Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Đánh giá hiện trạng và định hướng phát triển nông nghiệp bền vững ở quận Hà Đông, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 94 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN










Trần Thị Liên



“ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở QUẬN
HÀ ĐÔNG, HÀ NỘI”





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC










Hà Nội, năm 2012
2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN














“ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG Ở
QUẬN HÀ ĐÔNG, HÀ NỘI”

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

Chuyên ngành: Sử dụng và Bảo vệ Tài nguyên Môi trường
Mã số: 60 85 15
Người hướng dẫn




PGS.TS Đinh Văn Thanh




Hà Nội, năm 2012
3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………5
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp bền vững…………… 9
1.1 Tổng quan các tài liệu về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phát triển bền
vững 9
1.1.1 Khái niệm về nông nghiệp bền vững 9
1.1.2 Một số khái niệm về phát triển nông nghiệp bền vững 11
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng vấn đề tổ chức phát triển nông nghiệp bền vững. 15
a, Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên……………………………. 15
1.3 Các mô hình tổ chức lãnh thổ nông nghiệp……… 17
1.3.1 Khái niệm ……………………………………… ………………….17
1.3.2 Ý nghĩa kinh tế xã hội của nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp…………………………………………………………………………18
1.3.3 Các mô hình tổ chức lãnh thổ nông nghiệp……………………… 19

1.3.3.1 Xí nghiệp nông nghiệp…………………………………………. 19
1.3.3.2 Thể tổng hợp sản xuất lãnh thổ nông nghiệp (TTHSX-LTNN)… 23
1.3.3.3 Vùng nông nghiệp………………………………………………. 24
1.4 Hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của phát triển nông nghiệp bền
vững 28
1.4.1 Sự cần thiết phải phát triển nông nghiệp bền vững……………… 28
1.4.2 Hiệu quả kinh tế của phát triển nông nghiệp bền vững…………… 31
1.4.3 Hiệu quả xã hội của phát triển nông nghiệp bền vững…………… 31
1.4.4 Hiệu quả về môi trường của phát triển nông nghiệp bền vững……. 32
Chương 2: Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của quận Hà Đông………… 33
2.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên……………… 33
2.1.1 Vị trí địa lý……………………………………………………………. 33
2.1.2 Địa hình…………………………………………………………… 34
2.1.3 Tài nguyên khí hậu…………………………………………………. 35
2.1.4 Tài nguyên nước……………………………………………………. 36
2.1.5 Tài nguyên đất……………………………………………………… 37
2.2 Đặc điểm Kinh tế - Xã hội 40
2.2.1 Tăng trưởng kinh tế………………………………………………… 40
2.2.2 Dân cư và lao động………………………………………………… 42
2.2.3 Cơ sở hạ tầng………………………………………………………. 44
2.2.4 Hiện trạng môi trường quận Hà Đông…………………………………. 48
2.2.5 Đường lối chính sách và cơ chế………………………………………. 52
2.2.6 Nguồn vốn…………………………………………………………. 53
2.2.7 Thị trường tiêu thụ 53
2.3 Đánh giá tổng quát những lợi thể và hạn chế của quận Hà Đông 54
2.3.1 Lợi thế…………………………………………………………………. 54
2.3.2 Hạn chế và thách thức………………………………………………… 56
Chương 3: Phân tích, đánh giá hiện trạng phát triển nông nghiệp trên quan điểm
phát triển nông nghiệp bền vững và định hướng phát triển nông nghiệp
4


bền vững tại quận Hà Đông………………………………… 59
3.1 Biến động quy mô đất nông nghiệp 59
3.2 Cơ cấu và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 64
3.3 Các vùng sản xuất chuyên canh hóa của quận 68
3.4 Đánh giá hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp 69
3.5 Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp hiện tại quận Hà Đông 70
3.6 Định hướng, giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững 70
3.6.1 Định hướng quy mô và diện tích đất 70
3.6.2 Định hướng cơ cấu nông nghiệp bền vững…………………………… 71
3.6.3 Định hướng xây dựng các vùng chuyên môn hóa…………………… 72
3.6.4 Định hướng hiệu quả kinh tế………………………………………… 73
3.6.5 Định hướng hiệu quả xã hội………………………………………… 73
3.6.6 Định hướng hiệu quả sinh thái bền vững………………………… 74
3.6.7 Các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững 74
3.6.7.1 Giải pháp về thực hiện tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phát triển bền
vững…………………………………………………………………………… 74
3.6.7.2 Giải pháp về nguồn vốn và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng………… 84
3.6.7.3 Giảm thiểu ô nhiễm……………………………………………… 85
3.6.7.4 Giải pháp về quản lý chất lượng sản phẩm…………………………. 85
Kết luận và kiến nghị…………………………………………………………… 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………90

5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết (lý do chọn đề tài).

Phát triển nông nghiệp bền vững đang là đòi hỏi tất yếu và là xu hướng

phát triển phổ biến của nông nghiệp thế giới, nhằm giải quyết tốt mối quan hệ cân
bằng, bền vững giữa các yếu tố môi trường sinh thái với sự phát triển của con
người. Trong xu hướng phát triển đó, phát triển nông nghiệp bền vững của các
vùng ngoại thành còn mang một ý nghĩa nhân văn độc đáo, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao cả về vật chất và văn hoá, tinh thần của dân cư đô thị, gắn liền với việc
phát triển nền nông nghiệp sạch và nông nghiệp du lịch- sinh thái, được khai thác
từ những tiềm năng, thế mạnh sẵn có của các vùng ngoại thành.
Nông nghiệp ngoại thành Hà Nội mặc dù chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong cơ
cấu kinh tế Thủ đô, nhưng được xác định là ngành có vị trí quan trọng trong phát
triển kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vai trò đó không chỉ
được thể hiện ở chỗ đáp ứng đáng kể nhu cầu lương thực, thực phẩm cho người
dân Thủ đô, làm đẹp cảnh quan, bảo vệ môi trường, mà còn có ý nghĩa to lớn
trong việc mang lại những giá trị tinh thần độc đáo, làm giàu nét đẹp truyền thống
văn hoá người Hà Nội. Trong bối cảnh đô thị hoá và cạnh tranh ngày càng sâu sắc
với các hoạt động phi nông nghiệp, lợi ích từ các sản phẩm nông nghiệp thuần tuý
ở các vùng ngoại ô ngày càng thu hẹp. Chính vì vậy, nông nghiệp ven đô nói
chung và nông nghiệp ngoại thành Hà Nội nói riêng chỉ có thể tiếp tục duy trì và
phát triển đúng hướng, phục vụ phát triển đô thị khi nó được phát triển theo hướng
sản xuất nông nghiệp sinh thái.
Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam , là trung
tâm chính trị -hành chính Quốc gia , trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục,
kinh tế và giao dịch quốc tế. Với lợi thế về vị trí địa lí- chính trị, có lịch sử phát
triển lâu đời, Hà Nội luôn giữ vai trò quan trọng nhất của đất nước, có sức hút và
tác động rộng lớn đối với Quốc gia và khu vực Bắc Bộ. Hà Nội đồng thời còn là
hạt nhân phát triển của Vùng Kinh tế trọng điểm phía Bắc và Vùng Hà Nội. Trong
xu hướng hội nhập và phát triển, việc nâng cao vai trò vị thế của Thủ đô Hà Nội
trên trường quốc tế là một nhu cầu tất yếu . Ngày 29/05/2008 Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam đa
̃
ra Nghi

