Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Nhận thức của sinh viên đại học về sống thử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.38 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN




ĐÀO THỊ TUYẾT MAI



NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC VỀ SỐNG THỬ
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP Ở HÀ NỘI: TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA,
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN)





LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC






HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN





ĐÀO THỊ TUYẾT MAI



NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC VỀ SỐNG THỬ
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP Ở HÀ NỘI: TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA,
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN)

Chuyên ngành : Xã hội học
Mã số : 60 31 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Mai Quỳnh Nam



HÀ NỘI - 2009

0
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, đời sống vật chất của con
người được cải thiện ngày càng được nâng cao hơn, đồng thời đời sống tinh thần
cũng có nhiều biến đổi, trong đó gia đình có thể coi là tấm gương phản ánh sâu sắc

sự biến đổi xã hội. Sự biến đổi của gia đình biểu hiện ở nhiều mặt: quy mô, cơ cấu,
vai trò, chức năng của gia đình. Bên cạnh mô hình gia đình truyền thống, gia đình
hiện đại, hiện nay ngày càng phổ biến các mô hình gia đình mới như gia đình đồng
tính, gia đình chỉ có bố hoặc mẹ nuôi con, đặc biệt là việc chung sống trước hôn
nhân của các cặp đôi nam nữ có thể coi là mô hình gia đình tiền hôn nhân.
Theo Báo cáo tổng hợp được công bố vào tháng 2 năm 2009 của Dự án quốc
gia điều tra về tình trạng hôn nhân của Mỹ (The national marrige Project) thì xu
hướng ngày càng nhiều các cặp đôi nam nữ chung sống trước hôn nhân và tỉ lệ này
gia tăng với tốc độ rất nhanh [60, pg2] (xem thêm phụ lục số 1). Qua bảng số liệu
điều tra về tỉ lệ các cặp đôi chung sống không kết hôn trên tổng số các cặp đôi sống
chung tại một số nước trên thế giới cho thấy cao nhất là ở New Zealand, thập niên
đầu của thế kỷ 21 tỷ lệ các cặp đôi chung sống không kết hôn tăng 59,1% so với tỷ
lệ đó của những năm 90 thế kỷ 20. Con số này ở các nước Anh, Mỹ, Úc lần lượt là
52,5%; 49% và 48,2%. Dữ liệu công bố ở Anh cho thấy rằng 12% dân chúng ở tuổi
từ 18 đến 24 là đang sống chung không hôn nhân với nhau [1, tr474].
Ở Mỹ, trong cuộc tổng điều tra dân số đều có chỉ số về các cặp chung sống
trước hôn nhân (cohabiting), đồng nghĩa với việc họ xem việc chung sống trước hôn
nhân cũng là một chỉ báo của hệ thống gia đình. Hiện nay tỷ lệ kết hôn của Mỹ đã
giảm xuống còn 43% kể từ năm 1960. Cùng với đó, số lượng cặp đôi nam nữ chung
sống không kết hôn tại Mỹ tăng gấp 6 lần vào thập niên 60 của thế kỷ XX và đã
tăng thêm 48% nữa vào giữa những năm 1990 và 1998. Theo báo cáo năm 2001 của
Cục thống kê Mỹ, 50% số người tuổi từ 25 đến 40 là sống chung với nhau không
kết hôn [1, tr475]. Theo số liệu công bố của Dự án quốc gia nghiên cứu về hôn nhân
của Mỹ cho thấy: năm 1960 có 439.000 cặp đôi sống chung không kết hôn, năm


1
1970 là 523.000 cặp đôi, năm 1980 là 1.589.000 cặp đôi, đến năm 2007 con số này
là 6.445.000 cặp đôi [59, pg7] (xem thêm phụ lục số 2). Như vậy từ năm 1960 đến
năm 2007 số cặp đôi nam nữ chung sống không kết hôn đã tăng 15 lần. Trong đó,

tính riêng số lượng cặp đôi nam nữ chung sống trước hôn nhân có con dưới 15 tuổi
từ năm 1960 đến năm 2005 đã tăng 9,9 lần. (Năm 1960 là 197.000 cặp, năm 2005 là
1.954.000 cặp) (xem thêm Phụ lục số 3).
Nếu như một nghiên cứu năm 1989, tại Mỹ đã chỉ ra rằng khoảng 60% các
cặp chung sống trước hôn nhân đã kết thúc bằng cuộc hôn nhân thực sự [64, pg.8]
thì cũng tại Quốc gia này đã có cuộc nghiên cứu kéo dài 3 năm, kết quả được công
bố vào tháng 8 năm 2002 cho thấy 86% cuộc sống thử kết thúc bằng chia tay. Khi
tiến hành điều tra tiếp 14% đã tiến đến hôn nhân thì những cặp đã sống thử này có tỉ
lệ ly hôn cao hơn gấp đôi những cặp đôi trước đây sống riêng [63, pg.3]. Tại
Canada, kết quả cuộc nghiên cứu do trường Đại học Western Ontario thực hiện,
khảo sát 8000 người đã từng kết hôn, đã cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa ly
hôn và chung sống trước hôn nhân. Nghiên cứu đã chỉ ra việc chung sống trước hôn
nhân đã tác động trực tiếp một cách tiêu cực đến hôn nhân, làm giảm tính hợp pháp
và sự bền vững trong hôn nhân [70, pg.5].
Ở Việt Nam, gần 10 năm trở lại đây xuất hiện hiện tượng nam nữ thanh niên
chung sống trước hôn nhân – thường xuyên được nhắc đến là với khái niệm “sống
thử” - trong đó có nhóm SV cùng việc ra đời xóm trọ “gia đình SV”. Trong cuộc
Hội thảo Gia đình với trẻ em do Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam tổ
chức tháng 6 năm 2001, PGS.TS Lê Khanh đã phát biểu về một trong những thách
thức đối với gia đình Việt Nam hiện nay là: "Những quan niệm xa lạ với truyền
thống đạo đức của dân tộc về hôn nhân và gia đình (sống "thử" với nhiều người
trước khi kết hôn với một người) của xã hội phương Tây đang làm xuất hiện ở Việt
Nam những "gia đình giả" cùng với lối sống buông thả, tuỳ tiện trong quan hệ nam
nữ, ngang nhiên thách thức dư luận xã hội, đạo lý và luật pháp" [19, tr30].
Như vậy, các nhà nghiên cứu trong nước cũng đã đặt hiện tượng chung sống
trước hôn nhân của thanh niên bên cạnh vấn đề gia đình, nhưng chưa thực sự coi đó
là một vấn đề của gia đình.

