Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Những trở ngại trong việc hình thành tổ chức nghiên cứu và triển khai trong các doanh nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ MINH HẠNH

NHỮNG TRỞ NGẠI TRONG VIỆC HÌNH THÀNH
TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Chuyên ngành: Quản lý khoa học và công nghệ

Hà Nội, 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------

NGUYỄN THỊ MINH HẠNH

NHỮNG TRỞ NGẠI TRONG VIỆC HÌNH THÀNH
TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Chuyên ngành: Quản lý khoa học và công nghệ
Mã số: 60.34.72



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Học

Hà Nội, 2009


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU

4

1

Đặt vấn đề

5

2

Mục tiêu nghiên cứu

6

3

Tổng quan các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến chủ đề
nghiên cứu

7


4

Câu hỏi nghiên cứu

12

5

Giả thuyết nghiên cứu

13

6

Phương pháp nghiên cứu

13

7

Kết cấu của báo cáo luận văn

14

Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ CẦN THIẾT HÌNH THÀNH TỔ
CHỨC NC&TK TRONG DOANH NGHIỆP

16


I

Một số khái niệm cơ bản

16

1

Khoa học

16

2

Công nghệ

16

3

Đổi mới công nghệ

18

4

Năng lực cạnh tranh

18


II

Khái niệm doanh nghiệp và một số đặc điểm của doanh
nghiệp Việt Nam

19

1

Khái niệm doanh nghiệp

19

2

Một số đặc điểm của các doanh nghiệp Việt Nam

22

Hoạt động NC&TK và vai trò của tổ chức NC&TK trong
doanh nghiệp

26

1

Hoạt động NC&TK là gì?

26


2

Vai trò của tổ chức NC&TK trong doanh nghiệp

31

3

Vai trò của tổ chức NC&TK trong các doanh nghiệp lựa chọn đổi
mới công nghệ thông qua kênh chuyển giao công nghệ

38

III

1


IV

Kết luận của chương 1

41

Chương II. HIỆN TRẠNG TỔ CHỨC NC&TK TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

42

I


Một số mơ hình tổ chức NC&TK trong doanh nghiệp ở Việt
Nam

42

1

Phòng chuyên trách về NC&TK

43

2

Cán bộ chuyên trách hoạt động NC&TK trong doanh nghiệp

45

3

Phịng NC&TK chun trách đồng thời với các nhóm cán bộ kỹ
thuật thuộc các đơn vị chuyên môn khác trong doanh nghiệp

47

4

Liên kết với các tổ chức ngoài doanh nghiệp

48


II

Một số đặc điểm trong tổ chức hoạt động NC&TK trong các
doanh nghiệp Việt Nam

49

1

Về trình độ chun mơn, năng lực của đội ngũ cán bộ kỹ thuật
trong doanh nghiệp

49

2

Về cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ nghiên cứu

50

3

Về tỷ lệ đầu tư cho hoạt động NC&TK tính trên phần trăm doanh
thu của doanh nghiệp

52

Kết luận của chương 2


55

III

Chương III. MỘT SỐ NHÂN TỐ CHỦ QUAN VÀ KHÁCH QUAN GÂY
TRỞ NGẠI TRONG VIỆC HÌNH THÀNH TỔ CHỨC NC&TK TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

57

I

Một số nhân tố chủ quan gây trở ngại trong việc hình thành
tổ chức NC&TK trong các doanh nghiệp ở Việt Nam

57

1

Chiến lược phát triển doanh nghiệp

58

2

Nhận thức và trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp

60

3


Trình độ của đội ngũ cán bộ k ỹ thuật trong doanh nghiệp

64

4

Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp

66

5

Quy mô hoạt động của doanh nghiệp

69

II

Một số nhân tố khách quan gây trở ngại trong việc hình
thành tổ chức NC&TK trong các doanh nghiệp ở Việt Nam

72

2


1

Thể chế kinh tế


73

2

Mơi trường cạnh tranh bất bình đẳng

75

3

Cơ chế khuyến khích hoạt động NC&TK trong doanh nghiệp

76

Kết luận của chương 3

80

III

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

82

I

Kết luận

82


II

Khuyến nghị

83

1

Nhóm giải pháp liên quan đến tạo lập môi trường hoạt động bình

84

đẳng và tích cực cho các doanh nghiệp Việt Nam
2

Nhóm giải pháp liên quan trực tiếp đến các yếu tố hỗ trợ doanh

85

nghiệp hình thành tổ chức NC&TK trong cơ cấu của doanh
nghiệp
TÀI LIỆU THAM KHẢO

88

CÁC PHỤ LỤC

3



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
AFTA

: Khu vực thương mại tự do ASEAN

CGCN

: Chuyển giao công nghệ

CIEM

: Viện quản lý kinh tế Trung ương

DNNVV : Doanh nghiệp nhỏ và vừa
FDI

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

KH&CN : Khoa học và Công nghệ
NC&TK : Nghiên cứu và triển khai
NISTPASS: Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ
OECD

: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế


VCCI

: Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam

WB

: Ngân hàng thế giới

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Đối với mọi quốc gia, doanh nghiệp ln được coi là lực lượng chủ lực,
đóng vai trò quyết định đến sự tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế. Số
lượng doanh nghiệp tăng nhanh làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế, tạo thêm
nhiều công ăn việc làm mới, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần
xố đói giảm nghèo, thực hiện các chính sách xã hội. Do vậy, việc xây dựng
và phát triển doanh nghiệp luôn được coi là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ quốc gia nào.
Thực tế cho thấy ở mỗi quốc gia, số lượng doanh nghiệp kinh doanh
hiệu quả thường tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong phạm vi
quốc gia cũng như trong từng địa phương, nơi nào có nhiều doanh nghiệp
kinh doanh hiệu quả, kinh tế nơi đó sẽ phát triển, đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 20101 của Việt Nam