̣
quyết 15/2008 QH12 về viê
̣
c điều chỉnh đi
̣
a giơ
́
i
hành chính thủ đô Hà Nội trên cơ sở sáp nhập Thành phố Hà Nội cũ với tỉnh Hà
Tây cũ, huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn tỉnh Hòa
Bình. Theo kết quả tổng điều tra dân số ngày 1/4/2009, dân số thành phố Hà Nội
mở rộng có 6.448.837 người và diện tích tự nhiên rộng 3.344,6 km2, gồm 10
quận, 1 thị xã và 18 huyện ngoại thành, đứng thứ hai về dân số và đứng đầu cả
6

nước về diện tích, nằm trong danh sách 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới.
Chính vì vậy, nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm nông sản như rau quả, thịt cá, sữa,
trứng rất lớn.
Trước ngày 29/5/2008, quận Hà Đông là Thành phố Hà Đông (thuộc tỉnh
Hà Tây cũ) là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của tỉnh Hà Tây, nằm giáp với
phía Tây Nam của thành phố Hà Nội. Vị trí địa lý tự nhiên đó tạo cho quận Hà
Đông một lợi thế lớn về địa lý- kinh tế và giao thông thuận lợi, có điều kiện để
tiếp thu những thành tựu khoa học tiên tiến, thu hút nguồn lao động trẻ có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao và sự quan tâm của Đảng ủy- Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội. Quá trình đô thị hóa tại quận Hà Đông những năm gần đây rất mạnh,
đặc biệt là khu vực ngoại thành quận Hà Đông. Đó cũng là nguyên nhân khiến
diện tích đất nông nghiệp tại quận Hà Đông giảm một cách đáng kể. Mặc dù là
một quận thuộc thành phố Hà Nội nhưng quận Hà Đông vẫn có một lượng lao
động đáng kể làm nông nghiệp lâu đời. Do đó ta cần phải quy hoạch, tổ chức lại
để duy trì phát triển nông nghiệp trên địa bàn quận Hà Đông hợp lý, trên có sở xác

định mục tiêu:
- Xác định quy hoạch để cân đối lại diện tích đất nông nghiệp ở quận Hà
Đông để đảm bảo mục tiêu phát triển vùng chuyên canh nông nghiệp bền vững, cơ
cấu nông nghiệp bền vững đáp ứng nhu cầu phát triển.
- Phát triển nông nghiệp nghĩa là phát triển một đô thị xanh đảm bảo cân
bằng sinh thái, bảo vệ môi trường cho vùng đô thị, trên quan điểm sinh thái bền
vững.
Tác giả xin chọn đề tài: “Đánh giá hiện trạng và định hướng phát triển nông
nghiệp bền vững ở quận Hà Đông, Hà Nội” làm hướng đề tài nghiên cứu luận văn
thạc sỹ khoa học.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu tổ chức lãnh thổ phát triển Nông nghiệp bền vững ở quận Hà
Đông, Hà Nội.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp bền vững ở một đô thị
đang diễn ra quá trình đô thị hóa mạnh.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá hiện trạng phát triển nông nghiệp ở quận
Hà Đông.
- Định hướng phát triển nông nghiệp bền vững
- Đề xuất các giải pháp thực hiện phương án quy hoạch phát triển nông
nghiệp ở quận Hà Đông.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập và sử lý số liệu thống kê
7

Tác giá đã đi thu thập số liệu thống kê về các điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã
hội, và sự phát triển của ngành nông nghiệp quận Hà Đông. Chủ yếu số liệu
thu thập được thuộc giai đoạn từ năm 2005- 2012.
- Phương pháp khảo sát thực địa và điều tra xã hội học
Tác giả đã tiến hành điều tra khảo sát thực địa để sát thực lại nguồn số liệu

thu thập được, và xem xét tình hình thực tế. Ngoài ra tác giả còn tiến hành
điều tra xã hội học tại chợ đầu mối Hà Đông nhằm đánh giá thị trường tiêu
thụ nông sản tại quận Hà Đông hiện nay.
- Phương pháp phân tích logic

- Phương pháp thống kê học
- Phương pháp cân đối kinh tế
- Phương pháp mô hình toán học
5. Cơ sở tài liệu để thực hiện luận văn
- Kế thừa các kết quả nghiên cứu từ trước về phát triển nông nghiệp, phát
triển nông nghiệp bền vững, và những nghiên cứu khác tại quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội.
- Tài liệu thu thập được bao gồm hệ thống số liệu, bản đồ, các công trình
nghiên cứu khoa học có liên quan: tài liệu về khí hậu, địa chất, địa hình, thuỷ văn,
thuỷ lợi, dân số, lao động, mức sống, tình hình phát triển của các ngành kinh tế,
các số liệu có liên quan đến phát triển nông nghiệp của quận , bản đồ hiện trạng
sử dụng đất, bản đồ chuyên đề….
6. Tổng quan tài liệu trong và ngoài nước về vấn đề nghiên cứu
- “Các nguyên lý sinh thái của nông nghiệp”, tác giả Laura E. Powers và
Robert McSorley, năm 1998, nhà xuất bản Mc Graw Hill, Inc phát hành.
- “Kinh tế học sinh thái và phát triển bền vững: Lý thuyết, phương pháp và
ứng dụng”, tác giả Jenroen, năm 1996, nhà xuất bản Mc Graw Hill, Inc phát hành.
- “Lịch sử nông nghiệp bền vững và hệ thống nông nghiệp bền vững”, tác
giả Richard R. Harwood, năm 1990, ấn hành bởi Lucie Press
- “Nông nghiệp đô thị và ven đô” thuộc “Chương trình đặc biệt về an toàn
lương thực” của FAO
- Mô hình hệ sinh thái “Aqua-terra” ở Inđônêsia, mô hình nông nghiệp xanh
(Green core) ở Hà Lan, mô hình “vườn trong thành phố” với kỹ thuật trồng rau
thuỷ canh ở Ecuađo và một số nước châu phi khác.
- Một hướng nghiên cứu khác về nông nghiệp đô thị của các chuyên gia

nông nghiệp Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á lại quan tâm đến tác động của đô thị
8

hoá đến nông nghiệp đô thị. Trong khi các nhà nghiên cứu Bắc Mỹ (trong những
năm 70 và 80) tập trung đánh giá ảnh hưởng của đô thị hoá đến năng suất và sản
lượng nông nghiệp trên cơ sở nghiên cứu hoạt động của các nông trại trong điều
kiện đô thị hoá, thì các nghiên cứu ở Châu Âu và châu Á lại quan tâm nhiều hơn
đến vai trò của nông nghiệp ven đô đối với bảo vệ cảnh quan môi trường. Các
nghiên cứu này đã đi đến kết luận là sự phát triển của nông nghiệp ven đô phụ
thuộc rất lớn vào các chủ trương, chính sách về kế hoạch hoá đô thị (như nghiên
cứu về “Kế hoạch chiến lược phát triển không gian xanh cho các khu vực đô thị có
mật độ dân cư cao” được trình bày tại hội thảo quốc tế về “Các vấn đề và tương lai
phát triển thành phố sinh thái” tổ chức qua mạng năm 2003.
- Mô hình vành đai xanh- Greenbelt của Boal (1970)
- “Chuyển dịch cơ cấu- cẩm nang kinh tế phát triển”, tác giả Chenery, năm
1988
- “Nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu, các chiến lược kinh tế ở các quốc
gia đang phát triển” của Johnston B. F. Kilby P., ấn hành bởi Oxford University
năm 1975
- “Nghiên cứu so sánh về cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế” của
Kuznets năm 1959
- Có một số nghiên cứu khá điển hình liên quan đến nông nghiệp đô thị và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá ở các quốc gia
như Thái Lan, Trung Quốc và Mỹ như các nghiên cứu của McGee và Greenberg
(1990), của Doras (1996), của Mollard (1997) và của Srijantr (1998) về nông
nghiệp đô thị Bangkok; nghiên cứu của Gale F.H (1999) về các mô hình nông
nghiệp kết hợp ở Trung Quốc; và nghiên cứu của Harison và P. Grant (1976) về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đô thị ở Mỹ
 Trong nước:
- Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô từ năm 2000 đã nêu rõ “Phát

triển nông nghiệp ngoại thành theo hướng một nền nông nghiệp đô thị-sinh thái”
là định hướng cơ bản và có tính chiến lược trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ngoại thành Hà Nội.
- Năm 2001, UBND Thành phố Hà Nội đã giao cho Khoa Kinh tế Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, đại học Kinh tế Quốc dân chủ trì và nghiên cứu
đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học để xác định nội dung, tiêu chí và các giải pháp
phát triển nông nghiệp ngoại thành theo hướng nông nghiệp sinh thái”.
- “Phát triển nông nghiệp ngoại thành Hà Nội theo hướng nông nghiệp sinh
thái” do PGS.TS Phạm Văn Khôi chủ biên, nhà xuất bản nông nghiệp ấn hành
năm 2004
9