2
Không phải bạn trẻ nào cũng thích sống thử nhưng tâm lý chung của giới trẻ

là thích thử. Gọi là “sống thử” nhưng thực tế đây là cuộc sống thật bởi những cặp
đôi này sống chung, cùng ăn, cùng sinh hoạt chung và có QHTD như các cặp vợ
chồng thật, tuy nhiên chưa đăng ký kết hôn hay đơn giản hơn là chưa có một đám
cưới chính thức ra mắt họ hàng.
Đối tượng sống thử tập trung vào giới thanh niên, trong đó có SV. Là một
nhóm xã hội đặc thù, SV Việt Nam ngày càng đông đảo: năm 1996-1997 có
568.300 SV, đến 2001-2002 con số này đạt 974.119 SV, tăng 1,7 lần trong vòng 5
năm. Số SV trên 1 vạn dân năm 1994 là 26, đến 2000-2001 đã là 118 SV/10000
dân. Số SV năm 2003 là 1.131.000, năm 2004 là 1.319.800 SV, năm 2005 là
1.387.100 SV, năm 2006 là 1.666.200 SV và đến năm 2007 tính sơ bộ có 1.928.400
SV [58]. Cùng với sự lớn mạnh về lượng là sự trưởng thành về chất. Bên cạnh
những thành tích vượt trội trong học tập và nghiên cứu khoa học, đời sống tinh thần
của SV hiện nay cũng có nhiều biến đổi. Việc nam nữ SV chung sống trước hôn
nhân ngày càng phổ biến. Cùng với đó là QHTD trước hôn nhân, những vấn đề về
sức khỏe sinh sản, tình trạng nạo phá thai, sự biến đổi tâm lý giới trẻ,…
Ở Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu về những vần đề liên quan như:
nhận thức, thái độ và hành vi tình dục của SV đại học, nạo thai trước hôn nhân của
nữ thanh niên tại Hà nội, kiến thức phòng tránh thai của nam nữ thanh niên chưa lập
gia đình,…Chỉ trong 0,22 giây tìm kiếm trên mạng Google cho kết quả 17.200.000
bài viết liên quan đến “sống thử” (tất nhiên trong số này có các bài báo trùng lặp vì
đăng tải ở nhiều Website khác nhau). Một số nơi tổ chức những diễn đàn bàn luận
về sống thử - nên hay không nên, tiêu biểu là buổi tranh luận trực tuyến do báo
mạng Tienphongonline tổ chức ngày 8/4/2005 đã thu hút số lượng độc giả rất lớn.
Và ngày 2/12/2007 tại Hội trường trường ĐHKHXH&NV Hà Nội đã diễn ra cuộc
trao đổi thẳng thắn và sôi nổi giữa các chuyên gia tâm lý và SV với chủ đề “Yêu và
sống sao cho lành mạnh”,…Những điều này cho thấy sống thử thực sự đang là một
vấn đề nóng bỏng trong giới SV và thu hút được nhiều sự quan tâm của nhiều đối
tượng khác nhau.

3

Có ý kiến đồng tình với sống thử, cũng có ý kiến phản đối kịch liệt lối sống
này, còn những người trung lập thì không hưởng ứng cũng không phản đối. Mỗi bên
đều có những lý lẽ, những biện giải cho suy nghĩ của mình. Nhưng một thực tế
không thể phủ nhận được là việc sống thử trước hôn nhân đã ảnh hưởng sâu sắc đến
lối sống của SV nói riêng và giới trẻ nói chung. Cần có một định hướng rõ ràng, cụ
thể hơn để các bạn trẻ nhận thức, hiểu biết được thực tế cuộc sống và tìm ra con
đường đi tốt nhất. Sống thử trước hôn nhân có thực sự là một lối sống mới cần được
ủng hộ của SV nói riêng và giới trẻ nói chung không? Sống thử mang lại những lợi
ích gì và để lại hậu quả thế nào cho những người trong cuộc? Để trả lời được những
câu hỏi trên, cần có một cuộc nghiên cứu trên quy mô rộng và kéo dài về thời gian.
Để bắt đầu cho quá trình tìm hiểu lâu dài, sâu rộng về vấn đề đó nên tìm hiểu
nhận thức của SV đối với vấn đề này đồng thời giúp các bạn SV có lối sống đúng
đắn và hợp lý hơn cần hiểu họ nhận thức ra sao về sống thử? Cuộc sống này có gì
giống và khác với cuộc sống gia đình không?
Xuất phát từ những trăn trở trên, tác giả luận văn chỉ tìm hiểu một góc cạnh
nhỏ của vấn đề đó là “Nhận thức của SV Đại học về sống thử” (Qua nghiên cứu
trường hợp: ĐHBKHN, HVBC&TT, ĐHKHXH&NV tại Hà Nội). Đây là 3 trường
Đại học tiêu biểu cho 3 cụm trường Đại học lớn ở Hà nội và mỗi trường có những
nét đặc trưng riêng: Đại học Bách khoa là trường về khoa học tự nhiên,
ĐHKHXH&NV là trường về khoa học xã hội và HVBC&TT là trường Đảng.
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về góc độ lý luận, tác giả luận văn gắn sống thử với phạm trù gia đình, giúp
các bạn SV nhận thức rõ hơn nữa sống thử thực sự là một phần trong bức tranh đa
diện của đời sống gia đình.
Về góc độ thực tiễn, tìm hiểu nhận thức của SV về vấn đề sống thử, đồng
thời phân tích những yếu tố tác động đến nhận thức của SV, phân tích hệ quả xã hội
để giúp chính các bạn SV có cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề trên và phát triển lối
sống lành mạnh.
Đồng thời đề tài hy vọng giúp ích cho công tác quản lý SV đại học hiện nay
và cũng mong góp phần nhỏ bé vào chuyên ngành xã hội học gia đình.


4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nhận thức của SV Đại học đối với vấn đề sống thử trước hôn nhân
dưới góc độ so sánh với cuộc sống gia đình, đánh giá những yếu tố tác động đến
nhận thức đó, phân tích hệ quả xã hội. Từ đó góp phần đưa ra kiến nghị, giải pháp
giúp cho SV có nhận thức đúng đắn hơn đối với vấn đề này và sẽ góp phần phát
triển lối sống có văn hoá trong giới thanh niên nói chung và SV nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những khái niệm, cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như phương pháp
nghiên cứu về nhận thức của SV đối với vấn đề sống thử.
- Tìm hiểu nhận thức của SV đại học đối với vấn đề sống thử dưới góc độ so
sánh với cuộc sống gia đình.
- Phân tích những yếu tố tác động đến nhận thức của SV đối với vấn đề sống thử.
- Nhận diện xu hướng sống thử thông qua nhận thức của SV.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể để góp phần giúp SV có những nhận thức
thực tiễn đúng đắn, hợp lý hơn về vấn đề sống thử.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức của SV đại học với vấn đề sống thử.
4.2. Khách thể: SV Đại học, độ tuổi từ 18-24
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: SV 3 trường ở Hà Nội: ĐH BKHN, HVBC&TT và ĐH
KHXH&NV.
- Thời gian: từ tháng 9 năm 2008 đến tháng 9 năm 2009
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Phần lớn SV chấp nhận sống thử như một hiện tượng tất yếu trong quá trình
biến đổi xã hội của Việt Nam.
- SV coi trọng đời sống tinh thần hơn đời sống vật chất và đời sống tình dục
trong sống thử.

