Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Lí luận chủ nghĩa Mác LêNin về quá độ đi lên CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.31 KB, 18 trang )


Lêi nãi ®Çu

Khi Liên Xô và các nước XHCH Đông Âu sụp đổ, các thế lực chống
cộng đã hí hửng cho rằng: “CHXH là sai lầm của lịch sử, CNTB là
chế độ xã hội vĩnh hằng ”. Ở nước ta hồi đó đã không ít người có phù
hoạ với những luận điểm trên đây của các thế lực thù địch .Họ kêu gọi
Đảng ta từ bỏ con đường XHCN cho rằng điều đó là trái qui luật phát
triển của xã hội loài người, là ảo tưởng và khẳng định đất nước phải
phát triển theo con đường TBCN .Họ mỉa mai:'' CNTB đâu có chết mà
chỉ thấy CHXH chết mà thôi''
Mỗi lần chuẩn bị Đại hội, thu thập ý kiến đóng góp vào dự thảo
nghị quyết hay trước những khó khăn nào đó của công cuộc xây dựng
đất nước thì những điều phản bác và khẳng định trên lại xuất hiện .Và
có kẻ cho rằng: “Xây dựng XHCN gì mà là lại thực hiện nền kinh tế
nhiều thành phần, cơ chế thị trường, chính sách mở cửa và phải dựa
vào CNTB …’’ Và họ khẳng định “không có con đường phát triển
nào khác ngoài con đường CNTB …” Những điều phản bác và khẳng
định trên đây của họ liệu có đúng không ? Tất nhiên là không!
Ngay khi ra đời Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân
tộc là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.Đó là đường lối tiến
hành nhất quán suốt hơn 74 năm qua của đảng ta Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, nhất là qua thực tiễn của 17 năm thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước theo định hướng XHCN trên nền tảng chủ nghĩa
Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh , Đảng ta khẳng định : Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế
đọ TBCN, tức là bỏ qua viẹc xác lập vị trí thống trị của QHSX và
KTTT TBCN, nhưng tiếp thu ,kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ ,
để phát triền nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại .
1


I. Lí luận chủ nghĩa Mác- Lê- nin về quá độ đi lên CNXH
1.Thời kì quá độ
Theo nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lê nin thì từ một phương thức
sản xuất thấp chuyển lên một phương thức sản xuất cao hơn rất khoát
đòi hỏi phải có một bước quá độ trung gian .Mà trong bước quá độ đó
thì nền kinh tế vẫn còn tồn tại những đấu ấn của phương thức sản xuất
cũ đang bộc lộ những hạn chế của nó, nhưng nó chưa bị tiêu diệt hoàn
toàn. Đồng thời trong bước quá độ đó thì những mầm mống, những
biểu hiện tiến bộ của phương thức sản xuất mới đã bắt đầu xuất hiện.
Nhưng vì mới ra đời nên còn non yếu .Vì vậy lí luận của chủ nghĩa
Mác-Lê nin khẳng định Thời kì quá độ là cả một thời kì cải biến cách
mạng không ngừng và triệt để .Từ một phương thức sản xuất này sang
một phương thức sản xuất khác.Trong thời kì quá độ đan xen những
yếu tố kinh tế của cả phương thức sản xuất cũ và mới.Vì vậy nó diễn
ra một cuộc đấu tranh rất quuyết liệt trên cả phương diện kinh tế
,chính trị,xã hội.
Thời kì quá độ lên CNXH là thời kì cải biến cách mạng sâu sắc và
toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới –Xã hội XHCN.
Về kinh tế: Đây là thời kì liên quan đến nhiều mặt, nhiều bộ phận
của CNTB xen kẽ XHCN,tác động lẫn nhau ,lồng vào nhau .Có nghĩa
là đây là thời kì tồn tại nhiều hình thức sở hữu về TLSXtương ứng với
nó là tồn tại nhiều thành phần kinh tế ,cả kinh tế XHCN ,kinh tế
TBCN ,kinh tế hàng hoá nhỏ cùng tồn tại ,phát triển vừa hợp tác
thống nhất vừa đối lập, cạnh tranh gay gắt với nhau
Thời kì quá độ bắt đầu khi giai cấp vô sản giành được chính quyền
và kết thúc khi xây dựng xong về cơ bản cơ sở vật chất, kinh tế của
CNXH.Thời kì quá độ lại được chia thành nhiều bước nhỏ, bao nhiêu
bước tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước. Song các nước càng lạc
hậu mà tiến lên CNXH thời kì quá độ càng dài, càng chia ra nhiều
bước nhỏ .

Phương thức sản xuất TBCN và hai giai đoạn của nó.

Đặc điểm của sản xuất TBCN là dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm
thuê là sự tách rời đối lập giữa tư liệu sản xuất với sức lao động .Vì
vậy, CNTB chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Có một lớp người được
tự do về thân thể nhưng lại không có TLSX; và tiền của phải tập trung
vào tay một số ít người với một lượng đủ để lập các xí nghiệp
2
CNTB phát triển qua hai giai đoạn cơ bản là CNTB tự do cạnh
tranh và CNTB độc quyền hay chủ nghĩa đế quốc. Cạnh tranh TBCN
là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành
giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hang hoá để
thu được lợi nhuận tối đa. Dưới CNTB có hai hình thức cạnh tranh
chủ yếu là cạnh tranh trong nôi bộ ngành và cạnh tranh giữa các
ngành.Cạnh tranh trong nội bộ ngành là giữa các xí nghiệp cùng sản
xuất ra một loại hàng hoá nhằm sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá
có lợi nhất để thu lợi nhuận siêu ngạch.Họ tìm mọi cach giảm giá trị
cá biệt của hàng hoá để giành ưu thế cạnh tranh .Cạnh tranh giữa các
ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất khác
nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi
Giai đoạn độc quyền là sự kế tục trực tiếp giai đoạn tự do cạnh
tranh của cùng một phương thức sản xuất TBCN. CNTB độc quyền
xuất hiện vào cuốI thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, nguyên nhân chủ yếu
của sự xuất hiện CNTB độc quyền là sự tác động của cạnh tranh, sự
xuất hiện thành tựu khoa học kĩ thuật và khủng hoảng kinh tế của
CNTB.
Các hình thức tổ chức độc quyền phổ biến: Các ten; Xanh đi ca;
Tờ rớt; Công xoóc xi om; Công gơ rô mê rát.
Trong thời kì CNTB tự do cạnh tranh, các biện pháp cạnh tranh
thường là: Tự do di chuyển tư bản ,cải tiến kĩ thuật,hạ thấp giá trị cá

