩn yếm khí bắt đầu hoạt động và phát triển
nhanh. Các vi khuẩn lên men đường chuyển hóa thành acid
lactic, acid acetic, rượu và CO
2
; protein được thủy phân thành
peptid, amino acid, amin. Cỏ ủ có độ chua nhất định, vi khuẩn
chết, enzym ngừng hoạt động, chất lượng cỏ ủ ổn định.
Sau 3 tuần ủ, cho gia súc ăn cỏ ủ và cho ăn liên tục cho
đến hết hố, tránh hỏng. Lấy cỏ từ trên xuống, mở nắp hố chỉ
là một chỗ hẹp, lấy nhanh, đậy ngay không cho không khí vào
nhiều làm biến màu cỏ ủ thâm lại và có thể bị hỏng.
Cỏ ủ tốt có mùi thơm acid dễ chịu, không đắng, không
chua gắt, màu đồng đều thường là vàng xanh da cải, không có
hiện tượng mốc.
2. Ủ rơm với urê
Là bổ sung đạm phi protein vào thức ăn thô. Hố ủ tương
tự ủ thức ăn xanh, hoặc ủ trong bao nilông hoặc rơm đánh
đống phủ bao nilông.
11

Mỗi tấn rơm cho 40kg urê hòa vào 800-1000 lít nước
tưới lên từng lớp rơm khi xếp vào ủ dày 20-30cm, tính ra 4%
urê. Dùng bình ôzoa tưới cho đều.
Nếu rơm còn tơi thì vẫn giữ tỷ lệ urê 4% nhưng hòa ít
nước hơn. Tưới xong trộn đều, giẫm chặt kể cả các góc hố.
Phủ kín để không khí không lọt vào hố và khí amoniac trong

hố không bay ra.
Ủ tốt rơm mềm, vàng gần như màu rơm tự nhiên, thơm
nhẹ, không mốc xanh đen. Sau khi ủ 1 tuần đến 10 ngày cho
gia súc ăn được, lúc đầu trộn với cỏ ngon ăn dần cho quen,
chú ý cho uống đủ nước.
3. Kiềm hóa rơm bằng nƣớc vôi
Dùng nước vôi 1% (tức 1kg vôi sống hoặc 3kg vôi tôi
hòa vào 100 lít nước) 600 lít tưới lên 100kg rơm rạ khô hoặc
nước vôi đựng trong bể cho rơm vào, đảo trộn đều 2-3 lần
hàng ngày, liên tục trong 3 ngày. Vớt rơm lên giá phơi để kề
bên bể cho ráo nước vôi rồi dội nước rửa sạch nước vôi. Rơm
cho ăn ngay hoặc phơi khô cho ăn dần. Tỷ lệ tiêu hóa của
rơm ủ nước vôi tăng 6-7% (rơm thường 52-53%, rơm ủ 59-
60%).
Nên trộn thêm urê và rỉ mật: 3kg rơm + 0,5kg rỉ mật +
20kg urê rơm ủ sẽ bớt nồng, gia súc thích ăn hơn.
4. Ủ rơm khô với vỏ dứa
Vỏ dứa ủ dịch dinh dưỡng nhiều chảy ra cho ủ với rơm
khô sẽ hút nước dứa chảy ra làm tăng dinh dưỡng cho rơm và
làm rơm mềm ra. Khi ủ cứ mỗi lớp rơm cho 1 lớp vỏ dứa, rồi
phủ kín bằng bao ni lông, sau 1 lần cho gia súc ăn.
12

Ở các vùng trồng dứa nhiều, nơi gần xưởng sản xuất chế
biến hoa quả dứa, số lượng phụ phẩm khá lớn cần tận dụng
chế biến làm thức ăn gia súc chất lượng tốt, giá thành rẻ.
5. Ủ rơm khô với bã bia, bã rƣợu
Cứ 1,2 - 2kg bã bia, bã rượu ủ 1 tấn rơm. Rãi từng lớp
rơm 20 - 35cm tới bã bia rồi nện chặt, phủ nilông kín. Nhớ là
phải nén thật chặt và thật kín, phải trộn ủ trong 1 ngày phải