- Nhà trường là yếu tố tác động sâu sắc nhất đến nhận thức của SV về sống thử.

5
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
- Phương pháp luận chung: Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Vận dụng một số lý thuyết:
+ Lý thuyết về gia đình
+ Lý thuyết về giới
+ Lý thuyết cấu trúc - chức năng
+ Lý thuyết hành vi lựa chọn hợp lý
Bên cạnh đó cũng tiếp cận xã hội học lối sống.
6.2. Phương pháp thu thập thông tin
a. Phân tích tài liệu:
Trước khi tiến hành khảo sát thực tế, tác giả đã sử dụng phương pháp phân
tích tài liệu để nắm bắt được thực trạng của vấn đề nghiên cứu. Phân tích tài liệu
giúp người nghiên cứu tổng quan vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở đó giúp cho việc
định hướng khảo sát thực tế cụ thể hơn, tìm hiểu những khía cạnh còn bỏ trống
trong các đề tài nghiên cứu trước. Việc thu thập và phân tích tài liệu bao gồm:
+ Các chuyên khảo về hôn nhân, gia đình, QHTD trước hôn nhân.
+ Các bài báo có nội dung về vấn đề sống thử, QHTD trước hôn nhân,
SKSS của thanh niên nói chung và SV.
+ Các đề tài, công trình nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án có đề
tài liên quan về QHTD trước hôn nhân.
b. Phỏng vấn sâu: 32 cuộc phỏng vấn sâu, cụ thể đối tượng là:
+ 20 SV lựa chọn có chủ định: 10 nam, 10 nữ
+ 3 phụ huynh SV.
+ 3 chủ nhà trọ.
+ 3 đại diện Ban quản lý KTX (mỗi trường một đại diện).

+ 3 cán bộ đoàn (mỗi trường một đại diện).

6
Danh sách các SV được lựa chọn để phỏng vấn:
- Học viện BC&TT: 6 sinh viên, 3 nam và 3 nữ
- Đại học KHXH&NV: 7 sinh viên, 4 nữ và 3 nam
- Đại học BKHN: 6 sinh viên, 4 nam và 3 nữ.
Về tỉ lệ khóa học:
- Sinh viên năm 1 và năm 2: 10 người (5 ngoại tỉnh và 5 ở Hà Nội)
- Sinh viên năm 3 và năm 4: 10 người (6 ngoại tỉnh – có 2 bạn đang
sống thử và 4 ở Hà Nội)
c. Phát phiếu trưng cầu ý kiến: 300 bảng hỏi, số liệu được sử dụng song
song với đề tài "Thực trạng nhận thức, hành vi về tình dục và các biện pháp tránh
thai của SV các trường Đại học ở Hà Nội hiện nay" - luận văn cao học xã hội học -
Trương Thuý Hạnh.
6.2. Phương pháp xử lý thông tin.
- Xử lý thông tin định tính bằng chương trình NVivo
- Xử lý thông tin định lượng bằng chương trình SPSS 12.0
7. Khung lý thuyết
- Biến độc lập:
+ Đặc trưng nhân khẩu – xã hội: giới tính, tuổi, dân tộc
+ Gia đình: Quy mô, hoàn cảnh kinh tế, địa bàn cư trú
+ Nhà trường: khóa học, ngành học, hoạt động Đoàn.
- Biến phụ thuộc: Nhận thức của SV đại học về sống thử
+ Nhận thức về đời sống vật chất
+ Nhận thức về đời sống tinh thần
+ Nhận thức về đời sống tình dục
- Hệ quả của biến phụ thuộc:
+ Lối sống của sinh viên
+ Hệ quả xã hội


7
- Biến can thiệp:
+ Sự biến đổi văn hoá: truyền thống và hiện đại, sự biến đổi các giá
trị, các chuẩn mực xã hội.
+ Sự biến đổi kinh tế - xã hội: dịch vụ, điều kiện sống, các phương
tiện thông tin truyền thông,…












Đặc trưng
nhân khẩu – xã hội
- Giới tính
- Tuổi
- Dân tộc
Nhà trường
- Khoá học
- Ngành học
- Hoạt động Đoàn

Nhận thức của sinh viên đại học

về sống thử


Nhận thức về
đời sống tinh thần

Nhận thức về
đời sống vật chất
Nhận thức về
đời sống tình dục

Môi trường kinh tế - xã hội và văn hoá



Lối sống của sinh viên
Hệ quả xã hội
Gia đình
- Quy mô
- Hoàn cảnh kinh tế
- Địa bàn cư trú


8
8. Cấu trúc của luận văn:
Mở đầu.
Nội dung:
Chương 1: Cở sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Nhận thức của SV đại học về hiện tượng sống thử của SV
hiện nay

Chương 3: Những yếu tố tác động đến nhận thức của SV đại học về
sống thử và xu hướng sống thử
Kết luận và khuyến nghị

9
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN

1.1. Phương pháp luận Mác xít
Đề tài đã coi hướng tiếp cận lý luận Mác- Lênin là cơ sở và phương pháp
luận chung cho lý luận và phương pháp tiếp cận xã hội học.
Các nguyên tắc phương pháp luận biện chứng Mác- Lênin được khái quát
như sau:
Thứ nhất, nguyên tắc phát triển: Bản thân các sự vật, hiện tượng vận động, biến
đổi không ngừng. Khi nghiên cứu xem xét bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng phải đặt
chúng trong sự phát triển, cần dự đoán được xu hướng diễn ra trong tương lai.
Thứ hai, nguyên tắc mối liên hệ phổ biến cho rằng: sự vật trong một chỉnh
thể toàn vẹn, có quan hệ biện chứng với nhau. Bản chất con người là tổng hoà các
mối quan hệ xã hội, nên các cá nhân không khi nào vận động riêng rẽ hoàn toàn. Nó
luôn tương tác với các nhóm, cộng đồng xung quanh, cụ thể với SV đó là: gia đình,
nhà trường
Thứ ba, nguyên tắc tính khách quan, phản ánh bản thân sự vật hiện tượng
như chúng tồn tại thực tế, không phán đoán chủ quan, duy ý chí.
Trong luận văn này, tác giả đã vận dụng các nguyên tắc trên để đánh giá nhận
thức của sinh viên đại học về vấn đề sống thử luôn có sự biến đổi, chịu sự tác động
của các nhóm xã hội khác (gia đình, nhà trường). Đặc biệt nhận thức của sinh viên
phải được đánh giá một cách khách quan qua những suy nghĩ của họ về từng yếu tố
trong cuộc sống thử: đời sống vật chất, đời sống tinh thần và đời sống tình dục.
1.2. Một số lý thuyết và quan điểm của các nhà xã hội học