- Năm 2003, đề tài nghiên cứu khoa học “Cơ sở khoa học để phát triển nông
nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị-sinh thái và hiện đại hoá nông thôn Hà Nội
giai đoạn 2006-2010” bắt đầu được nghiên cứu, do Phó chủ tịch UBND Thành
phố Hà Nội Lê Quý Đôn làm chủ nhiệm đề tài
- “Nông nghiệp sinh thái hay nông nghiệp bền vững” của GS. VS. Đào Thế
Tuấn đăng trong tạp chí “Phát triển nông thôn”, số 37 tháng 3, 4 năm 2003.
- “Nghiên cứu khái niệm, nội dung nông nghiệp đô thị”, tác giả Đào Thế
Tuấn, năm 2003.
- “Nghiên cứu khái niệm về nông nghiệp đô thị-sinh thái và hiện đại hoá
nông thôn” của PGS.TS Nguyễn Trung Quế, thực hiện năm 2003.










Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp bền vững
1.1 Tổng quan các tài liệu về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phát triển bền
vững
1.1.1 Khái niệm về nông nghiệp bền vững
Nông nghiệp bền vững thường được nhiều người hiểu là nền nông nghiệp mà
ở đó ngoài việc sản xuất ra nhiều nông sản thực phẩm có chất lượng còn phải đi
đôi với bảo vệ và duy trì môi trường để đảm bảo cho nông nghiệp có cơ sở phát
triển bền vững. Vì vậy, có thể coi nông nghiệp bền vững là mô hình nông nghiệp
hữu cơ cổ truyền với các yêu cầu cao về bảo toàn môi trường sinh thái. Nông
nghiệp hữu cơ theo quan điểm hiện đại không chỉ gắn liền với việc sử dụng các
chất hữu cơ, mà bao gồm cả mối quan hệ qua lại gắn bó giữa cây và con, giữa sinh
vật với môi trường vô cơ và hữu cơ. Tuy nhiên, nếu chỉ chú ý đến môi trường sinh
thái thì năng suất nông nghiệp sẽ thấp. Ở đây cần phải có sự kết hợp giữa yếu tố
sinh thái và yếu tố bền vững.
Trong điều kiện dân số thế giới ngày càng gia tăng, nếu vẫn tiếp tục phát
triển nông nghiệp bền vững theo nội dung của nông nghiệp hữu cơ trước đây thì
khó có khả năng đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về số lượng, chất lượng và
chủng loại nông sản bởi vì nông nghiệp trong điều kiện đó chỉ đáp ứng được nhu
cầu về mức độ an toàn của sản phẩm, cân bằng hệ sinh thái, giữ gìn cảnh quan còn
10

yếu tố năng suất sẽ không đáp ứng được.
Hiện nay nhiều nước đã và đang hướng tới phát triển một nền nông nghiệp
bền vững với các yêu cầu của nông nghiệp sinh thái mà trong đó các thành tựu
khoa học kỹ thuật và công nghệ được áp dụng để tạo ra năng suất cao, đáp ứng
nhu cầu về nông sản. Những đặc trưng của nông nghiệp bền vững, những yêu cầu
của gìn giữ cân bằng sinh thái được coi như những ràng buộc của quá trình ứng
dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất. Đó chính là sự định hướng
cho nông nghiệp phát triển theo hướng nông nghiệp bền vững nhất là nông nghiệp ở

các vùng ngoại ô như ở quận Hà Đông.
Có khá nhiều khái niệm về nông nghiệp bền vững, trong đó mỗi định nghĩa
đề cập đến những góc độ khác nhau, theo những mục đích và cách thức tiếp cận
cũng khác nhau.
Theo Uỷ ban kỹ thuật của FAO, nền nông nghiệp bền vững bao gồm việc
quản lý có hiệu quả nguồn lực để thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người
mà vẫn duy trì hay làm tăng thêm chất lượng của môi trường và bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên.
Richard R. Harwood cho rằng: “Nông nghiệp bền vững là một nền nông
nghiệp trong đó các hoạt động của các tổ chức kinh tế từ việc lập kế hoạch, thực
hiện và quản lý các quá trình sản xuất, kinh doanh nông nghiệp đều hướng đến
bảo vệ, phát huy lợi ích của con người và xã hội trên cơ sở duy trì và phát triển
nguồn lực, tối thiểu hóa lãng phí để sản xuất một cách hiệu quả các sản phẩm
nông nghiệp và hạn chế tác hại môi trường, trong khi duy trì và không ngừng
nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp” (Richard R. Harwood, Lịch sử nông
nghiệp bền vững – Hệ thống nông nghiệp bền vững, St, Lucie Press, 1990).
Nông nghiệp bền vững đề cập một cách toàn diện và tổng hợp đến cả khía
cạnh tự nhiên và khía cạnh kinh tế, xã hội của phát triển nông nghiệp. Trên khía
cạnh tự nhiên nó là quá trình tác động hợp lý của con người đối với các yếu tố tự
nhiên như đất đai, nguồn nước, phân bón, năng lượng tự nhiên nhằm giảm thiểu
tác hại môi trường, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên. Trên khía cạnh kinh tế nó là quá
trình giảm chi phí đầu vào, nâng cao thu nhập cho các tổ chức nông nghiệp trên cơ
sở thỏa mãn tốt nhất nhu cầu xã hội về nông sản phẩm. Với khía cạnh xã hội nó là
quá trình xây dựng và phát triển các giá trị xã hội như sức khỏe, văn hoá tinh thần
của con người. Cụ thể là:
11

+ Đối tượng mà con người tác động trong nền nông nghiệp bền vững không
chỉ dừng lại là đất đai, cây trồng, vật nuôi riêng biệt mà là một tổng hòa hệ thống
sinh vật - sinh thái .

+ Sản phẩm của nông nghiệp bền vững với các yêu cầu về sinh thái không
chỉ là những sản phẩm của cây trồng, vật nuôi mà còn là môi trường sinh thái phát
triển hài hoà tạo cơ sở tự nhiên bền vững cho nông nghiệp phát triển ổn định, lâu
bền, cảnh quan sinh thái sạch, đẹp cho cuộc sống con người và bảo vệ gen ngày
càng phong phú trong quá trình đa dạng sinh học.
1.1.2 Một số khái niệm về phát triển nông nghiệp bền vững
Phát triển nông nghiệp bền vững là vấn đề trung tâm của nhiều nước trên thế
giới và nhất là các nước đang phát triển. Để tiếp cận đúng đắn với sự phát triển
bền vững nông nghiệp cần thiết phải nhận thức đầy đủ về phát triển, tăng trưởng
và phát triển bền vững.
Tăng trưởng và phát triển đôi khi được coi là đồng nghĩa, nhưng thực ra
chúng có liên quan với nhau và có những nội dung khác nhau. Theo nghĩa chung
nhất, tăng trưởng là nhiều sản phẩm hơn, còn phát triển không những nhiều sản
phẩm hơn mà còn phong phú hơn về chủng loại và chất lượng, phù hợp hơn về cơ
cấu và phân bổ của cải.
Tăng trưởng là sự gia tăng thu nhập quốc dân và sản phẩm quốc dân hoặc thu
nhập quốc dân và sản phẩm quốc dân tính theo đầu người. Nếu như sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ trong một quốc gia tăng lên, nó được coi là tăng trưởng kinh
tế. Tăng trưởng cũng được áp dụng để đánh giá cụ thể đối với từng ngành sản
xuất, từng vùng của một quốc gia.
Phát triển bao hàm ý nghĩa rộng hơn, phát triển bên cạnh sự tăng thu nhập
bình quân đầu người còn bao gồm nhiều khía cạnh khác. Sự tăng trưởng cộng
thêm các thay đổi cơ bản trong cơ cấu của nền kinh tế, sự tăng lên của sản phẩm
quốc dân do ngành công nghiệp tạo ra, sự đô thị hoá, sự tham gia của các dân tộc
của một số quốc gia trong quá trình tạo ra các thay đổi nói trên là những nội dung
của sự phát triển. Phát triển là việc nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao các
tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khoẻ và đảm bảo sự bình đẳng cũng như
quyền công dân. Phát triển còn được định nghĩa là sự tăng bền vững về các chỉ
tiêu sống, bao gồm tiêu dùng vật chất, giáo dục, sức khoẻ và bảo vệ môi trường.
Phát triển với nghĩa rộng hơn, bao gồm cả những thuộc tính quan trọng và