biệt của hang hoá .Còn ở thời kì CNTB độc quyền các biện pháp
thường dùng là : Độc chiếm các nguồn nhiên liệu ,phương tiện vận
tải,nhân công,tín dụng và đôi khi là các biện pháp bạo lực khác.
CNTB có vai trò lịch sử trong sự phát triển của xã hội đó là:Thực
hiện xã hội hoá sản xuất,có sự phân công lao động xã hội ngày càng
sâu sắc ,quá trình hiệp tác hoá ngày càng cao,mối liên hệ xã hội những
người sản xuất ngày càng được củng cố chặt chẽ;Tiếp đó là sự phát
triển LLSX,tăng năng xuất lao động xã hội .Các cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật vĩ đại tạo ra các bước nhảy vọt của LLSX và năng xuất
lao động. Các Mác đã tổng kết: Trong vòng chưa đầy một thế kỷ
thống trị của mình, CNTB đã tạo ra một sức sản xuất khổng lồ, bằng
tất cả các thế hệ loài ngườI trước đó tạo ra; Chuyển sản xuất nhỏ
thành sản xuất lớn hiện đại, làm cho LLSX phát triển nhanh chóng:
Kỹ thuật cơ khí thay thế kỹ thuật thủ công lạc hậu. Bên cạnh những
mặt tích cực nói trên CNTB cũng gây ra những hậu quả nặng nề cho
nhân loại là thủ pham gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc,
chạy đua vũ trang và nạn ô nhiêm môi trường .
3
Quá trình phát triển của CNTB đạt đến giai đoạn CNTB độc
quyền và CNTB độc quyền nhà nước , như Lê nin nói :Nó đã chuẩn bi
tiền đề vật chất đầy đủ và tiền đề xã hội chín muồi cho sự ra đời của
xã hồi mới-xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp là xã hội
XHCN .Trong mấy chục năm qua sự phát triển vũ bão của cách mạng
KH-KT và công nghệ đã và đang kéo theo sự biến đổi có tính chất
cách mạng của cơ cấu kinh tế và quản lí kinh tế. Đang hình thành một
LLSX xã hội hoàn toàn mới cơ sở kĩ thuật mới đang thay thế dần cơ
sở kĩ thuật cũ.Do vậy ,CNTB sớm hay muộn cũng bi thay thế bằng
chế độ xã hội mới cao hơn phù hợp với cơ sở kĩ thuật mới- xã hội
CSCN mà giai đoạn thấp là CNXH. Tất nhiên sẽ là ấu trĩ nếu cho rằng
chủ nghĩa tư bản sẽ bị tiêu diệt một sớm một chiều.

2.Các hình thức đi lên CNXH.
Lí luận của chủ nghĩa Mác – Lê- nin chỉ rõ thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở các quốc gia không nhất thiết giống nhau. Vì vậy
có hai con đường đi đến mục tiêu CNXH đó là: Quá độ phát triển tuần
tự (quá độ trực tiếp) và quá độ phát triển nhảy vọt (quá độ gián tiếp)
Đi lên CNXH theo con đường phát triển tuần tự có nghĩa là các
quốc gia lần lượt phải trải qua từng phương thức sản xuất từ thấp tới
cao con đương này diễn ra lâu dài nhưng chắc chắn. Còn con đương
quá độ phát triển nhảy vọt có nghĩa là các quốc gia tuỳ thuộc vào điều
kiện cụ thể của mình mà có thể bỏ qua một thậm chí một vài phương
thức trung gian .
Khi tiến hành phân tích hình thái kinh tế -xã hội tư bản chủ
nghĩa,C.Mac khẳng định,sự phát triển của những hình thái kinh tế xã
hội là một quá trình lịch sử tự nhiên,xong không phải quốc gia dân tộc
nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái-xã hội đã có trong
lịch sử.Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định,một
quốc gia ,dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế-xã hội
nhất định nào đó ,có thể được rút ngắn và được làm dịu bớt những
''cơn đau đẻ''.Trong tác phẩm Vấn đề xã hội ở nước Nga ,Ph. Ăng –
ghen đã khẳng định ,nước Nga có thể ''rút ngắn một khoảng cách đáng
kể quá trình phát triển lên xã hộI XHCN và có thể tránh được phần
lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà Tây Âu …phải trải
qua''.Hơn nữa,Người còn cho rằng,''con đường phát triển rút ngắn như
vậy …không chỉ đúng với nước Nga,mà còn với tất cả các nước đang
ở trong giai đoạn phát triển tiền TBCN''
Khi đặt vấn đề các đân tộc lạc hậu hiện đang trên con đường giải
phóng và sau chiến tranh đã có bước tiến bộ,liệu có nhất thiết phải trải
qua giai đoạn phát triển TBCN không ?V.I.Lê nin đã khẳng
4
định:''Chúng tôi cho rằng không đúng …Với sự giúp đỡ của giai cấp