đặt ra mục tiêu cả nước sẽ có 500.000 doanh nghiệp, trong đó có nhiều doanh
nghiệp kinh doanh hiệu quả và có tầm cỡ quốc tế vào năm 2010 cũng là nhằm
hướng tới mục đích cuối cùng này. Cần nhấn mạnh rằng, Việt Nam chỉ có thể
trở thành nước cơng nghiệp hố vào năm 2020 nếu có nhiều doanh nghiệp
mạnh và thành cơng. Vai trị của doanh nghiệp trong nền kinh tế thật là to lớn
nếu khơng nói là chủ đạo. Mỗi doanh nghiệp xứng đáng được hưởng các chế
độ hỗ trợ thích hợp của nhà nước và sự ủng hộ của xã hội để có thể nâng cao
sức cạnh tranh, trở thành các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn đa quốc gia và
đóng góp tích cực hơn nữa cho q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước.
1

Báo cáo đánh giá tổng quát thành tựu kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2005 và các chỉ tiêu phát triển kinh tế
- xã hội giai đoạn 2006 - 2010 của Chính phủ tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XI ngày
16/05/2006 tại Hà Nội

5


Đối với Việt Nam - một quốc gia hiện đang trong quá trình đổi mới và
phát triển và là thành viên chính thức của nhiều thể chế kinh tế mang tính khu
vực và thế giới như ASEAN, AFEC, WTO thì nhiệm vụ phát triển doanh
nghiệp lại càng có ý nghĩa cấp bách, quyết định thành công trong hội nhập
vào nền kinh tế thế giới.
Thời gian qua, hỗ trợ doanh nghiệp bằng các biện pháp trực tiếp, chủ
yếu thông qua các khuyến khích về thuế, tín dụng từ phía Nhà nước đã bộc lộ
nhiều điểm hạn chế. Trong khi đó việc hỗ trợ gián tiếp bằng tạo lập môi
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp hay bằng các cơ
chế để khuyến khích doanh nghiệp tăng đầu tư cho hoạt động KH&CN nói
chung, hoạt động NC&TK nói riêng cũng như khuyến khích hình thành tại

doanh nghiệp các tổ chức để thực hiện hoạt động này được nhiều quốc gia
trên thế giới lựa chọn và áp dụng.
Trong điều kiện của Việt Nam, việc hình thành các tổ chức NC&TK tại
doanh nghiệp là một trong những biện pháp nhằm gắn kết khoa học với sản
xuất, đồng thời góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ của sản xuất. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp đã và đang gặp phải nhiều trở ngại trong việc hình
thành tổ chức NC&TK ở doanh nghiệp. Việc nhận dạng các trở ngại này là
cần thiết, để có các giải pháp khắc phục hợp lý nhằm đạt được mục tiêu đặt
ra. Vì lý do này, tơi đã chọn vấn đề “Những trở ngại trong việc hình thành tổ
chức NC&TK trong các doanh nghiệp ở Việt Nam” làm đề tài cho luận văn
của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính
Nhận diện những trở ngại trong việc hình thành tổ chức NC&TK trong
các doanh nghiệp ở Việt Nam.

6


Mục tiêu cụ thể
a. Phân tích thực tiễn hình thành tổ chức NC&TK trong các doanh
nghiệp ở Việt Nam;
b. Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy sự hình thành tổ chức NC&TK
trong các doanh nghiệp ở Việt Nam.
3. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến chủ đề
nghiên cứu
Chủ đề hoạt động NC&TK trong doanh nghiệp được nhiều tác giả đề
cập đến, đặc biệt là trong thời gian gần đây khi mà xu thế phát triển và hội
nhập vào nền kinh tế thế giới đang đặt ra câu hỏi đối với năng lực cạnh tranh
của Việt Nam. Bên cạnh đó, xu thế xây dựng và áp dụng chính sách đổi mới ở

nhiều nước cũng đang ảnh hưởng lớn tới các lựa chọn chính sách của các
nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Chẳng hạn, việc lựa
chọn chính sách “chuyển các viện nghiên cứu chuyên ngành hẹp về trực thuộc
các tổng công ty nhà nước2” đã hầu như là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt từ năm
1987 đến nay.
Trong phạm vi của luận văn, tác giả sẽ tổng quan 3 cơng trình nghiên
cứu được xem là gần với những quan tâm của luận văn và quan trọng hơn là
những phát hiện trong các công trình nghiên cứu này một số sẽ được sử dụng
làm luận cứ ban đầu, một số còn đang “treo” sẽ trở thành vấn đề nghiên cứu
cho luận văn này.
Đề tài Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc xây dựng một số chính sách
và biện pháp thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ và NC&TK trong các cơ
2

Chỉ thị 199-CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ngày 25 tháng 6 năm 1987 về sắp xếp mạng lưới các tổ
chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và Quyết định số 782/QĐ-TTg ngày 24 tháng 10 năm
1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp các cơ quan NC&TK khoa học và cơng nghệ, trong đó đã đề
xuất phương án chuyển 6 viện NC&TK về trực thuộc các Tổng công ty nhà nước nhưng đã không thành
công.

