Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Đời sống của người dân nghèo, cận nghèo đô thị dưới tác động của lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN VIỆT NGA



ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI DÂN NGHÈO, CẬN NGHÈO
ĐÔ THỊ DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
(Khảo sát tại một số tỉnh phía Bắc)




LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC













Hà Nội – 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN VIỆT NGA


ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI DÂN NGHÈO, CẬN NGHÈO
ĐÔ THỊ DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
(Khảo sát tại một số tỉnh phía Bắc)


Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Kim Hoa






Hà Nội - 2009

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian thực hiện, luận văn cao học với nghiên cứu về: “Đời sống
của người dân nghèo, cận nghèo đô thị dưới tác động của lạm phát” (Khảo sát tại
một số tỉnh phía Bắc) đã được hoàn thành. Báo cáo này đã được thực hiện với sự hỗ
trợ, hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của các quý thầy cô trong khoa Xã hội học trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn các quý thầy cô trong Khoa Xã hội học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt các
thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập tại lớp Cao học.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Kim Hoa đã dành nhiều thời
gian và tâm huyết hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như hoàn
thiện luận văn tốt nghiệp. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ và động viên của
TS. Nguyễn Thị Thu Hà trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Để hoàn thành được luận văn này, tôi cũng xin cảm ơn sự hỗ trợ về số liệu của
Văn Phòng Hỗ trợ Tư vấn Phản biện và Giám định Xã hội – Liên Hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam, sự hỗ trợ về kỹ thuật của Trung tâm Phát triển Xã hội và
Môi trường Vùng.
Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, động viên khuyến khích
của người thân, bạn bè, đồng nghiệp… tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tuy nhiên, dù đã hết sức nỗ lực hoàn thiện luận văn, song khó có thể tránh được
những hạn chế, sai sót. Chính vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp quí báu của
quý thầy cô và các bạn nhằm hoàn thiện luận văn này.
Hà Nội, 2009
Học viên




Nguyễn Việt Nga






1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài. 5
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. 8
2.1. Ý nghĩa lý luận. 8
2.2. Ý nghĩa thực tiễn. 8
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 8
3.1. Mục đích nghiên cứu 8
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 9
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu. 9
4.1. Đối tượng nghiên cứu 9
4.2. Khách thể nghiên cứu 9
4.3. Phạm vi nghiên cứu. 9
4.4. Mẫu nghiên cứu 9
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 10
5.1. Phương pháp luận 10
5.2. Phương pháp nghiên cứu 10
5.2.1. Phương pháp thu thập thông tin. 10
5.2.2. Phương pháp xử lý thông tin. 12
6. Giả thuyết nghiên cứu. 12
7. Khung lý thuyết 13
NỘI DUNG CHÍNH 14

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 14
1.1. Các hướng tiếp cận lý thuyết xã hội học 14
1.1.1. Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý của George Homans 14
1.1.2. Lý thuyết cái “vòng luẩn quẩn” & cú huých từ bên ngoài của Samuellson 15
1.2. Khái niệm công cụ 16
1.3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu. 19
1.4. Tổng quan địa bàn nghiên cứu 22
1.4.1. Phường Quyết Thắng -Thành phố Sơn La 22
1.4.2. Phường Thái Bình-Thành phố Hoà Bình 22
1.4.3. Phường Liễu Giai-Thành phố Hà Nội 23

2
CHƯƠNG 2: ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI DÂN NGHÈO, CẬN NGHÈO DƯỚI
TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT 25
2.1. Thực trạng đời sống người dân nghèo, cận nghèo đô thị 25
2.1.1. Thu nhập 25
2.1.2. Chi tiêu 35
2.1.3. Tình trạng vay mượn của các hộ gia đình nghèo 36
2.2. Tác động của lạm phát đến đời sống của người dân nghèo, cận nghèo đô thị 39
2.2.1. Tình hình lạm phát trên thế giới và trong nước 39
2.2.2. Tác động của lạm phát đến đời sống của người dân nghèo, cận nghèo đô thị 41
2.3. Khả năng ứng phó với lạm phát của người dân nghèo, cận nghèo đô thị 54
2.3.1. Nguồn vốn ứng phó với lạm phát của người nghèo 54
2.3.2. Các ứng phó của người dân nghèo, cận nghèo đô thị với tác động của lạm phát 62
2.4. Tác động của các chính sách hỗ trợ với đời sống của các nhóm nghèo đô thị 69
2.4.1. Tổng quan chính sách xoá đói giảm nghèo và chính sách hỗ trợ chống lạm phát 69
2.4.2. Quá trình triển khai các chính sách hỗ trợ đối với người dân nghèo, cận nghèo
đô thị 71
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 77
1. Kết luận. 77