vô sản ở các nước tiên tiến,các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô-
viết,và qua những giai đoạn phát triển nhát định,tiến tới CNCS,không
phải qua giai đoạn phát triển TBCN''
Theo Lê-nin: Con đường quá độ lên CNXH có thể có những hình
thức khác nhau điều đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của
LLSX.Hình thức quá độ trực tiếp là con đường phát triển tuần tự từ
CNTB lên CNXH;còn hình thức quá độ gián tiếp là con đường phát
triển rút ngắn,phát triển bỏ qua chế độ TBCN-con đường từ tiền
TBCN lên CNXH.Tuy nhiên,phát triển tuần tự hay rút ngắn đều tuân
theo quy luật khách quan và đều là con đường phát triển lịch sử- tự
nhiên Và trong sự phát triển tuần tự cũng có thể có khả năng rút ngắn
nào đó,nghĩa là con đường phát triển này không nhất thiết phải trải
qua toàn bộ sự phát triển đầy đủ của chủ nghĩa tư bản rồi mới lên
CNXH.Và nước Nga với Chính sách Kinh tế mới chính là một trường
hợp như vậy.Lê-nin còn nói tới con đường quá độ trực tiếp hay gián
tiếp với tư cách là những phương thức,cách thức phát triển khác nhau.
Ông cho rằng, phát triển tuần tự từ CNTB lên CNXH là con đường
quá độ trực tiếp.Và cho đến nay ,như chúng ta đã biết,con đường này
vẫn chỉ là một khả năng,một xu hướng phát triển mà cả C.Mác ,PH.
Ăng-ghen và V.I.Lê nin đều đã dự báo.
Trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại được qui định bởi sự phát triển
của lực lượng sản xuất.Tương ứng với mỗi loại giai đoạn phát triển
nhất định của LLSX là một QHSX tương ứng ,phù hợp.Sự ra đời của
QHSX mới trên cơ sở phát triển của LLSX là tất yếu,khách quan và
toàn bộ các nội dung của QHSX này hợp thành cơ sở kinh tế của xã
hội mà trên đó,dựng nên một thượng tầng kiến trúc pháp lí và chính trị
với những hình thái ý thức xã hội tương ứng.Sự vận động đi lên của
xã hội loài người được qui định bởi các qui luật khách quan,trong đó
qui luật nền tảng là qui luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình

độ,tính chất phát triển của LLSX.Trên phạm vi toàn thế giới,sư thay
thế lẫn nhau của các hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử tự
nhiên.Dù là phát triển tuần tự hay nhảy vọt thì cũng đều là sự phát
triển liên tục của LLSX ,mọi sự rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối
cùng là tạo ra sự vượt bậc ,thậm trí nhảy vọt của LLSX.Do vậy,thực
chất phát triển rút ngắn chí có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước
đi trong tiến trình phát triển liên tục của LLSX.
Tính tất yếu quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
5
Theo Lê-nin để thực hiện con đường quá độ nhảy vọt thì các quốc
gia phải thiết lập được những điều kiện cả bên trong và bên ngoài
Đối với điều kiện bên trong thì bắt buộc phải có một Đảng của
giai cấp vô sản lãnh đạo và Đảng đó phải liên minh được với những
người lao động (nông dân)
Còn đối với những điều kiện bên ngoài Lê-nin chỉ rõ phải có
một nước làm cách mạng XHCN thành công giúp đỡ .Từ những điểm
nói trên và thực tiễn sinh động của 17 năm tiến hành đổi mới đất
nước,chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng,con đường phát triển
quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam hiện nay là sự
vận dụng đúng đắn sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.Với Việt Nam,con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN là con đường phát triển tất yếu,khách quan và hợp
qui luật.Nước ta đi lên CNXH mặc dù từ một xuất phát điểm rất thấp:
Đó là một nền kinh tế lạc hậu nông nghiệp,kĩ thuật thủ công,năng xuất
thấp, đất nước lại liên tục trải qua những cuộc chiến tranh vệ
quốc.Tuy vậy,trong thời quá độ đi lên CNXH ở nước ta,chúng ta đã
tạo lập được những khả năng hết sức to lớn cả về mặt khách quan và
chủ quan.
Khả năng về mặt khách quan mà chúng ta cần phải kể đến yếu tố
thời đại mà cả nhân loại đều hướng đến mục tiêu xây dựng một mô

hình nhà nước CNXH tiến bộ, yếu tố thời đại đóng vai trò tích cực để
hướng dẫn các cuộc phát triển nền kinh tế theo mô hình CNXH.Nước
ta sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, Miền bắc nước ta
bước vào thời kì quá độ (1955),trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đã
hình thành ra hệ thống kinh tế XHCN,tạo hậu thuẫn cả về tiềm lực
kinh tế lẫn sức mạnh chính trị giúp nhân dân ta xây dựng thành công
CNXH.Sau khi đất nước thống nhất (30-4-1975) cả nước ta bước vào
thời kì quá độ tiến lên CNXH.Trong bối cảnh hết sức thuận lợi đó là
tất cả các nước các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới đều
nhiệt tình ủng hộ nhân dân ta.Vì vậy,nó tạo cả thời cơ và những thuận
lợi hết sức to lớn giúp nhân dân ta xây dựng XHCN
Khả năng về mặt chủ quan đó là: Việt Nam là một nước có nguồn
lực dồi dào, nhân dân ta cần cù lao động, thông minh dễ đào tạo. Nhân
dân ta có sự lãnh đạo của đảng và Đảng ta liên minh được với tầng lớp
lao động tạo ra khối đại đoàn kết toàn dân. Nước ta có sư quản lí và
điều tiết của nhà nước XHCN ngày càng được củng cố và hoàn thiện
to lớn.Kết quả của mấy chục năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam tạo ra
cả thế và lực cho phép nước ta đi lên CNXH không cần phải trải qua
chế độ TBCN.
6
Con đường cách mạng XHCN mà Đảng ta đã lựa chọn phù hợp
với những gì đã có trong lịch sử, phù hợp với thực tiễn của cách mạng
nước ta và không hề trái với qui luật phát triển của xã hội loài người.
Nhìn vào lịch sử phát triển của xã hội loài người, chúng ta thấy không
phải mọi nước đều phải tuần tự trải qua các chế độ cộng sản nguyên
thuỷ, nô lệ phong kiến, tư bản. Trong thời đại phong kiến có nước còn
ở trình độ bộ tộc, nhưng do nhiều nguyên nhân đã phát triển thành
phong kiến. Trong thời đại TBCN có nước ở trình độ thấp cũng đã đi
vào quĩ đạo phát triển TBCN.Cho nên, trong thời đại quá độ từ CNTB
lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới,chúng ta hoàn toàn có thể đưa