7


sở sản xuất ở Việt Nam của tác giả Trần Ngọc Ca (2000) với việc lựa chọn
phân tích 2 mảng chính sách được xem là ảnh hưởng khá rõ tới hoạt động đổi
mới công nghệ và NC&TK trong doanh nghiệp đó là chính sách tài chính và
chính sách nhân lực. Các giải thuyết nghiên cứu sau đã được đề tài kiểm
chứng:
Thứ nhất, mặc dù mơi trường chính sách tài chính đã có những tiến bộ
nhất định trong thời gian qua và đã bao gồm nhiều vấn đề khá đầy đủ thuộc

cơ chế khuyến khích thúc đẩy đổi mới cơng nghệ và NC&TK trong các doanh
nghiệp tuy nhiên do việc soạn thảo và ban hành một số văn bản chính sách
cịn vội vàng, nội dung quy định còn quá chung và chưa thể hiện sự hiểu biết
thấu đáo về đặc thù của hoạt động đổi mới công nghệ và NC&TK nên hiệu
quả thực hiện cịn thấp.
Thứ hai, các chính sách về nhân lực có tầm quyết định quan trọng trong
đổi mới công nghệ và NC&TK của doanh nghiệp, trong nhiều trường hợp cịn
cấp bách hơn các chính sách tài chính.
Thứ ba, hành vi đổi mới công nghệ và NC&TK của doanh nghiệp phụ
thuộc nhiều vào các yếu tố không liên quan đến chính sách đẩy. Vấn đề sâu
xa thúc bách các doanh nghiệp đổi mới công nghệ và NC&TK nằm trong các
yếu tố của kinh tế vĩ mô, vào nhu cầu cạnh tranh, vào tính cấp thiết của đổi
mới (chính sách kéo). Do vậy nếu chỉ nhằm vào giải quyết các vấn đề của
chính sách đẩy (theo kiểu trọng cung) bằng các cơ chế khuyến khích trực tiếp
cho doanh nghiệp khi họ đổi mới mà không tiến tới quan tâm xử lý các vấn đề
thuộc về chính sách kéo nhằm tạo mơi trường (thơng thường là về thị trường
cạnh tranh) thì hiệu quả của các chính sách đẩy sẽ rất thấp và tình trạng chung
của đổi mới cơng nghệ và NC&TK trong doanh nghiệp sẽ còn tiếp tục yếu
kém.

8


Đề tài Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động NC&TK của
doanh nghiệp (2007) của tác giả Hoàng Văn Tuyên đã đề xuất một khung
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động NC&TK của doanh nghiệp
gồm 6 yếu tố bên trong (quy mô doanh nghiệp, nguồn lực của doanh nghiệp,
sở hữu của doanh nghiệp, chiến lược và kế hoạch của doanh nghiệp, ban lãnh
đạo doanh nghiệp và tập thể doanh nghiệp) và 14 yếu tố bên ngồi (chính
sách vốn cho KH&CN, chính sách đối với trang thiết bị phục vụ NC&TK của

doanh nghiệp, ưu đãi thuế, tín dụng, chính sách nhân lực KH&CN, sở hữu trí
tuệ, cơ sở hạ tầng KH&CN quốc gia, ngành nghề hoạt động của doanh
nghiệp, vị trí địa lý của doanh nghiệp, áp lực cạnh tranh, quản lý nhà nước về
KH&CN, xu thế phát triển KH&CN, một số cơ chế khuyến khích khác của
Nhà nước cho NC&TK doanh nghiệp và môi trường các thể chế chính sách).
Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích sâu từng yếu tố này ảnh hưởng như thế nào
đến hoạt động NC&TK của doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp Việt
Nam nói riêng. Tuy nhiên, với 2 nghiên cứu trường hợp được lựa chọn là
Công ty cổ phần dược phẩm (TRAPHACO) và Tổng công ty lắp máy Việt
Nam (LILAMA) để phân tích 20 yếu tố trên, có thể nói nghiên cứu này mới
dừng lại ở đối tượng là các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty nhà nước. Đối
với nhóm các DNNVV thì 20 yếu tố nêu trên có thực sự là những yếu tố ảnh
hưởng đến hoạt động NC&TK hay khơng, câu hỏi cịn chưa được giải đáp.
Ngồi ra với các kết luận có được từ nghiên cứu của Trần Ngọc Ca
(2000) thì 14 yếu tố bên ngồi mà tác giả cho rằng có ảnh hưởng quan trọng
đến hoạt động NC&TK của doanh nghiệp trong đó chủ yếu các chính sách tài
chính của Nhà nước (như chính sách thuế, tín dụng hay vốn cho hoạt động
KH&CN) dường như chưa được thoả đáng trong bối cảnh hoạt động của các
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