2. Khuyến nghị. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
PHỤ LỤC 85











3
Danh mục bảng
Bảng 2.1: Cơ cấu thu nhập của các hộ gia đình ………………………………
26
Bảng 2.2: Các khoản thu từ trồng trọt ……………………………………………
30
Bảng 2.3: Các khoản thu từ chăn nuôi …………………………………………….
33
Bảng 2.4: Tình trạng thiếu lương thực tại các địa bàn nghiên cứu ……………
38
Bảng 2.5: Tác động của lạm phát đối với đời sống người dân nghèo, cận nghèo đô thị
44
Bảng 2.6: CPI và tốc độ tăng giá của một số mặt hàng năm 2007 và 7 tháng đầu
năm 2008 ……………………………………………………………
45
Bảng 2.7: Nguyên nhân suy giảm lợi nhuận hoạt động làm ăn ………………….

46
Bảng 2.8: Tác động của lạm phát đến việc giáo dục con cái ……………………
52
Bảng 2.9: Tác động của lạm phát đến việc chăm sóc sức khoẻ của các thành viên
trong gia đình …………………………………………………………….
52
Bảng 2.10: Các loại đất sản xuất của các hộ gia đình hiện đang giữ chủ quyền
55
Bảng 2.11: Nguồn vốn vay của các hộ gia đình nghèo, cận nghèo đô thị ……….
57
Bảng 2.12: So sánh mục đích sử dụng vốn vay của các hộ gia đình nghèo, cận
nghèo tại 3 đô thị ………………………………………………………………
58
Bảng 2.13: Một số biện pháp ứng phó tác động của lạm phát đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh ……………………………………………………………
63
Bảng 2.14: Biện pháp ứng phó liên quan đến chất lượng bữa ăn………………….
64
Bảng 2.15: Các hình thức cắt giảm chi tiêu cho các mối quan hệ xã hội …………
66
Bảng 2.16: Cách thức ứng phó với những tác động của lạm phát đối với việc GD
67
Bảng 2.17: Cách thức ứng phó của người nghèo trước các tác động của lạm phát
đối với sức khoẻ của các thành viên trong gia đình …………………………
68
Bảng 2.18: Chính sách hỗ trợ của Nhà nước ……………………………………….
73









4

Danh mục biểu đồ:
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu thu nhập của các hộ gia đình trong 6 tháng đầu năm 2008 ….
27
Biểu đồ 2.2: Các khoản thu nhập từ tiền lương, phụ cấp và trợ cấp xã hội ……….
28
Biểu đồ 2.3: Các khoản thu từ buôn bán dịch vụ, làm thuê ……………………….
29
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu chi tiêu của các hộ gia đình ………………………………….
35
Biểu đồ 2.5: Mục đích vay tiền của các hộ gia đình ………………………………
37
Biểu đồ 2.6: Tốc độ tăng, giảm giá tiêu dùng qua các năm ……………………….
41
Biểu đồ 2.7: Tác động của lạm phát đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ
gia đình …………………………………………………………………………….
46
Biểu đồ 2.8: Tác động của lạm phát đến chất lượng cuộc sống …………………
48
Biểu đồ 2.9: So sánh chất lượng bữa ăn 6 tháng đầu 2008 và 6 tháng đầu 2007
49
Biểu đồ 2.10: So sánh việc mua sắm quần áo của 6 tháng đầu 2008 với 6 tháng
đầu 2007 …………………………………………………………………………
50

