Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và khả năng ô nhiễm một số kim loại nặng trong vùng trồng rau ven đô Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.55 MB, 159 trang )


M Ụ C LỤ C

Mở đầu 1
Chương 1. Tổng quan 5
1.1. Khái niệm và độc tính của các kim loại nặng 5
1.2. Kim loại nặng trong môi trường 9
1.2.1. Kim loại nặng trong nước 9
1.2.2. Kim loại nặng trong đất và trầm tích 16
1.2.3. Kim loại nặng trong cây trồng và trong thực phẩm 24
1.2.4. Ảnh hưởng của pH môi trường và các điều kiện oxi hóa khử đến
hàm lượng các kim loại nặng 28
1.2.5. Một số phương pháp phân tích xác định hàm lượng kim loại nặng 31
1.3. Tài nguyên môi trường đất, nước và tình hình sản xuất rau xanh
ở Hà Nội 34
1.3.1. Tài nguyên và môi trường nước mặt 34
1.3.2. Tài nguyên và môi trường đất 36
1.3.3. Tình hình sản xuất rau xanh ở Hà Nội 41
1.3.4. Nghiên cứu ô nhiễm môi trường vùng trồng rau ngoại thành Hà Nội 44
Chương 2. Địa điểm, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 48
2.1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu 48
2.1.1. Nước tưới và đất trồng rau 48
2.1.2. Một số sản phẩm rau xanh 51
2.2. Phương pháp nghiên cứu 54
2.2.1. Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn 54
2.2.2. Phương pháp điều tra, khảo sát và thu thập mẫu ngoài thực địa 55
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 63
2.2.3.1. Hóa chất và thiết bị 63
2.2.3.2. Phương pháp xử lí và phân tích mẫu 64
2.2.4. Phương pháp xử lí số liệu 65
2.2.4.1. Một số đại lượng thống kê 65


2.2.4.2. Phân tích thống kê đa biến 67
Chương 3. Kết quả và thảo luận 69
3.1. Đánh giá hiện trạng ô nhiễm kim loại nặng tại các vùng trồng rau 69
3.1.1. Hàm lượng kim loại nặng trong nước tưới cây tại khu vực nghiên cứu 69
3.1.2. Hàm lượng kim loại nặng trong đất và trầm tích 75
3.1.3. Hàm lượng kim loại nặng trong rau 81
3.2. Đánh giá khả năng gây ô nhiễm các kim loại nặng 87
3.2.1. Môi trường nước 87
3.2.1.1. Đánh giá theo khu vực nghiên cứu 87
3.2.1.2. Sự phân bố trong các pha của môi trường nước 91
3.2.1.3. Đánh giá nguồn gốc các kim loại nặng 93
3.2.1.4. Nhận xét chung 94
3.2.2. Môi trường đất và trầm tích 95
3.2.2.1. Đánh giá theo khu vực nghiên cứu 95
3.2.2.2. Khả năng di chuyển của kim loại nặng trong môi trường đất và
trầm tích 99
3.2.2.3. Đánh giá nguồn gốc các kim loại 101
3.2.2.4. Nhận xét chung 105
3.2.3. Chất lượng cây rau 105
3.2.3.1. Đánh giá theo khu vực nghiên cứu 105
3.2.3.2. Sự phân bố kim loại nặng trong cây rau 109
3.2.3.3. So sánh sự tích lũy kim loại nặng trong các loại rau 110
3.2.3.4. Nhận xét chung 112
3.2.4. Tính toán và dự báo khả năng tích lũy kim loại nặng 112
3.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí môi trường
vùng trồng rau 114
3.3.1. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng môi trường và
chất lượng sản phẩm 114
3.3.2. Đầu tư nghiên cứu các kỹ thuật phân tích hiện đại 115
3.3.3. Sử dụng hợp lí tài nguyên đất và nước 115

3.3.4. Các giải pháp khác 117
Kết luận 119
Công trình công bố liên quan đến luận án 121
Tài liệu tham khảo 122
Phụ lục 132























DANH MỤ C CÁC CHỮ VIẾ T TẮ T


AAS: Absorption Atomic Spectrometry (Quang phổ hấp thụ nguyên
tử)
BVTV: Bảo vệ thực vật
CA: Cluster analysis (Phân tích nhóm)
DTTN: Diện tích tự nhiên
KLN: Kim loại nặng
ICP – MS: Inductively Coupled Plasma - Mass Spectrometry (Phổ khối
plasma cảm ứng)
PCA: Principal component analysis (Phân tích thành phần chính)
QCVN: Quy chuẩn Việt Nam
RAT: Rau an toàn
TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam







DANH MỤ C CÁC BẢ NG

Bảng 1.1. Hàm lượng kim loại nặng trong bùn – nước cống rãnh đô thị
Bảng 1.2. Hàm lượng kim loại nặng trong nước thải của một số nhà máy
Bảng 1.3. Hàm lượng kim loại nặng trong đá và trong đất
Bảng 1.4. Hàm lượng một số kim loại nặng trong nguồn phân bón nông nghiệp
Bảng 1.5. Các nguồn kim loại nặng từ một số hoạt động sản xuất công nghiệp
Bảng 1.6. Cơ cấu diện tích các loại đất của Hà Nội
Bảng 2.1. Danh sách các điểm lấy mẫu
Bảng 2.2a. Danh mục các mẫu nước
Bảng 2.2b. Danh mục các mẫu đất

Bảng 2.2c. Danh mục các mẫu trầm tích
Bảng 2.2d. Danh mục các mẫu rau
Bảng 3.1. Kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng trong nước
Bảng 3.2. Kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng tổng số trong đất
Bảng 3.3. Kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng tổng số trong trầm tích
Bảng 3.4. Hàm lượng các kim loại nặng trong mẫu trầm tích và mẫu đất
Bảng 3.5. Hàm lượng kim loại nặng trong rau muống
Bảng 3.6. Hàm lượng kim loại nặng trong rau dền
Bảng 3.7. Hàm lượng kim loại nặng trong một số loại rau cải
Bảng 3.8. Kết quả khảo sát đối với các mẫu nước theo 04 khu vực nghiên cứu
Bảng 3.9. Hàm lượng 11 kim loại nặng hòa tan và tổng số trong mẫu nước
Bảng 3.10. Bảng ma trận hệ số tương quan Pearson’s
Bảng 3.11. Kết quả khảo sát đối với các mẫu nước theo 04 địa điểm lấy mẫu
Bảng 3.12. Kết quả phân tích hàm lượng kim loại nặng di động và tổng trong mẫu
đất và trầm tích
Bảng 3.13. Trị riêng của ma trận hệ số tương quan
Bảng 3.14. Ma trận trị số (loading) các kim loại nặng trong đất và trầm tích
Bảng 3.15. Hàm lượng kim loại nặng trung bình theo từng khu vực nghiên cứu
Bảng 3.16. Kết quả hàm lượng kim loại nặng phân bố trong cây rau
Bảng 3.17. So sánh hàm lượng kim loại nặng trong rau muống nước và rau dền
Bảng 3.18. Dự báo khả năng tích lũy kim loại nặng trong đất nông nghiệp