9


Đề tài Nghiên cứu sự hình thành và phát triển tổ chức và hoạt động
NC&TK trong các DNNVV ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Minh Hạnh
(2008) với mục tiêu nghiên cứu là nghiên cứu quá trình hình thành và phát
triển tổ chức và hoạt động NC&TK trong khu vực DNNVV- nhóm doanh
nghiệp hiện chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng số doanh nghiệp Việt Nam3 đã
khẳng định: (i) Chính nhu cầu về hoạt động NC&TK của các doanh nghiệp
quyết định hình thức tổ chức NC&TK ở loại hình doanh nghiệp này, cụ thể là

khi nào thì được tổ chức dưới dạng các phòng/ban phụ trách về NC&TK độc
lập, khi nào thì được lồng ghép vào các phịng/ban chun mơn khác trong
doanh nghiệp và khi nào thì chỉ dừng lại ở mức độ có cán bộ kỹ thuật trong
doanh nghiệp phụ trách hoạt động NC&TK. (ii) Bên cạnh đó nghiên cứu này
cũng đã khẳng định: nghiên cứu hiện trạng về tổ chức và hoạt động NC&TK
trong các DNNVV có thể thấy rằng đây là một q trình “động”, đó là cùng
với sự phát triển của hoạt động sản xuất, kinh doanh trong doanh nghiệp, các
mơ hình tổ chức hoạt động NC&TK sẽ vận động, biến đổi không ngừng và
thay thế cho nhau. Có thể ban đầu hoạt động NC&TK trong doanh nghiệp chỉ
do một hoặc một nhóm cán bộ kỹ thuật phụ trách sau đó do nhu cầu phát triển
doanh nghiệp, họ đã xây dựng một tổ chức độc lập với tên gọi phòng NC&TK
trong doanh nghiệp. Vậy ở đây cũng khơng loại trừ tình huống ngược lại là có
những DNNVV có phịng NC&TK trong cơ cấu tổ chức của mình ngay từ
những ngày đầu thành lập doanh nghiệp nhưng bởi vai trị và sự đóng góp mờ
nhạt của phòng này cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nên sau đó phịng này đã bị giải thể.

3

Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2008, hiện trong tổng số hơn 350.000 doanh nghiệp
của Việt Nam, số lượng DNNVV chiếm tới 97%.

10


Tuy nhiên, với đối tượng nghiên cứu bị giới hạn ở loại hình DNNVV,
những nhận định trên đã thực sự đúng đối với các doanh nghiệp lớn trong bối
cảnh của Việt Nam hay chưa, câu hỏi còn đang bỏ ngỏ.
Qua các cơng trình nghiên cứu về hoạt động NC&TK trong doanh
nghiệp ở Việt Nam, đặc biệt là qua 3 công trình nghiên cứu nêu trên có thể

thấy: (i) Các nghiên cứu đều khẳng định hoạt động NC&TK trong các doanh
nghiệp Việt Nam kể cả ở các doanh nghiệp lớn đều rất mờ nhạt, nhu cầu của
các doanh nghiệp Việt Nam cần là hoạt động cải tiến và đổi mới công nghệ
của sản xuất hơn là hoạt động NC&TK; (ii) Hoạt động đổi mới công nghệ và
NC&TK luôn được nhắc tới đồng thời trong các nghiên cứu này tuy nhiên
giữa chúng có một số điểm khác biệt. Nếu coi đổi mới công nghệ là mục tiêu
cho các hoạt động của doanh nghiệp thì hoạt động NC&TK chỉ là một trong
những hoạt động (cơng cụ/phương tiện) phục vụ cho mục tiêu đó4 bởi đổi mới
cơng nghệ địi hỏi nhiều loại hoạt động khác nhau, khơng chỉ là NC&TK.
Ngồi ra, nếu xét tới quá trình phát triển của mỗi doanh nghiệp thì hoạt động
NC&TK, đổi mới công nghệ và những hoạt động khác cũng đều là các hoạt
động hướng tới một mục tiêu là giúp doanh nghiệp tạo ra được các sản phẩm
cạnh tranh, vậy hoạt động NC&TK trong doanh nghiệp có vai trị “kép” đó là
phục vụ trực tiếp cho các hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp xét
tại một thời điểm cụ thể nào đó và nhằm nâng cao năng lực nội sinh phục vụ
cho chiến lược phát triển lâu dài của doanh nghiệp.Với vai trò này, hoạt động
NC&TK vẫn luôn cần trong doanh nghiệp dù là các doanh nghiệp lớn, vừa
hay nhỏ. (iii) Từ nhiều nghiên cứu độc lập khác về thực trạng đổi mới công
nghệ trong doanh nghiệp có thể thấy trong q trình đổi mới cơng nghệ của
sản xuất, doanh nghiệp thường xuyên gặp phải những vấn đề mà nếu khơng
4

Hồng Xn Long (2005): Hoạt động NC&TK được sử dụng như một công cụ nhằm khắc phục tính thụ
động trong đổi mới cơng nghệ của DNNVV

11


có những năng lực NC&TK nhất định, khơng có sự đầu tư dài hơi trước đó
cho các hoạt động hỗ trợ trước, trong và sau đổi mới như xây dựng chiến lược

phát triển doanh nghiệp, hoạt động nghiên cứu thị trường, đào tạo nhân lực kỹ
thuật , … thì đổi mới không thể đem lại thành công như dự định ban đầu.5
Tại mỗi doanh nghiệp, các bước phát triển về công nghệ thông thường
tuần tự từ mức thấp đến cao là sử dụng cơng nghệ; cải tiến và thích nghi công
nghệ đến đổi mới công nghệ. Vậy đổi mới công nghệ là bước phát triển công
nghệ cao nhất trong mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện trạng về sự gắn kết và
hỗ trợ giữa hoạt động NC&TK và đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp Việt
Nam trong nhiều năm qua vẫn cịn yếu vì hoạt động NC&TK của các doanh
nghiệp kém phát triển. Nhiều doanh nghiệp khơng có bộ phận NC&TK riêng.
Ngay cả những doanh nghiệp có phịng kỹ thuật thì phịng này cũng chưa thể
hiện rõ vai trị đối với đổi mới cơng nghệ của doanh nghiệp (Hồng Xn
Long, 2005).
4. Câu hỏi nghiên cứu
Quá trình hình thành tổ chức NC&TK trong các doanh nghiệp Việt
Nam bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Có những yếu tố thuộc về bản
thân doanh nghiệp (yếu tố chủ quan) - chúng phản ánh nội lực của doanh
nghiệp, năng lực tổ chức và thực hiện các hoạt động NC&TK của doanh
nghiệp. Có những yếu tố bên ngoài (yếu tố khách quan) đến từ mơi trường
trong đó doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ thể