xong, sau 10 ngày cho gia súc ăn được.
6. Bã mía, ngọn mía ủ với urê
Phương pháp ủ như với các phụ phẩm nông nghiệp khác,
có tỷ lệ urê 6% trên nguyên liệu hòa vào nước 1:1, sau 3 tuần
ủ là sử dụng được.
7. Cây lá họ đậu, lá sắn ủ chua
Lá sắn, cây lá họ đậu thường phơi khô giã bột nhưng chỉ
làm được trong mùa nắng. Ủ chua ít tốn công, dễ làm, dễ bảo
quản, gia súc thích ăn hơn.
Ủ chua lá sắn giảm lượng chất độc acid cyanhydric
(HCN) chỉ còn 32-34mg/kg chất khô (Viện Chăn nuôi) so với
tiêu chuẩn quốc tế là không được quá 57mg HCN.
Lá sắn, lá cây họ đậu 100kg, cám gạo hoặc bột khoai sắn
5kg, muối ăn 0,5% trộn đều cho vào hố ủ hoặc tốt hơn là ủ ở
túi nilông như trên. 2-3 ngày đầu ủ là quá trình lên men, acid
lactic, acid acetic tăng, được gia súc hấp thu dễ dàng, là
nguồn cung cấp năng lượng, 1g acid lactic cho 3,6kcal (1g
đường mía cho 3,7kcal). Thức ăn ủ chua này có thể dự trữ lâu
đến 5-6 tháng cho bổ sung dần vào khẩu phần nuôi lợn.
Thực tế chăn nuôi tập cho lợn con, lợn choai ăn thức ăn
ủ chua dần cho đến trên 1kg/ngày, lợn to trên 2kg/ngày.
13


IV. CHẾ BIẾN CÂY NGÔ LÀM THỨC ĂN
1. Phƣơng pháp chế biến bột phụ phẩm ngô
Bước 1: Thu
gom từng loại
phụ phẩm của
nghề trồng ngô

gồm thân lá sau
thu hoạch bắp
(chặt cách gốc
30-35cm), vỏ bắp
và lõi ngô.
Bước 2: Sơ chế
- Với thân, lá ngô sau thu hoạch: Bỏ lá khô già sát gốc;
Chặt bỏ gốc 1 đoạn khoản 20cm; Cắt thái đoạn thân còn lại
thành từng đoạn 3-5cm.
- Với bẹ, vỏ bắp: Bỏ lá khô vàng bên ngoài; Nhặt sạch tạp
chất; Băm nhỏ.
- Với lõi bắp: Thái nhỏ 2-3cm.
Bước 3: Chế biến và bảo quản
Rải phơi phụ phẩm ngô trên nền sạch. Phơi cho đến khi
chỉ cần chạm nhẹ vào lá bất kỳ, lá đã vỡ vụn thì nguyên liệu
đã đạt độ ẩm <10%, đây là trạng thái lý tưởng để làm bột phụ
phẩm ngô. Dùng máy xay hoặc chày đập nát, nghiền nhỏ phụ
phẩm thành bột. Sau đó, thu gom bột đã nghiền vào bao nilon
hoặc bao xác rắn.
14

Buộc chặt miệng bao bảo quản trong kho để dùng dần
(trộn với rỉ mật đường cho ăn trực tiếp hoặc bổ sung làm tảng
đá liếm) cho gia súc nhai lại.
2. Phƣơng pháp ủ chua cây ngô và phụ phẩm ngô sau thu
hoạch bắp
Cây ngô ủ chua dự trữ được trên 6 tháng đã giải quyết
được tình trạng khan hiếm thức ăn xanh của trâu, bò trong vụ
đông. Với bò sữa, cây ngô ủ chua đã thay thế được 48% cỏ
xanh trong khẩu phần (tính theo vật chất khô) và chiếm

20,6% chất khô của khẩu phần đã làm giảm chi phí thức ăn
được 8-10% mà không hề ảnh hưởng đến sản lượng và chất
lượng sữa. Chất lượng tương tự với các phụ phẩm ủ chua từ
ngô. Phương pháp chế biến ủ chua cây ngô và các phụ phẩm
như sau:
2.1. Chuẩn bị
- Phơi héo ngô: Thường là phơi héo ngô khoảng nửa
ngày nhưng không nên phơi quá khô trước khi thái nhỏ và
đưa vào hố ủ. Trong lúc phơi, cứ 2 giờ cần trở đảo một lần để
cây khô héo đều, tránh tình trạng lớp bên trên khô nhưng bên
dưới vẫn tươi nguyên. Thường là cứ sau phơi khoảng 4-6 giờ
thì cắt ngẫu nhiên 1 lá ngô (khoảng 3-4 lần là cùng), nắm chặt
trong lòng bàn tay. Sau mở ra, nếu thấy các nếp trên lá để lại
đường không rõ ràng và ẩm nhưng không rỉ nước hoặc lá
không bị gãy nát thì tức độ ẩm của chúng đạt trạng thái lý
tưởng (65-70%) để đem ủ chua.
- Tỷ lệ nguyên liệu theo bảng sau:

15

STT
Tên nguyên liệu
Tỷ lệ thành phần (kg)
1
Cây ngô/ vỏ bắp tơi đã
phơi héo
100
2
Cám gạo
4

3
Bột sắn
4
4
Rỉ mật
5 (đối với cây ngô thu lúc
bắp chín sáp)
10 (đối với ngô rau đã thu
bắp và ngô lương thực đã
thu bắp khô)
5
Muối ăn
0,5
6
Nước sạch
10-20
2.2. Quy trình
Đập dập, băm nhỏ 3-5cm (nếu có máy thái càng tốt).
Loại bỏ những lá khô già ở gốc cây (nếu có). Hòa trộn các
nguyên liệu còn lại với nước theo tỷ lệ ở bảng trên. Khi hòa
nước rỉ mật, cần dùng 1 ôzoa có dung tích 10 lít. Lấy 5 lít rỉ
mật hòa với 5 lít nước lạnh, chú ý khuấy và tưới đều cho mỗi
lớp ngô rải vào hố. Cần định liệu cho vừa đủ lượng dung dịch
rỉ mật cho toàn bộ lớp thức ăn trong hố ủ.
Dọn sạch hố ủ, rải 1 lớp đá, sỏi xuống đáy hố rồi rải 1
lớp rơm khô dày 10cm lên trên. Lần lượt nén chặt từng lớp
dày 15-20cm cho đến khi hết nguyên liệu ủ. Sau đó, phủ kín
hố ủ bằng lớp đất dày 30-40cm. Che phủ cẩn thận bằng nilon.
Thường xuyên kiểm tra xung quanh hố ủ, thành vách hố
ủ xem có chỗ nào bị hư hại, vỡ lở không. Xâm hố để lấy thức

16

ăn ở các vị trí cơ bản như thành vách, đáy hố,… để kiểm tra
thức ăn ủ nhằm phát hiện được mức độ chất lượng thức ăn ủ
để xử lý kịp thời.
2.3. Cách sử dụng
Khoảng 72 giờ sau khi đóng hố ủ, quá trình lên men yếm
khí dừng lại. Cây ngô thức ăn hoặc các phụ phẩm từ trồng
ngô sẽ chuyển thành thức ăn ủ chua. Khi đó, bắt đầu một thời
kỳ ổn định, kéo dài khoảng 6 – 7 tuần. Như vậy, thức ăn ủ
chua này có thể cho gia súc nhai lại ăn bắt đầu từ tuần thứ 8.
Thức ăn này được bảo quản cho gia súc ăn dần trong 6 tháng.
Mỗi lần lấy thức ăn ra xong phải che phủ cẩn thận, tránh nước
thấm vào hố ủ.
2.4. Các chú ý cơ bản
- Hố ủ phải chắc chắn, đáy hố phải bằng phẳng, hố có ít
nhất 2 mặt đứng và hố được thiết kế, chọn vị trí sao cho
không ứ nước, đọng nước, thấm nước.
- Xác định độ nén chặt: Vạch 1 vạch ở mặt trong của hố ủ
còn trống để đánh dấu khoảng cách 15-20cm từ đáy hố lên.
Khi cho thức ăn vào hố đến vạch đã đánh dấu thì giậm nén
cho tới khi lớp thức ăn tụt xuống còn 7-10cm. Tiếp tục lại
vạch lên thành trong của hố khoảng cách 15-20cm, tính từ lớp
thức ăn vừa nén xong. Chất thức ăn đã băm nhỏ, trộn phối
nguyên liệu vào hố ủ và đánh dấu tương ứng với bề rộng của
5 ngón tay khép lại. Cứ làm như vậy cho tới khi hố ủ đầy.
3. Phƣơng pháp ủ thân, lá ngô với urê
3.1. Chuẩn bị
Chuẩn bị các nguyên liệu cần thiết với tỷ lệ như sau:
17


