Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong các công ty cổ phần ngành dệt - may Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.55 KB, 111 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ NGUYỆT





Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong
các công ty cổ phần ngành dệt - may Việt
Nam hiện




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC











HÀ NỘI, 2007



1
MỤC LỤC
Mở đầu 3
Chương 1. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong các công ty cổ phần 11
1.1. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Đòi hỏi khách quan của sự nghiệp
đổi mới. 11
1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước - thực trạng và nhu cầu đổi mới. 11
1.1.2. Sự nghiệp đổi mới và quá trình chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước
sang công ty cổ phần dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. 16
1.2. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong các công ty cổ phần. 27
1.2.1. Công ty cổ phần và đặc điểm công ty cổ phần. 27
1.2.2 Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong công ty cổ phần. 32
Chương 2. Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản ở các công ty cổ phần ngành Dệt - May
Việt Nam 41
2.1. Thực trạng lãnh đạo của Đảng ở các công ty cổ phần ngành Dệt - May
Việt Nam 41
2.1.1. Đảng lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng. 41
2.1.2. Đảng lãnh đạo công tác sản xuất kinh doanh. 44
2.1.3. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ. 53
2.1.4. Đảng lãnh đạo các đoàn thể, quần chúng. 58
2.2. Quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng ở các công ty cổ phần ngành Dệt - May Việt Nam. 62
2.2.1. Quan điểm cơ bản để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng ở các công ty
cổ phần ngành Dệt - May Việt Nam. 62

2.2.2. Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng ở các công
ty cổ phần ngành Dệt - May Việt Nam. 79
Kết luận 96
Danh mục tài liệu tham khảo 99
Phụ lục 105



2


BẢNG QUY NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CTCP: Công ty cổ phần
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
CPH: Cổ phần hoá
TW: Trung ương
HĐQT: Hội đồng quản trị
SXKD: Sản xuất kinh doanh
TCCSĐ: Tổ chức cơ sở đảng
DNCP: Doanh nghiệp cổ phần
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
DNCPH: Doanh nghiệp cổ phần hoá


















3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhằm xây
dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” đã và đang thu được những thành tựu to lớn. Trong đó,
phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa là một
trong những vấn đề cốt yếu tạo nên thành tựu to lớn đó. Trong công cuộc
đổi mới, với việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, các doanh
nghiệp nhà nước đang đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá cùng với quá
trình liên doanh, liên kết,… dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã và
đang đưa Việt Nam lên một tầm cao mới, khẳng định được vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế.
Đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước là chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước ta ngay sau thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế sang cơ
chế thị trường. Mục tiêu của biện pháp này nhằm tạo ra một hệ thống
doanh nghiệp nhà nước lành mạnh, có khả năng và thực lực tài chính,

thực sự trở thành “đầu tàu” trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất
nước. Cổ phần hoá là một trong những biện pháp sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước, đây là hình thức chuyển các doanh nghiệp nhà nước
sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần, chịu sự điều chỉnh của
Luật Doanh nghiệp (12/6/1999). Song, việc chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần,
các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước chuyển sang công ty cổ phần,
làm thế nào để vẫn giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa? Vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản ở các công ty được cổ phần hoá này như thế
nào? Đây là vấn đề đặt ra cho các cơ sở đảng và cho toàn Đảng ta.

4
Ngành Dệt - May Việt Nam là một trong những ngành có khối
lượng lao động lớn, giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Nhận thức rõ vai trò, tính chất và đặc thù của ngành, dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, lãnh đạo ngành đã chỉ đạo, thúc đẩy
và khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước trong ngành tiến hành cổ
phần hoá doanh nghiệp mình nhằm thúc đẩy và phát triển doanh nghiệp
phù hợp với xu thế chung của nền kinh tế trong nước và xu thế hội nhập.
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để
phát triển, xong muốn giữ vững sự ổn định chính trị ở nước ta hiện nay
cần phải giữ và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, hơn nữa Đảng thực hiện chức năng lãnh đạo và kiểm tra thông qua
hệ thống tổ chức của Đảng, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy,
để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng cần phải xây dựng cơ sở đảng
trong sạch, vững mạnh; giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nâng cao
phẩm chất, đạo đức cách mạng là vấn đề cốt tử, liên quan trực tiếp đến
sự tồn tại, phát triển của Đảng và có tính quyết định đối với mọi thành
tựu của cách mạng nước ta. Đặc biệt là ở các doanh nghiệp nhà nước sau
khi đã được cổ phần hoá, vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện như

thế nào, và Đảng ta phải làm gì để giữ được vai trò lãnh đạo ở các công
ty cổ phần đó thì nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần mới giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa được.
Thực tế, ngành Dệt - May Việt Nam trong tiến trình cổ phần hoá
các doanh nghiệp nhà nước, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng ở các công ty
này như thế nào, hoạt động của Đảng ở đây ra sao, Đảng có giữ được vai
trò tiên phong của mình như ở doanh nghiệp nhà nước hay không? Đây
là một vấn đề cấp thiết đang rất “nóng” ở hầu hết các công ty cổ phần
ngành Dệt - May Việt Nam nói riêng và các công ty cổ phần ở nước ta