đất nước tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đưa đất nước tiến lên
CNXH là con đường phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta. Lòng
yêu nước của nhân dân là lòng yêu nước XHCN, mặt trận dân tộc
thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân đều dựa trên liên minh
công nông; quân đội nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân, tính
nhân dân, tính dân tộc sâu sắc …
Lẽ nào lịch sử lại chấp nhận một sự ngược đời là sau khi cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã thành công lại xoá bỏ chính quyền
dân chủ nhân dân, thiết lập chính quyền giai cấp tư sản, chuyển toàn
bộ TLSX và tài nguyên của đất nước vào tay các ông chủ tư bản, biến
chế độ ta thành chế độ TBCN và nhân dân ta thành kẻ nô lệ làm thuê.
Trước sau như một, Đảng ta, nhân dân ta quyết tâm phấn đấu tiến lên
phía trước, xây dựng một chế độ xã hội thực sự có ấm no, tự do, hạnh
phúc và hoà bình, nhất quyết không đi vào CNTB, một chế độ xã hội
mà lịch sử đã lên án.
Quá trình phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử tự
nhiên, phụ thuộc vào qui luật khách quan độc lập với ý muốn của con
người. Nhưng con người lại hoàn toàn không bất lực trước qui luật.
Con ngườI có thể nhận thức được qui luật khách quan và tạo ra những
điều kiện để qui luật phát huy tác dụng có lợi cho mình. Đó là tính
năng động chủ quan của ý thức xã hội của con người
Thời đại ngày nay cho phép các nước kém phát triển đã hoàn
thành các mạng dân tộc dân chủ nhân dân có thể quá độ lên CNXH,
bỏ qua chế độ TBCN, nhưng không cho phép bỏ qua việc xây dựng
những tiền đề kinh tế, kĩ thuật, văn hoá, xã hội cần thiết cho sự quá độ
đó.Chúng ta không tạo ra những tiền đề đó bằng con đường phát triển
TBCN thì phải tạo ra trong thời kì quá độ lên CNXH.Chúng ta hoàn
toàn có khả năng làm việc đó vì chúng ta có những yếu tố cơ bản bên
trong của cách mạng Việt Nam và những yếu tố bên ngoài của thời
đại

7
Chúng ta có Đảng lãnh đạo, có chính quyền của nhân dân, do dân
và vì nhân dân, có mặt trận đoàn kết toàn dân, có nhân dân anh hùng,
có tài nguyên đa dạng và phong phú, có nguồn lao động dồi dào, có
đội ngũ tri thức ngày càng đông đảo, đất nước có vị trí địa lí thuận lợi
cho giao lưu.
Thời đại đưa chúng ta tới những thuận lợi mới. Cuộc cách mạng
khoa học kĩ thuật và công nghệ đang phát triển như vũ bão và đã quốc
tế hoá nền kinh tế thế giới, mở rộng sự phân công lao động và hợp tác
quốc tế. Khi chúng ta có chính sách đúng đắn biết phát huy nguồn lực
bên trong làm cơ sở cho khai thác nguồn lực bên ngoài thì có thể tranh
thủ vốn, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lí của các nước phát
triển để xây dựng đất nước, mặc dù đây không phải là công việc dễ
dàng.
Nhận thức mới về con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN.Trước đây trong một thời gian rất dài ở nước ta tồn tại một
quan điểm phổ biến là đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là chúng ta
phủ định sạch trơn toàn bộ nền kinh tế TBCN bao gồm cả quan điểm
kinh tế hay thực lực nền kinh tế tư bản cũng như ý đồ chính trị và
quan điểm giai cấp tư sản. Hiện nay trước bối cảnh nền kinh tế thế
giới mới, cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế thì Đảng và nhà nước
ta đã đổi mới tư duy lí luận kinh tế, đặc biệt là tư duy thời kì quá độ
cụ thể: Đảng ta xác định chúng ta chỉ bỏ qua QHSX TBCN để cho nó
khônh trở thành thống trị nền kinh tế; Chúng ta bỏ qua quan hệ bóc lột
của chủ nghĩa tư bản; Chúng ta bỏ qua ý đồ xâm lược đen tốI của
CNTB
Còn chúng ta không bỏ qua nền kinh tế hàng hoá và các quan hệ
của nó, chúng ta không bỏ qua những thành tựu của nhân loại đã đạt
được trong CNTB có nghĩa là chúng ta phải biết tiếp thu, kế thừa
những thành tựu của nhân loại đã đạt được trong CNTB. Đặc biệt là

LLSX; Bỏ qua nghĩa là chúng ta phải biết tranh thủ tối đa các nguồn
lực từ bên ngoài, phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng kinh
tế trong nước để phát triển nhanh nền kinh tế nước ta theo định hướng
XHCN; Bỏ qua chế độ TBCN lên CNXH đây là một quá trình hết sức
khó khăn và phức tạp đòi hỏi nhân dân ta phải nỗ lực vượt bậc để thực
hiện được.
Nước ta bỏ qua chế độ TBCN vì đây là một tất yếu khách quan
của lịch sử ở nước ta, Đảng và nhân dân ta chọn con đường quá độ
tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN đó là con đường đúng đắn
với điều kiện nước ta ngày nay vì: Đây là con đường phù hợp với xu
thế phát triển tất yếu của thời đại,với qui luật phát triển của xã hội loài
8
người; Đây cũng là con đường phù hợp với nguyện vọng của đông
đảo quần chúng nhân dân lao động ở nước ta,là muốn thoát khỏi áp
bức bóc lột, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; Đó là
con đường phù hợp với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam,
đã được xây dựng trong luận cương chính trị Việt Nam là cách mạng
dân tộc dân chủ phải gắn liền với cách mạng XHCN;Trên thế giới đã
có nhiều nước theo con đường TBCN nhưng kết quả chỉ có một số ít
nước có nền kinh tế phát triển.Theo Kissinger Châu phi đói, Châu Á
nghèo, Châu Mỹ la tinh nợ nần chồng chất.
Trước sự thất bại của mô hình cũ về CNXH ở một loạt nước
Đông Âu và Liên xô, có người cho rằng CNXH là ảo tưởng, cứ theo
con đường TBCN hoặc theo mô hình xã hội dân chủ ở Thôy Điển thì
kinh tế xã hội mới phát triển được.
Đại hội Đảng đã khẳng định: đối với kinh tế nước ta “kiên trì con
đường XHCN là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn” và mặc dù hiện nay
còn những hạn chế về lí luận và thực tiễn, song Đảng và nhân dân ta
cần có đủ khả năng nêu ra: “một quan niệm về CNXH và về con
đường đi lên CNXH ở nước ta trên những đường nét chủ yếu” (Báo