Biểu đồ 2.11: Số thành viên trong độ tuổi lao động ………………………………
59
Biểu đồ 2.12: Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động có việc làm ………………….
59
Biểu đồ 2.13: Cơ cấu nguồn thu của các hộ gia đình trong 6 tháng đầu năm 2008 ….
61
Biểu đồ 2.14: Tỷ lệ các hộ được hưởng chính sách của Nhà nước từ năm 2007 đến nay
72
Biểu đồ 2.15: Đánh giá của người dân về tính kịp thời trong việc triển khai các chính
sách 6 tháng đầu năm 2008 ………………………………………………
75
Danh mục sơ đồ:
Sơ đồ 2.1: Tác động của lạm phát đến đời sống người dân nghèo, cận nghèo đô thị
43
Sơ đồ 2.2: Huy động các nguồn vốn ứng phó với lạm phát của người dân nghèo,
cận nghèo đô thị …………………………………………………………………
55
Sơ đồ 2.3: Các biện pháp ứng phó với lạm phát của người nghèo………………
63
Danh mục hộp:
Hộp 1: Chăn nuôi năm 2008: Hết dịch bệnh, thiên tai đến… lạm phát ……………….
34









5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Sau hơn 20 năm Đổi mới, bằng những nỗ lực vượt bậc với những thời cơ và sự
hỗ trợ, Việt Nam đã bước ra thế giới với vị thế ngày càng trang trọng hơn. Trong nhiều
năm, tăng trưởng kinh tế luôn giữ ở mức ổn định và Việt Nam đã từng được ví như con
hổ đang chuyển mình. Từ một quốc gia có tới ½ dân số sống trong cảnh nghèo đói với
những mức độ khác nhau vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, năm 2008
lần đầu tiên Việt Nam bứt ra khỏi vị trí các nước có thu nhập thấp. Song song với
những sự thay đổi tích cực của nền kinh tế vĩ mô, đời sống của các nhóm xã hội, đặc
biệt là các nhóm nghèo cũng đã có những sự đổi thay đáng kể, miếng bánh an sinh xã
hội ngày càng to hơn và theo đó phần của các nhóm yếu thế cũng được nhiều hơn.
Những thay đổi về chuẩn nghèo liên tiếp trong giai đoạn 1993-2005 cho thấy rất nhiều
những vấn đề quan trọng liên quan đến đời sống của các nhóm nghèo ở Việt Nam hiện
nay. Chuẩn nghèo của Việt Nam vẫn đang theo xu hướng tiệm cận với chuẩn nghèo
của khu vực và thế giới như chính sự hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam. Bên
cạnh đó là những cơ hội thoát nghèo ngày càng nhiều hơn dành cho người nghèo.
Trên thực tế, Việt Nam là một điển hình trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, đây
là điều mà cả thế giới đã công nhận. Bằng chứng là tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam đã
giảm xuống đáng kể từ 58,1% năm 1993 xuống chỉ còn 28,9% năm 2002 và thực sự ấn
tượng với con số 16% vào năm 2006. Xu hướng giảm nghèo của Việt Nam vẫn tiếp tục
được duy trì và khu vực nông thôn có tốc độ giảm nghèo nhanh hơn khu vực độ thị,
điều này cho thấy quyết tâm “tấn công nghèo đói” của Việt Nam. Ghi nhận cho những
thành công này của Việt Nam, ông Kofi Anna – nguyên Tổng thư ký LHQ đã từng phát
biểu rằng: “Quá trình thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) của Việt Nam đặc
biệt ấn tượng. Nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong xoá đói giảm nghèo mang tính
lịch sử. Mặc dù thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam so với nhiều nước khác
chưa cao, nhưng chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã đạt được mức tương
đương hoặc bằng các nước có thu nhập bình quân đầu người cao hơn Việt Nam rất
nhiều” [8]. Sự ghi nhận này cũng là một nguồn động lực rất lớn để Việt Nam tiếp tục

vững bước trên chặng đường chinh phục các mục tiêu Thiên niên kỷ.