5
nói chung. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp
nhà nước cổ phần hoá là tiếp tục củng cố và phát triển TCCSĐ đã có
sẵn, nhưng trong thực tiễn hoạt động cũng gặp không ít khó khăn, do
những thay đổi cơ bản bên trong doanh nghiệp. Đó là từ doanh nghiệp
một sở hữu sang đa sở hữu; từ đồng vốn chỉ độc tôn Nhà nước, nay đồng
vốn Nhà nước không còn độc tôn nữa mà chỉ chiếm một phần, còn vốn
của các thành phần kinh tế khác chiếm phần lớn, từ quyền lực tập trung
vào Ban Giám đốc do Nhà nước bổ nhiệm, nay quyền lực chia sẻ cho
những đại diện của các cổ đông có vốn góp lớn trong doanh nghiệp.
TCCSĐ ở các công ty này có còn giữ được vai trò của mình như ở các
doanh nghiệp nhà nước hay không?
Mong muốn tìm ra bài học mang tính quy luật, tôi đã chọn nghiên
cứu vấn đề: “Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong các công ty cổ
phần ngành Dệt - May Việt Nam hiện nay (qua khảo sát một số công ty
cổ phần ngành Dệt - May Việt Nam)” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ
của mình, nhằm góp phần làm sáng tỏ và nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng ta ở các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo với nội
dung là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường,
chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Quá trình này
được Đảng, Nhà nước, và các nhà khoa học hết sức quan tâm. đặc biệt là
vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và vai trò lãnh đạo của
Đảng ở các doanh nghiệp cổ phần này.Vì vậy, đã có nhiều chuyên khảo,
bài viết và công trình khoa học nghiên cứu về những vấn đề đó như:

6
- Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển DNNN (2005): Tình hình và nhiệm
vụ, giải pháp đẩy nhanh vững chắc cổ phần hoá DNNN. Tài liệu báo cáo tại
Hội nghị toàn quốc về cổ phần hoá, Hà Nội.
- Bộ Công nghiệp (2004): Báo cáo tình hình thực hiện cổ phần hoá
DNNN số 577/CV-TCCB, Tài liệu báo cáo tại Hội nghị toàn quốc về cổ phần
hoá, tháng 2/2005, Hà Nội.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW
(1996): Báo cáo chính của dự án hình thành và tổ chức quản lý công ty cổ
phần ở Việt Nam, Hà Nội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2005): Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại
hội VI, VII, VIII, IX) về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Thị Thanh Hà (2003): Tăng cường sự lãnh đạo của TCCSĐ trong
các DNNN ở nước ta hiện nay. Luận văn tốt nghiệp lý luận chính trị cao cấp.
- Đoàn Văn Hạnh (1998): Công ty cổ phần và chuyển DNNN thành
công ty Cổ phần. Nxb. Thống kê, Hà Nội.
- Lê Hồng Hạnh (2004): Cổ phần hoá DNNN, những vấn đề lý luận và
thực tiễn. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Về vấn đề nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng trong
nền kinh tế thị trường và trong các doanh nghiệp cổ phần hiện nay, có
các công trình như:

- Trịnh Đức Hồng - Dương Xuân Ngọc (2002): Về đổi mới phương
thức lãnh đạo trong TCCSĐ trong DNNN. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Hữu Nghĩa (2006): Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học -thực
tiễn Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học - thực tiễn. Bộ biên tập Tạp chí Cộng
sản, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Bộ biên tập Báo nhân dân và Đảng
uỷ khối các cơ quan kinh tế TW tổ chức, 3/2006, Hà Nội.

7
- Nguyễn Thị Chiên (2006: Vai trò của các tổ chức Đảng trong các
doanh nghiệp cổ phần ở Nghệ An hiện nay, Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Chính
trị học.
- Nguyễn Thị Chiên (2007): Vai trò của tổ chức cơ sở Đảng trong
doanh nghiệp cổ phần, Webside Học viện Báo chí và tuyên truyền.
- Đảng bộ các doanh nghiệp Nghệ An: Chuyên đề nâng cao chất lượng
TCCSĐ trong các doanh nghiệp cổ phần thuộc đơn vị các doanh nghiệp Nghệ An.
- Ngô Tùng Chinh (2005): Củng cố TCCSĐ trong các doanh nghiệp cổ
phần hoá. Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2005
Tuy nhiên, những công trình đó đã đề cập đến vấn đề này ở tầm vĩ
mô và còn rất chung cho cả nền kinh tế nước ta, cho những địa phương,
những ngành, lĩnh vực. Có một bài viết của tác giả Đào Lan ở Đảng uỷ
Công ty cổ phần May Hưng Yên về : “Nâng cao vai trò chỉ đạo phát triển
sản xuất kinh doanh, đáp ứng yêu cầu mới trong giai đoạn hội nhập”, trên
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam mà chưa có công trình khoa học nào
giải quyết cụ thể vấn đề vai trò lãnh đạo của Đảng ở các công ty cổ phần
trong ngành Dệt - May Việt Nam - một ngành có số lượng nhân lực rất
lớn, trong khi Đảng ta đang trực tiếp lãnh đạo đẩy nhanh quá trình cổ
phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Do đó, đề tài luận văn mà tác giả
lựa chọn là cần thiết, không trùng với các công trình đã công bố. Tác giả
sẽ tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của những người đi

trước để liên hệ và hoàn thành luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích
Nghiên cứu một cách khái quát vai trò lãnh đạo của Đảng trong
các công ty cổ phần và thực trạng lãnh đạo của Đảng ở một số công ty
cổ phần ngành Dệt - May Việt Nam để đề xuất một số giải pháp nhằm

8
nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong các công ty cổ phần
ở nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Luận văn làm rõ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong các công ty cổ phần.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng vai trò lãnh đạo của Đảng ở một
số công ty cổ phần ngành Dệt - May Việt Nam, luận văn đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong các công ty cổ
phần này ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu:
Cổ phần hoá là quá trình chuyển đổi căn bản từ hình thức sở hữu
chung sang hình thức đa sở hữu, là một khâu của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Với cơ chế mới này,
vai trò lãnh đạo của Đảng sẽ như thế nào? Xuất phát từ cách tiếp cận của
chủ nghĩa xã hội khoa học, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là:
Vai trò lãnh đạo của Đảng ở các Công ty Cổ phần (trong ngành Dệt -
May Việt Nam).
* Phạm vi nghiên cứu:
Quá trình chuyển đổi từ các doanh nghiệp nhà nước sang công ty
cổ phần được thực hiện ở nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau, trong
phạm vi của một luận văn thạc sỹ, tôi chỉ giới hạn trong phạm vi vai trò

lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở một số công ty cổ phần đã được cổ phần
hoá từ các doanh nghiệp nhà nước trong ngành Dệt - May Việt Nam.
5. Cơ sơ lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận

9
Luận văn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ sở lý luận cho việc
nghiên cứu quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ
phần và vai trò lãnh đạo của Đảng trong các công ty cổ phần.
* Nguồn tài liệu:
Các nguồn tư liệu sau đây được sử dụng để nghiên cứu đề tài:
- Các văn kiện Đại hội Đảng.
- Các Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Đảng bộ các Công ty Cổ
phần trong ngành Dệt - May Việt Nam.
- Kế thừa các tài liệu từ công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học có liên quan đến đề tài được đăng tải trên báo, tạp chí và các loại ấn
phẩm khác.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong nghiên cứu và khảo sát thực tế.
- Sử dụng phương pháp logích, phương pháp lịch sử và kết hợp
các phương pháp đó trong nghiên cứu và trình bày.
- Ngoài ra còn sử dụng phương pháp thống kê, điều tra xã hội học,
phân tích tổng hợp trong đánh giá tình hình.
- Nguồn tài liệu bao gồm: các Văn kiện của Đảng, các sử liệu, các
báo cáo tình hình công tác và hoạt động của tổ chức Đảng ở các công ty
cổ phần được khảo sát, các công trình nghiên cứu được công nhận có
liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp mới của luận văn

* Đóng góp mới về nội dung khoa học

10
- Đánh giá thực trạng vai trò lãnh đạo của Đảng trong một ngành
kinh tế cụ thể: ngành Dệt - May.
- Luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp để nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng trong các công ty cổ phần ngành Dệt - May Việt Nam.
* Đóng góp về mặt lý luận
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp thêm tiếng nói trong
việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong các công ty cổ phần.
- Cung cấp thêm tư liệu để các công ty cổ phần trong ngành Dệt
May tiếp tục đổi mới, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong sản xuất kinh doanh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.

11


Chương 1
CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN

1.1. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - đòi hỏi khách quan của
sự nghiệp đổi mới
1.1.1. Doanh nghiệp nhà nước - thực trạng và nhu cầu đổi mới
Sự sụp đổ của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp ở các
nước xã hội chủ nghĩa cuối những năm 80 của thế kỷ trước đã thức tỉnh chúng

ta nhìn nhận lại vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Đến nay, vẫn còn có sự
nhầm lẫn khi nói: “Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế nước ta”, còn nhìn chung người ta đã hiểu đầy đủ hơn theo đúng tinh thần
Nghị quyết của Đảng qua các thời kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X.
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X ghi rõ: “Trên cơ sở
ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân) đã hình thành nhiều hình thức sở
hữu và nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá
thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa… Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật
chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi
trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển…” [40,
tr.46].
Như vậy, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo chứ không phải là
DNNN, trong khi nó chỉ là một bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước. Bởi
vì theo quan niệm rộng, kinh tế nhà nước còn bao gồm cả: tài nguyên quốc
gia như đất đai, khoáng sản, vùng trời, vùng biển, tài nguyên gió, nước…; kết

12
cấu hạ tầng; dự trữ quốc gia; tài chính quốc gia… và cả lợi ích của Nhà nước
trong các loại công ty cổ phần có vốn góp.
Không ai phủ nhận vai trò và những đóng góp của DNNN trong các
cuộc kháng chiến và tái thiết đất nước sau hoà bình, thống nhất, đặc biệt là vai
trò quyết định, chủ đạo trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Ngay cả
trong thời kỳ đổi mới, DNNN đã đóng góp to lớn vào việc tạo ra “bộ mặt” kết
cấu hạ tầng quốc gia, cầu nối chủ lực với kinh tế nước ngoài, đảm bảo nguồn
lực thiết yếu cho dân chúng ở vùng sâu, vùng khó khăn và những nơi, những
lĩnh vực cần thiết cho nền kinh tế quốc dân nhưng các thành phần kinh tế
khác không làm được hoặc là không chịu làm do hiểu quả kinh tế thấp. Tuy

còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng trong thời gian qua DNNN đã thực sự là
công cụ để Nhà nước bình ổn giá, góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế, khẳng
định vai trò quan trọng, tích cực của DNNN.
Bên cạnh những thành tích đạt được, DNNN cũng bộc lộ nhiều yếu
kém, nhiều ý kiến đánh giá đây là khu vực hoạt động có hiệu quả, kém năng
động, gây lãng phí, tiêu cực tiền của của nhà nước nhiều nhất. Nhiều vụ án
kinh tế đã và đang xảy ra làm bất ổn cả về kinh tế lẫn xã hội, chính trị cho cả
một tỉnh, một vùng hay một bộ. Không ít DNNN hoạt động trong những lĩnh
vực độc quyền đã không làm được vai trò đem lại lợi ích cho dân mà ngược
lại đã xâm phạm lợi ích của họ, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân
vào Đảng, Nhà nước; Đảng, Nhà nước cũng giảm lòng tin vào DNNN. Công
nghệ, kỹ thuật chậm đổi mới, cơ chế quản lý nhùng nhằng, công tác cán bộ
phức tạp… Nếu không khẩn trương đẩy mạnh đổi mới DNNN thì khả năng
cạnh tranh ngay chính trên sân nhà đã khó chứ chưa nói gì hội nhập. Cụ thể:
Thứ nhất, trong những thành tựu kinh tế - xã hội chung của đất nước
sau 20 năm đổi mới thì DNNN đóng góp chưa tương xứng với tiềm năng và
đầu tư của nhà nước, ngay cả những lĩnh vực mà nhà nước độc quyền. Nhìn
chung, DNNN kinh doanh kém hiệu quả, để xảy ra nhiều tiêu cực và lãng phí.
Gần đây, báo chí đưa nhiều về sự chèn ép lẫn nhau ngay trong DNNN đang