12

liên quan khác, đặc biệt là sự bình đẳng hơn về cơ hội, sự tự do, về chính trị và
các quyền tự do công dân của con người.
Tăng trưởng là một phương tiện cơ bản để có thể có được sự phát triển
nhưng bản thân nó chỉ là một đại diện, chưa phản ánh đầy đủ sự tiến bộ xã hội.
Tăng trưởng và phát triển là hai mặt của sự phát triển xã hội có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Tăng trưởng diễn tả động thái của nền kinh tế, còn phát triển phản ánh
sự thay đổi về chất lượng của nền kinh tế và xã hội để phân biệt các trình độ khác
nhau trong sự tiến bộ xã hội. Có một số người khi xem xét sự phát triển xã hội đã
lẫn lộn phát triển với tăng trưởng, quy lý luận phát triển vào việc giải quyết các
vấn đề tăng trưởng, giải thích một cách đơn giản rằng mục tiêu của sự phát triển là
sự tăng thu nhập như vậy là không đầy đủ và chính xác. Tăng trưởng chưa phải là
phát triển mà chỉ là điều kiện cần cho sự phát triển. Cần thấy sự nguy hại của tăng
trưởng mà không có phát triển, sự nguy hại đó tồn tại ở các nước đang phát triển
khi hoạt động kinh tế được tập trung vào những ngành của những hãng nước ngoài
hoặc những công trình công cộng lớn mà không có tác dụng toàn quốc. Ngay cả ở
các nước phát triển, có nhiều trường hợp khi tăng trưởng, diễn biến các lợi ích của
phát triển được phân bố không đều giữa các vùng.
Tăng trưởng được đánh giá bằng tỉ lệ tăng thu nhập quốc dân (GNP) và sản
phẩm quốc nội (GDP) hàng năm.
Sự phát triển được đánh giá không chỉ bằng GNP hoặc GDP tính bình quân trên
đầu người mà còn bằng một số chỉ tiêu khác phản ánh sự tiến bộ xã hội như: Cơ hội
về giáo dục, nâng cao sức khoẻ cộng đồng, tình trạng dinh dưỡng, nâng cao giá trị
cuộc sống, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Vào cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của Thế kỷ XX, loài người đã phải
đương đầu với những thách thức lớn do suy thoái về nguồn lực (điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực lao động…) và giảm cấp môi trường.
Trong tình hình đó, quan niệm mới về sự phát triển đã được đặt ra, đó là phát triển
bền vững. Phát triển bền vững là quan niệm mới của sự phát triển, nó lồng ghép

các quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và làm tốt hơn môi trường: đảm bảo
thoả mãn những nhu cầu hiện tại mà vẫn không phương hại đến khả năng đáp ứng
những nhu cầu của tương lai. Các thế hệ hiện tại khi sử dụng các nguồn tài nguyên
sản xuất ra của cải vật chất không thể để cho thế hệ mai sau phải gánh chịu tình
trạng ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên và nghèo đói. Cần phải để cho các thế hệ tương
13

lai được thừa hưởng các thành quả lao động của thế hệ hiện tại dưới dạng giáo
dục, kỹ thuật, kiến thức và các nguồn lực khác ngày càng được tăng cường. Tăng
thu nhập kết hợp với các chính sách môi trường và thể chế vững chắc có thể tạo cơ
sở cho việc giải quyết cả hai vấn đề môi trường và phát triển. Điều then chốt đối
với phát triển bền vững không phải là sản xuất ít đi mà sản xuất khác đi, sản xuất
phải đi đôi với việc tiết kiệm các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường. Các
chính sách môi trường có thể tăng cường hiệu suất trong sử dụng tài nguyên và
đưa ra những đòn bẩy để tăng cường những công nghệ, phương pháp ít gây nguy
hại, không làm giảm cấp môi trường và nguồn lực. Các đầu tư tạo ra nhờ các
chính sách môi trường sẽ làm thay đổi cách thức sản xuất các sản phẩm và dịch
vụ, có thể có trường hợp đầu ra thấp hơn những lại tạo ra những lợi ích làm tăng
phúc lợi lâu dài của con người. Trong thực tế thu nhập tăng lên, nhu cầu nâng cao
chất lượng môi trường cũng sẽ tăng lên và các nguồn lực có thể sử dụng cho đầu
tư tăng lên. Chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) đã đề xuất 5 nội
dung của phát triển bền vững bao gồm:
* Tập trung phát triển ở các vùng nghèo đói, nhất là những vùng rất nghèo
mà ở đó con người không có lựa chọn nào khác ngoài làm giảm cấp nguồn lực và
môi trường
* Tạo ra sự phát triển cao về tính tự lập cộng đồng trong điều kiện có hạn về
nguồn lực, nhất là tài nguyên thiên nhiên.
* Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực dựa trên các kỹ thuật và công nghệ
thích hợp, kết hợp khai thác tối đa kỹ thuật truyền thống.
* Thực hiện các chiến lược phát triển nhằm đảm bảo tự lực về lương thực,

cung cấp nước sạch và nhà ở, giữ gìn sức khoẻ, chống suy dinh dưỡng trong cộng
đồng thông qua các công nghệ thích hợp.
* Xây dựng và thực hiện các chiến lược có người dân tham gia.
Để có sự phát triển bền vững cần phải có các yếu tố sau đây:
* Một hệ thống chính trị đảm bảo sự tham gia có hiệu quả của người dân vào
việc ra quyết định.
* Một hệ thống kinh tế góp phần tạo ra sản phẩm thặng dư và kỹ thuật công
nghệ dựa trên tính tự lập và bền vững.
* Một hệ thống sản xuất đảm bảo phục hồi hệ sinh thái cho sự phát triển.
* Một hệ thống công nghệ làm nền tảng cho xây dựng các giải pháp bền
14

vững, lâu dài.
* Một hệ thống quốc tế đẩy mạnh mối quan hệ bền vững về thương mại và
tài chính.
Có nhiều khái niệm khác nhau về phát triển nông nghiệp bền vững:
- Phát triển nông nghiệp bền vững là gia tăng sản xuất nhằm đáp ứng nhu
cầu lương thực, thực phẩm càng cao và đảm bảo cho giá giảm dần.
- Phát triển nông nghiệp bền vững là duy trì trình độ sản xuất cần thiết đáp
ứng nhu cầu tăng dân số mà không suy thoái môi trường.
- Phát triển nông nghiệp bền vững là duy trì sự cân bằng giữa sự tăng
trưởng và cân bằng sinh thái.
- Phát triển nông nghiệp bền vững được hiểu là tối đa hoá lợi ích kinh tế
trên cơ sở ràng buộc bởi duy trì chất lượng của nguồn lực tự nhiên theo thời gian
và tuân thủ các quy luật sau:
+ Đối với tài nguyên tái sinh sử dụng ở mức thấp hơn hoặc bằng;
+ Đối với tài nguyên không tái sinh tối ưu hoá hiệu quả sử dụng chúng
bằng giải pháp hợp lý từ các yếu tố đầu vào (phân bón, kỹ thuật canh tác )
- Phát triển nông nghiệp bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu tăng
trưởng chung của nền kinh tế nhưng không làm suy thoái môi trường tự nhiên-