1.2.1. Lý thuyết về gia đình
- Khái niệm Gia đình:
Gia đình là một tổ chức xã hội được hình thành từ khá sớm trong lịch sử của
loài người, đồng thời cũng là một thiết chế xã hội quan trọng và đặc biệt. Mỗi ngành

10
khoa học có cách tiếp cận với gia đình không hoàn toàn giống nhau: tâm lý học
nghiên cứu quá trình hình thành và hoàn thiện nhân cách của cá nhân trong gia
đình; dân số học quan tâm đến vai trò và cơ cấu của gia đình trong tái sản xuất dân
số; kinh tế học nghiên cứu về gia đình là một đơn vị kinh tế cơ bản - đơn vị tiêu
dùng. Xã hội học nghiên cứu các vấn đề xã hội của gia đình: các mối quan hệ bên
trong gia đình, sự tương tác giữa các thành viên trong gia đình, sự tác động qua lại
giữa gia đình và xã hội
Cũng từ cách tiếp cận khác nhau nên có nhiều cách giải đáp về khái niệm
gia đình.
Theo từ điển triết học, gia đình là đơn vị xã hội (nhóm xã hội nhỏ), hình thức
tổ chức quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân, dựa trên hôn nhân và các quan hệ
huyết thống, tức là quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị
em và những người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung. Đặc
trưng của sinh hoạt gia đình là các quá trình vật chất và tinh thần [18, tr378].
Theo tác giả Levy Strauss: gia đình là một nhóm xã hội học được quy định
bởi 3 đặc điểm thường thấy:
+ Hôn nhân
+ Quan hệ hôn nhân
+ Các ràng buộc và trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình.
Aguste Comte coi "gia đình là một tập đoàn xã hội cơ bản và quan trọng nhất
mang tính lịch sử trong quá trình tiến triển của xã hội". Còn Karl Marx cho rằng
"gia đình là một mối liên hệ, thông qua đó và nhờ đó mà thực hiện việc tái sản xuất
con người và cơ cấu của việc tái sản xuất con người".
Theo Ăng-ghen: "Khái niệm gia đình thường gắn với hôn nhân và là khái

niệm phát sinh từ chính hôn nhân, song không chỉ quy trực tiếp vào hôn nhân được.
Gia đình đòi hỏi phải có hành động tương hỗ giữa các cá thể trong quá trình thoả
mãn không chỉ các nhu cầu sinh dục; mà còn có các nhu cầu ăn uống và sinh hoạt
giáo dục và tình cảm nữa. Nó cũng bao gồm việc làm kinh tế chung, sinh con đẻ cái
và giáo dục chúng, việc con cháu được thừa hưởng tài sản của tổ tiên ”. Về ý

11
nghĩa này, theo Ăng-ghen, gia đình có tính "xã hội" cao hơn so với hôn nhân; còn
hôn nhân "có tính sinh học" ở một mức độ cao" [10, tr.41].
Liên Hợp Quốc định nghĩa: gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng
cùng sống chung và có ngân sách chung [22, tr.90-91].
Ở phương Tây, những năm gần đây xuất hiện nhiều dạng gia đình biến thái
khiến cho định nghĩa về gia đình đều trở nên bất cập. Chẳng hạn: Các tác giả Jame
W. Vander Zanden - cho biết: “Một cuộc thăm dò mới đây cho thấy 45% người Mỹ
ngày nay cho rằng một đôi không cần kết hôn mà cùng chung sống với nhau thì
được coi là một gia đình đích thực, 33% coi các đôi cùng giới tính có nuôi nấng con
cái là gia đình, còn 20% thì coi các cặp đồng giới tính chung sống với nhau là một
gia đình” [22,tr.92].
Mặc dù có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về gia đình, nhưng theo
cách chung nhất, có thể hiểu một cách thông thường rằng: "Gia đình là một thiết
chế xã hội liên kết con người lại với nhau nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống
và chăm sóc con cái. Các mối quan hệ gia đình còn được gọi là mối quan hệ họ
hàng. Đó là sự liên kết ít nhất là của hai người trên cơ sở huyết thống, hôn nhân
và việc nhận con nuôi. Những người này cũng phải sống cùng nhau" [10, tr.54]
- Vai trò của gia đình [2, t1, tr10-40]:
Theo quan niệm của Nho giáo, gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì thế,
nếu “một nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu”. Do đó, một xã hội muốn thanh bình
thì trước hết cần phải có những gia đình hòa thuận. Gia đình hòa thuận là gia đình
mà mọi thành viên luôn quan tâm đến nhau, chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó,
vợ chồng sống hòa thuận thương yêu nhau, cùng nhau chăm lo nuôi dưỡng dạy dỗ

con cái nên người. Cha mẹ phải luôn giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng như tác phong
làm việc của mình để làm tấm gương cho con cái noi theo. Ngược lại, con cái phải
luôn hiếu kính với ông bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng chăm sóc ông bà, cha mẹ, biết
làm cho ông bà, cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì khiến cho ông bà, cha
mẹ phải tủi hổ với hàng xóm láng giềng. Một gia đình hoà thuận còn là một gia đình
mà anh em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau, biết
em ngã thì chị nâng.

12
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước,
khi nhắc lại nhận xét của Mác về “sự giống nhau giữa thiết chế gia đình với những
hệ thống chính trị, pháp luật, tôn giáo và triết học”, Ăngghen cho rằng mọi thiết chế
khác đều có thể thay đổi theo những điều kiện kinh tế – xã hội khách quan nhưng
“chỉ khi nào gia đình hoàn toàn thay đổi thì những hệ thống ấy mới hoàn toàn thay
đổi” [10, tr.85]. Ông cũng cho rằng cơ sở căn bản cho sự bền vững của các giá trị
gia đình chính là sự chặt chẽ của các quan hệ huyết thống. Nhưng quan hệ này,
thậm chí trong khi nhiều chuẩn mực và giá trị trong gia đình đã có thể thay đổi thì
chính bản thân tính huyết thống của nó vẫn cứ “chai sạn lại rất lâu”.
Tính bền vững của mỗi gia đình đều có ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội,
tới sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN mà chúng ta đang tiến hành. Gia đình mới mà chúng ta xây dựng là
một gia đình hòa thuận dựa trên cơ sở dân chủ: vợ chồng, cha con anh em tôn trọng
lẫn nhau, cùng nhau bàn bạc và quyết định những vấn đề lớn của gia đình. Hạt nhân
của mỗi gia đình ấy chính là vợ và chồng. Vì vậy, những hành vi ứng xử và giao
tiếp của mỗi thành viên trong gia đình được Nho giáo quy định chặt chẽ, phụ thuộc
vào danh phận mỗi người gia đình là cái nước nhỏ (nhất gia nhân, nhất quốc hưng
vong). Nho giáo khẳng định, nếu xây dựng được một gia đình hoà thuận, con cái
biết hiếu đễ cha mẹ biết từ nhượng thì đó cũng là làm chính trị rồi. Bởi nước cũng
chỉ là một cái nhà to. Các căn nhà nhỏ - gia đình mà hòa thuận thì căn nhà to cũng
sẽ hòa thuận.