13
gây thiệt hại cho người tiêu dùng và Nhà nước, không chỉ là câu chuyện
“tranh cãi” giữa Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT) với Viettel, EVN
Telecom, mà cả chuyện thông thầu hay bỏ thầu với giá thấp dưới chi phí tối
thiểu trong lĩnh vực xây dựng, giao thông và nhiều lĩnh vực khác v.v…
Thứ hai, thành tựu kinh tế mà thế giới trân trọng là xuất khẩu cà phê,
gạo và điều trong thời gian ngắn nước ta đã vươn lên đứng thứ hai thế giới thì
Tổng công ty Cà phê Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng xuất khẩu chưa đầy 30%
(còn lại là của các thành phần khác). Riêng về xuất khẩu hạt điều, chủ yếu là
doanh nghiệp dân doanh. Cũng tương tự như vậy, hạt tiêu xuất khẩu của Việt

Nam đang đứng thứ nhất thế giới thì chủ yếu cũng do dân doanh. Lĩnh vực
thuỷ sản lại càng khẳng định thêm điều đó (mặc dù có 3 tổng công ty thuỷ sản
Nhà nước). Sản phẩm dệt may đang đứng thứ hai về kim ngạch xuất khẩu
(sau dầu khí), tuy vậy phần lớn hoạt động của ngành này cũng chỉ là gia công
thuần tuý, sản phẩm có hàm lượng quốc gia quá ít, chủ yếu là tiền công, còn
từ vải đến phụ liệu, máy móc thiết bị hầu hết nhập ngoại; và trong tổng giá trị
kim ngạch xuất khẩu của ngành này, Tập đoàn Dệt may của Nhà nước cũng
chỉ chiếm khoảng 21% (năm 2005). Và trong 1 tỷ USD xuất khẩu đó hầu hết
là từ các công ty cổ phần hóa.
Thứ ba, kỹ thuật, công nghệ chậm đổi mới, nhìn chung dưới mức trung
bình của khu vực và thế giới. Nếu so với công nghệ của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì DNNN cũng chưa vươn kịp, nếu
không nói là còn thấp trên nhiều mặt. Đã thế, động lực để đổi mới công nghệ
còn rất yếu, vướng mắc nhiều rào cản về cơ chế chính sách và của cả bản thân
yếu tố con người trong các DNNN (chẳng hạn, đưa công nghệ cao vào DNNN
thì công nhân thừa đưa đi đâu?…). Các ngành công nghiệp có trình độ công
nghệ cao, hiện đại như điện tử, tin học mới chỉ chiếm vài phần trăm giá trị sản
xuất công nghiệp.
Thứ tư, quản trị doanh nghiệp phần lớn chưa đạt tiêu chuẩn ISO, nhìn
vào DNNN đang nặng nề quy trình theo kiểu cũ. Tính năng động thấp một

14
phần do bản thân doanh nghiệp, một phần do cơ chế quản lý chưa tạo quyền
chủ động cho DNNN như: Vấn đề nhân sự cấp cao của doanh nghiệp, cơ chế
tài chính theo kiểu định mức chi phí trực tiếp chưa hướng tới lợi nhuận. Một
số doanh nghiệp đang mắc cả cơ chế giá như: điện, xăng dầu, xi măng, sắt
thép. Vì vậy năng suất lao động thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh kém.
Nhiều sản phẩm thiết yếu do DNNN sản xuất có giá bán cao hơn nhiều so với
giá nhập khẩu.
Có thể nói, với vai trò dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, công cụ

điều tiết, phân bổ hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia của DNNN còn nhiều
điều thấp xa so với mong muốn.
Bên cạnh những yếu kém của DNNN thì nhiều khó khăn của DNNN
có cái do chính yếu của DNNN tạo ra, có cái do cả quá trình lịch sử, có cái do
cơ chế hiện hành.
Sau nhiều năm Đảng và Chính phủ tập trung tìm giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả cho DNNN bằng các định hướng lớn từ quan điểm đến luật lệ và
các quy định cụ thể, DNNN đã được nâng cao hơn quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong kinh doanh. Trên nhiều diễn đàn doanh nghiệp có nhiều ý kiến
đòi hỏi cần phải đảm bảo bình đẳng một sân chơi cho các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế và yêu cầu Nhà nước phải tạo môi trường cho doanh
nghiệp ngoài quốc doanh như DNNN.
Một là, quyền tự chủ của doanh nghiệp: hầu hết những doanh nghiệp
lớn đều phải kinh doanh theo chỉ định của Nhà nước. Ngay trong một mặt
hàng kinh doanh cũng không thể có lãi thì làm, lỗ thì thôi, phải mua cái này,
phải dự trữ cái kia, rồi phải bán theo khung giá này v.v và v.v… nhằm giúp
Chính phủ trong điều tiết thị trường.
Hai là, vấn đề nhân sự: Hầu hết các DNNN ở nước ta được thành lập
từ thời bao cấp, đội ngũ lao động tay nghề lạc hậu nhưng lại có thói quen biến
chế cả đời, thay họ không dễ, đó là chưa kể con cháu của ông A, ông B kính
gửi. Họ có thâm niên, tuổi Công đoàn, tuổi Đảng cao hoặc hoàn cảnh kinh tế