5

Trong nghiên cứu về đặc điểm của quá trình đổi mới và xa hơn nữa là mối quan hệ giữa hoạt động đổi mới,
hoạt động NC&TK và quy mô của doanh nghiệp đã được Đoàn chuyên gia quốc tế IDRC đề cập trong bản
Báo cáo đánh giá về chính sách khoa học, cơng nghệ và đổi mới của Việt Nam (NISTPASS, 2000) cũng đã
thừa nhận “Thông thường các nhà đổi mới thành công thường có năng lực NC&TK của chính họ, nhưng họ
cũng sử dụng nhiều nguồn công nghệ khác” và “Một điều cần được khẳng định là quy mô của doanh nghiệp
không quyết định thành công hay thất bại của dự án đổi mới. Tuy nhiên điều quan trọng hơn là quy mô của
dự án NC&TK. Các đổi mới thất bại thường do có nguồn lực được đầu tư thấp hơn những đổi mới thành
công và điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo tổng các nguồn lực và các quan hệ với các

mạng lưới bên ngoài”.

12


chế kinh tế hay từ các chính sách quản lý vĩ mơ của nhà nước. Vì vậy, trong
khn khổ luận văn này sẽ tập trung trả lời hai câu hỏi nghiên cứu dưới đây:
 Với bối cảnh Việt Nam hiện nay, những nhân tố chủ quan nào được coi
là gây trở ngại đối với việc hình thành tổ chức NC&TK trong các
doanh nghiệp?
 Với bối cảnh Việt Nam hiện nay, những nhân tố khách quan nào được
coi là gây trở ngại đối với việc hình thành tổ chức NC&TK trong các
doanh nghiệp?
5. Giả thuyết nghiên cứu
Trong rất nhiều các yếu tố gây trở ngại đối với việc hình thành tổ chức
NC&TK trong doanh nghiệp thì phải chăng các nhóm yếu tố chủ quan như:
chiến lược phát triển doanh nghiệp, nhận thức và trình độ quản lý của chủ
doanh nghiệp, trình độ của đội ngũ cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp, lĩnh vực
hoạt động của doanh nghiệp, ngành nghề hoạt động của doanh nghiệp và nhóm
các yếu tố khách quan như thể chế kinh tế, môi trường cạnh tranh, cơ chế
khuyến khích khoạt động KH&CN là những nhân tố đóng vai trị quan trọng
trong việc hình thành tổ chức NC&TK tại doanh nghiệp.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu đặt ra trong luận văn, các phương
pháp nghiên cứu sau sẽ được sử dụng:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tổng quan nghiên cứu các tài liệu trong nước và nước ngồi liên quan
đến vai trị của tổ chức NC&TK trong doanh nghiệp; đặc điểm về tổ chức và
hoạt động NC&TK trong doanh nghiệp; sự khác biệt về tổ chức và hoạt động
NC&TK ở các tập đoàn sản xuất, các doanh nghiệp lớn và ở DNNVV; mối


13


quan hệ giữa hoạt động NC&TK, hoạt động đổi mới công nghệ và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp; các chính sách vĩ mơ định hướng doanh nghiệp
nâng cao năng lực cạnh tranh bằng hoạt động KH&CN nói chung và NC&TK
nói riêng, …
Phương pháp phân tích số liệu thống kê
Các loại số liệu thống kê sau sẽ được tập hợp, phân tích và so sánh
trong q trình thực hiện luận văn đó là các số liệu về mức đầu tư cho hoạt
động KH&CN (NC&TK) trên doanh thu của doanh nghiệp; tỷ lệ doanh
nghiệp có thành lập tổ chức NC&TK trong cơ cấu của doanh nghiệp; trình độ
đào tạo của đội ngũ doanh nhân; trình độ đào tạo và số lượng cán bộ kỹ thuật
trong doanh nghiệp; tỷ lệ cán bộ kỹ thuật trên tổng số lao động của doanh
nghiệp; các hình thức hoạt động NC&TK và đổi mới cơng nghệ mà doanh
nghiệp thực hiện, …
Phương pháp xin ý kiến chuyên gia
Xin ý kiến các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực tổ chức hoạt
động NC&TK trong doanh nghiệp, trong các cơ quan quản lý và các cơ quan
hoạch định chính sách phát triển doanh nghiệp phản biện các kết quả nghiên
cứu của luận văn.
7. Kết cấu của báo cáo luận văn
Phần mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về sự cần thiết hình thành tổ chức NC&TK
trong doanh nghiệp;
Chương 2: Hiện trạng tổ chức NC&TK trong doanh nghiệp ở Việt
Nam (qua điều tra doanh nghiệp ở Vĩnh Phúc);

14



Chương 3: Một số nhân tố chủ quan và khách quan gây trở ngại trong
việc hình thành tổ chức NC&TK trong doanh nghiệp ở Việt Nam;
Kết luận và khuyến nghị.
Cuối luận văn là các phụ lục và tài liệu tham khảo.