Cụ thể vai trò của gia đình thể hiện ở các khía cạnh sau:
+ Đối với các thành viên: gia đình có vai trò chăm sóc và giáo dục trẻ em;
chăm sóc và phụng dưỡng người cao tuổi; thực hiện an sinh xã hội, chăm sóc người
ốm, người tàn tật, khuyết tật và phát triển kinh tế (để đáp ứng các nhu cầu ngày
càng cao của từng thành viên trong gia đình); chăm sóc sức khỏe, luyện tập thể dục
thể thao (tăng cường sức khỏe các cá nhân, đặc biệt đối với phụ nữ mang thai, trẻ
em, người cao tuổi, ).
+ Đối với cộng đồng và xã hội: gia đình có vai trò giáo dục các thành viên
thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của nhà nước; gìn giữ, kế

13
thừa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, hương ước, quy ước của địa
phương; giữ gìn trật tự an toàn xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội; thực hiện bình
đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình; phối hợp với nhà trường và các tổ chức
xã hội trong giáo dục con; giáo dục đạo đức và hướng nghiệp cho các thành viên.
- Chức năng của gia đình [2,q1,tr.8-30]:
Với tư cách là một thiết chế xã hội, gia đình có nhiều chức năng, tuỳ thuộc
vào lối sống văn hoá và nền kinh tế của từng dân tộc. ở Việt Nam, gia đình thường
được cho là có những chức năng cơ bản sau đây: sinh sản (tái sản xuất con người);
kinh tế; giáo dục, xã hội hoá cá nhân; đáp ứng nhu cầu tinh thần, tình cảm. Một xã
hội muốn phát triển thì điều kiện cần và đủ là gia đình phải thực hiện được tốt các
chức năng vốn có này.
+ Chức năng sinh sản (tái sản xuất con người):
Đây là chức năng cơ bản và cũng là lí do chính khiến các cá nhân gắn kết lại
với nhau và tạo nên gia đình. Đây là chức năng quan trọng và tất yếu của gia đình.
Trước hết chức năng này là để duy trì và phát triển nòi giống. Nếu gia đình không
thực hiện chức năng tái sản xuất con người thì xã hội không phát triển thậm chí
không thể tồn tại. Chức năng sinh sản vừa là quy luật tự nhiên vừa là quy luật của
đời sống xã hội.
Quan niệm truyền thống thường xem sinh con như một nhiệm vụ cơ bản và

quan trọng của gia đình. Cùng với sự phát triển của xã hội, quan niệm về tầm quan
trọng của chức năng sinh sản cũng có những thay đổi. Trình độ dân trí và sự nhận
thức đang dần làm thay đổi hành vi sinh đẻ. Việc tái sản xuất con người từ một quá
trình tự nhiên đang chuyển sang quá trình tự giác, được kiểm soát. Dù tại một số xã
hội công nghiệp, tâm lý không thích sinh con vì muốn tập trung cho công việc, cho
việc hưởng thụ cá nhân vẫn tồn tại nhưng tại Việt Nam, đứa con vẫn là một biểu
hiện của giá trị hạnh phúc gia đình.
+ Chức năng kinh tế:
Chức năng kinh tế của gia đình được thể hiện trên hai khía cạnh: sản xuất và
tiêu thụ; vì nhu cầu thiết yếu đầu tiên của các thành viên trong gia đình là được đảm

14
bảo nhu cầu về ăn, ở, mặc. Chức năng kinh tế của gia đình vừa mang tính chia sẻ
thu nhập vừa mang tính đóng góp thu nhập.
Tiêu thụ là chức năng tất yếu của gia đình. Để tồn tại và phát triển, các thành
viên trong gia đình cần có đủ các phương tiện vật chất và tinh thần. Chúng bao gồm
thức ăn nuôi sống con người, nhà cửa, đồ dùng sinh hoạt, phương tiện đi lại,
phương tiện thông tin phục vụ đời sống văn hoá, Ngày nay, chức năng tiêu thụ của
gia đình càng được thực hiện tốt hơn bởi sự phát triển của điều kiện kinh tế, văn
hoá, xã hội.
Trong việc thực hiện chức năng kinh tế, gia đình Việt Nam hiện nay thực
hiện tốt cả hai vai trò là đơn vị sản xuất và tiêu thụ. Bên cạnh đó, vai trò tiêu thụ của
gia đình ngày càng được đề cao bởi nhu cầu của con người không chỉ dừng lại ở
việc sinh hoạt mà còn đòi hỏi được phát triển cá nhân, được vui chơi giải trí. Những
loại hình dịch vụ dành cho gia đình như người giúp việc, bác sĩ gia đình, ngày
càng đa dạng.
+ Chức năng giáo dục, xã hội hoá cá nhân:
Chức năng giáo dục của gia đình là sự tiếp tục hoàn thiện chức năng sinh
sản. Khoa học ngày nay đã khẳng định cơ sở trí tuệ và tình cảm cá nhân hình thành
từ tuổi ấu thơ và chính gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên của mỗi cá nhân, là

cơ sở nền tảng đầu tiên hình thành nhân cách của từng thành viên. Xã hội hóa con
người chính là biến thực thể tự nhiên thành thực thể xã hội, làm cho con người lĩnh
hội được kinh nghiệm xã hội, lịch sử, có thái độ và hành động phù hợp với yêu cầu
phát triển xã hội. Gia đình tham gia vào tất cả các giai đoạn xã hội hóa của mỗi cá
nhân từ lúc sinh ra đến lúc trưởng thành.
Khác với các thiết chế xã hội khác như nhà trường, cộng đồng xã hội, quá
trình giáo dục, xã hội hóa cá nhân thực hiện dựa trên mối quan hệ huyết thống
thiêng liêng và chú ý đến tính cá biệt của đối tượng được giáo dục.
Tuy nhiên, áp lực về cường độ lao động lẫn tiêu thụ vật chất đã khiến cho
việc thực hiện chức năng giáo dục, xã hội hóa cá nhân của gia đình trở thành một
công việc phức tạp và khó khăn bởi lẽ quỹ thời gian mỗi ngày dành cho mọi hoạt
động là cố định, bất biến.