con người và đảm bảo trên mức nghèo đói của người dân nông thôn.
- Phát triển nông nghiệp bền vững là đảm bảo an ninh lương thực, tăng cải
tổ kinh tế, khắc phục nghèo đói và tạo điều kiện tăng tốc độ công nghiệp hoá.
- Phát triển nông nghiệp bền vững được hiểu là giữ vững tốc độ tăng trưởng
về sản xuất lẫn y tế và giáo dục qua nhiều năm hay thập kỷ.
- Phát triển nông nghiệp bền vững là cực đại hoá phúc lợi hiện tại, không
làm giảm thiểu các phúc lợi ấy trong tương lai.
- Phát triển nông nghiệp bền vững là hướng phát triển mà trong đó giá trị
của vốn thiên nhiên không bị suy giảm qua thời gian.
Theo tổ chức lương thực và nông nghiệp thế giới của Liên hợp quốc (FAO)
năm 1992 quan niện rằng “Phát triển nông nghiệp bền vững là sự quản lý và bảo
tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm đảm bảo thoả mãn nhu cầu ngày càng
tăng của của con người cả cho hiện tại và mai sau. Sự phát triển như vậy của nền
nông nghiệp sẽ đảm bảo không tổn hại đến môi trường, không giảm cấp tài
nguyên , phù hợp về kỹ thuật và công nghệ, có hiệu quả về kinh tế và được chấp
15

nhận về phương diện xã hội”
Như vậy, trên quan điểm phát triển, sự phát triển nông nghiệp bền vững vừa
đảm bảo thoả mãn nhu cầu hiện tại ngày càng tăng về sản phẩm nông nghiệp vừa
không giảm khả năng đáp ứng những nhu cầu của nhân loại trong tương lai. Mặt
khác, phát triển nông nghiệp bền vững vừa theo hướng đạt năng suất cao hơn, vừa
bảo vệ và giữ gìn tài nguyên thiên nhiên đảm bảo sự cân bằng có lợi về môi
trường.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng vấn đề tổ chức phát triển nông nghiệp bền
vững.
a, Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên.
Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên tới quá trình phát
triển và phân bố sản xuất của ngành nông nghiệp. Đặc thù của quá trình phân
bố và tổ chức sản xuất của ngành nông nghiệp chịu sự chi phối nhiều bởi các

điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên.
* Địa hình:
Địa hình là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới tổ chức lãnh thổ sản xuất
nông nghiệp: Vai trò địa hình vùng có tính chất quyết định đến phân bố cây
trồng, biện pháp canh tác, mức độ áp dụng cơ giới hóa sản xuất và ảnh hưởng
đến năng suất lao động.
* Khí hậu.
Khí hậu (bao gồm: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa ) là nhân tố
ảnh hưởng nhiều đến việc tổ chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp: Các dạng vật
chất sống (thực vật và động vật), chúng chịu sự tác động của các điều kiện tự
nhiên và các nhân tố sinh thái của môi trường. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi
trong ngành nông nghiệp có những giới hạn sinh thái nhất định đối với điều
kiện khí hậu. Nếu những tác động của nhân tố khí hậu (ánh sáng, nhiệt độ )
vượt ra ngoài ngưỡng sinh thái của sinh vật thì chúng sẽ chết hoặc chậm phát
triển, gây ảnh hưởng đến năng xuất và hiệu quả lao động. Vì vậy trong quá
trình tổ chức sản xuất nông nghiệp cần phải dựa trên những điều kiện khí hậu
của vùng cụ thể để phân bố cây trồng vật nuôi thích hợp.
* Tài nguyên nước.
16

Nước là một nhân tố không thể thiếu được trong bất kỳ hoạt động sản
xuất nào đặc biệt là nông nghiệp, như sự phân bố cây trồng chịu sự chi phối lớn
bởi điều kiện nhiệt ẩm của môi trường, đặc biệt là đối với nền nông nghiệp
nhiệt đới ở nước ta, nếu thiếu nước cây trồng sẽ không phát triển bình thường
được, năng xuất cây trồng giảm.
* Tài nguyên đất.
Đất đai là đầu vào quan trọng của bất kỳ quá trình sản xuất nào dù là sản
xuất nông nghiệp, là địa bàn trên đó con người tiến hành các hoạt động sản xuất
nông nghiệp, đất đai vừa là tư liệu sản xuất, vừa là đối tượng lao động, năng
suất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn vào việc sử dụng đất đai và các biện

pháp canh tác đúng đắn áp dụng cho từng khu vực.
b, Điều kiện kinh tế - xã hội.
* Trình độ phát triển kinh tế.
Trình độ phát triển kinh tế ảnh hưởng nhiều tới sự phát triển ngành nông
nghiệp. Ở những địa phương có trình độ phát triển kinh tế cao sẽ tạo điều kiện
cho sự phát triển của các ngành sản xuất nông nghiệp.
* Dân số và lao động.
Lao động là yếu tố đầu vào của bất kỳ ngành sản xuất nào, mặc dù ngày
nay con người đã tạo ra nhiều máy móc để thay thế cho con người trong một số
công đoạn sản xuất. Dân số và lao động thể hiện qua các đặc trưng về số lượng,
chất lượng, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động.
Để tiến hành sản xuất cần phải có một đội ngũ lao động đông đảo, có trình độ
chuyên môn và tay nghề cao.
* Cơ sở vật chất hạ tầng.
Các yếu tố cơ sở vật chất hạ tầng như điện, cung cấp nước, giao thông,
các cở sở dịch vụ ngân hàng, thông tin liên lạc là những yếu tố bổ trợ cho sự
phát triển các ngành kinh tế. Các ngành kinh tế sẽ không thể phát triển nếu như
hệ thống cơ sở hạ tầng không được đầu tư một cách đồng bộ.
* Chủ chương và chính sách của Nhà Nước.
Đây là nhân tố có tính chất định hướng, quyết định đến sự phát triển và
17

phân bố các ngành sản xuất. Các chính sách và chủ chương của Nhà Nước nếu
hợp lý sẽ đẩy nhanh tốc độ phát triển các ngành kinh tế, khai thác một cách có
hiệu quả tiềm năng và lợi thế so sánh của mỗi địa phương, mỗi vùng lãnh thổ.
* Yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Tiến bộ kỹ thuật ảnh hưởng rất lớn tới tổ chức lãnh thổ sản xuất nông
nghiệp. Tiến bộ khoa học cho phép tạo ra những giống cây trồng mới cho năng
xuất và chất lượng cao hơn, cải tạo những vùng hoang hóa thành các vùng có
thể canh tác, hình thành những hình thức canh tác mới như thủy canh, canh tác

trong nhà kính. Tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho ngành công nghiệp chế biến
có thể chế biến một số lượng lớn nông sản trong ngành trồng trọt để tạo ra
nhiều sản phẩm tiêu dùng.
* Thành tựu khoa học thế giới.
Thành tựu khoa học thế giới đóng vai trò rất quan trọng với tổ chức lãnh
thổ nông nghiệp. Thành tựu khoa học thế giới sẽ làm cho sản phẩm sản xuất ra
có khả năng cạnh tranh cao hơn, chất lượng ngày càng tốt hơn, giá thành rẻ
hơn.
* Yếu tố thị trường bên ngoài.
Yếu tố thị trường bên ngoài có ý nghĩa quyết định trong quá trình tổ
chức lãnh thổ sản xuất, bởi vì thị trường quyết định số lượng sản phẩm, quy mô
sản xuất và quyết định sự phân bố và tổ chức sản xuất.
1.3 Các mô hình tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
1.3.1 Khái niệm
Con người luôn gắn với một lãnh thổ nhất định, nơi họ sống và làm việc.
Chính ở đây, họ đã tạo ra được một hệ thống các mối quan hệ qua lại hợp lý nhất
giữa con người với tự nhiên. Hệ thống này, một mặt, cho phép con người sử dụng
tốt nhất các nhân tố lãnh thổ của sản xuất với chi phí xã hội thấp nhất, hiệu quả
kinh tế cao nhất và mặt khác, tạo nên các điều kiện thuận lợi cho cuộc sống và lao
động của mình. Đó là bản chất của việc tổ chức xã hội theo lãnh thổ. Tổ chức xã
hội theo lãnh thổ bao gồm hai hình thức chủ yếu: tổ chức nền sản xuất xã hội và tổ
chức môi trường sống của con người, trong đó hình thức thứ nhất giữ vai trò quyết
định.
18