DANH MỤ C CÁC HÌNH

Hình 1.1. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học
Hình 1.2. Ứng dụng phương pháp phân tích ICP-MS trong các lĩnh vực
Hình 2.1a. Sơ đồ các điểm lấy mẫu tại huyện Đông Anh
Hình 2.1b. Sơ đồ các điểm lấy mẫu tại huyện Từ Liêm
Hình 2.1a. Sơ đồ các điểm lấy mẫu tại quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì
Hình 3.1a. Biểu đồ giá trị pH trong mẫu nước
Hình 3.1b. Biểu đồ giá trị DO trong mẫu nước
Hình 3.1c. Biểu đồ hàm lượng Cr trong mẫu nước
Hình 3.1d. Biểu đồ hàm lượng Fe trong mẫu nước
Hình 3.1e. Biểu đồ hàm lượng As trong mẫu nước
Hình 3.1f. Biểu đồ hàm lượng Cd trong mẫu nước
Hình 3.1g. Biểu đồ hàm lượng Pb trong mẫu nước
Hình 3.2a. Biểu đồ hàm lượng Cu trong đất và trầm tích
Hình 3.2b. Biểu đồ hàm lượng Zn trong đất và trầm tích
Hình 3.2c. Biểu đồ hàm lượng As trong đất và trầm tích
Hình 3.2d. Biểu đồ hàm lượng Cd trong đất và trầm tích
Hình 3.2e. Biểu đồ hàm lượng Pb trong đất và trầm tích
Hình 3.3a. Biểu đồ hàm lượng Cu trong rau
Hình 3.3b. Biểu đồ hàm lượng Zn trong rau
Hình 3.3c. Biểu đồ hàm lượng As trong rau
Hình 3.3d. Biểu đồ hàm lượng Cd trong rau
Hình 3.3e. Biểu đồ hàm lượng Hg trong rau
Hình 3.3f. Biểu đồ hàm lượng Pb trong rau
Hình 3.4. Giá trị trung bình của các mẫu nước theo khu vực nghiên cứu
Hình 3.5. Phân tích nhóm phân loại địa điểm lấy mẫu

Hình 3.6. Giá trị trung bình của các mẫu đất và trầm tích theo khu vực nghiên cứu
Hình 3.7. Trọng số các nguyên tố ảnh hưởng đến PC1 và PC2
Hình 3.8. Phân tích nhóm phân loại hàm lượng các kim loại
Hình 3.9. Giá trị trung bình của các mẫu rau theo khu vực nghiên cứu












M Ở ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, Thủ đô Hà Nội không ngừng phát triển với
những bước tiến vượt bậc. Bên cạnh những hiệu quả của phát triển kinh tế xã hội do
hoạt động đô thị hoá - công nghiệp hoá đưa đến còn tồn tại những hậu quả xấu do ô
nhiễm môi trường gây ra đối với môi trường và sức khoẻ con người. Chất lượng
môi trường đang có xu hướng ngày càng bị suy thoái đã và đang trở thành mối lo
ngại lớn đối với xã hội. Nhiều nguyên nhân gây ra các tác động xấu, trong đó ô
nhiễm môi trường do chất thải sản xuất công nghiệp có chứa kim loại nặng với độc
tính cao gây ra như: Hg, Cd, Zn, Pb, As, là vấn đề đang được sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học. Khả năng bền vững, khả năng tồn lưu cũng như khuếch đại kim
loại nặng trong môi trường và hệ sinh thái chính là nguy cơ tiềm ẩn để gây ra các
tác động xấu đối với sức khoẻ con người và chất lượng môi trường xung quanh

[25].
Nước tưới và đất tại nhiều vùng ven đô Hà Nội bị ô nhiễm là nguyên nhân
gây ra sự tích đọng kim loại nặng trong rau trồng. Một số nghiên cứu đã phát
hiện thấy trong nước tưới và đất nông nghiệp ở Hà Nội có chứa hàm lượng kim
loại nặng cao hơn tiêu chuẩn cho phép [11,27]. Tuy nhiên, những nghiên cứu này
mang tính cục bộ, chưa được thực hiện một cách hệ thống, cần có cơ sở khoa học
cũng như thực tiễn nhằm quản lý hữu hiệu để tạo ra được các sản phẩm thực
phẩm rau xanh an toàn.
Thêm vào đó, việc phân tích, đánh giá mức độ ô nhiễm và ảnh hưởng của các
kim loại nặng tới sức khoẻ con người đang gặp không ít khó khăn do nhiều nguyên
nhân khác nhau trong đó có yếu tố kỹ thuật phân tích và phương pháp đánh giá.
Việc phân tích các kim loại nặng thường chỉ dừng lại ở mức xác định nồng độ tổng
số trong một đối tượng nhất định. Trong khi tính chất và khả năng gây độc của các

1
kim loại nặng không chỉ phụ thuộc vào hàm lượng tổng số mà còn phụ thuộc rất
nhiều vào các trạng thái tồn tại và các dạng hóa học của chúng trong các thành phần
môi trường. Vì vậy, các kết quả về hàm lượng kim loại tổng số vẫn chưa đủ cơ sở
để đánh giá tác hại của chúng trong môi trường. Việc định lượng các dạng tồn tại
của các kim loại nặng và đưa ra các phương pháp đánh giá sẽ là những cơ sở khoa
học để đánh giá ảnh hưởng của kim loại nặng đối với môi trường nói chung và sức
khoẻ con người nói riêng. Đây chính là cơ sở để xác định các giải pháp giảm thiểu ô
nhiễm môi trường một cách phù hợp và có hiệu quả.
Nhằm góp phần khắc phục những khó khăn trên, luận án: "Nghiên cứu đánh
giá hiện trạng và khả năng ô nhiễm một số kim loại nặng trong vùng trồng rau
ven đô Hà Nội " được lựa chọn để thực hiện.
Mục tiêu
Luận án tập trung giải quyết hai mục tiêu chính sau:
+ Đánh giá hiện trạng ô nhiễm kim loại nặng trong môi trường một số vùng
trồng rau ở Hà Nội.