15
+ Chức năng đáp ứng nhu cầu tinh thần, tình cảm:
Gia đình không chỉ là chỗ dựa về vật chất mà còn là điểm tựa quan trọng về
tinh thần. Có thể nói không một cộng đồng, tổ chức nào có thể mang lại tình cảm
ấm áp, sâu sắc và thiêng liêng như tình cảm gia đình.
Trước đây, trong gia đình truyền thống, chức năng tâm lý tình cảm bị chìm
xuống không được quan tâm hay đúng hơn là bị sự “lấn lướt” của yếu tố quyền uy -
đặc biệt người chồng, người cha, người lớn tuổi luôn là đối tượng được phục tùng.
Trong đó, sở thích cá nhân, cá tính sáng tạo của các thành viên ít được bộc lộ và
phát triển vì trên hết là sự toàn vẹn, danh dự của gia đình, của dòng họ.
Ngày nay, khi các gia đình phần nào được xây dựng trên cơ sở bình đẳng,
dân chủ, chức năng này càng trở nên cần thiết và quan trọng. Độ bền vững của gia
đình không chỉ phụ thuộc vào trách nhiệm, nghĩa vụ giữa các thành viên mà ngày
càng bị chi phối bởi các mối quan hệ về tình cảm, tinh thần.
Cấu trúc chức năng tình cảm trong gia đình có thể được biểu hiện cụ thể qua
các mối quan hệ sau:
Một là, quan hệ giữa các thế hệ, ví dụ như ông bà - con cháu, bố mẹ – con

cái, Cơ sở của những tình cảm trên là các chuẩn mực xoay quanh chữ “hiếu”.
Hai là, quan hệ vợ chồng mà sự gắn kết là tình yêu và hôn nhân. Có thể nói
đây là mối quan hệ nền tảng của mỗi gia đình. Sự gắn kết của người vợ và người
chồng quyết định sự bền vững của gia đình. Chuẩn mực của mối quan hệ này xoay
quanh chữ “tình”.
Ba là, tình cảm giữa những người cùng thế hệ – là anh chị em trong một gia
đình. Người xưa vẫn ví tình cảm cao quý này là như chân với tay, không thể tách
rời. Mối quan hệ này được xây dựng trên cơ sở các chuẩn mực về “nghĩa”.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, các chuẩn mực về “hiếu”,
“tình” và “nghĩa” đều có sự biến đổi nên có sự mở rộng trong các mối quan hệ trên.
1.2.2. Lý thuyết về giới
Trong các nghiên cứu về gia đình, lý thuyết về giới có vai trò đặc biệt quan
trọng, nó cho phép xem xét, đánh giá, phân tích các sự vật hiện tượng theo một góc

16
độ hoàn toàn khác biệt so với các lý thuyết khác. Đó là sự xem xét sự vật hiện tượng
dựa trên vai trò xã hội xuất phát từ sự khác biệt về giới.
Lý thuyết về giới, lý thuyết nữ quyền xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX ở Phương
Tây. Làn sóng nữ quyền thứ nhất (1848-1918) với mục tiêu đạt được các quyền phụ
nữ trong phạm vi công cộng, đặc biệt là quyền bầu cử, giáo dục, nghề nghiệp. Quan
điểm của các nhà nữ quyền thời kỳ này là nhanh chóng đưa phụ nữ tham gia vào
lĩnh vực công cộng, nơi có sự nghiêm khắc về đạo đức giới tính và ứng xử. Đại biểu
cho thuyết nữ quyền thời kỳ này là Mary Wollstonecraft. Làn sóng thứ hai (1918-
1968) có liên quan đến các cải cách xã hội và cuộc "cách mạng" trong lĩnh vực
riêng tư như quyền tránh thai, chấm dứt áp bức tình dục. Trong thời kỳ này có hai
xu hướng lớn: phong trào nữ quyền Mac-xít và phong trào nữ quyền tự do, cấp tiến
và cách mạng. Đại biểu của giai đoạn này là Betty Friedan. Làn sóng thứ ba (từ
1968 đến nay) lại chủ yếu liên quan đến các vấn đề công cộng (vấn đề bình đẳng về
lương, chấm dứt phân biệt giới tính trong nghề nghiệp, lương hưu, thế chấp tài
sản ) và các vấn đề riêng tư (sự hãm hiếp và bạo lực gia đình). Trong giai đoạn

này, lý thuyết nữ quyền được phân chia theo các lĩnh vực: địa lý, lịch sử, khoa học
chính trị, tâm lý, xã hội học, [17,tr.158]
Theo lý thuyết này, vai trò giới, tương quan giới là kết quả của quá trình xã
hội hoá cá nhân. Cấu trúc hành vi, tình cảm, thái độ đặc thù cho mỗi giới đã sẵn có
trong xã hội trước khi trẻ chào đời. Kể từ khi lọt lòng đến khi mất đi, con người
không ngừng tiếp thu và làm theo các cấu trúc giới đang tồn tại một cách khách
quan. Trẻ em nam, trẻ em nữ bắt chước, học tập theo các cách ứng xử theo khuôn
mẫu quy định một cách tương ứng đối với nam hay nữ. Điều này đã dẫn đến một
thực tế là phụ nữ bị phân biệt đối xử ở cả gia đình và cộng đồng, theo các nhà nữ
quyền thì phụ nữ bị đẩy xuống "địa vị hạng hai", không có quyền lực gì và chịu sự
phân công lao động bất bình đẳng ngay trong gia đình của mình.
Trong luận văn này, lý thuyết giới được vận dụng để tìm hiểu sự khác biệt
trong nhận thức của nam sinh và nữ sinh về sự phân công lao động - một mặt biểu
hiện của cuộc sống thử, đặc biệt lưu ý tới những quan niệm mang tính chất thiên
lệch, nhạy cảm giới.

17
1.2.3. Lý thuyết cấu trúc - chức năng
Hai đại biểu lớn nhất của thuyết cấu trúc chức năng là Emile Durkheim và
Talcott Parson. Thuyết cấu trúc chức năng giải thích sự tồn tại và phát triển của thể
chế xã hội là do chức năng duy trì trật tự xã hội của chúng. Các nhà nghiên cứu theo
thuyết cấu trúc chức năng quan niệm xã hội bình thường nhu một cơ thể lành mạnh,
trong đó các thể chế có chức năng riêng và quan hệ hữu cơ với nhau; cùng hướng
vào tính duy trì tính hợp lý xã hội. Xã hội là một hệ thống các thiết chế phụ thuộc
lẫn nhau và tham gia tạo nên sự ổn định bền vững của chỉnh thể xã hội. Để giải
thích các thiết chế xã hội, phải tìm hiểu hệ thống xã hội như một tổng thể, đòi hỏi
phải thoả mãn các nhu cầu của nó.
Theo Durkheim, mỗi yếu tố, mỗi thành phần, mỗi bộ phận cấu thành của xã
hội đều thực hiện những chức năng nhất định, thoả mãn những nhu cầu nhất định
của hệ thống xã hội. Ông chỉ ra hai đặc trưng quan trọng nhất của sự kiện xã hội:

một là, tính khách quan của sự kiện xã hội thể hiện ở chỗ các sự kiện xã hội tồn tại
độc lập, không phụ thuộc vào ý thức cá nhân; hai là, sự kiện xã hội có khả năng
cưỡng chế, kiểm soát, bắt buộc đối với hành vi, hoạt động của cá nhân. Sự thay đổi
một yếu tố, một bộ phận nào đó sẽ kéo theo sự thay đổi ở các bộ phận, yếu tố khác
và làm biến đổi cả hệ thống.
Cũng theo Durkheim, đặc trưng nổi bật của sự kiện xã hội là sự cưỡng bức
của nó đối với hành vi cá nhân. Sự cưỡng bức của các sự kiện xã hội không phải là
do ý chí cá nhân mà là do hiện thực xã hội quy định, là sản phẩm của nguyên nhân
nhất định.
Trong luận văn này, lý thuyết cấu trúc - chức năng được vận dụng để tìm
hiểu sự tác động của các yếu tố cá nhân – gia đình – nhà trường – cộng đồng xã hội
đến nhận thức của SV về sống thử. Đó là sự lựa chọn mang tính chất cá nhân hay là
sự phục tùng theo khuôn mẫu hành động xã hội.
1.2.4. Lý thuyết hành vi lựa chọn hợp lý
Định đề cơ bản của lý thuyết này được nhà xã hội học người Mỹ Homans
diễn đạt theo kiểu định lý toán học: khi lựa chọn các hành động có thể thực hiện, cá

18
nhân sẽ chọn cách nào mà họ cho là tích của xác xuất thành công của hành động đó
là lớn nhất. Còn John Elster thì khái quát rằng:" Khi đối diện với một số cách hành
động, mọi người thường làm cái mà họ tin là có khả năng đại được kết quả cuối
cùng tốt nhất".
Như vậy, thuyết sự lựa chọn hợp lý được vận dụng để dự báo xu hướng sống
thử của SV, phân tích mục đích họ muốn đạt được và có thể đạt được.
Hai thành tố chủ chốt trong lý thuyết này là các tác nhân và các tiềm năng.
Tác nhân chính là SV và tiềm năng là một lối sống lành mạnh mà ai cũng mong
muốn có được.
Cuộc sống ngày càng phát triển thì nhu cầu của con người càng vươn tới vô
hạn trong khi khả năng thoả mãn những ước vọng đó có giới hạn và mức độ khác
nhau ở các cá nhân khác nhau. Bởi lẽ mỗi người bị bao vây bởi môi trường xung

quanh cùng các đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt. Chính vì vậy, tác nhân phải lựa
chọn các hành động để đạt được mục tiêu nhanh nhất, tối đa hoá được lợi ích hay
thoả mãn mong muốn của họ:
+ Hợp lý kinh tế: tăng hiệu quả kinh tế bằng cách cân đối chi phí khi sống
chung.
+ Hợp lý văn hoá: tăng chất lượng cuộc sống và thỏa mãn nhu cầu tâm sinh
lý con người bằng QHTD và chung sống trước hôn nhân.
Vận dụng lý thuyết này vào việc phân tích nhận thức của SV về sống thử có
thể đánh giá xu hướng của sống thử.
1.2.5. Xã hội học lối sống
Theo định nghĩa của GS Vũ Khiêu thì "Lối sống là một phạm trù xã hội, khái
quát toàn bộ hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân
trong những điều kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất định và biểu hiện trên
các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người
với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hoá" (Văn hoá Việt Nam xã hội và con
người, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2001, tr 514).

19
Như vậy, lối sống có văn hoá là toàn bộ hoạt động biểu hiện những phẩm
chất tốt đẹp của con người trong lao động sản xuất, trong các quan hệ xã hội, quan
hệ với môi trường tự nhiên, qua sinh hoạt cá nhân và các sinh hoạt xã hội khác, phù
hợp với văn hoá của dân tộc và thời đại.
Theo TS. Mai Thị Kim Thanh, nghiên cứu lối sống dưới góc độ xã hội học là
làm rõ mặt văn hóa của lối sống hay nói cách khác nghiên cứu thái độ của con
người, nhóm xã hội đối với từng mặt của đời sống như:
- Thái độ đối với lao động xã hội, nhu cầu lao động xã hội, điều kiện lao động
xã hội, thái độ ứng xử trong quá trình lao động xã hội (với người, với đồ vật…)
- Thái độ của con người, nhóm xã hội trong ứng xử hàng ngày (với người
thân trong gia đình, với đồng nghiệp, với bạn bè, với hàng xóm), trong sử dụng
thời gian rỗi (theo hướng tích cực: đọc báo lành mạnh, xem phim, học thêm, đến

các câu lạc bộ vui chơi giải trí…hay theo hướng tiêu cực: đánh bài ăn tiền, tham
gia vào các hoạt động đồi trụy, nghiện hút…). Đây là nhân tố quan trọng của từng
cá nhân.
- Thái độ trong hoạt động chính trị - xã hội: sư tham gia vào các hoạt động
chính trị - xã hội của cá nhân trong các tổ chức xã hội (mức độ, thái độ, hành vi khi
tham gia (theo hướng nào? Tích cực hay tiêu cực). [44,tr.4-8]
Dưới góc độ xã hội học, nghiên cứu lối sống là nghiên cứu thái độ, làm rõ
mặt văn hóa của lối sống con người, nhóm xã hội đối với từng mặt của đời sống
(trong lao động xã hội, trong ứng xử hàng ngày và trong hoạt động chính trị - xã
hội). Vì thế, để tiến hành nghiên cứu và lý giải nó dưới góc độ xã hội học, XHH lối
sống không chỉ vận dụng những phương pháp nghiên cứu chung của xã hội học, mà
còn phải vận dụng một cách thành thạo các phương pháp nghiên cứu của các ngành
Khoa học xã hội khác có liên quan.
Ứng dụng hướng tiếp cận xã hội học lối sống, tác giả luận văn xem xét nhận
thức của SV đối với sống thử, qua đó biểu hiện thái độ của họ hay suy rộng ra là thể
hiện một phần trong lối sống người Việt trẻ, có thể dự báo một phần xu hướng của
lối sống này.

20
1.3. Một số khái niệm
- SV: là một nhóm xã hội đang trong quá trình xã hội hoá nghề nghiệp.
Trong đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu SV đang theo học tại các trường đại học,
độ tuổi từ 18-24.
- Sống thử: là khái niệm chỉ sử dụng trong đề tài. Hiện nay chưa có một khái
niệm chuẩn nào về “sống thử”. Tuy nhiên, trên góc độ nghiên cứu của luận văn này,
sống thử được hiểu là quá trình chung sống của cặp đôi nam nữ sinh viên khi chưa
đăng ký kết hôn và cũng chưa tổ chức đám cưới. Đó là trên cơ sở pháp lý những cặp
đôi này chưa được công nhận là vợ chồng nhưng thực tế về đời sống họ ở chung, ăn
chung, ngủ chung, sinh hoạt như một đôi vợ chồng thật. Vậy nên có thể dùng các
khái niệm tương đương là chung sống trước hôn nhân, gia đình tiền hôn nhân. Tác