Cùng với ngành công nghiệp, TCLTNN với tư cách là việc tổ chức ngành sản
xuất vật chất, ngành kinh tế then chốt đang được quan tâm nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã hội.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là một hệ thống liên kết không gian
của các ngành, các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở các quy

trình kỹ thuật mới nhất, chuyên môn hoá, tập trung hoá, liên hợp hoá và hợp tác
hoá sản xuất cho phép sử dụng có hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về các
điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động và đảm bảo năng suất lao động xã hội
cao nhất. [21]
Như vậy, TCLTNN thể hiện một số đặc điểm nổi bật sau đây:
- Phân công lao động theo lãnh thổ cùng với việc kết hợp các điều kiện tự
nhiên, kinh tế và lao động là cơ sở để hình thành các mối liên hệ qua lại theo
không gian (lãnh thổ).
- Trong TCLTNN, khía cạnh ngành và khía cạnh lãnh thổ kết hợp chặt chẽ,
qua lại với nhau.
- Các đặc điểm không gian của sản xuất nông nghiệp được xác định bởi tính chất
của việc khai thác và sử dụng các điều kiện sản xuất hiện có.
- Hiệu quả kinh tế và năng suất lao động là tiêu chuẩn hàng đầu của TCLTNN.
TCLTNN luôn thay đổi, phù hợp với các hình thái kinh tế- xã hội. Trong điều
kiện hiện nay, TCLTNN gắn liền với khoa học công nghệ, với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa
học công nghệ, nhiều hình thức TCLTNN đã và đang xuất hiện, mang lại hiệu quả
cao về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
1.3.2 Ý nghĩa kinh tế xã hội của nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
- Việc nghiên cứu TCLTNN nói chung và các hình thức tổ chức của nó theo
lãnh thổ tạo ra những tiền đề cần thiết nhằm sử dụng hợp lý các nguồn lực về tự
nhiên, kinh tế- xã hội của cả nước cũng như của từng vùng, từng địa phương.
- TCLTNN tạo ra những điều kiện làm đẩy mạnh và sâu sắc chuyên môn hoá
sản xuất nông nghiệp. Khi chuyên môn hoá phát triển đến một mức độ nhất định,
tất yếu sẽ dẫn đến quá trình hợp tác hoá, liên hợp hoá trong phạm vi vùng, quốc
gia và quốc tế.
- Việc hoàn thiện các hình thức TCLTNN tạo điều kiện nâng cao năng suất lao
động xã hội.
19


- Nghiên cứu các hình thức TCLTNN góp phần vào công tác quy hoạch theo
lãnh thổ nền kinh tế quốc dân.
1.3.3 Các mô hình tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
TCLTNN có nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Về đại
thể, có ba hình thức TCLTNN quan trọng nhất. Đó là xí nghiệp nông nghiệp, thể
tổng hợp nông nghiệp và vùng nông nghiệp.
1.3.3.1 Xí nghiệp nông nghiệp
Là một trong các hình thức của TCLTNN, trong đó có sự thống nhất giữa lực
lượng lao động với tư liệu lao động(đất đai) và đối tượng lao động (cây trồng, vật
nuôi) để tạo ra lương thực, thực phẩm cho con người và nguyên liệu cho các
ngành kinh tế. Các nông hộ, trang trại, hợp tác xã nông nghiệp, nông trường quốc
doanh, đồn điền được coi là xí nghiệp nông nghiệp.
a) Hộ gia đình (nông hộ)
Nhìn chung ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam, người ta thừa nhận “hộ” là
“gia đình” và “kinh tế hộ” là “kinh tế gia đình”. Hộ là một đơn vị kinh tế- xã hội
tự chủ cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng mà ở các đơn vị kinh tế khác
không thể có được. Hộ là một tế bào của xã hội với sự thống nhất của các thành
viên có cùng huyết tộc, mà mỗi thành viên đều có nghĩa vụ và trách nhiệm làm
tăng thu nhập, đảm bảo sự tồn tại. Hộ còn là một đơn vị sản xuất và tiêu dùng.
Hộ gia đình là hình thức vốn có của sản xuất nhỏ, tồn tại phổ biến ở các nước
đang phát triển thuộc châu Á, trong đó có Việt Nam. Các thành viên trong hộ gia
đình có mối quan hệ gắn bó về huyết thống cũng như về kinh tế, cùng chung sống
trong một mái nhà, cùng tiến hành sản xuất và có chung một nguồn thu nhập. Các
đặc điểm cơ bản của hộ gia đình là:
- Về đất đai, quy mô canh tác nhỏ bé, biểu hiện rõ tính chất tiểu nông. ở ấn Độ
bình quân diện tích đất canh tác < 2ha/hộ, ở Philippin < 3ha, ở Việt Nam từ 0,5ha (ở
miền Bắc), đến 0,6- 1ha ở đồng bằng sông Cửu Long. Ở nước ta, hộ gia đình không
có quyền sở hữu ruộng đất mà chỉ có quyền sử dụng.
- Về vốn, đại bộ phận rất ít, quy mô thu nhập nhỏ, khả năng tích luỹ thấp làm
hạn chế khả năng đầu tư tái sản xuất. Vật tư được mua phục vụ cho sản xuất từ

tiền bán nông phẩm.
- Về lao động, chủ yếu sử dụng lao động gia đình. Sức lao động của nông hộ không
phải hàng hoá, mà là tự phục vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của gia đình.
20

- Kỹ thuật canh tác và công cụ sản xuất ít biến đổi, mang nặng tính truyền
thống.
- Quy mô sản xuất (đất đai, vốn, lao động) rất nhỏ bé.
Đối với các nước đang phát triển, hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong
việc bảo tồn xã hội, phát triển kinh tế nông thôn, là cơ sở đảm bảo cho kinh tế tập
thể tồn tại và thúc đẩy nông thôn quá độ tiến lên một trình độ cao hơn: nông thôn
sản xuất hàng hoá.
b) Trang trại
Trang trại có nguồn gốc từ hộ gia đình được phát triển dần dần trong quá trình
chuyển dịch của nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá.
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cao hơn hộ gia đình, là sự phát triển tất
yếu của nền nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá. Chính công nghiệp hoá
đã tạo ra yêu cầu khách quan cho việc phát triển sản xuất nông sản hàng hoá, tạo
điều kiện cho kinh tế trang trại hình thành và phát triển.
Trang trại là kết quả tất yếu của hộ gia đình gắn với sản xuất hàng hoá, là hình
thức tiến bộ của sản xuất nông nghiệp thế giới. Trang trại xuất hiện lần đầu tiên ở
các nước Tây Âu gắn liền với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, sau đó
phổ biến ở tất cả các nước công nghiệp châu Âu, Bắc Mỹ, rồi lan sang Nhật Bản,
Hàn Quốc và hiện nay xuất hiện ở nhiều nước đang tiến hành công nghiệp hoá
thuộc khu vực Nam Á, Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. [22]
Hoạt động của kinh tế trang trại chịu sự chi phối của nền kinh tế thị trường và
tuân theo quy luật cung cầu, chấp nhận cạnh tranh. Các đặc điểm nổi bật của trang
trại bao gồm:
- Mục đích chủ yếu của trang trại là sản xuất nông phẩm hàng hoá theo nhu cầu
của thị trường. Đây là bước tiến bộ từ kinh tế hộ tự cấp tự túc lên các hộ nông