+ Nghiên cứu đánh giá khả năng ô nhiễm một số kim loại nặng thông qua sự
phân bố, tích lũy các kim loại nặng trong đất, nước tưới và trong rau.
Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Tổng quan điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của khu vực nghiên cứu
để xác định những yếu tố liên quan đến ảnh hưởng của kim loại nặng tới cây rau.
+ Thu thập, tổng hợp, phân tích và đánh giá tài liệu về tình hình nghiên cứu
kim loại nặng ở Việt Nam và trên thế giới cũng như những ảnh hưởng của chúng
đến chất lượng môi trường và sức khoẻ con người.
+ Tìm hiểu phương pháp tách và xác định hàm lượng của các kim loại nặng
trong một số đối tượng môi trường.

2
+ Phân tích xác định kim loại nặng trong nước tưới (hàm lượng hoà tan -
tổng cặn); đất trồng rau (hàm lượng di động - tổng số) và trong một số loại rau xanh
(phần thân lá – gốc rễ).
+ So sánh, đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong nước, đất và rau ở
các khu vực nghiên cứu.
+ Xác định sự phân bố kim loại nặng trong đất, nước, rau và đánh giá khả
năng gây ô nhiễm của các kim loại nặng ở một số vùng trồng rau từ đó đề xuất giải
pháp giảm thiểu ô nhiễm.
Đối tượng nghiên cứu:

+ Nước tưới từ các nguồn khác nhau (trong đó có nước thải đô thị và công
nghiệp).
+ Đất trồng rau tại 4 khu vực nghiên cứu (Đông Anh, Từ Liêm, Hoàng Mai,
Thanh Trì).
+ Rau trồng được tưới từ các nguồn nước có ảnh hưởng của nước thải đô thị
và khu công nghiệp.
+
Các kim loại nặng (Cd, Pb, Hg, As…).

Những đóng góp mới của đề tài
- Phân tích, đánh giá một cách có hệ thống hàm lượng kim loại nặng trong
nước, bùn, đất và một số loại rau ở 4 vùng trồng rau của Hà Nội: Vân Nội –
Đông Anh, Minh Khai – Từ Liêm, Hoàng Liệt – Hoàng Mai và Vĩnh Quỳnh
– Thanh Trì.
- Xác định quy luật phân bố kim loại nặng trong nước, đất, trầm tích theo vị trí
địa lí.
- Tính toán khả năng tích lũy kim loại nặng trong đất trên cơ sở nguồn tiếp
nhận và mang đi do sử dụng nước tưới trong quá trình canh tác rau.
+ Ý nghĩa khoa học:

3
- Nghiên cứu sự phân bố kim loại nặng trong nước tưới, đất, trầm tích và
trong rau.
- Tìm hiểu sự di chuyển kim loại nặng theo dòng chảy đối với nước tưới và
khả năng lan truyền ô nhiễm trong môi trường đất và trầm tích.
+ Ý nghĩa thực tiễn:
- Đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại nặng thực tế (do các dạng tồn tại của
chúng).
- Dự báo khả năng ô nhiễm kim loại nặng trong đất nông nghiệp.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở nhằm xác định các giải pháp giảm
thiểu ô nhiễm kim loại nặng phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường.
















4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1. Khái niệm và độc tính của các kim loại nặng
Theo từ điển Hóa học, kim loại nặng (KLN) là những kim loại có khối lượng
riêng lớn hơn 5g/cm
3
. Trong tự nhiên có hơn 70 nguyên tố KLN.
H He
Li Be B C N O F Ne
Na Mg Al Si P S Cl Ar
K Ca Sc Ti V Cr Mn Fe Co Ni Cu Zn Ga Ge As Se Br Kr
Rb Sr Y Zr Nb Mo Tc Ru Rh Pd Ag Cd In Sn Sb Te I Xe
Cs Ba La * H
f
Ta W Re Os Ir Pt Au Hg Tl Pb Bi Po At Rn
Fr Ra Ac ** Rf Db Sg Bh Hs Mt Ds Rg


*
Ce Pr Nd Pm Sm Eu Gd Tb Dy Ho Er Tm Yb Lu
** Th Pa U Np Pu Am Cm Bk Cf Es Fm Md No Lr

Kim loại nhẹ < 5 g/cm³ Kim loại nặng < 10 g/cm³ Kim loại nặng > 10 g/cm³
Hình 1.1. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học
Theo quan điểm độc tố học thì những KLN có nguy cơ gây nên các vấn đề
môi trường gồm: Cu, Pb, Zn, Cd, Hg, Cr, As, Tuy nhiên, có một số kim loại là
cần thiết đối với sinh vật, đó là các nguyên tố vi lượng: Fe, Zn, Cu, Mn, Mo, B,
chúng thường là thành phần thiết yếu của các enzyme, protein hô hấp và trong các
cấu trúc của cơ thể sinh vật. Hàm lượng quá cao (thừa) hay quá thấp (thiếu) của các
nguyên tố cần thiết này đều là điều bất lợi đối với cơ thể sinh vật. Về phần các KLN
khác thì chúng không cần thiết cho sinh vật và có thể gây độc ở một liều lượng nhất
định [4].