giả luận văn dùng khái niệm "sống thử" với mục đích đẩy nghiên cứu gần với thực
tế hơn bởi lẽ khái niệm "sống thử" thường được khu biệt trong nhóm xã hội là sinh
viên, dù chưa có một định nghĩa chính thức trong từ điển tiếng Việt. Bên cạnh đó,
"sống thử" gắn với đôi nam nữ thanh niên, còn hiện tượng chung sống trước khi kết
hôn có thể diễn ra ở nhiều lứa tuổi khác nữa.
Trong nghiên cứu này, tác giả luận văn nhìn nhận sống thử như một hiện
tượng phát sinh trong xã hội hiện đại và được xem xét qua ba khía cạnh: đời sống
vật chất, đời sống tinh thần và đời sống tình dục.
- Hôn nhân:
Theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000: "Hôn nhân là sự liên
kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà xác lập quan hệ trên cơ sở hoàn
toàn bình đẳng và tự nguyện theo quy định của pháp luật nhằm chung sống với nhau
suốt đời và xây dựng hạnh phúc gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và
bền vững" (điều 8, khoản 6).
Tác giả Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý cho rằng: "Khi nói đến hôn nhân,
Ăng-ghen cho rằng trọng tâm ý nghĩa thường rơi vào mặt tính giao xác thịt trong
quan hệ giữa đàn ông và đàn bà, vào việc làm thoả mãn nhu cầu sinh dục. Mức độ
phát triển cao nhất của nó là tình yêu chọn lọc giữa các cá nhân với nhau, với niềm

21
hưng phấn bởi một tình cảm cao quý. Vấn đề bảo đảm các nhu cầu sinh học khác,
trước tiên là các tư liệu sinh hoạt, cũng như việc sinh con đẻ cái và giáo dục chúng,
trong trường hợp này nổi lên như một nhu cầu thứ yếu, có thể phát sinh hoặc không
phát sinh từ cuộc hôn nhân nói trên". Và "hôn nhân là một mối quan hệ được thừa
nhận về mặt pháp lý, thường bao gồm việc hợp tác về kinh tế, việc hoạt động tình
dục cũng như việc nuôi dạy con cái trong một thời gian dài" [10, tr45].
Còn theo tác giả Đoàn Văn Chúc, hôn nhân được phân tích là từ ghép bởi hai
từ gốc Hán là hôn và nhân, gọi là hôn nhân là đứng trên quan điểm của cha mẹ hai
bên gia đình lo dựng vợ gả chồng cho con; còn khi gọi là giá thú là trên quan điểm
của đôi trai gái lấy nhau làm chồng làm vợ để lập thành gia đình.

Tóm lại, hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn, là cơ sở
của gia đình, là phương thức để xây dựng, duy trì, củng cố và phát triển gia đình
bền vững. Hôn nhân vừa tác động trực tiếp đến cuộc sống mỗi cá nhân, vừa là sự
phản ánh sắc thái văn hoá tộc người vì mỗi dân tộc có nét độc đáo riêng trong hôn
nhân. Vì vậy, có thể nói hôn nhân không chỉ là thừa nhận tính hợp pháp của quan hệ
giới tính mà còn mang nhiều ý nghĩa văn hoá - xã hội - kinh tế khác.
- Giới tính - giới và các khái niệm liên quan:
+ Giới tính là sự khác biệt về mặt sinh học phổ biến và không thay đổi được
ở mỗi cá thể từ lúc sinh ra đến khi không tồn tại về mặt sinh học. (Hiện nay có một
vài trường hợp phẫu thuật thay đổi giới tính). Giới tính được quy định bởi hệ thống
gen từ lúc con người còn là bào thai
+ Giới là nói đến vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho
nam và nữ bao gồm cả việc phân công lao động, các kiểu phân chia nguồn và lợi
ích. Giới được xác định theo văn hoá, có thể thay đổi cùng thời gian và chịu sự chi
phối của gia đình, xã hội gắn với nền văn hoá của từng khu vực.
Sự khác nhau giữa giới và giới tính chỉ ra nguồn gốc sâu xa của bất bình
đẳng về giới là giới tính. Các cá thể nói riêng và xã hội nói chung phải vượt ra khỏi
mô hình sẵn có trước đây để xem xét tính riêng biệt của giới và giới tính. Một nhu
cầu đặt ra là phải hiểu nhu cầu của giới và khả năng thay đổi của nó thông qua các
nghiên cứu về văn hoá xã hội.

22
+ Định kiến giới: là những quan niệm mà xã hội gán cho phụ nữ và nam giới,
cho rằng họ có khả năng và nghĩa vụ phải làm theo.
+ Giá trị giới: là các ý tưởng hay những mong muốn mà xã hội yêu cầu phụ
nữ và nam giới nên thế nào, nên làm gì?
+ Vai trò giới: là những công việc và hành vi cụ thể mà xã hội trông chờ ở
mỗi cá nhân với tư cách là người đàn ông hay đàn bà.
+ Nhu cầu giới: mang tính lịch sử cụ thể, ở bối cảnh xã hội khác nhau thì nhu
cầu xã hội khác nhau:

* Nhu cầu thực tế: là những nhu cầu của phụ nữ và nam giới nảy sinh từ cuộc
sống hàng ngày trên cơ sở vai trò giới hiện có.
* Nhu cầu chiến lược: là những nhu cầu của phụ nữ và nam giới mà việc đáp
ứng chúng sẽ làm thay đổi các vai trò về giới hiện có. Việc đáp ứng các nhu cầu
chiến lược sẽ dẫn đến quan hệ giới bình đẳng hơn.
- Bình đẳng giới:
Lý thuyết về bình đẳng giới đã và đang được các nhà khoa học, chính phủ
các nước nghiên cứu và lồng ghép các chương trình phát triển. Bình đẳng giới
không có nghĩa là sự chia nhau bình quân về việc làm, sự hưởng thụ, địa vị theo
kiểu số học giữa nam và nữ. Vì có sự khác biệt về thể chất và thiên chức cho nên
nam và nữ đóng vai trò khác nhau trong xã hội và có những nhu cầu khác nhau. Vấn
đề là những sự khác biệt này cần được xem xét để thúc đẩy việc thực hiện công
bằng, có hiệu quả thế mạnh của cả hai giới, đồng thời xoá bỏ những định kiến cổ hủ
về giới gây thiệt thòi cho phụ nữ.
Theo quan niệm xã hội học, bình đẳng giới là sự đối xử ngang quyền giữa
hai giới nam và nữ, cũng như giữa các tầng lớp phụ nữ trong xã hội, có xét đến đặc
điểm riêng của nữ giới, được điều chỉnh bởi các chính sách đối với phụ nữ một cách
hợp lý. Hay nói cách khác, bình đẳng giới là sự thừa nhận, sự coi trọng ngang nhau
đối với đặc điểm giới tính và sự thiết lập các cơ hội ngang nhau đối với nam và nữ
trong xã hội.

×