cáo chung tại Đại hội VII )
Kinh nghiệm lịch sử toàn thế giới và của nước ta đã giúp chúng ta
nhận thức được rằng, theo con đường TBCN là đi vào ngõ cụt, vì
CNTB phát triển cao cũng vẫn giữ bản chất cố hữu của một chế độ áp
bức, bóc lột. trong mấy thập kỉ vừa qua, nhờ lợi dụng được các thành
quả của cách mạng khoa học và công nghệ, CNTB có sự phát triển
nhanh, song nó không thể giải quyết những mâu thuẫn cơ bản vốn có.
Có người viện dẫn “ 4 con rồng” để chứng minh những nước chậm
phát triển đi theo CNTB thì phát triển nhanh. Song hàng trăm nước
đang phát triển chỉ có “4 con rồng”, còn đại bộ phận vẫn khó khăn nợ
nần chồng chất, khủng hoảng nhiều mặt, sở dĩ “4 con rồng” lên nhanh
là nhờ sự viện trợ ồ ạt của Mỹ, có vị trí địa lý thuận lợi, có lợi thế về
tiềm lực phát triển… hơn nữa, con đường đi lên của họ cũng không
thuận buồm xuôi gió, nhân dân lao động vẫn ở địa vị làm thuê.
Những nhiệm vụ cơ bản trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Do đặc điểm thấp kém của nước ta, đặc biẹt là về kinh tế, trong
thời kì qua độ tiến lên CNXH chúng ta phải thực hiện các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
9
Phát triển nhanh LLSX: Từ lí luận cũng như thực tiễn chúng ta
thấy CNXH không ra đời từ mảnh đất trống không mà từ một nền sản
xuất do xã hội cũ để lại. Cho nên, xây dựng CNXH trong thời kì quá
độ không có nghĩa là phủ định triệt để nhanh chóng cái cũ mà phải
biết xây dựng cái mới, vừa sử dụng và cải tạo cái cũ để thúc đẩy chế
độ kinh tế mới ra đời. Vì thế trong thời kì quá độ, chúng ta thực hiện
nền kinh tế nhiều thành phần là để huy động mọi năng lực sản xuất
với những trình độ kĩ thuật, vốn liếng quy mô khác nhau để phát triển
LLSX,phát triển nền kinh tế nâng cao đời sống của nhân dân. Mác đã
dạy chúng ta rằng: QHSX phải phù hợp với trình độ và tính chất của
LLSX.QHSX XHCN không thể thiết lập trên một LLSX thấp kém.Cái

thiếu của nước ta hiện nay là một LLSX phát triển.Thực hiện nền kinh
tế nhiều thành phần là để phát triển LLSX, phát triển nền sản xuất xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân và tuỳ theo sự phát triển của LLSX
mà nâng dần QHSX XHCN lên.Muốn vậy chúng ta phải thực hiện
quá trình công nghiệp hoá đi đôi với hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân
để trang bị kĩ thuật hiện đại cho xã hội, xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật của CNXH, từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí phải phát
triển khoa học công nghệ.Công nghiệp, hoá hiện đại hoá rút ngắn theo
dịnh hướng XHCN là hoàn toàn cần thiét và có thể. Đây là một tiến
trình phải thực hiện ba nhiệm vụ: vượt qua nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu, xây dựng nền kinh tế nông ngiệp hiện đại và từng bước tiếp
cận nền kinh tế tri thức; chủ độnh hội nhập kinh tế quốc tế; trên cơ sở
đó, tạo được những điều kiện vật chất cần thiết cho sự định hướng
XHCN, bỏ qua chế độ TB ở nước ta.
Đối với vấn đề lao động ở nước ta là phải phát triển chất lượng
nguồn nhân lực. Muốn vậy, chúng ta phải phát triển hệ thống giáo dục
đào tạo, đi đôi với việc sử dụng nguồn nhân lực đã được đào tạo, sử
dụng và đãi ngộ người lao đọng một cách hợp lí. Trong cương lĩnh đại
hội Đảng đã nêu rõ “Giáo dục phải được coi là quốc sách hàng đầu”,
để “phát triển kinh tế xã hội, nâng cao trình độ quản lí cua Nhà nước
và năng lực lãnh đạo của Đảng ”(Chiến lược phát triển kinh tế đại hội
Đảng VII), để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự
phát triển” (Văn kiện …), “ gắn liền với sự phát triển kinh tế, phát
triển khao học, kĩ thuật, xây dựng nền văn hoá mới và con ngươì
mới’’(cương lĩnh …). nước ta đi lên CNXH từ xuất phát điểm rất
thấp. nguồn nhân lực và con người việt nam với nhiều ưu điểm truyền
thống được coi là nguồn tự quan trong nhất trong chiến lược phát triển
đất nước. vì vậy GD-ĐT phải được xem là quốc sách hàng để phát
10
huy nhân tố con người. hiện nay cả xã hội đang lo lắng về hiện tại và