5
KLN phân bố rộng rãi trên lớp vỏ trái đất. Chúng được phong hóa từ các dạng
đất đá tự nhiên, tồn tại trong môi trường dưới dạng bụi hay hòa tan trong sông hồ,
nước biển, sa lắng trong trầm tích [51].
Trong vòng hai thế kỉ qua, các hoạt động sản xuất của con người đã đưa vào
môi trường tự nhiên một lượng lớn các KLN. Các quá trình sản xuất như khai thác
mỏ, giao thông vận tải, sản xuất, tinh chế đều thải KLN vào môi trường, chủ yếu
dưới dạng bụi, khói hay nước thải. Chì được cho vào xăng để tăng hiệu suất của
động cơ, kim loại có độc tính cao này sẽ đi cùng khí thải vào môi trường. [36] Các
KLN còn là một thành phần trong thuốc bảo vệ thực vật được con người sử dụng
trong nông nghiệp. Lượng dư thuốc bảo vệ thực vật sẽ đưa các KLN vào các nguồn
nước, đất gây ô nhiễm môi trường [59].
Một số KLN rất cần thiết cho cơ thể sống và con người. Chúng là các nguyên
tố vi lượng không thể thiếu, sự mất cân bằng các nguyên tố vi lượng này có ảnh
hưởng trực tiếp tới sức khỏe của con người. Sắt giúp ngăn ngừa bệnh thiếu máu,
kẽm là tác nhân quan trọng trong hơn 100 phản ứng enzyme. Trên nhãn của các lọ
thuốc vitamin, thuốc bổ xung khoáng chất thường có Cr, Cu, Fe, Mn, Mg, K, Zn,
chúng có hàm lượng thấp và được biết đến như lượng vết. Lượng nhỏ các kim loại
này có trong khẩu phần ăn của con người vì chúng là thành phần quan trọng trong

các phân tử sinh học như hemoglobin, các hợp chất sinh hóa cần thiết khác. Nhưng
nếu cơ thể hấp thu một lượng lớn các kim loại này, chúng có thể gây rối loạn quá
trình sinh lý, trở nên độc hại cho cơ thể [76].
KLN có độc tính là các kim loại có tỷ trọng lớn gấp 5 lần tỷ trọng của nước.
Chúng là các kim loại bền (không tham gia vào các quá trình sinh hoá trong cơ thể)
và có tính tích tụ sinh học (chuyển tiếp trong chuỗi thức ăn và đi vào cơ thể con
người). Chúng bao gồm Hg, As, Pb, Cd, Mn, Cu, Cr…Các KLN khi xâm nhập vào
cơ thể sinh vật sẽ gây độc tính cao [48].
KLN xâm nhập vào cơ thể người qua đường hô hấp, thức ăn hay hấp thụ qua
da được tích tụ trong các mô và theo thời gian sẽ đạt tới hàm lượng gây độc. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng KLN gây độc cho các cơ quan trong cơ thể như máu, gan,

6
thận, cơ quan sản xuất hoocmôn, cơ quan sinh sản, hệ thần kinh gây rối loạn chức
năng sinh hóa trong cơ thể do đó làm tăng khả năng bị dị ứng, gây biến đổi gen.
Độc tính của KLN chủ yếu do chúng có khả năng sản sinh ra các gốc tự do, là các
phân tử mất cân bằng năng lượng, chứa những điện tử không cặp đôi. Chúng chiếm
điện tử của các phân tử khác để lập lại sự cân bằng của chúng. Các gốc tự do tự
nhiên tồn tại trong cơ thể sinh ra do các phân tử của tế bào phản ứng với oxy (bị oxy
hóa), nhưng khi có mặt các KLN – tác nhân cản trở quá trình oxy hóa sẽ sinh ra các
gốc tự do vô tổ chức, không kiểm soát được. Các gốc tự do này phá hủy các mô
trong cơ thể gây nhiều bệnh tật [65].
Đến nay, độc tính của nhiều KLN đối với môi trường và con người được biết
khá chi tiết. Các tác động và cơ chế gây độc của nhiều KLN đối với cơ thể người và
động vật cũng đã được tìm ra. Tuy nhiên, nhân loại đã phải trả giá khá đắt để có
được nhận thức này. Bệnh Minamata ở Nhật Bản, câu chuyện về loài chim Scopa ở
Thụy Điển, vụ ô nhiễm Cadimi ở Cộng hoà Liên Bang Đức những năm 70 của thế
kỷ trước là những bài học đắt giá cho sự thiếu hiểu biết đối với việc sử dụng và
quản lý các hợp chất chứa các KLN độc hại [50,54]. Hiện tượng nhiễm độc KLN
gây bệnh tật và chết người do sử dụng nguồn nước và thực phẩm nhiễm KLN ở

nồng độ cao đã xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới như các vùng Hinamata và Jintsu
Nhật Bản. Theo số liệu của liên hợp quốc, do hoạt động nhân sinh, các sông đổ ra
biển thêm 320 triệu tấn Fe; 2,3 triệu tấn Pb; 1,6 triệu tấn Mn [76].
Sau đây là độc tính chính của một số KLN:
- Mangan (Mn) là kim loại có trong tự nhiên, mọi người đều có thể bị nhiễm
hàm lượng nhỏ Mn có trong không khí, thức ăn, nước uống. Mn là kim loại vết cần
thiết cho sức khỏe người. Mn có thể tìm thấy trong một số loại thức ăn, ngũ cốc,
trong một số loài thực vật như cây chè. Người bị nhiễm Mn trong một thời gian dài
thường mắc các bệnh thần kinh, rối loạn vận động, nhiễm độc mức độ cao kim loại
này gây các bệnh về hô hấp và suy giảm chức năng tình dục [74].
- Đồng (Cu) được dùng nhiều trong sơn chống thấm nước trên tàu thuyền, các
thiết bị điện tử, ống nước. Nước thải sinh hoạt cũng là nguồn chính đưa đồng vào

7
nước tự nhiên. Đồng tồn tại ở hai dạng là: dạng hòa tan và các hạt nhỏ. Đồng cần
thiết cho chức năng hô hấp của nhiều sinh vật sống và các chức năng enzym khác.
Đồng được lưu giữ trong gan, tủy sống của người. Nhiễm độc đồng với hàm lượng
quá cao sẽ gây hư hại gan, thận, hạ huyết áp, hôn mê, đau dạ dày, thậm chí tử vong
[44, 58].
- Kẽm (Zn) là nguyên tố cần thiết cho tất cả các cơ thể sống, với con người
hàng ngày cần 9mg Zn cho các chức năng thông thường của cơ thể. Nếu thiếu Zn sẽ
dẫn đến suy giảm khứu giác, vị giác và suy giảm chức năng miễn dịch của cơ thể.
Nguồn ô nhiễm chính là công nghiệp luyện kim, công nghiệp pin, các nhà máy rác,
các sản phẩm chống ăn mòn, sơn, nhựa, cao su. Cơ thể con người có thể tích tụ Zn
và nếu tích tụ Zn với hàm lượng quá cao chỉ trong thời gian ngắn sẽ gây nôn mửa,
bệnh đau dạ dày. Nước chứa hàm lượng Zn cao rất độc đối sinh vật [83].
- Asen (As) được sử dụng trong các dây chuyền sản xuất hóa phẩm, nhà máy
nhiệt điện dùng than, chất làm rụng lá, thuốc sát trùng, một số loại thủy tinh, chất
bảo quản gỗ [62]. Sự tích tụ cũng như tác động của As đến cơ thể sống phụ thuộc
vào dạng tồn tại của nó. Trong khi các hợp chất As vô cơ rất độc cho hầu hết các cơ