STT
Tên nguyên liệu
Tỷ lệ
1
Cây ngô sau thu hoạch
100kg
2
Urê
2kg
3
Muối ăn
0,5kg
4
Nước
60 lít
Cây ngô thu về phải phơi tái bằng cách dựng ở bờ rào 2-
3 ngày hay băm nhỏ 5-10cm rồi trãi ra phơi cho bay bớt hơi
nước 1-2 ngày trong điều kiện mùa đông không có nắng vì
cây ngô có hơi tái thì sau này mới dễ ngấm nước có hòa tan
urê.
3.2. Quy trình
Quy trình ủ được tiến hành như sau: Hòa tan urê, muối
vào nước theo tỷ lệ trên. Cho từng lớp cây ngô băm nhỏ vào
bể, mỗi lớp dày 10-15cm (nửa gang tay). Sau đó, dùng ôzoa
tưới nước urê vào lớp rơm đã rải. Giậm nén chặt bằng chân
hoặc dùng cối đá lăn đi lăn lại cho thật chặt. Cho lớp cây ngô
khác rồi lại tưới nước urê.
Cứ như vậy cho đến khi đầy hố ủ và hết nguyên liệu rồi
đóng hố ủ.

3.4. Các chú ý
- Cố gắng hoàn tất hố ủ trong 1 ngày. Càng nhanh càng tốt
để urê không bị bay đi, đảm bảo chất lượng thức ăn.
- Xếp các lớp cây ngô như trên xong phải ủ kín ngay bằng
lá chuối, nilon, phủ lên trên cùng 1 lớp rơm mỏng 5cm. Sau
đó xếp 2-3 lớp gạch thật khít lên trên để nén.
- Nên bổ sung rỉ mật đường với tỷ lệ 10 lít rỉ mật cho 1
khối ủ có dung tích 1,5m
3
.
18

3.5. Cách sử dụng
Sau khi ủ 2-3 tuần bắt đầu lấy cho gia súc ăn.
Nuôi trâu, bò bằng khẩu phần có cây ngô già ủ urê
chiếm 20-25% năng lượng toàn khẩu phần mà vẫn cho tăng
trọng 10-11kg/tháng. Cây ngô già ủ urê có thể thay thế hoàn
toàn cỏ khô và 1 phần cỏ xanh trong khẩu phần.
19

MỤC LỤC
I. PHƢƠNG PHÁP LÊN MEN 1
1. Phương pháp lên men ướt 1
2. Phương pháp lên men khô - ẩm 2
II. CHẾ BIẾN THỨC ĂN TỪ CÂY KHOAI MÌ 3
1. Chế biến lá khoai mì làm thức ăn trong chăn nuôi 3
2. Kỹ thuật ủ chua củ sắn làm thức ăn cho gia súc 5
2.1 Nguyên tắc ủ chua 6
2.2 Thứ tự các bước ủ chua củ sắn tươi như sau 7
III. CHẾ BIẾN THỨC ĂN THÔ XANH CHO GIA SÚC,

GIA CẦM 9
1. Thức ăn ủ xanh (ủ chua) 9
1.1 Hố ủ thức ăn xanh 9
1.2 Phương pháp ủ 10
1.3 Quá trình chuyển hóa 10
2. Ủ rơm với urê 10
3. Kiềm hóa rơm bằng nước vôi 11
4. Ủ rơm khô với vỏ dứa 11
5. Ủ rơm khô với bã bia, bã rượu 12
6. Bã mía, ngọn mía ủ với urê 12
7. Cây lá họ đậu, lá sắn ủ chua 12
IV. CHẾ BIẾN CÂY NGÔ LÀM THỨC ĂN 13
1. Phương pháp chế biến bột phụ phẩm ngô 13
2. Phương pháp ủ chua cây ngô và phụ phẩm ngô sau thu
hoạch bắp 14
2.1. Chuẩn bị 14
2.2. Quy trình 15
2.3. Cách sử dụng 16
20

2.4. Các chú ý cơ bản 16
3. Phương pháp ủ thân, lá ngô với urê 16
3.1. Chuẩn bị 16
3.2. Quy trình 17
3.4. Các chú ý 17
3.5. Cách sử dụng 18


×