15


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ CẦN THIẾT HÌNH THÀNH
TỔ CHỨC NC&TK TRONG DOANH NGHIỆP
I. Một số khái niệm cơ bản
1. Khoa học
Qua các tài liệu được tra cứu, về cơ bản có 4 định nghĩa về khoa học
dựa trên 4 cách tiếp cận sau6:
 Khoa học là một hệ thống tri thức;
 Khoa học là một hoạt động sản xuất tri thức;
 Khoa học là một hình thái ý thức xã hội;
 Khoa học là một thiết chế xã hội.
Cả 4 khái niệm này đều có chỗ đứng trong tư duy và hành động của
cộng đồng những người làm nghiên cứu và quản lý khoa học. Tuy nhiên,
trong phạm vi luận văn này, khái niệm khoa học được hiểu là “lĩnh vực hoạt
động nhằm mục đích sản xuất ra những tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư
duy bao gồm tất cả những điều kiện và những yếu tố của sự sản xuất này” (Từ
điển Triết học của Liên Xô - bản tiếng Việt, 1975).
2. Công nghệ
Thuật ngữ công nghệ gần đây đã trở thành một cụm từ được nhiều
người ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau nhắc tới. Có thể nói, cơng nghệ

xuất hiện đồng thời với sự hình thành lồi người. Từ “cơng nghệ” xuất phát từ
chữ Hy Lạp “Techne” có nghĩa là một khoa học hay sự nghiên cứu. Công

6

Vũ Cao Đàm, “Định nghĩa khái niệm “khoa học” trong Luật Khoa học và Cơng nghệ nên như thế nào?”,
Tạp chí Hoạt động khoa học số tháng 5 năm 2008

16


nghệ là sản phẩm do con người tạo ra làm công cụ để sản xuất ra của cải vật
chất. Tuy vậy, cho đến tận bây giờ, định nghĩa về công nghệ lại chưa hồn
tồn thống nhất7. Điều đó được giải thích là do số lượng các loại cơng nghệ
nhiều đến mức không thể thống kê hết được, ngay một loại sản phẩm lại có
nhiều cơng nghệ khác nhau nên những người sử dụng công nghệ ở trong
những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau sẽ dẫn đến sự hiểu biết của họ về
công nghệ không giống nhau.
Một trong những định nghĩa về công nghệ được dùng khá phổ biến là
định nghĩa của Sharif (1986) cho rằng “công nghệ bao gồm khả năng sáng
tạo, đổi mới và lựa chọn từ những kỹ thuật khác nhau và sử dụng chúng một
cách tối ưu và tập hợp các yếu tố bao gồm môi trường vật chất, xã hội và văn
hố”. Cơng nghệ là một tập hợp của phần cứng và phần mềm, bao gồm 4
dạng cơ bản:
- Dạng vật thể (vật liệu, công cụ sản xuất, thiết bị và máy móc, sản
phẩm hồn chỉnh).
- Dạng con người (kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm).
- Dạng ghi chép (bí quyết, quy trình, phương pháp, dữ kiện thích hợp
…được mơ tả trong các ấn phẩm, tài liệu, …)
- Dạng thiết kế tổ chức (dịch vụ, phương tiện truyền bá, công ty tư vấn,

cơ cấu quản lý, cơ sở luật pháp, …)
Ở Việt Nam, Luật Chuyển giao cơng nghệ được Quốc hội nước Cộng
hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29
tháng 11 năm 2006 đã định nghĩa: Cơng nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết

7

Trong Đề tài “Nghiên cứu cơ chế và chính sách phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam”, tác giả Trần
Ngọc Ca (Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN, 2003) đã sưu tầm và dịch ra tiếng Việt 10 định nghĩa
khác nhau về công nghệ.

17


kỹ thuật có kèm hoặc khơng kèm cơng cụ, phương tiện dùng để biến đổi
nguồn lực thành sản phẩm.
Từ những phân tích trên đây, khái niệm cơng nghệ được sử dụng trong
luận văn được hiểu là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng bí quyết,
các loại cơng cụ, thiết bị máy móc, phương tiện, tư liệu sản xuất và một số
tiềm năng khác (tổ chức, pháp chế, dịch vụ, ...) dùng để biến đổi các nguồn
lực thành sản phẩm.
3. Đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ là việc chủ động thay thế một phần hay tồn bộ
cơng nghệ đang được sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn nhằm
nâng cao hiệu quả của sản xuất - kinh doanh8.
Quan điểm chung9 đều nhấn mạnh yêu cầu đối với một doanh nghiệp
được xem là đã đổi mới công nghệ là sản phẩm mới phải được đưa ra thị
trường (đổi mới sản phẩm), hoặc một quy trình sản xuất mới được đưa vào
ứng dụng trong sản xuất - kinh doanh (đổi mới quy trình). Như vậy, một sản
phẩm mới khơng thương mại hố được khơng coi là đổi mới sản phẩm, tương

tự những thay đổi về quy trình chưa được áp dụng trong sản xuất thì chưa
được tính là đổi mới quy trình.
4. Năng lực cạnh tranh
Tính cạnh tranh ban đầu là một khái niệm được dùng hạn chế ở phạm
vi doanh nghiệp trong các lý thuyết tổ chức công nghiệp. Năng lực cạnh tranh
của một doanh nghiệp hay một ngành công nghiệp là tiềm năng sản xuất một
loại hàng hoá hay cung cấp một loại dịch vụ ở một mức giá ngang bằng hay
8

Nguyễn Thanh Tùng, “Nghiên cứu xây dựng tài liệu hướng dẫn kỹ năng nghiệp vụ đổi mới công nghệ cho
DNNVV”, NISTPASS, 2007
9
Quan điểm này được đưa ra trong Tài liệu hướng dẫn Oslo, OECD (1992) và đã được nhiều quốc gia trên
thế giới áp dụng trong hoạt động thống kê về đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp.