thể sống thì các hợp chất hữu cơ của nó chỉ gây độc nhẹ. Asen có thể gây nôn mửa,
phá hủy các phân tử AND và gây ung thư [39]. FAO/ WHO đã đưa ra giới hạn chấp
nhận được của hàm lượng As vô cơ hấp thu hàng tuần là 15µg/kg trọng lượng cơ
thể. Độ độc của As phụ thuộc rất nhiều vào trạng thái oxi hoá và dạng tồn tại vô cơ
hay hữu cơ của nó. Các nghiên cứu cho thấy As (III) độc hơn As (V) nhiều lần và
As vô cơ độc hơn As hữu cơ. Sự chuyển hóa As trong cơ thể vô cùng phức tạp, nó
bao gồm các quá trình: hấp thụ, phân bố, chuyển hoá, tích luỹ và đào thải các hợp
chất của As [68]. Các quá trình này đã được nghiên cứu và thử nghiệm trên chuột
và một số loài động vật khác để đưa ra cơ chế biến đổi và đào thải chất độc ra môi
trường. Dạng xâm nhập chính của Asen vào cơ thể là As vô cơ mà trong đó As (III)
dễ dàng hấp thụ vào con người qua đường ăn uống và trao đổi chất vì dễ hoà tan
vào nước hơn so với As (V). Trong cơ thể xảy ra quá trình metyl hoá chậm Asen do
đó sản phẩm của sự bài tiết chủ yếu là: axit monometylarsonic (MMA) và

8
dimetylarsinic (DMA). Asenic vô cơ được xếp vào loại chất gây ung thư cho người
như ung thư da, ung thư phổi [52]. Các biểu hiện đầu tiên của việc nhiễm độc As
là chứng sạm da, dày biểu bì từ đó dẫn đến hoại tử hoặc gây ung thư da. Hiện nay
chưa có phương pháp hữu hiệu để điều trị nhiễm độc As [64, 73].
- Nguồn ô nhiễm Cadimi (Cd) xuất phát từ ô nhiễm không khí, khai thác mỏ,
pin Ni - Cd, nhà máy luyện kim, thủy tinh, hải sản [61]. Nguồn chính thải Cd vào
nước là các điện cực dùng trên tàu thuyền và nước thải. Cd tồn tại chủ yếu dưới
dạng hòa tan trong nước. Nhiễm độc cấp tính Cd có các triệu chứng giống như cúm,
sốt, đau đầu, đau khắp mình mẩy. Nhiễm độc mãn tính Cd gây ung thư (phổi, tuyến
tiền liệt) [80].
- Thủy ngân (Hg) là chất độc tích lũy sinh học rất dễ dàng hấp thụ qua da,
các cơ quan hô hấp và tiêu hóa. Các hợp chất vô cơ ít độc hơn so với hợp chất hữu
cơ của thủy ngân. Cho dù ít độc hơn so với các hợp chất của nó nhưng thủy ngân
vẫn tạo ra sự ô nhiễm đáng kể đối với môi trường vì nó tạo ra các hợp chất hữu cơ
trong các cơ thể sinh vật. Thủy ngân đi vào môi trường như một chất gây ô nhiễm

từ các ngành công nghiệp khác nhau như: Sản xuất clo, luyện kim, thiết bị điện tử,
công nghiệp mỹ phẩm Thuỷ ngân tạo ra do hoạt động nông nghiệp như sử dụng
phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật có chứa thuỷ ngân hoặc xử lý và
bảo quản hạt giống (dùng hợp chất thuỷ ngân để bảo vệ, làm trơn và chống quá
trình vôi hoá giống, bảo quản hạt giống khỏi bị nấm).
- Chì (Pb) được dùng trong vũ khí đạn dược, gốm sứ, xăng dầu, thủy tinh chì.
Chì cũng được dùng nhiều trong vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí, pin. Pb tác
động đến hệ thần kinh, làm giảm sự phát triển não của trẻ nhỏ, gây rối loạn nhân
cách ở người lớn, giảm chỉ số thông minh IQ. Nó gây áp huyết cao, bệnh tim, gan
và bệnh thận mãn tính. Pb tồn tại trong nước chủ yếu dưới dạng hạt nhỏ [59].
1.2. Kim loại nặng trong môi trường
1.2.1. Kim loại nặng trong nước
Kim loại nặng có mặt trong nguồn nước do nhiều nguyên nhân, trong đó có
hai nguồn chính:

9
- Do sự di chuyển sinh hóa tự nhiên và các cân bằng giữa pha lỏng (nước) và pha
rắn (bùn, đất đá) với bản chất của chúng trong các tầng, các đới và các vùng xác định.
- Do hoạt động của con người làm thay đổi cân bằng vốn có trong tự nhiên
[26].
Về nguồn tự nhiên, các khoáng vật chứa KLN bị hòa tan có thể đi ngay vào
nước ngầm hoặc nước mặt, tùy thuộc vào sự phong hóa xảy ra trong tầng đất ngập
nước hay trên bề mặt trái đất.
Phần lớn các ion kim loại này sẽ bị thủy phân hoặc tái kết hợp với ion
sunfua, photphat, sunfat, hoặc cacbonat để trở về trạng thái ít tan, hoặc bị hấp phụ
lên trên bề mặt các hạt chất rắn và lắng xuống các tầng đáy. Tại đây các quá trình
sinh hóa yếm khí xảy ra sẽ làm một phần KLN tan trở lại nước ngầm. Một phần kim
loại khác ở dạng tan hoặc do tạo được phức tan với các chất hữu cơ nên chúng vẫn
tồn tại trong nước và phát tán theo đường đi của nước. Sự tồn tại KLN trong nước
ngầm liên quan mật thiết với các quá trình xảy ra trong các tầng đất và sự cân bằng