nghiệp hàng hoá.
- Tư liệu sản xuất (đất đai) thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng (như ở
Việt Nam) của một người chủ độc lập (tức là người có quyền tự chủ trong sản xuất
kinh doanh).
- Quy mô đất đai tương đối lớn, tuy có sự khác nhau giữa các nước. Ví dụ, quy
mô trung bình của trang trại ở Hoa Kỳ là 180ha, ở Anh 71ha, Pháp 29ha, Nhật
1,38ha, Việt Nam 6,3ha. [23]
- Cách thức tổ chức sản xuất tiến bộ, đẩy mạnh chuyên môn hoá (chứ không
21

sản xuất đa canh), tập trung vào những nông sản có lợi thế so sánh và khả năng
sinh lợi cao hơn và vào việc thâm canh (đầu tư tương đối lớn về vốn, công nghệ,
lao động trên một đơn vị diện tích).
- Các trang trại đều có thuê mướn lao động (lao động thường xuyên và lao
động thời vụ).
Ở Việt Nam, trang trại mới phát triển từ đầu thập niên 90 của thế kỉ XX, song
đã tạo ra những biến chuyển mới trong nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện để
nông nghiệp nước ta chuyển nhanh sang sản xuất hàng hoá. Hiện nay, cả nước có
trên 51,5 nghìn trang trại với các loại hình khác nhau như trang trại nông nghiệp,
trang trại lâm nghiệp, trang trại nông- lâm nghiệp, trang trại lâm- nông- dịch vụ
Về quy mô của trang trại, lớn nhất là 1.000ha và nhỏ nhất từ 2 đến 3ha. [24]
Trang trại có vai trò to lớn trong sản xuất nông nghiệp ở các nước phát triển
bởi vì phần lớn nông phẩm cung cấp cho xã hội được sản xuất ra từ các trang trại.
Còn tại các nước đang phát triển, vai trò tích cực và quan trọng của trang trại thể
hiện rõ nét ở cả ba mặt: kinh tế (phát triển cây trồng vật nuôi có giá trị hàng hoá
cao, tạo nên vùng chuyên môn hoá, tập trung hàng hoá ), xã hội (tạo thêm việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động) và môi trường (sử dụng hiệu quả tài
nguyên đất, trồng rừng và bảo vệ rừng, cải tạo và bảo vệ môi trường sinh thái).
c) Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN)
Hợp tác xã nông nghiệp là hình thức phổ biến trong nền nông nghiệp thế giới ở

cả các nước phát triển và đang phát triển, tuy tên gọi có thể khác nhau như hợp tác
xã (các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Đông Nam á), nông trại tập thể (LB Nga, các nước
Đông Âu), công xã nhân dân (Trung Quốc).
HTXNN là một tổ chức kinh tế do nông dân tự nguyện lập ra với nguồn vốn
hoạt động do chính họ góp cổ phần và huy động từ các nguồn khác, nhằm duy trì,
phát triển kinh tế hộ gia đình và tăng nhanh tỷ suất hàng hoá, đạt hiệu quả kinh tế
cao cho các chủ trang trại.
HTXNN là đòi hỏi tất yếu của nông dân vì trong cơ chế thị trường có nhiều
thành phần, có cạnh tranh để tồn tại và phát triển, đòi hỏi các hộ gia đình, các chủ
trang trại phải hợp tác với nhau trên các lĩnh vực cần thiết để đấu tranh bảo vệ lợi
ích của chính mình. Kinh tế hộ và trang trại càng phát triển thì nhu cầu hợp tác
càng cao.
Mục tiêu hoạt động của HTXNN không chỉ vì lợi nhuận cho các thành viên
22

góp vốn vào HTX, mà là nhằm phục vụ tốt nhất các dịch vụ để mang lại thu nhập
và lợi nhuận cao nhất cho các hộ, các chủ trang trại.
Có hai loại hình HTXNN: HTX đơn ngành, phổ biến ở các nước Âu- Mỹ, cung
ứng từng loại dịch vụ; HTX đa ngành (hay tổng hợp), phổ biến ở các nước châu á
với nhiều loại dịch vụ.
Ở Việt Nam, trước năm1986 mô hình HTX hoạt động dựa trên cơ sở sở hữu
tập thể về tư liệu sản xuất (ruộng đất, trâu bò, các nông cụ chính) và sản xuất theo
kiểu tập trung, bao cấp. Kết quả lao động của người nông dân được trả theo công
điểm. Sau 1986, dựa trên chính sách khoán đến hộ gia đình (khoán lô), giao khoán
đất 10- 15 năm, các HTX trao quyền sử dụng đất, quyền tự chủ sản xuất cho xã
viên. Hoạt động của HTX chỉ tập trung cho các khâu mà từng hộ không làm được
hoặc làm không có hiệu quả, hay thực hiện các hoạt động dịch vụ, chế biến và tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp, hướng dẫn sản xuất, chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ
cho kinh tế hộ phát triển.
Hiện nay cả nước có 9.147 HTXNN đang hoạt động dưới nhiều hình thức và

quy mô khác nhau, trong đó chủ yếu là các HTX chuyển đổi (từ HTX kiểu cũ) và
các HTX mới thành lập. Các HTX này đều làm dịch vụ cho các hộ nông dân và
các trang trại phù hợp với cơ chế thị trường và luật HTX năm 1996. Các HTX đã
thu hút 1,6 triệu lao động, hơn 6 triệu hộ xã viên, trong đó có 1.459 HTX dịch vụ
làm đất, 4.678 HTX dịch vụ thuỷ nông, 3.301 HTX dịch vụ bảo vệ thực vật, 2.473
HTX dịch vụ giống, 1.756 HTX dịch vụ phân bón. Hầu hết các HTXNN đã đảm
nhiệm những dịch vụ mang tính cộng đồng, trực tiếp phục vụ sản xuất nông
nghiệp. Chất lượng và giá cả dịch vụ do HTXNN cung ứng nói chung tốt và rẻ
hơn so với dịch vụ tư nhân hoặc hộ tự làm. [21]
d) Nông trường quốc doanh (NTQD)
Như một hình thức phổ biến ở các nước XHCN, nông trường quốc doanh là cơ
sở kinh doanh nông nghiệp trên quy mô lớn về đất đai nhằm cung cấp nông sản
cho thị trường trong nước hoặc cho xuất khẩu.
NTQD có những đặc điểm sau đây:
- Là xí nghiệp nông nghiệp của nhà nước, thuộc thành phần kinh tế quốc
doanh.
- Quy mô đất đai lớn (tới vài trăm nghìn ha), được trang bị cơ sở vật chất kĩ
thuật tốt, có hướng chuyên môn hoá rõ, khả năng cơ giới hoá cao.
23