6
Tuy nhiên, như hai mặt của một vấn đề, câu chuyện về xoá đói giảm nghèo ở
Việt Nam bên cạnh những thành tựu và những bài học thành công cũng không thiếu
những ví dụ chưa thành công và có một thực tế thành tích giảm nghèo của Việt Nam
còn thiếu bền vững cũng như khoảng cách giàu nghèo đang ngày càng có xu hướng
dãn ra. Bẫy nghèo luôn ở trạng thái rình rập và có thể sập bất kể lúc nào, người nghèo
sẽ lại càng nghèo trong khi nhóm cận nghèo lại rơi xuống nhóm nghèo. Bẫy nghèo
truyền thống được nhiều người thừa nhận bao gồm 5 yếu tố và rõ ràng trong bối cảnh
hiện tại bẫy nghèo này cần phải được cấu trúc lại và bổ sung nhân tố mới. Nhân tố mới
ở đây chính là các cú sốc xã hội, điển hình là lạm phát trong năm 2008. Trong bẫy
nghèo truyền thống, không có yếu tố lạm phát nhưng rõ ràng khó có thể khẳng định
lạm phát hay các yếu tố còn lại trong bẫy nghèo truyền thống có tác động mạnh hơn tới
người nghèo. Người nghèo từ trước tới nay mới chỉ quen và thậm chí được hỗ trợ để
ứng phó với thiên tai, thất học, ốm yếu…chứ chưa quen ứng phó với lạm phát. Chính
vì thế những cú sốc về kinh tế một mặt tạo ra những người nghèo mới, mặt khác làm
những người nghèo cũ trở nên nghèo sâu hơn.
Đối với Việt Nam nói riêng và đại đa số các nền kinh tế khác trên thế giới nói
chung, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã khiến mọi sự thay đổi kinh tế thế
giới dù là nhỏ nhất cũng có thể tạo ra những hiệu ứng domino trên toàn cầu. Thời điểm
cuối năm 2007, nhiều nền kinh tế chủ đạo của thế giới như Mỹ, Nhật Bản chững lại
kéo theo sự phát triển chậm lại của kinh tế thế giới nhưng Việt Nam vẫn vững vàng
vượt qua thời điểm này với tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất trong hơn 20 Đổi mới
(8,5%). Tuy nhiên bước sang năm 2008, tình hình kinh tế vĩ mô đã có nhiều thay đổi
nhanh chóng, lạm phát tăng cao tác động đến toàn thể các nhóm xã hội buộc Chính phủ
phải điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng và chuyển trọng tâm điều hành nền kinh tế đất
nước sang ổn định kinh tế vĩ mô. Năm 2007, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đã đạt đến
mức kỷ lục trong vòng 10 năm (12,63%) [16]. Năm 2008, tình hình lạm phát của Việt
Nam cũng không có dấu hiệu thuyên giảm, thậm chí còn có chiều hướng tăng mạnh

hơn so với năm trước, cuối năm 2008 con số này đã lên tới 19,89% [14]. Lạm phát còn
được gọi là bão giá và sức tàn phá của cơn bão này đối với người nghèo có lẽ không
kém những cơn bão của tự nhiên.