15
khó khăn… Lãnh đạo doanh nghiệp, từ cán bộ chủ chốt đến các bộ phận, bên
cạnh nhiều người có năng lực thực sự cũng vẫn còn không ít người kém cả về
năng lực và phẩm chất. Nhất là để thay hay bổ nhiệm một giám đốc doanh
nghiệp với quy trình hiện nay thì rất khó chọn được người giỏi. Hoặc dẫu có
người giỏi thì cũng khó có ai dám làm mạnh bởi còn phải “giữ gìn” để lấy tín
nhiệm kỳ tiếp theo. Có một thực tế là nhiều cán bộ trưởng thành nhờ không
làm gì nhiều nên không sai, còn làm nhiều ắt có sai và hầu như ai cũng gặp

không ít khó khăn, do đó nhiều người đã chọn phương án “an toàn”.
Ba là, những quy định về cơ chế điều hành DNNN sau rất nhiều cải
cách nhưng chưa thoát được cơ chế “ bộ Tứ”, rồi nhùng nhằng giữa hội đồng
quản trị và tổng giám đốc. Những quy định về phân cấp quyền hạn cho họ
tưởng là rõ nhưng không làm được. Ví dụ: Chủ tịch hội đồng quản trị bổ
nhiệm hoặc cho thuê tổng giám đốc nhưng lại phải được sự chấp thuận bằng
văn bản của cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp (Bộ, tỉnh…). Nhiều nơi tỉnh
còn quyết định cả giám đốc công ty con của tổng công ty, hoặc quyết định cả
phó giám đốc của công ty độc lập trực thuộc… Rồi cơ chế đầu tư, cơ chế
phân chia lợi nhuận vẫn còn nhiều bế tắc cho doanh nghiệp.
Bốn là, cơ chế tài chính, giá cả, tiền lương, thưởng… Chẳng hạn,
doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả nhưng chỉ được trích quỹ khen thưởng,
quỹ phúc lợi theo % trên vốn vay, còn vốn tự có thì không được trích lập quỹ.
Như vậy thì doanh nghiệp sử dụng hiệu quả vốn Nhà nước chỉ được cho Nhà
nước thôi. Thành tích thi đua theo bằng khen, giấy khen thường rơi vào lãnh
đạo hoặc bộ phận nhỏ người lao động, trong khi số đông lao động cần quỹ
khen thưởng và phúc lợi bằng tiền cho chính họ. Nhiều khi doanh nghiệp
muốn thưởng đường hoàng cho người có công với doanh nghiệp từ quỹ khen
thưởng nhưng như thế thì họ phải “biên chế” để thưởng chui. Đó là chưa kể
đến những định mức tài chính không tiến kịp với thay đổi của cơ chế thị
trường.

16
Năm là, cho tới nay đổi mới công nghệ, thiết bị của DNNN rất chậm,
khoảng 10% trong mấy năm qua. Trong khi quá nhiều DNNN thiết bị lạc hậu,
quá trình đầu tư của các thời kỳ trước có cái không hợp lý về quy mô, sản
phẩm…, có cái lạc hậu ngay khi đầu tư mới, có cái phải chấp nhận do thời kỳ
nhận viện trợ không hoàn lại (không có đường lựa chọn), có cái bị sức ép bởi
vốn vay… và cứ nếu tốc độ đổi mới như thời gian qua thì DNNN không thể
tiến kịp doanh nghiệp tư nhân, chưa nói đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài. Và ở đây cũng phải kể đến giá mua thiết bị mà DNNN phải chịu khấu
hao quá mức bình thường cho phép, không dễ gì một vài ba năm khắc phục
được.
Sáu là, quá ít DNNN vốn tự có đủ theo quy định, đó là chưa kể hiện
nay hơn 50% vốn tự có không phát huy hiệu quả, đang nằm trong tài sản chờ
thanh lý (38% thiết bị chờ thanh lý), số còn lại thường đang mtrong nợ khó
đòi, có cái do chính doanh nghiệp tạo ra, nhưng phân tích kỹ phần lớn do hậu
quả của lịch sử như phải bán chịu, phải ứng trước cho hộ dân, phải xây dựng
công trình này, công trình kia.
Bảy là, các loại kiểm tra, thanh tra chắc chắn là DNNN chịu nhiều hơn
các doanh nghiệp thành phần kinh tế khác, đó là chưa kể đến các chi phí “tài
trợ bắt buộc” mà DNNN phải chi cho các ngày lễ hội từ phường xã trở lên, từ
tổ chức này đến tổ chức khác, nói là tự nguyện nhưng không thể từ chối được.
Đó cũng là nguyên nhân dẫn tới kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất
kinh doanh trong các DNNN. Vì vậy, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy kinh tế nhà
nước phát triển đòi hỏi phải đổi mới tổ chức hoạt động của các DNNN quản lý.
1.1.2 Sự nghiệp đổi mới và quá trình chuyển đổi từ doanh nghiệp
nhà nước sang công ty cổ phần dưới sự lãnh đạo của Đảng ta
* Sự nghiệp đổi mới và quan điểm của Đảng về sự chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần
Từ cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đã diễn ra
quá trình khảo nghiệm, tìm tòi con đường đổi mới, nhằm đưa đất nước ra khỏi