giữa hai pha đất đá và nước.
Với các nguồn nhân tạo, các nguồn chính gây ô nhiễm KLN cho môi trường
nước chủ yếu là:
- Nước, rác thải sinh hoạt.
- Nước thải của ngành công nghiệp: khai khoáng; luyện kim đen, luyện kim
màu; các nhà máy sản xuất phân lân, xi măng, mạ điện, da, dệt, pin và ăc quy,
Đối với nguồn nước thải, trừ một số kim loại có dạng tan tồn tại bền vững
hơn trong môi trường nước tự nhiên, còn hầu hết chúng đều bị thủy phân hay tạo
thành các dạng hợp chất ít tan và lắng xuống đáy ao hồ, cống, rãnh,
Các kim loại xuất hiện trong nước tự nhiên ở nhiều dạng lý hóa khác nhau.
Trong số chúng, các ion kim loại hydrat hóa được coi là độc nhất, trong khi các
phức của chúng và các loại liên kết với các hạt keo thường ít độc. Hầu hết các KLN,
như: Pb, Hg, Cd, As, Cu, Zn, Fe, Cr, Co, Mn, Se, Mo, tồn tại trong nước thải ở
dạng ion.

10
Nồng độ của các KLN tồn tại trong nước ban đầu rất thấp, rồi sau đó được
tích tụ nhanh trong các động vật và thực vật sống trong nước. Tiếp đến là các động
vật khác sử dụng các thực vật và động vật này làm thức ăn, dẫn đến nồng độ các
KLN được tích luỹ trong cơ thể sinh vật trở nên cao hơn. Cuối cùng ở sinh vật cao
nhất trong chuỗi thức ăn, nồng độ kim loại sẽ đủ lớn để gây ra độc hại. Con người,
xét theo quan điểm sinh thái, có vị trí cuối cùng trong chuỗi thức ăn, vì thế con
người là đối tượng gây ra và cũng đồng thời chịu tác động của ô nhiễm kim loại
nặng [66].
Asen có thể thâm nhập vào nước tới mức nguy hiểm cho sức khoẻ con người
qua nhiều đường khác nhau như: sự hoà tan tự nhiên của khoáng chất và quặng, đặc
biệt ở các vùng châu thổ có nhiều mỏ than; sự sử dụng thuốc trừ sâu, côn trùng và
diệt cỏ dại; sự đổ các chất thải công nghiệp nhất là trong quá trình làm thuỷ tinh, đồ
gốm, thuộc da, sản xuất thuốc nhuộm và chất màu để pha sơn, những chất bảo quản
gỗ, việc chiết xuất và tinh lọc kim loại, sản xuất các chất hợp kim và từ sự lắng

đọng không khí do đốt những nhiên liệu hoá
thạch như than đá [77].
Đồng được đưa vào trong nước từ các cơ sở mạ kim loại, nước thải của các
khu công nghiệp mỏ, khử kiềm.
Chì được sử dụng để sản xuất ắc quy, hàn, Các hợp chất hữu cơ chì được
sử dụng rộng rãi làm chất chống kích nổ và chất làm trơn trong xăng. Phần lớn
lượng chì có trong nước uống là do ống dẫn nước là hợp kim chì, các vật dụng hàn
bằng chì trong ngành xây dựng. Ngoài ra, chì xâm nhập vào môi trường qua các
hoạt động sản xuất khai khoáng, đốt nhiên liệu hoá thạch, sản xuất và tái chế chì,
sản xuất các hợp kim chì, đốt cháy các loại rác thải, sản xuất phân bón hóa học, sản
xuất ximăng, đốt gỗ, các hoạt động giao thông vận tải, công nghiệp sản xuất sơn
Các dạng tồn tại của chì có thể là PbClBr, PbSO
4
, PbS, PbCO
3
(trong công nghiệp
khai khoáng); PbCO
3
, Pb(OH)
2
, và PbCrO
4
(trong công nghiệp sơn) [84].
Thuỷ ngân hữu cơ được sử dụng khá phổ biến trong công nghiệp và nông
nghiệp. Trong công nghiệp, thuỷ ngân được dùng để xử lý quặng vàng và bạc, chế
tạo máy móc đo đạc trong phòng thí nghiệm, chế tạo các đèn thuỷ ngân cao áp, xúc

11
tác trong quá trình sản xuất cloric, các chất kiềm và một số hoá chất khác, Ngoài
ra, trong nông nghiệp, các hợp chất thuỷ ngân hữu cơ cũng được sử dụng làm thuốc

diệt nấm [86].
Ô nhiễm nước do hoạt động giao thông thuỷ cũng là một nguyên nhân quan
trọng. Khói xả của các động cơ giao thông thuỷ không chỉ chứa hàm lượng chì cao
mà còn chứa nhiều chất độc hại khác làm ô nhiễm không khí trên đường thủy kéo
theo ô nhiễm nước, vì thế mà hiện nay ở nhiều nước trên Thế giới người ta khuyến
khích sử dụng nguồn nguyên liệu khác thay cho xăng trong các động cơ.
Các tác giả Hakan, Duran Karakas, Mithat Bakoglu (2004) đã ứng dụng
phương pháp phân tích đa biến để đánh giá nguồn gốc các kim loại lượng vết trong
mẫu nước bề mặt. Khi phân tích hàm lượng của 11 kim loại trong các mẫu nước bề
mặt, các tác giả đã đánh giá được mức độ ô nhiễm của các kim loại đồng thời xác
định được nguồn gây ô nhiễm nước là 4 nguồn chính: sơn công nghiệp, nước thải,
phương tiện giao thông, và thành phần sẵn có trong vỏ quả đất. Đồng thời bằng
phân tích nhân tố (FA) các tác giả cũng đã đánh giá được tỉ lệ các nguồn gây ô
nhiễm [57].
David G. Kinniburgh (Anh) cùng với các thành viên của UNICEF, các nhà
khoa học Việt Nam đã điều tra tình trạng nhiễm độc As ở nước ta và kết luận As có
trong tất cả đất, đá, các trầm tích được hình thành từ hàng nghìn năm trước với nồng
độ khác nhau. Trong những điều kiện nhất định, nó có thể tan vào trong nước,
thường xảy ra ở các châu thổ rộng lớn, ở chỗ trũng trong nội địa, gần các mỏ [1,2].
Việt Nam là một nước đang phát triển, đang trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đã khuyến khích các thành phần kinh tế, các ngành nghề truyền thống
mở rộng phát triển. Trong đó quan tâm đến một số ngành nghề thủ công ở các vùng
nông thôn như tái chế và tái sử dụng lại các phế liệu như đồng, chì Chính các hoạt
động này đã gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là môi trường nước bị ô nhiễm KLN.
Đã có một số nghiên cứu cảnh báo về tình trạng ô nhiễm KLN trong nước thải. Trần
Kông Tấu có kết quả nghiên cứu đánh giá môi trường nước của huyện Đông Anh đã

12
cảnh báo ô nhiễm KLN trong nước thải do không qua xử lí mà cho chảy thẳng vào
hệ thống kênh mương thủy lợi và chảy vào khu ruộng xung quanh [23].