7
Có nhiều người cho rằng, lạm phát của Việt Nam có mối liên hệ chặt chẽ với
việc giá lương thực tăng và như vậy với một đất nước có đa số người dân làm nông
nghiệp, Việt Nam nói chung và nông dân Việt Nam nói riêng (trong đó đa số là người
nghèo) được hưởng lợi từ lạm phát. Thực tế, không phải như vậy, các nghiên cứu đã
chỉ ra tăng trưởng kinh tế cao sẽ góp phần làm giảm tỷ lệ nghèo đói. Và ngược lại với
những tăng trưởng kinh tế thấp (thậm chí là âm), cùng các bất ổn về kinh tế vĩ mô
(trong đó có lạm phát) có thể tạo ra một gánh nặng cho người nghèo [1]. Mặc dù, giá
lương thực tăng cao thậm chí là cao nhất trong các nhóm hàng nhưng giá vật tư nông
nghiệp đầu vào cũng tăng chóng mặt và duy trì trong một thời gian dài. Tuy nhiên, giá
lương thực tăng cao nhưng bản thân đại đa số nông dân không phải là những người
trực tiếp bán sản phẩm của mình ra thị trường mà qua các thương lái, điều đó cũng có
nghĩa một phần nhiều lợi nhuận từ tăng giá thuộc về thương lái. Do đó, người nông dân
nói chung và người nghèo nói riêng vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi trong bối cảnh giá cả
tăng cao. Ngoài ra, đối với nhóm nghèo đô thị vốn không có lương thực để bán thì rõ
ràng lạm phát đã và đang ảnh hưởng một cách toàn diện tới cuộc sống vốn đã khó khăn
của họ khi mà tốc độ tăng giá, mức độ tăng giá ở đô thị cũng cao hơn và nhanh hơn ở
nông thôn, đặc biệt chi phí ở đô thị cũng luôn đắt đỏ hơn so với khu vực nông thôn.
Với nhóm dân nghèo ở đô thị, tác động của lạm phát được biểu hiện khá rõ ràng
ngay trong mâm cơm, trong những sinh hoạt hàng ngày của họ. Khác với nhóm nghèo
nông thôn, phần lớn người nghèo đô thị không có hoặc rất ít ruộng đất và sinh kế lại bấp
bênh. Do đó, có thể nhận thấy rằng sức ép của lạm phát đối với các nhóm dân nghèo ở
đô thị còn gay gắt hơn so với các nhóm nghèo ở khu vực nông thôn. Ở khía cạnh chính
sách, hầu hết các chính sách, chương trình xoá đói giảm nghèo đều tập trung vào các khu
vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Chính vì thế việc đánh giá về đời sống của các người
dân nghèo đô thị trong bối cảnh tác động của lạm phát và nghiên cứu các biện pháp ứng

phó của chính những người dân này sẽ là cơ sở để đưa ra những khuyến nghị về chính
sách và hướng tới một chuẩn nghèo mới theo hướng bám sát với tình hình thực tiễn của
xã hội, có lợi cho người nghèo nói chung và người nghèo ở đô thị nói riêng khi mà
những dự báo về sự nhích lên của tỷ lệ nghèo ở khu vực đô thị đã xuất hiện [23]. Với
mục tiêu này, tác giả đã thực hiện đề tài: “Đời sống của người dân nghèo, cận nghèo
đô thị dưới tác động của lạm phát” (Khảo sát tại một số tỉnh phía Bắc)

8
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
2.1. Ý nghĩa lý luận.
Về phương diện khoa học, đói nghèo vẫn luôn nhận được sự quan tâm của nhiều
ngành khoa học. Kinh tế học tập trung vào các diễn biến của nền kinh tế với các chỉ số
rõ ràng, cụ thể. Ngành dân số xem xét đói nghèo với cách nhìn nhận về chất lượng
sống của các hộ nghèo, những nguyên nhân, giải pháp nhằm cải thiện và nâng cao chất
lượng sống cho các hộ gia đình này. Xã hội học nghiên cứu đói nghèo dưới nhiều chiều
cạnh và góc độ khác nhau trong mối tương quan với các vấn đề khác để tìm ra bản
chất, xu hướng…của thực trạng đói nghèo bằng việc lý giải các hiện tượng xã hội dưới
hệ thống các lý thuyết chuyên ngành. Các kết quả trong nghiên cứu này có thể góp
phần làm sáng tỏ một số lý thuyết xã hội học đại cương như: lý thuyết phân tầng xã
hội, lý thuyết hành động xã hội…cũng như áp dụng, chứng minh các quan điểm của xã
hội học kinh tế, xã hội học đô thị…
2.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Nghiên cứu về đói nghèo không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học mà còn mang
một ý nghĩa thực tiễn to lớn. Những kết quả và những khuyến nghị về chính sách tốt từ
các nghiên cứu về đói nghèo sẽ là cơ sở quan trọng giúp các nhà hoạch định chính sách
đưa ra được những quyết sách có lợi cho người nghèo. Mặc dù thế giới ngày càng phát
triển, của cải vật chất cũng ngày càng nhiều hơn nhưng không vì thế mà thế giới không
còn đói nghèo cho dù ở những nước phát triển nhất. Với nghiên cứu này, hy vọng đời
sống của nhóm dân nghèo tại đô thị dưới tác động của lạm phát sẽ được chỉ ra một
cách khoa học và những bài học cũng như những khuyến nghị đưa ra thực sự có thể