17
những khó khăn, trì trệ của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là quá trình
Đảng Cộng sản Việt Nam đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, nhận
thức đúng đắn và sâu sắc hơn về thời kỳ quá độ và về chủ nghĩa xã hội, để
vận dụng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rằng, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta nhất định phải trải qua những bước đi, những chặng đường

khác nhau. Năm 1970, Đảng ta đưa ra khái niệm “ Bước đi ban đầu ” của thời
kỳ quá độ, mà nhiệm vụ cơ bản là tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá và cải
thiện đời sống nhân dân. Tháng 3 năm 1982, tại Đại hội V, Đảng ta đưa ra
khái niệm chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, mà nhiệm vụ là chuẩn bị
những tiền đề cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá XHCN. Đại hội VI của
Đảng (12-1986) với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật cho rằng: “Trên 10 năm lãnh đạo đất nước ta đi vào chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã có điều kiện để nhận thức sâu
sắc hơn những đặc điểm của chặng đường đó. Nền sản xuất nhỏ với những
nhược điểm vốn có của nó, hậu quả của những cuộc chiến tranh lâu dài trước
đây và cả của cuộc chiến tranh mới, tàn dư của chế độ cũ, đang là những trở
ngại trên con đường phát triển của nước ta. Bằng những thành tựu đã đạt được
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã khắc phục một bước
sự phân tán và lạc hậu của nền kinh tế cải biến một phần cơ cấu kinh tế - xã
hội, đặt những cơ sở đầu tiên cho bước phát triển mới. Nhưng chúng ta chưa
tiến xa được mấy so với điểm xuất phát quá thấp. Những sai lầm và khuyết
điểm đã mắc phải càng làm cho tình hình thêm khó khăn” [24, tr.16].
Bắt đầu từ đâu để đưa đất nước vượt qua khó khăn và đi lên một cách
vững vàng trên con đường của chủ nghĩa xã hội. Đó là đòi hỏi của cuộc sống
và cũng là sứ mệnh lịch sử của Đảng trước đất nước và dân tộc. Phải nhận
thức cho đúng đắn những nội dung, những đặc trưng của thời kỳ quá độ để
điều chỉnh, đổi mới quan điểm, chủ trương, chính sách cho phù hợp. Nghĩa là
phải nhận thức rõ tình hình, thấy rõ điểm xuất phát, cũng như thấy rõ nước ta

18
đang ở giai đoạn, hay chặng nào của thời kỳ quá độ. Không thể lẫn lộn xã hội
của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ với xã hội xã hội chủ nghĩa đã được
xây dựng về căn bản. Cần phải nắm vững định hướng, mục tiêu chiến lược là
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhưng cũng phải thấy rõ mục tiêu của
chặng đường trước mắt. Đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra là trên cơ sở

của nhận thức và tư duy như thế.
Trước hết phải đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách nhiều
thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển trong suốt thời kỳ quá độ. Đại
hội VI của Đảng xác định cần có chính sách sử dụng đúng đắn các thành phần
kinh tế. Chính sách đó cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế , với quy
mô, trình độ kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu
thông, khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với nhau,
trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Đại hội VI cũng xác định
kinh tế xã hôị chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể,
cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó. Các thành phần
kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá
thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư
nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công
tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác.
Điều quan trọng nhất là củng cố và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa,
nhưng cũng coi trọng và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khác phát
triển. Khi thực hiện chính sách kinh tế mới, Lênin rất coi trọng sự phát triển
của các thành phần kinh tế khác, nhất là thành phần kinh tế tư bản nhà nước.
Đối với một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, thì càng cần
thiết phải sử dụng kinh tế tư bản nhà nước. Lênin nhấn mạnh: “Trong một
nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững
chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội,
không phải bằng cách trực tiếp dựa vào nhiệt tình, mà là với nhiệt tình do cuộc

19
cách mạng vĩ đại sinh ra, bằng cách khuyến khích lợi ích cá nhân, bằng sự
quan tâm thiết thân của cá nhân, bằng cách áp dụng chế độ hạch toán kinh tế.
Nếu không, các đồng chí sẽ không tiến đến chủ nghĩa cộng sản được; nếu
không, các đồng chí sẽ không dẫn được hàng chục và hàng chục triệu người

đến chủ nghĩa cộng sản. Đời sống thực tế đã chỉ rõ cho chúng ta như vậy.
Bước tiến khách quan của cách mạng đã chỉ rõ cho chúng ta như vậy” [55, tr.
102].
Sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới kinh tế được triển khai mạnh mẽ.
Năm 1987, trong Quyết định số 217/HĐBT (nay là Chính phủ), ý tưởng về cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được đưa ra. Quyết định nêu rõ: “Cần thí
điểm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và giao cho Bộ Tài chính
chủ trì” [25, tr.14]. Tuy nhiên, quan điểm về cổ phần hoá lúc này chưa định
hình rõ ràng, ý tưởng mới chỉ dừng ở mức tạo ra một cơ chế doanh nghiệp
nhà nước huy động vốn là chính, do đó trong chỉ đạo cho phép DNNN phát
hành thêm cổ phiếu, hoặc khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước hùn vốn
cổ phần để hình thành công ty cổ phần mới. Tư tưởng chỉ đạo ở giai đoạn này
là sở hữu nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo ngay trong các công ty cổ phần.
Cổ phần hóa là việc chuyển DNNN thành CTCP hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp. So với các hình thức sắp xếp lại DNNN khác (tổ chức lại, giải
thể hoặc phá sản DNNN; giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN;
chuyển DNNN thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên), CPH
được xem là một chủ trương quan trọng và được thể chế hoá trong các văn
bản pháp luật đầu tiên về CPH ở nước ta là Quyết định số 217/HĐBT ngày
20/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Tại điều 22 của
Quyết định này quy định: “Giao cho Bộ Tài chính nghiên cứu và tổ chức làm
thử việc mua bán cổ phần ở một số xí nghiệp quốc doanh”. Tuy nhiên, thực
chất thì CPH tại thời điểm này chưa thể thực hiện được vì chưa có sự thống
nhất về quan điểm, nhận thức từ phía các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