- Mỗi nông trường có bộ máy riêng về quản lí và điều hành sản xuất kinh
doanh. Lao động làm việc trong nông trường được gọi là công nhân nông nghiệp,
được hưởng lương do nhà nước trả.
Ở Việt Nam, NTQD được thành lập chủ yếu ở vùng trung du, trên các cao
nguyên hay là vùng mới khai hoang. Các NTQD hiện nay có sự thay đổi về hình
thức và chức năng. Nhiều nông trường đã giao khoán đất đai, vườn cây, đồi rừng
cho các hộ gia đình.
1.3.3.2 Thể tổng hợp sản xuất lãnh thổ nông nghiệp (TTHSX-LTNN)
TTHSX-LTNN là một hình thức cao của TCLTNN, trong đó áp dụng rộng rãi
phương pháp công nghiệp và vì thế, nông nghiệp có điều kiện kết hợp với công

nghiệp chế biến và các hoạt động dịch vụ.
TTHSX-LTNN là sự kết hợp chặt chẽ giữa các xí nghiệp nông nghiệp với các
xí nghiệp công nghiệp có mối liên hệ qua lại với nhau trên một lãnh thổ và bằng
các quy trình công nghệ tiên tiến cho phép sử dụng có hiệu quả nhất vị trí địa lí,
các điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội sẵn có để đạt năng suất lao động xã hội cao
nhất.
Đặc điểm chủ yếu của TTHSX-LTNN là:
- Nông phẩm hàng hoá do TTHSX-LTNN sản xuất ra được quy định bởi vị trí
địa lí, điều kiện tự nhiên và kinh tế- xã hội, các mối liên hệ qua lại giữa các xí
nghiệp nông nghiệp với các xí nghiệp công nghiệp chế biến nông sản.
- Hạt nhân của TTHSX-LTNN là các xí nghiệp nông- công nghiệp và chúng
thường được phân bố gần nhau về mặt lãnh thổ nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao
nhất.
TTHSX-LTNN không phải được hình thành một cách tự phát. Điều kiện bắt
buộc đối với mọi TTHSX-LTNN là sự có mặt của các xí nghiệp có liên quan chặt
chẽ với nhau, quy định lẫn nhau và là cơ sở cho chuyên môn hoá của thể tổng hợp.
Loại hình phổ biến nhất của TTHSX-LTNN là các TTHSX-LTNN ngoại
thành. Đặc trưng cho các thể tổng hợp này là ở chỗ sản phẩm hàng hóa chủ yếu
của chúng do nhu cầu thực phẩm của dân cư thành phố chi phối. Các TTHSX-
LTNN ngoại thành hình thành chủ yếu ở xung quanh các thành phố, trung tâm
công nghiệp lớn. Ở đây, yếu tố nhu cầu đóng vai trò chủ yếu, còn các yếu tố tự
nhiên tuy được tính đến nhưng thường giữ vai trò thứ yếu. Quy mô của các thể
tổng hợp có thể rất khác nhau tuỳ thuộc vào quy mô số dân của thành phố.
24

Thể tổng hợp ngoại thành gồm các xí nghiệp nông nghiệp chuyên trồng rau
xanh, cây thực phẩm; chăn nuôi gia súc, gia cầm lấy thịt, trứng, sữa và các xí
nghiệp chế biến các sản phẩm này nhằm cung cấp cho nhu cầu ăn uống hàng ngày
của dân cư thành phố.
1.3.3.3 Vùng nông nghiệp

Vùng nông nghiệp là hình thức cao nhất của TCLTNN, bao gồm trong đó các
hình thức tổ chức lãnh thổ ở cấp thấp hơn.
Thực chất, đây là những lãnh thổ sản xuất nông nghiệp tương đối đồng nhất về
các điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, được hình thành với mục đích phân bố hợp
lí và chuyên môn hoá đúng đắn sản xuất nông nghiệp trên cơ sở sử dụng đầy đủ và
có hiệu quả nhất các điều kiện sản xuất của các vùng trong cả nước cũng như
trong nội bộ từng vùng.
Việc phân chia các vùng nông nghiệp có ý nghĩa to lớn nhằm phân bố hợp lí
cây trồng, vật nuôi sao cho phù hợp với các điều kiện sinh thái nông nghiệp, điều
kiện kinh tế- xã hội và hình thành các vùng chuyên môn hoá nông nghiệp sản xuất
hàng hoá.
Vùng nông nghiệp là một bộ phận lãnh thổ của đất nước bao gồm những lãnh
thổ có sự tương đồng về:
- Điều kiện sinh thái nông nghiệp (điều kiện khí hậu, đất đai, nguồn nước ).
- Điều kiện kinh tế- xã hội (số lượng, chất lượng và sự phân bố dân cư, lao
động nông nghiệp, kinh nghiệm và truyền thống sản xuất).
- Trình độ thâm canh, cơ sở vật chất kĩ thuật nông nghiệp, chế độ canh tác.
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp, các sản phẩm chuyên môn hoá.
Ở Việt Nam hiện nay có 7 vùng sinh thái nông nghiệp làTrung du và miền núi
Bắc Bộ, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
1.3.3.4 Nông nghiệp đô thị.
Khái quát về nông nghiệp đô thị:
Vận dụng quan niệm về nông nghiệp đô thị của FAO (1996), UNDP
(1999), RUAF foundation (1999), Luc J.A Mougeot (2002) vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam, chúng ta có thể hiểu: nông nghiệp đô thị là một
ngành sản xuất ở trung tâm, ngoại ô và vùng lân cận đô thị, có chức năng
25

trồng trọt, chăn nuôi, chế biến và phân phối các loại thực phẩm, lương thực và

các sản phẩm khác, sử dụng các nguồn lực tự nhiên và nhân văn, các sản phẩm
cùng các dịch vụ ở đô thị và vùng lân cận đô thị để cung cấp trở lại cho đô thị các
sản phẩm và dịch vụ cao cấp. Nông nghiệp đô thị bao gồm nông nghiệp nội thị và
nông nghiệp ngoại thị với các hoạt động chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi, lâm
nghiệp và thủy sản.

Từ cuối thế kỷ XX, nông nghiệp đô thị đã trở thành xu thế trong quá trình
phát triển đô thị ở các quốc gia. Theo báo cáo hàng năm của Tổ chức Nông lương
Liên hiệp quốc (FAO), năm 2008 thì gần 1/3 lượng rau, quả, thịt, trứng cung ứng
cho đô thị trên thế giới là từ NNĐT, 25 - 75% số gia đình ở thành phố phát triển
theo mô hình NNĐT. Rất nhiều đô thị nổi tiếng trên thế giới phát triển mạnh về
NNĐT. Ở Matxcơva (Nga) 65% gia đình có mô hình VAC đô thị, ở Dactxalam là
68%, Maputo 37% Tại Béclin (Đức), có 8 vạn mảnh vườn trồng rau ở đô thị;
hàng vạn cư dân ở New York (Mỹ) có vườn trồng rau trên sân thượng. Tại nhiều
thành phố lớn của Trung Quốc như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu NNĐT,
ven đô cung cấp tới 85% nhu cầu về rau xanh, 50% về thịt, trứng của người dân.
Theo Tổ chức Làm vườn quốc gia Mỹ, năm 2007, người dân nước này chi khoảng
1,4 tỷ USD cho việc trồng cây rau, quả tại nhà, tăng 25% so với năm 2006.[27]
Nông nghiệp đô thị đang được định hình và có những đóng góp quan
trọng cho phát triển đô thị ở Việt Nam:
Trong thực tế, những mầm mống của nông nghiệp đô thị ở Việt Nam đã xuất
hiện xung quanh các thành cổ ngay từ thời phong kiến. Trong thời kỳ
Pháp thuộc, nông nghiệp đô thị cũng được chú ý phát triển và có những nét mang
dáng dấp của nông nghiệp đô thị hiện đại. Trong thế kỷ XX, quá trình đô thị hoá ở
cả hai miền Nam- Bắc được mở rộng, nhiều đô thị mới xuất hiện và chính chúng
là động lực để nông nghiệp đô thị, nhất là bộ phận nông nghiệp ngoại thị, phát
triển nhanh nhằm cung cấp lương thực, thực phẩm tươi sống cho đô thị. Bước
sang thế kỷ XXI, điểm đang chú nhất là chính quyền ở TP Hồ Chí Minh, Thủ đô
Hà Nội, TP Đà Nẵng, TP Hải Phòng,
TP Cần Thơ, TP Tam Kỳ, TP Long An đã xây dựng chiến lược hoặc quy

hoạch tổng thể và có những chương trình, chính sách phát triển nông nghiệp đô
thị. Như vậy, càng ngày nông nghiệp đô thị càng trở nên quan trọng và có những

×