tương lai của nền giáo dục, liên quan đến vận mệnh lâu dài của cả dân
tộc. Trong nhiều năm quy mô, chất lượng và hiệu quả của giáo dục
giảm sút liên tục, chất lượng giáo dục còn đáng lo hơn. Do đó, chỉ có
đặt DG&ĐT là quốc sách hang đầu thì mới có thể chặn đứng tình hình
giáo dục xuống cấp.
phải thực hiện đa dạng hoá quan hệ sở hữu tương ứng với nó là
hình thành và phát triển nhiều thành phần kinh tế để phát huy tốt nhất
vị trí và vai tro của từng thành phần kinh tế trong nền KTQD. Đặc biệt
là tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước. Xây dựng phát triển
QHSX nước ta trong thời kì quá độ phải quán triệt quan điểm sau :
Phải làm cho QHSX luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của LLSX nhằm thực hiện tốt nhất mục tiêu của nền kinh tế xã
hội đặt ra.
Phải nâng cao hiệu lực vai trò quản lí điều tiết của nhà nước, phải
thực hiện phân phối theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, đẩy mạnh
phúc lợi xã hội và công bằng xã hội
Xây dựng và phát triển QHSX vừa tạo ra điều kiện cho thành phần
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo vừa phải đảm bảo tính bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế trong nền KTQD.
Xây dựng và phát triển QHSX phải phù hợp với mục tiêu và đặc
điểm của thời đại mà đặc trưng cơ bản của nó là mở cửa và hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới.
Nhiệm vụ thứ ba là mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại. xu thế của thời đại la hội nhập và phát triển. Ngày nay không
thể có một nước nào đứng ngoài xu thế đó mà có thể nhanh chóng xây
dựng đất nước thành công . chúng ta hội nhập, thực hiện chính sách
mở cửa la tranh thủ vốn, kĩ thuật, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm
quản lí để xây dựng đất nước. Đó là con đường để đổi mới công nghệ,
từ công nghệ lạc hậu NSLĐ thấp chuyển lên công nghệ tiên tiến,
NSLĐ cao, làm cho khoa học và công nghệ trở thành yếu tố bên trong

của nền sản xuất, thành động lực của nền kinh tế.
Dĩ nhiên hội nhập nhưng không hoà nhập. hợp tác nhưng không từ
bỏ đấu tranh. Chúng ta chỉ có thể tranh thủ được nguồn lực bên ngoài
khi chúng ta biết phát huy cao độ nguồn lực bên trong, đồng thời phải
11
luôn cảnh giác với kẻ thù đang thực hiện âm mưu “ diễn biến hoà
bình”, sử dụng sức mạnh kinh tế để lũng đoạn sự nghiệp nước ta.
Chúng ta càng không ảo tưởng , quá trông chờ vào bên ngoài, vì
CNĐQ không bao giờ có thiện chí giup chúng ta xây dựng CNXH mà
trước hết là vì lợi nhuận, vì sự tồn tại và phát triển của bản thân họ.
Chúng ta phải mở cửa cả ngoài và trong, về bên ngoài có nghĩa là
mở rộng quan hệ kinh tế với các nước khác, về bên trong là làm cho
hàng hoá trong nước theo đúng tiêu chuẩn thế giới, đây là một tất yếu
trong điều kiện ngày nay. Do cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát
triển hết sức mạnh mẽ làm cho LLSX ngày cang mang tính quốc tế
hoá cao. Do vậy, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng
lớn. Do vậy mọi quốc gia phải mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài.
II. Quá trình nhận thức và giải pháp thực hiện hiện thắng lợi quá
độ lên CNXH ở nước ta.
1.Quá trình nhận thức.
Không thể vin vào sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và các nước
Đông Âu mà phản bác con đường cách mạng XHCN ở nước ta.Những
tổn thất mà phong trào XHCN đã gánh chịu chỉ là những khúc quanh
của lịch sử. Nhìn vào lịch sử xưa nay chưa có một cuộc cách mạng
nào lại diễn ra mà không có sự giành đi giật lại giữa những giai cấp
đại diện cho thế lực đi lên và giai cấp đã lỗi thời.Cuộc cách mạng Tư
sản ở Anh đã nổ ra giữa thế kỉ XVII phải đến năm 1832 giai cấp tư
sản Anh mới thực sự thiết lập được chế độ tư bản.Cuộc cách mạng Tư
sản Pháp diễn ra từ năm 1789 mãi đến năm 1871 mới được khẳng
định, đều là những cuộc cách mạng thay thế chế độ bóc lột này bằng

chế độ bóc lột khác.Thời gian diễn ra cách mạng XHCN ở nước lâu
nhất là trên 70 năm còn ở phần lớn các nước khác là trên 40 năm. Đây
là một sự nghiệp mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, vừa làm vừa
khai phá, thử nghiệm nên có cái đúng cái sai, có cả thành công và thất
bại.
Ngay sau khi giành được độc lập dân tộc, Nhà nước non trẻ của
chúng ta vừa phải chống thù trong giặc ngoài, vừa tiến hành kiến
quốc, nhưng ngay từ năm 1953, trong tác phẩm thường trực chính
trị,Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến sự tồn tại của năm loại kinh tế
khác nhau trong chế độ mới: “A-Kinh tế quốc doanh,B-Các hợp tác
xã,C-Kinh tế cá nhân,D-Tư bản tư nhân,E-Tư bản của nhà nước.Trong
12
năm loại ấy, loại A là nền kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn
cả.Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng CNXH chứ không theo
hướng CNTB”.
Tuy nhiên, sau Đại thắng Mùa xuân năm 1975,miền Nam được
giải phóng, đất nước thống nhất, chúng ta chưa quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh do mắc bệnh chủ quan, nóng vội, duy ý chí trong cải tạo
XHCN nên đã muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế “phi xã hội
chủ nghĩa”,nhanh chóng biến tư bản tư nhân thành quốc doanh, muốn
hoàn thành trong thời gian ngắn cải tạo XHCN. Kết quả là những
thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cơ bản đã
bị triệt tiêu, kinh tế phát triển chậm dần từ đầu những năm 80 thế kỉ
XX đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng. Đúng
như văn kiện đại hội Đảng VI đã khẳng định: “Trong nhận thức cũng
như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối
dài,chưa nắm vững và vận dụng đúng qui luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của LLSX”. Đại hội VII của
Đảng cũng đã nêu: “Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí,