18


thấp hơn mức giá phổ biến trên thị trường mà khơng có sự trợ cấp nào từ phía
Chính phủ.
Năng lực cạnh tranh được xem xét ở nhiều cấp độ khác nhau như năng
lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực cạnh
tranh của sản phẩm và dịch vụ. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể
hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc
thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn.
Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ
thực lực của doanh nghiệp, năng lực này khơng chỉ đơn thuần được tính bằng
các tiêu chí về cơng nghệ, về vốn, về nhân lực mà cịn là các tiêu chí về năng
lực NC&TK, năng lực đổi mới, trình độ lao động, thị phần và tốc độ tăng
trưởng thị phần của doanh nghiệp, năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp.

Trong đó nhóm các tiêu chí sau, đặc biệt là các tiêu chí góp phần tạo nên giá
trị gia tăng cho những sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp như
năng lực NC&TK hay năng lực đổi mới ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
II. Khái niệm doanh nghiệp và một số đặc điểm của doanh nghiệp
Việt Nam
1. Khái niệm doanh nghiệp
Có nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp. Quan điểm của các
nhà tổ chức cho rằng doanh nghiệp là một tổng thể các phương tiện, máy
móc, thiết bị và con người được tổ chức nhằm đạt được một mục đích nhất
định. Xét theo quan điểm lợi nhuận: doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất,
theo đó trong khn khổ một tài sản nhất định, người ta kết hợp nhiều yếu tố
sản xuất khác nhau, nhằm tạo ra những sản phẩm và dịch vụ cung ứng trên thị
trường và thu khoản chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm. Theo

19


quan điểm chức năng thì doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh
nhằm thực hiện một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn trong q trình đầu tư
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ nhằm mục đích
sinh lợi. Cịn theo quan điểm lý thuyết hệ thống cho rằng doanh nghiệp là một
bộ phận hợp thành trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải
chịu sự tác động tương hỗ lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động
mà Nhà nước đặt ra cho hệ thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu
dùng của xã hội.
Theo quy định tại Điều 4, Luật Doanh nghiệp được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố XI, kỳ họp thứ 8 thơng qua ngày
29 tháng 11 năm 2005 (sau đây gọi là Luật doanh nghiệp) thì “Doanh nghiệp
là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được

đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các
hoạt động kinh doanh”. Hiện nay, khái niệm doanh nghiệp thường được dùng
để chỉ các loại hình: cơng ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công
ty cổ phần hay công ty hợp danh thuộc các thành phần kinh tế.
Tuy vậy, ở Việt Nam ngoài các doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp nói trên, cần phải kể tới hơn 3 triệu hộ kinh doanh phi
nông nghiệp (theo con số thống kê đến hết năm 2005) như những doanh
nghiệp siêu nhỏ, cùng với 15.000 hợp tác xã và gần 12 vạn trang trại hoạt
động như loại hình doanh nghiệp. Đáng chú ý là trong các hộ kinh doanh, có
những hộ có quy mơ doanh số và lao động khá lớn song vẫn chưa đăng ký
hoạt động như một doanh nghiệp, mặc dù theo quy định tại Khoản 4 Điều 170
Luật Doanh nghiệp thì “Hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên từ 10 lao động
trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp hoạt động theo quy định của
Luật này”.

20


Hiện ở Việt Nam, có 3 loại hình doanh nghiệp khá rõ, nắm giữ hầu như
toàn bộ tài sản quốc gia 10, đó là:
(i) Doanh nghiệp nhà nước: khối doanh nghiệp nhà nước hiện nắm giữ
khoảng 75% tài sản cố định quốc gia, 20% vốn đầu tư xã hội, gần 50% vốn
đầu tư của Nhà nước, 60% tín dụng ngân hàng trong nước, chiếm hơn 70%
vốn vay nước ngoài và được hưởng nhiều ưu đãi tài chính khác từ phía Nhà
nước. Với nhiều lợi thế như vậy song trong nhiều năm qua khu vực này vẫn
hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, chỉ đóng góp khoảng 50% thu ngân sách,
trong đó thuế thu nhập chỉ có 9%. Đây là khu vực hiện duy trì cơ chế quản lý
kém hiệu quả nhất, có nhiều tiêu cực, lãng phí. Chủ trương sắp xếp lại nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của khối doanh nghiệp nhà nước được tiến hành
quá chậm, đến hết năm 2006 cả nước mới cổ phần hoá được khoảng 3.000

doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp với số vốn chỉ chiếm khoảng 12%
tổng số vốn trong doanh nghiệp nhà nước (nếu trừ đi số vốn nhà nước còn giữ
lại gần 50% thì thực chất tỷ lệ trên chỉ khoảng 9%).
(ii) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi: hiện có hơn 5.300 dự án
có hiệu lực đang hoạt động tại Việt Nam. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài này chiếm 15,7% tổng vốn đầu tư xã hội, 44% giá trị sản xuất
công nghiệp, tạo ra 54,6% kim ngạch xuất khẩu và thu hút gần 70 vạn lao
động. Do sở hữu nguồn vốn lớn, công nghệ tương đối hiện đại, kỹ năng quản
lý tiên tiến, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi hoạt động có hiệu quả
rõ rệt, mang lại nhiều kinh nghiệm tốt cho hoạt động quản lý và sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên trên thực tế, hiệu quả lan
truyền công nghệ từ các doanh nghiệp này tới các doanh nghiệp trong nước
còn rất hạn chế.
10

Vũ Quốc Tuấn (Ban nghiên cứu của Thủ tướng), “Doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập”, Tạp chí cơng
nghiệp, tháng 6/2006.