đóng góp vào việc tạo ra những thay đổi tích cực về mặt chính sách, cũng như cung
cấp những cách thức hỗ trợ hiệu quả giúp cho người dân nghèo từng bước vượt qua
những khó khăn, thách thức trong cuộc sống.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm tìm hiểu đời sống của người nghèo, cận nghèo tại
các đô thị ở một số tỉnh phía Bắc dưới tác động của lạm phát cũng như nghiên cứu về
các giải pháp ứng phó của người nghèo để có thể đưa ra một số các khuyến nghị về
chính sách đối với người nghèo nói chung và người nghèo tại các đô thị nói riêng.

9
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu tác động của lạm phát đến đời sống của người dân nghèo, cận nghèo
đô thị.
- Đánh giá khả năng ứng phó của người dân nghèo, cận nghèo đô thị đối với tác
động của lạm phát.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng ứng phó của người dân nghèo,
cận nghèo đô thị đối với các biến động kinh tế-xã hội.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đời sống của người dân nghèo, cận nghèo đô thị dưới tác động của lạm phát.
4.2. Khách thể nghiên cứu.
- Người dân nghèo, cận nghèo đô thị ở một số tỉnh phía Bắc. Do hạn chế về điều
kiện thời gian và kinh phí, khách thể nghiên cứu cụ thể được xác định là người dân
nghèo, cận nghèo đô thị của một số tỉnh: Hà Nội, Sơn La, Hoà Bình.
4.3. Phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi không gian: Hà Nội, Sơn La, Hoà Bình
- Phạm vi thời gian: 8/2008 – 10/2009
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Đời sống người dân nghèo, cận nghèo đô thị là
một lĩnh vực khá rộng bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu này

chỉ tập trung tìm hiểu một số khía cạnh trong đời sống của người dân nghèo, cận nghèo
đô thị như: thu nhập, chi tiêu, tình trạng vay mượn của các hộ gia đình; một số tác động
của lạm phát lên đời sống của người dân nghèo, cận nghèo đô thị với các khía cạnh cụ
thể: hoạt động sản xuất kinh doanh, chất lượng sinh hoạt, giáo dục, sức khoẻ; ứng phó
của họ với các tác động của lạm phát và một số tác động của chính sách đối với đời
sống của người dân nghèo, cận nghèo đô thị.
4.4. Mẫu nghiên cứu
Dung lượng mẫu: là 180 đơn vị trong đó mỗi địa phương gồm 60 đơn vị mẫu
theo tỷ lệ 30 hộ nghèo và 30 hộ cận nghèo tính theo chuẩn nghèo, cận nghèo hiện tại
của Việt Nam ở khu vực đô thị.
Phương pháp chọn mẫu: Dựa trên mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc nghiên cứu,
mẫu được chọn trong nghiên cứu chủ yếu là theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên.

10
Lập danh sách các hộ nghèo và cận nghèo theo chuẩn nghèo quy định ở khu vực đô thị.
Sau đó, chọn ngẫu nhiên hộ gia đình nghèo hoặc cận nghèo sẽ tham gia khảo sát đánh
giá về đời sống của người dân nghèo, cận nghèo đô thị dưới tác động của lạm phát.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là phương pháp luận
quan trọng giúp người nghiên cứu trong quá trình nhìn nhận và đánh giá vấn đề nghiên
cứu. Theo đó, quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng mọi sự vật, hiện
tượng đều nằm trong mối quan hệ ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Không có sự vật, hiện
tượng nào tồn tại một cách độc lập, riêng rẽ. Đứng trên góc độ của quan điểm này khi
nhìn vào đời sống của người dân nghèo, cận nghèo chúng ta cũng có thể thấy nó cũng
chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố xung quanh: từ các yếu tố chủ quan của chính
bản thân những người dân nghèo cho đến các nhân tố từ chính môi trường kinh tế - xã
hội xung quanh họ, trong đó có tác nhân lạm phát. Do đó, để có thể tìm hiểu và lý giải
được các vấn đề trong đời sống của người dân nghèo, cận nghèo ở đô thị, chúng ta cần
phải xem xét nó trong mối tương quan với rất nhiều các nhân tố khác, bao gồm cả nhân