vi phạm qui luật khách quan,nóng vội trong cải tạo XHCN, xoá bỏ
ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây
dựng công nghiệp nặng; duy trì trì quá lâu cơ chế quản lí kinh tế tập
trung quan liêu, bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách
giá cả,tiền tệ tiền lương.Công tác tư tưởng và quản lí cán bộ phạm
nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.”
Khắc phục sai lầm trên, từ Đại hội VI của Đảng-Đại hội khởi đầu
sự nghiệp đổi mới-chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
được nhận thức lại và thực hiện nhất quán. Đảng ta xác định, nền kinh
tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kì quá độ,
phát triển kinh tế nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược, lâu
dài trong suốt thời kì quá độ lên CNXH. Một trong những nội dung
quan trọng của tư duy kinh tế mới (lúc đó) là phát triển kinh tế nhiều
thành phần, trong đó thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu
và các loại hình tổ chức kinh tế gắn liền với các hình thức sở hữu đó
do lịch sử để lại,chừng nào chúng còn phát huy tác dụng đối với tiến
bộ xã hội.
2. Giải pháp thực hiện thắng lợi quá độ lên CNXH ở nước ta.
13
Để thực hiện thành công những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước
ta đã đề ra, chúng ta cần thực hiện những giải pháp sau:
Thứ nhất, muốn phát triển nhanh LLSX chúng ta cần tiến
hành CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. Đó là quá trình chuyển rừ
một nước từ việc sử dụng lao động thủ công l chà ủ yếu sang việc sử
dụng phổ biến những công nghệ hiện đại, những phương pháp,
phương tiện sản xuất tiên tieenslaf phổ biến trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Thực chất, CNH-HĐH là quá trình kết hợp những bước
phát triển tuần tự vè khoa học kĩ thuật, công nghệ sản xuất với những
bước phát triển nhảy vọt, đi tắt đón đầu.
Như ta biết mỗi một phương thức sản xuất có một cơ sở vật chất

kĩ thuật tương ứng cơ sở vật chất kĩ thuật của các phương thức sản
suất trước CNTB là kĩ thuật lao động thủ công lạc hậu, năng suất thấp.
cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ
khí hoá năng suất lao động cao. Cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH là
nền sản xuất lớn hiện đại có cơ cấu kinh tế hợp lý , dược hình thanh
và phát triển cân đối, thống trị trong toàn bộ nền KTQD xây dựng cơ
sở vật chất của CNXH đây là một tất yếu khách quan đối với mọi
nước đi lên CNXH trong thời quá độ.
Đối với nước ta, chúng ta muốn xây dựng cơ sở vật chất kinh tế
của CNXH thì chúng ta cũng phải tiến hành CNH nền KTQD. Nhưng
nước ta tiến hành quá muộn và điểm xuất phát quá thấp. Trong khi các
nước phát triển trên thế giới đã đi vào ứng dụng những thành tựu của
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Dó đó khoảng cách giữa
nước ta với các nước trên thế giới ngày càng xa. để rút ngắn khoảng
cách đó chúng ta không thể phát triển theo con đương tuần tự như các
nước đi trước mà phải kết hợp những bước phát triển tuần tự với
những bước nhảy vọt, đi tắt đón đầu, tức là CNH-HĐH nền KTQD.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng CNH-
HĐH.Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 27,2% năm
năm xuống còn 24,3% năm 2000; công nghiệp và xây dựng từ 28,7%
tăng lên 36,6% và dịch vụ từ 44,1% năm 1995 còn 39,1%. Mặc dù vậy
vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra trong Nghị quyết Đại hội VIII(cơ cấu
vào năm 2000 tương ứng là 19-20%, 34-35% và 45-46%)
Cơ cấu thành phần kinh tế dẫ có sự dịch chuyển theo hướng xắp
xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng khu vực
14
kinh t ngoi quc doanh. n nm hai 2000, t trng khu vc kinh t
nh nc trong GDP vo khong 39%; khu vc kinh t tp th 8,5%; khu
vc kinh t t nhõn3,3%; khu vc kinh t cỏ th 32%; khu vc kinh t
hn hp 3,9% v khu vc kinh t cú vn u t nc ngoi 13,3%

Chỳng ta cn i mi chớnh sỏch o to, s dng, ói ng trớ
thc, trng dng v tụn trng nhõn ti. Chỳ trng s dng v phỏt huy
tim nng tri thc ca ngi Vit Nam nc ngoi. Khuyn khớch
v to iu kin thun li cho vic m rng giao lu v hp tỏc quc
t v khoa hc v cụng ngh.
i mi c ch, chớnh sỏch ti chớnh i vi GD-T, thu hỳt cỏc
ngun lc trong nc v ngoi nc; khuyn khớch cỏc thnh phn
kinh t u t phỏt trin giỏo dc tt c cỏc bc hc. M rng o
to cụng nhõn k thut viờn v nhõn viờn nghip v theo nhiu trỡnh
, phự hp vi nhu cu xó hi.
Tip tc tng cng u t thớch ỏng t ngõn sỏch nh nc ng
thi phỏt huy mi ngun lc cho nghiờn cu nhng lnh vc khoa hc
cụng ngh mi nh: cụng ngh sinh hc, cụng ngh tin hc, cụng ngh
vt liu mi. To iu kin thun li cho cỏc t chc khoa hc, cỏc
trng i hc cỏc doanh nghip thuc mi thnh phn kinh t v cỏ nhõn
c t chc hot ng nghiờn cu, trin khai, c m bo quyn s
hu trớ tu, chuyn nhng kt qu nghiờn cu. Phỏt trin th trng khoa
hc cụng ngh hon thin h thng phỏp lut v bo h quyn s hu trớ
tu, khuyn khich chuyn giao cụng ngh. Ban hnh chớch sỏch h tr,
khuyn khớch mnh ng dng khoa hc v cụng ngh vo hot ng kinh
t xó hi.
Thứ hai, chúng ta phải phát triển chính sách lâu dài kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nớc giữ vai
trò chủ đạo. Kinh tế nhà nớc luôn đợc xác định giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nhiều thàh phần ở Việt Nam. Nó lắm trong tay
những nghành kinh tế then chốt và mũi nhọn nh: năng lợng, công
nghiệp giao thông vân tải, bu chính viễn thông. Và có khả năng chi
phối và điều tiết thành phần kinh tế khác.
Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần theo định hớng XHCN, tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp và