21


(iii) Doanh nghiệp dân doanh: bao gồm các loại hình doanh nghiệp tư
nhân và hỗn hợp. Những năm gần đây, khu vực doanh nghiệp dân doanh ln
có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong các loại hình doanh nghiệp. Năm
2005, khu vực kinh tế doanh dân đã chiếm 32,1% tổng vốn đầu tư xã hội,
doanh nghiệp công nghiệp dân doanh đã chiếm gần 30% giá trị sản xuất công
nghiệp cả nước. Đây thực sự là khu vực kinh tế dân sự rộng lớn, do dân tự
chủ kinh doanh đang trên đà phát triển mạnh mẽ, năng động, trở thành lực
lượng chủ lực của công cuộc phát triển kinh tế nước nhà.
2. Một số đặc điểm của các doanh nghiệp Việt Nam

Trong thời gian vừa qua, dù doanh nghiệp Việt Nam đã có bước phát
triển khá nhanh, nhưng hiện vẫn cịn tồn tại những yếu kém bất cập làm hạn
chế năng lực cạnh tranh so với doanh nghiệp của các nước trong khu vực và
quốc tế khi bước vào hội nhập. Những yếu kém, bất cập đó là11:
Thứ nhất, số lượng doanh nghiệp tuy tăng lên nhanh chóng nhưng quy
mơ chủ yếu là nhỏ (thậm chí siêu nhỏ) hoạt động sản xuất phân tán đi kèm với
trình độ kỹ thuật cơng nghệ thấp. Số lượng doanh nghiệp từ năm 2004 đến
nay tăng bình quân 25%/năm, nghĩa là cứ sau 4 năm chúng ta có số lượng
doanh nghiệp tăng gấp đơi, nhưng theo đó là quy mơ có xu hướng ngày càng
nhỏ.
11

Trong một nghiên cứu của VCCI năm 2006 được tác giả tổng hợp lại cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam
có 5 đặc điểm sau:
1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, quy mô nhỏ chiếm một tỷ trọng lớn và đang phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức.
2. Trình độ cơng nghệ, kỹ thuật lạc hậu so với mức trung bình của thế giới, hơn nữa tốc độ đổi mới lại
quá chậm. Hạn chế về năng lực cán bộ và công tác nghiên cứu trong doanh nghiệp, nghiên cứu để
ứng dụng trong sản xuất kinh doanh.
3. Trình độ quản lý và tay nghề của người lao động còn hạn chế. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề
thấp, năng suất lao động không cao.
4. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ thấp. Yếu tố tư bản cấu thành trong sản
phẩm thấp, hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, sản phẩm chưa mang tính
độc đáo, giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản phẩm nói chung thấp.
5. Năng lực liên kết giữa các DNNVV, doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
cịn hạn chế.

22



Hiện theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23-11-2001 của Chính phủ
thì DNNVV được quy định như sau: “DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh
độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
khơng q 10 tỷ đồng hoặc số lao động hàng năm không quá 300 người”.
Như vậy, nếu so sánh với tiêu chí xác định loại hình DNNVV của nhiều quốc
gia trên thế giới có thể thấy sự khác biệt khá lớn giữa quan niệm về các
DNNVV của Việt Nam và thế giới đó là các DNNVV của chúng ta chỉ được
xếp vào loại nhỏ và vô cùng nhỏ. Với cách phân loại này thì tới 97% các
doanh nghiệp của Việt Nam hiện là các DNNVV. Trong khi đó, các doanh
nghiệp lớn chỉ chiếm hơn 3% số doanh nghiệp nhưng thu hút tới 50% tổng số
lao động và chỉ riêng 50 doanh nghiệp hàng đầu trong Bảng danh sách xếp
hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam (Danh sách VNR500) đã đóng góp
tới 36,2% tổng thu ngân sách của cả nước. Cần phải thừa nhận rằng các doanh
nghiệp hàng đầu Việt Nam (doanh nghiệp VNR500) đã và đang giữ vai trò
chiến lược trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam12.
Doanh nghiệp nước ta hầu hết thuộc loại nhỏ, bình quân số lao động
của một doanh nghiệp ở năm 2004 là 63 người, đến năm 2006 còn 51 người.
Số vốn sản xuất kinh doanh tuy có được bổ sung, nhưng bình qn một doanh
nghiệp năm 2006 chỉ có 26 tỷ đồng vốn (tương đương với 1,6 triệu USD), cụ
thể như sau:
Theo quy mô lao động:
 Số doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm 56,96%;
 Số doanh nghiệp có từ 10 đến dưới 50 lao động chiếm 29,97%;
 Số doanh nghiệp có từ 50 đến dưới 200 lao động chiếm 8,89%;
12

Phạm Thái Hùng, “Một số vấn đề của doanh nghiệp lớn ở Việt Nam”, Tạp chí Cơng nghiệp, tháng 6/2009.

23



×