Bảng 1.1. Hàm lượng một số kim loại nặng trong bùn – nước cống rãnh đô thị
đơn vị: mg/kg chất khô
STT Nguyên tố Khoảng dao động Trung bình
1 As 1,1 – 230 10
2 Cd 1 – 3.410 10
3 Co 11,3 – 2.490 30
4 Cu 84 – 17.000 800
5 Cr 10 – 99.000 500
6 F 80 – 33.500 260
7 Fe 1.000 – 154.000 17.000
8 Hg 0,6 – 56 6
9 Mn 32 – 9.870 260
10 Mo 0,1 – 214 4
11 Ni 2 – 5.300 80
12 Pb 13 – 26.000 500
13 Sn 2,6 – 329 14
14 Se 1,7 – 17,2 5
15 Zn 101 – 49.000 1.700
Nguồn: Trích theo Ellis S. (1995) [46]

Ở nước ta, các biện pháp quản lý môi trường chưa tốt, thiếu đồng bộ là
nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường, trong đó có ô nhiễm KLN. Tại Hà
Nội, các cơ sở sản xuất cơ khí, dệt nhuộm do đặc điểm loại hình sản xuất phải sử
dụng kim loại và nhiều hóa chất nên nước thải chứa nhiều hóa chất độc hại, trong
đó có KLN. Chẳng hạn, trong nước thải nhà máy luyện kim Hà Nội hàm lượng Cr
6+

từ 18,6 - 51mg/l, vượt 2 - 51 lần so TCVN 5945 - 2005 (B). Trong nước thải Xí
nghiệp dịch vụ tổng hợp giao thông vận tải, hàm lượng Pb là 8,08mg/l, vượt tiêu
chuẩn 16 lần [26].


13
Đặc tính nước thải mạ có chứa nhiều các chất độc hại như hàm lượng KLN
cao, có nhiều chất hữu cơ, có pH thấp. Nước thải của công nghiệp mạ được chia
làm 2 loại: dung dịch mạ và nước rửa khác nhau về chất lượng và đặc tính. Dung
dịch từ bể mạ có nhiệt độ cao và ít khi thải ra ngoài. Trong khi đó, nước rửa loãng
hơn có lưu lượng lớn kéo theo tải lượng chất ô nhiễm cao. Các nguồn nước thải sinh
ra trong quá trình sản xuất theo dây chuyền công nghệ trên thường từ các công đoạn
sau:
Nguồn nước thải do quá trình làm sạch bề mặt:
* Làm sạch dầu mỡ: Dầu mỡ trên kim loại thường từ các giai đoạn bảo
dưỡng, đánh bóng cơ học. Phương pháp phổ biến nhất để loại bỏ dầu mỡ là sử dụng
alkalis hoặc dùng chất tẩy rửa kim loại (natricacbonat, xút, natriphotphat, natri
silicat).
* Tẩy gỉ: Đối với những sản phẩm bằng sắt trước khi đánh bóng cơ học phải
dùng một số loại axit để tẩy gỉ. Các dung dịch axit thường dùng là HCl và H
2
SO
4
.
Dung dịch axit và nước rửa trong công đoạn này tạo ra một lượng lớn nước thải.
Nguồn nước thải từ bể mạ:
Các chi tiết sau khi tẩy rửa làm sạch được đặt vào bể thép (hoặc bể polyme)
trong dung dịch mạ thích hợp. Trong các dung dịch mạ thông thường chứa một số
chất: H
2
SO
4
, HCl, HCO
3

-
. Bể mạ kiềm chứa SO
3
2-
, CO
3
2-
, CN
-
, OH
-
. Ngoài ra còn
có một lượng nước thải đáng kể sau khi lọc các bể mạ hoặc bổ sung vào các bể mạ:
nước rửa chi tiết sau khi mạ, nước rửa sàn. Bảng 1.2. chỉ ra mức hàm lượng KLN
trong nước thải của một số nhà máy.
Hoạt động nông nghiệp sử dụng các loại phân bón hóa học không tinh khiết
và thuốc trừ sâu cũng đã đưa một lượng lớn KLN vào đất và nguồn nước ngầm
[24,33].
Việt Nam là nước có nền nông nghiệp truyền thống và lâu đời, nông nghiệp
chiếm tỉ lệ lớn trong nền kinh tế quốc dân, việc sử dụng phân bón hữu cơ đóng
một vai trò quan trọng trong việc tăng năng suất cây trồng và làm cho đất màu mỡ.
Tuy nhiên, phân hữu cơ ở Việt Nam thường chứa hàm lượng lớn các KLN. Như

14
vậy, một trong những nguồn gây ô nhiễm KLN trong môi trường đất, nước tại các
vùng nông thôn là do sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón (DDT, VOCs, PAHs, )
một cách tuỳ tiện, không có sự quản lý cũng như hướng dẫn sử dụng. Đây là
những chất độc hại có thể tồn lưu trong nước một thời gian khá dài [10].
Bảng 1.2. Hàm lượng kim loại nặng trong nước thải của một số nhà máy
Nguồn nước thải Nồng độ kim loại nặng (mg/l)

Nhà máy ô tô Honda
Fe: 0,5 – 10
Cr (VI): 0,5 – 15 Zn: 50
Nhà máy ô tô Toyota
Fe: 0,5 – 10
Cr(VI): 0,5 – 15 Zn: 50
Nhà máy ô tô Vidamco
Fe: 1,4 Cu: 1,19
Cr (VI): 0,15 Pb: 2,59
Zn: 2,9 Ni: 2,1
Mn: 1,93
Nhà máy ô tô VMC
Fe: 3,5 Pb: 7,1
Cr (VI): 1,2 Ni: 6,8
Zn: 14,2
Nguồn: Trích theo Trịnh Thị Thanh [26]
Sông Tô Lịch và sông Nhuệ là hai con sông có vai trò quan trọng trong việc
tiêu thoát nước của thành phố Hà Nội. Hàng ngày, một lượng nước thải lớn đang
được xả ra các diện tích mặt nước công cộng của thành phố thông qua hệ thống các
sông thoát nước mà phần lớn là không qua xử lý.
Tổng lượng nước thải sinh hoạt của toàn thành phố hiện nay xấp xỉ
500.000m
3
/ngày đêm. Ngoài ra, còn có nước thải sản xuất công nghiệp và dịch vụ
ước tính khoảng 250.000 - 300.000m
3
/ngày đêm [22].
Với việc sử dụng nước thải từ các con sông chảy qua nội thành Hà Nội làm
nước tưới nông nghiệp thì nguy cơ tích lũy các kim loại độc hại trong sản phẩm là
khó tránh khỏi.