công dân đầu t và phát triển sản xuất kinh doanh. Tăng cờng đầu t
chiều sâu và đổi mới công nghệ, tập chung cho những doanh nghiệp
hoạt động trong một số nghành và lĩnh vực then chốt nh sản xuất
15
TLSX quan trọng, công nghệ cao. Hoàn thành cơ bản việc cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nớc mà Nhà Nớc không cần nắm giữ 100% vốn cho
thuê những doanh nghiệp nhà nớc có quy mô nhỏ mà nhà nớc không
cần nắm giữ và không cổ phần hoá đợc. Sát nhập, giải thể hoặc phá
sản các doanh nghiệp nhà nớc hoạt động không hiệu quả.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nớc để thực hiện tốt vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nớc là lực lợng vật chất và
phải là công cụ để nhà nớc định hớng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế;
Tập trung đầu t cho kết cấu hạ tầng kinh tế. Doanh nghiêpj nhà nớc
luôn phải giữ những vị trí then chốt trong nên kinh tế, đi đầu ứng dụng
khoa học công nghệ, nêu gơng về năng suất chất lợng và hiệu quả kinh
tế xã hội và chấp hành pháp luật.
Chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại. tiếp tục chính sách cửa và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế đẻ phát triển. Thực hiện chính sách bảo hộ có
trọng điểm, có điều kiện và có thời hạn phù hợp với tiến trình hội
nhập. Tích cực thực hiện các cam kết đối với các cơ chế hợp tác song
phơng và đa phơng mà nớc ta đã tham gia, đặc biệt chú ý tới các cam
kết trong khuôn khổ ASEAN(nh AFTA, AICO,AIA ), APEC,
ASEM; xúc tiến đàm phán để gia nhập WTO. Từng ngành, từng doanh
nghiệp phải xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện các cam kết
quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trờng trong nớc và quốc
tế. Xây dựng chiến lợc thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài(FDI) và sử
dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA) phù hợp theo yêu
cầu phát triển đất nớc. Nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung pháp
luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nớcvà doanh nghiệp có

vốn đầu t nớc ngoài. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp và cá
nhân Việt Namđầu t ra nớc ngoài.
Thực hiện nhất quán đờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở,
đa phơng hoá đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nớc trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hoà bình ,dộc lập và phát triển.
Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.Phát triển năng lợng
đi trớc một bớc đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an
toàn năng lợng quốc gia.Sử dụng tốt các nguồn thuỷ năng, khí và than
để phát triển cân đối nguồn điện. Nghiên cứu phơng án sử dụng năng
lợng nguyên tử. Đồng bộ hoá, hiện đại hoá mạng lới phân phối điện
quốc gia.
16
Phát triển mạng lới thông tin hiện đại, đẩy nhanh việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Mở rộng khả
năng hoà mạng viễn thôngvới chi phí có khả năngcạnh tranh quốc tế.
Về đờng bộ, nâng cấp xây dựng các tuyến quốc lộ, chú trọng các
tuyến đờng biên giới, các tuyến đờng vành đai và các tuyến đờng nối
các vùng tới các trung tâm phát triển lớn. Hoàn thiện hệ thống cảng
biển quốc gia. Hiện đại hoá các sân bay quốc tế và nội địa. Cung
cấp đủ nớc sạch cho đô thị, khu công nghiệp và cho dân c .
Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, an
ninh quốc phòng. Hệ thống giao thông đẩm bảo thông suốt, an toàn
quanh năm và hiện đại.Đảm bảo cơ sở vật chất cho học sinh phổ
thông, có đủ giờng bệnh cho bệnh nhân.
Tăng cờng vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò năng
lực quản lí của nhà nớc. Đổi mới sâu rộng cơ chế quản lí kinh tế,
phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trờng, triệt để xoá bỏ
bao cấp trong kinh doanh, tăng cờng vai trò quản lí và điều tiét vĩ mô
của nhà nớc, đấu tranh có hiệu quả các hành vi tham nhũng,lãng phí,

quan liêu, nhiễu sách.Nhà nớc tạo môi trờng pháp lí thuận lợi, bình
đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tácđể phát triển, tiếp tục
đổi mới các công cụ quản lí vĩ mô của nhà nớc với nền kinh tế. Đổi
mớihơn nữa công tác kế hoạch hoá, nânh cao chất lợng công tác xây
dựng các chiến lợc,quy hoạch và kế hoạchphát triển kinh tế.Đảm bảo
tính minh bạch, công bằng trong chi ngân sách nhà nớc. Nâng cao
hiệu quả các chơng trình QG, tập trung vốn cho các chơng trình trọng
điểm, thực hiện có kết quả chơng trình giúp đỡ các xã đặc biệt khó
khăn.
Nhà nớc đầu t vốn phát triển từ ngân sách nhà nớc căn cứ vào
hiệu quả kinh tế-xã hội. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với
tình hình đất nớc và các cam kết quốc tế; xây dựng hệ thông ngân
hàng thơng mại, đáp ứng nhu cầu tín dụng cung ứng các dịch vụ ngân
hàng thuận lợi cho xã hội. Kiện toàn các ngân hàng thơng mại nhà nớc
thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách
nhiệm và có đủ sức cạnh tranh trên thị trờng. Xoá bỏ sự can thiệp hành
chính nhà nớc đối với hoạt động cho vay của các ngân hàng. nâng cao
năng lực giám sát của ngân hàng nhà nớc và công tác kiểm tra nội bộ
của các ngân hàng thơng mại.
17
Kết luận
Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN theo con đờng rút ngắn ở
Việt Nam hiện nay chính là quá trình thực hiện CNH-HĐH theo ph-
ơng thức rút ngắn thời gian vừa có bớc tuần tự vừa có bớc nhảy vọt.
Thực hiện bớc quá độ này nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội
trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp cho nên phải
trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiêu chặng đờng , nhiều hình
thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ. đây là bớc phát triển
quan trọng trong nhậnh thức và t duy lí luận của đang ta. Và, thực tiễn
của gần 17 năm đổi mới dới sự lãnh đạo của Đảng đất nớc phát triển

theo định hớng XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ
Chí Minh đã tiến những bớc quan trọng tới mục tiêu dân giàu nớc
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Văn kiện đại hội đảng lần
IX cũng đã nhấn mạnh: CNXH thế giới, từ những bài học thành công
và thất bại cũng nh từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc có
điều kiện và có khả năng tạo ra bớc phát triển mới. Theo quy luật tiến
hoá của lịch sử, loài ngời nhất định sẽ tiến tới CNXH.



18

×