20
Hơn nữa, khung pháp lý cơ bản về CPH DNNN chưa có (Luật Công ty chưa
được ban hành).
Ngày 10/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 143/HĐBT
trong đó có đề cập lại vấn đề CPH. So với các quy định trước đó thì nội dung

quy định lần này tại Quyết định 143 đã xác định rõ mục tiêu CPH, cách thức
tiến hành CPH. Tuy nhiên, vì vẫn chưa có hướng cụ thể của các Bộ chức năng
như Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội… nên chỉ có một số
xí nghiệp quốc doanh làm thử nghiệm song mỗi nơi làm mỗi kiểu, rời rạc và
không hiệu quả.
Nhận thức rõ CPH là một trong những giải pháp lớn, cơ bản để vực
dậy DNNN ở nước ta, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương II (khoá VII) đã
đưa ra chủ trương: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện
thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới,
đồng thời xác định phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu
đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp” [27, tr.35].
Thực hiện chủ trương trên, ngày 8/6/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Chỉ thị số 202/CP về “thí
điểm chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ phần” và chỉ thị số
84/TTg ngày 4/3/1993 về “Xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp và
các giải pháp đa dạng hình thức sở hữu đối với DNNN”.
Sau thời gian thực hiện thí điểm theo các văn bản pháp luật nêu trên,
ngày 7/5/1996 Chính .phủ đã ban hành Nghị định 28/CP về Chuyển đổi một
số DNNN thành công ty cổ phần và Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 về
sửa đổi một số điều của Nghị định 28/CP. Hai nghị định này đã tạo ra khung
pháp lý đầy đủ hơn để mở rộng CPH DNNN.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Nghị định 28/CP và Nghị định
25/CP đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập. Việc thay thế hai nghị định trên
bằng một văn bản pháp lý hoàn thiện hơn là yêu cầu cấp bách để đẩy mạnh
CPH DNNN.

21
Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 29/6/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị
định 44/CP thay thế Nghị định 28/CP và Nghị định 25/CP. Trải qua 4 năm
thực hiện, Nghị định 44/CP cũng gặp không ít vướng mắc mà Nhà nước phải

tiếp tục tháo gỡ nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn thúc đẩy tiến trình
CPH và ngày 19/6/2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định 64/CP thay thế cho
Nghị định 44/CP. Hai năm sau, Nghị định 64 được thay thế bằng Nghị định
187/CP ngày 16/11/2004. Nghị định 187/CP được xem là văn bản điều chỉnh
CPH DNNN hoàn chỉnh nhất tính đến thời điểm hiện tại.
Bản chất của CPH là đa dạng hoá hình thức sở hữu tại các DNNN hiện
nay. Từ chỗ là các “tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý” “nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước
giao”, các DNNN sau khi được CPH sẽ hoạt động và tổ chức dưới sự quản lý
của các chủ đầu tư (trong đó Nhà nước chỉ là một trong những chủ đầu tư).
Với sự tham gia góp vốn và quản lý đa dạng này, các DNNN mất đi thế độc
quyền là các tổ chức kinh tế do thể chế chính trị cao nhất là Nhà nước thiết
lập.
Thực hiện chính sách chuyển DNNN thành CTCP, nhằm một số mục
tiêu cơ bản sau:
Một là, với việc CPH, chúng ta xác định một cách rõ ràng được chủ sở
hữu đích thực của doanh nghiệp; để từ đó quy trách nhiệm cụ thể có liên quan
đến quá trình quản lý các hoạt động của doanh nghiệp, khắc phục tình trạng
“cha chung không ai khóc” đối với nguồn vốn Nhà nước thường xảy ra trước
đây. Đây là ưu điểm hơn hẳn của CPH so với việc chuyển đổi DNNN thành
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Bởi việc chuyển đổi DNNN
thành công ty TNHH một thành viên chỉ là phương thức thay đổi hình thức
quản lý của doanh nghiệp mà không làm mất đi quyền sở hữu độc nhất và tối
cao đối với tài sản của DNNN, đồng thời với việc đa dạng hoá hình thức sở
hữu, CPH đã giúp doanh nghiệp có cơ hội tiếp nhận được nguồn vốn tiềm
năng từ thị trường trong và ngoài nước; cùng với nó là việc tiếp nhận các kỹ

22
năng quản lý mới, các công nghệ hiện đại. Đây chính là những tài sản hết sức
có giá trị trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời, nó cũng thể hiện ưu điểm

của CPH so với các hình thức sắp xếp lại DNNN khác như: giao, bán, khoán
hay chuyển đổi sang mô hình công ty TNHH một thành viên. Bởi tất cả các
hình thức sắp xếp này, cơ hội cho cá nhân, tổ chức được góp vốn đầu tư và
tham gia quản lý DNNN là rất hiếm, có thể nói là không thể. Nếu sự sắp xếp
DNNN chỉ bó hẹp trong phạm vi thay đổi chính mình mà cô lập, không có sự
tác động của các tác nhân bên ngoài trong quá trình đổi mới thì cũng rất khó
đạt hiệu quả cao. Còn đối với hình thức cho thuê doanh nghiệp, mặc dù tổ
chức được thuê, quản lý doanh nghiệp có thể đạt một trình độ quản lý rất cao
nhưng cơ hội cho việc tiếp nhận, học hỏi các công nghệ mới đó còn rất hạn
chế.
Hai là, CPH DNNN góp phần xác định rõ trách nhiệm của doanh
nghiệp, người quản lý doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền liên
quan đến doanh nghiệp một cách rõ ràng và cụ thể, đồng thời nâng cao tinh
thần trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc bảo toàn và phát triển vốn, tài
sản Nhà nước giao quản lý tại doanh nghiệp.
Bên cạnh việc xác định trách nhiệm cụ thể của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền liên quan đến doanh nghiệp, CPH còn góp phần nâng cao ý thức
trách nhiệm của những người quản lý, người lao động đối với doanh nghiệp.
Bởi ví khi DNNN không còn sự bao cấp của Nhà nước như trước mà phải
hoạt động theo cơ chế thị trường thì chính bản thân doanh nghiệp phải biết tự
đứng vững, do đó ý thức trách nhiệm của người quản lý và người lao động
trong doanh nghiệp cũng buộc phải thay đổi. Sự tồn tại của doanh nghiệp có ý
nghĩa sống còn về mặt lợi ích vật chất đối với họ, đối với Nhà nước. Trách
nhiệm và quyền lợi của họ trong doanh nghiệp luôn gắn liền với nhau. Do đó,
các vấn đề tham gia giám sát, kiểm tra hoạt động đối với doanh nghiệp
thường được chú trọng, việc phát huy tinh thần trách nhiệm đối với doanh
nghiệp sẽ được nâng cao.