15
Nước thải sông Tô Lịch bị ô nhiễm bởi các KLN như Pb, Mn, Zn có nguồn
gốc phát sinh chủ yếu từ nước thải của các ngành công nghiệp như cơ khí, dệt,
mạ… Do có khả năng di chuyển, tích luỹ trong các mắt xích của hệ sinh thái mà
KLN có khả năng gây nên các hiểm họa sinh thái lâu dài. Vì vậy, để sử dụng nước
thải trong trồng rau và nuôi thuỷ sản người ta đặc biệt quan tâm đến nồng độ của
các KLN có trong nước thải. Một số nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, các thông
số KLN trong nước tưới cây vẫn ở dưới mức tiêu chuẩn cho phép với nước mặt
(QCVN 08/2008), chỉ một số các điểm phân tích có giá trị tương đối cao. Tuy
nhiên, các kết quả này cũng rất cận với tiêu chuẩn cho phép. Hơn nữa do dân số đô
thị ngày càng tăng, các loại hình thải ngày càng đa dạng, vì vậy các kết quả này
cũng nên phải xem xét để có những kế hoạch xử lý phù hợp [19].
1.2.2. Kim loại nặng trong đất và trầm tích
Ô nhiễm môi trường đất do các KLN được xem là tất cả các hiện tượng
nhiễm bẩn môi trường đất bởi các KLN và hợp chất của chúng, gây ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của sinh vật và con người.
Xét trên quan niệm “nhân tố sinh thái giới hạn” của đất bao gồm: Hàm lượng
các chất dinh dưỡng, phản ứng của dung dịch đất (pH), nồng độ muối, các chất độc
và quần thể sinh vật đất, thì ô nhiễm đất bởi các KLN tác động trực tiếp đến cây
trồng và quần thể sinh vật đất. Khi các tác nhân này vượt quá khả năng chống chịu,
cây trồng hoặc sinh vật sẽ chết, nghĩa là đất không còn đảm bảo được chức năng
nuôi dưỡng và duy trì sự sống [16].
Theo con đường tự nhiên, các KLN xâm nhập vào đất và tích luỹ tại chỗ
trong đất do tác động của điều kiện thời tiết lên các khoáng vật. Thông thường
lượng kim loại trong đá magma cao hơn trong các đá trầm tích. Mn, Cr, Co, Ni, Cu
và Zn có nhiều nhất trong mọi loại đá. Đá magma và đá biến chất là các nguồn tự
nhiên phổ biến nhất đưa các KLN vào đất. Hai loại đá này chiếm tới 95% vỏ quả
đất và đá trầm tích chỉ chiếm 5%. Sa thạch gồm các khoáng chất khó bị phong hoá,

góp một lượng nhỏ nhất kim loại vào đất. Một số khoáng chất trong đá biến chất và
đá magma bị phong hoá dễ dàng (kể cả khoáng chất olivin, hocblen và ogit) cung

16
cấp một lượng lớn Mn, Co, Ni, Cu và Zn vào đất. Rất nhiều nguyên tố KLN được
tìm thấy trong quặng sulfit. Đối với các loại đất có nguồn gốc từ những loại đá mẹ
khác nhau, hàm lượng KLN có thể khác nhau. Đất hình thành từ đá magma bazơ có
lượng Cr, Mn, Co và Ni cao nhất, trong khi đó đất hình thành từ đá trầm tích, phiến
sét có lượng Cr, Co, Ni, Zn và Pb cao nhất.
Hàm lượng Cu trong đất dao động từ 2 - 100 ppm, đất phát triển trên phiến
thạch sét hoặc các khoáng vật giàu sét thường có hàm lượng Cu cao. Trong đất có
thành phần cơ giới nặng thường có nhiều Cu bị hấp phụ ở trạng thái trao đổi.
Hàm lượng Cd dao động từ 0,01 - 2 ppm. Hàm lượng Cd trung bình của
1644 loại đất trên thế giới khoảng 0,62 ppm. Thông thường hàm lượng chất hữu cơ
cao thì hàm lượng Cd cũng cao [67].
Hàm lượng Pb của 4970 mẫu đất trên thế giới dao động từ 2 - 300 ppm, phổ
biến trong khoảng 10 - 20 ppm và trong các đất hữu cơ có xu hướng cao hơn các
loại đất khác [15].
Hàm lượng của một số KLN trong các loại đá chính được trình bày ở bảng 1.3.
Bảng 1.3. Hàm lượng kim loại nặng trong đá và trong đất
Đơn vị: ppm
TT
Nguyên
tố
Đá bazơ Đá axit
Đá trầm
tích
Vỏ phong
hóa
Đất

Khoảng dao động Trung bình
1 As 1,5 1,5 7,7 1,5 0,1 – 40 6
2 Bi 0,031 0,065 0,4 0,048 0,1 – 0,4 0,2
3 Cd 0,13 0,09 0,17 0,11 0,01 – 2 0,35
4 Hg 0,012 0,08 0,19 0,05 0,01 – 0,5 0,06
5 In 0,058 0,04 0,044 0,049 0,2 – 0,5 0,2
6 Pb 3 24 19 14 2 – 300 19
7 Sb 0,2 0,2 1,2 0,2 0,2 – 10 1
8 Se 0,05 0,05 0,42 0,05 0,01 – 1,2 0,4
9 Te - - < 0,1 0,005 - -
10 Ti 0,08 1,1 0,95 0,6 0,1 – 0,8 0,2
Nguồn: Fergusson (1990) [48]

17

×