23
Mặt khác, thông qua CPH DNNN, việc xử lý trách nhiệm của cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hiệu quả của doanh nghiệp cũng được
xác định rạch ròi.
Ba là, CPH góp phần mang lại sự nhiệt tình hơn trong lao động, công
tác của đội ngũ công nhân viên, người lao động trong DNNN.
CPH DNNN góp phần loại bỏ quan điểm cũ về hưởng biên chế, theo
đó vị thể, công ăn việc làm của họ luôn ổn định bất kể tình hình hoạt động của
doanh nghiệp ra sao. Tình trạng phổ biến trước đây khi còn là DNNN thì năng
suất lao động, hiệu quả công tác trong các doanh nghiệp thường không được
chú trọng đúng mức. Sự nhiệt tình trong công tác và lao động thưòng phụ
thuộc vào tình hình của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động cầm chừng thì
người lao động, người quản lý cũng hoạt động cầm chừng theo, thiếu nhiệt
tình do có sự bao cấp, ấn định “tỷ lệ cứng” lương và phụ cấp trước của Nhà
nước đối với doanh nghiệp, đối với người lao động.
Bốn là, CPH DNNN góp phần đảm bảo công tác quản lý nội bộ
DNNN ngày càng chặt chẽ hơn.
Cổ phần hóa đem lại những thay đổi lớn về tổ chức quản lý đối với
DNNN. Khi chuyển DNNN sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp thì cơ
chế tổ chức quản lý của DNNN sẽ không còn chịu sự điều chỉnh bởi Luật
Doanh nghiệp. Khi đó, việc tham gia quản lý, giám sát trong doanh nghiệp sẽ
được chú trọng hơn, vì nó có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp đến các quyền và lợi ích vật chất của những người có liên
quan đến doanh nghiệp. Việc chọn nhân sự tham gia quản lý, điều hành doanh
nghiệp sẽ được chú trọng nhiều về mặt chuyên môn, năng lực, phẩm chất trên
cơ sở gắn chặt quyuền lợi và trách nhiệm của họ đối với doanh nghiệp. Vốn
và tài sản của doanh nghiệp sẽ được quản lý chặt chẽ hơn, sử dụng hợp lý
hơn. Chẳng hạn, chuyển đổi DNNN thành CPH thì cơ cấu tổ chức quản lý của
công ty này tại Luật Doanh nghiệp được quy định rất chặt chẽ và khoa học
dựa theo trình tự: Đại hội cổ đông - Hội đồng quản trị - Tổng giám đốc (Giám

24

đốc) - Ban kiểm soát (nếu có trên 11 cổ đông). Trong đó, mối quan hệ giữa
Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc (Giám đốc) hoàn toàn có sự phân định rõ
ràng, cụ thể, khác biệt rất lớn so với trong mô hình DNNN trước đó.
Chính vì những ưu điểm trên nên CPH đã trở thành hình thức được lựa
chọn nhiều hơn cả trong quá trình sắp xếp lại DNNN ở nước ta.
* Đảng lãnh đạo quá trình chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước sang
công ty cổ phần
Đảng ta xác định: CPH giai đoạn này nhằm mục tiêu chính là thu hút
vốn và chuyển đổi mô hình tổ chức sản xuất, kinh doanh của DNNN. Đối
tượng CPH vẫn còn khá hẹp, chỉ bao gồm các DNNN vừa và nhỏ, không cần
Nhà nước giữ 100% vốn. Đối tượng mua cổ phần chủ yếu chỉ là cán bộ công
nhân viên trong doanh nghiệp, cổ đông ngoài doanh nghiệp tuy có nhưng ở
mức độ không đáng kể.
Tiếp đó, tháng 5-1996, Chính phủ ban hành Quyết định số 28/CP về
chuyển một số DNNN thành CTCP. Quyết định đã đưa ra một quy trình và
chính sách CPH đồng bộ về các mặt: Mở rộng diện CPH ra tất cả các DNNN
mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn và có phương án SXKD có hiệu quả,
quy mô vừa và nhỏ; mở rộng thêm hình thức CPH một bộ phận doanh nghiệp;
mở rộng quyền quyết định CPH cho bộ và địa phương (doanh nghiệp dưới 3
tỷ đồng); thực thi chính sách ưu đãi cho không cổ phiếu đối với người lao
động trong doanh nghiệp đi cùng chế độ vay trả chậm để mua cổ phiếu; giảm
thuế cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá trong hai năm và miễn phí chuyển tài
sản, được vay vốn như DNNN…
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6-1996), Đảng ta nhấn
mạnh: “Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà
nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn
hiệu quả, làm cho tài sản thuộc sở hữu nhà nước ngày càng tăng lên”. Đại hội
chỉ rõ: “Tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý để triển khai
tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, nhằm tạo

×