tố chủ quan như đặc trưng nhân khẩu học và đặc trưng về lao động, việc làm cũng như
các nhân tố khách quan như tình trạng lạm phát, các chính sách xoá đói giảm nghèo.
Mặt khác, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, mọi sự vật đều tồn tại
trong tính không gian và thời gian xác định, luôn vận động, biến đổi. Bản thân nghèo
đói - mặc dù vẫn luôn là một thách thức “cố hữu” của nhân loại trong nhiều thế kỷ
nay, tuy nhiên nó lại không phải là một hiện tượng bất biến, nó vẫn có sự vận động và
biến đổi theo thời gian. Bẫy nghèo truyền thống vẫn được biết đến với những nhân tố
cơ bản như: đông con, thiên tai, dịch bệnh; ốm yếu, vô quyền…nay đã đã có sự bổ
sung thêm những nhân tố mới - lạm phát. Như vậy, chủ nghĩa duy vật lịch sử có một ý
nghĩa quan trọng về phương pháp luận trong cách nhìn nhận, đánh giá về đời sống của
người dân nghèo, cận nghèo đô thị dưới tác động của lạm phát.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thu thập thông tin.
- Phân tích số liệu thứ cấp: Toàn bộ số liệu của luận văn này được khai thác từ bộ số
liệu của dự án: “Đánh giá ảnh hưởng của tình trạng lạm phát đến đời sống các nhóm

11
nghèo” (Nghiên cứu trường hợp một số tỉnh phía Bắc Việt Nam) do Văn phòng Hỗ trợ Tư
vấn, Giám định và Phản biện Xã hội thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam tiến hành năm 2008.
Dự án này đã thực hiện 360 bảng hỏi, cụ thể là: 180 bảng hỏi cho nhóm nghèo,
cận nghèo ở khu vực đô thị và 180 bảng hỏi cho nhóm nghèo, cận nghèo ở khu vực
nông thôn. Bảng hỏi được thiết kế bao gồm hai phần chính: đời sống của người dân
nghèo, cận nghèo và tác động của lạm phát đối với đời sống của họ. Các câu hỏi phần
đời sống của các hộ nghèo và cận nghèo tập trung vào các vấn đề như: tình trạng hộ
nghèo; tình trạng kinh tế và tư liệu sản xuất của hộ gia đình; các nguồn thu nhập căn
bản và các khoản chi tiêu chủ yếu của hộ gia đình trong 6 tháng qua. Phần câu hỏi về
tác động của lạm phát đến đời sống của người dân nghèo và cận nghèo thu thập các
thông tin về mức độ tác động của lạm phát đối với đời sống của các hộ gia đình; biểu
hiện cụ thể của những tác động này trên bốn lĩnh vực chủ yếu là hoạt động sản xuất;

chất lượng sinh hoạt; giáo dục và y tế. Ngoài hai phần thông tin chủ yếu này, bảng hỏi
cũng thiết kế một số câu hỏi đánh giá về vai trò và tính hiệu quả, kịp thời của các chính
sách hỗ trợ, xoá đói giảm nghèo đối với người dân nghèo và cận nghèo trong bối cảnh
lạm phát.
Để đáp ứng các mục tiêu của luận văn, tác giả đã khai thác bộ số liệu của dự án
về nhóm nghèo, cận nghèo của khu vực đô thị (bộ số liệu từ 180 bảng hỏi cho nhóm
nghèo, cận nghèo ở khu vực đô thị). Đối với dự án này, tác giả đã được tham gia với tư
cách thành viên nghiên cứu, trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng bộ công cụ cũng
như quá trình khảo sát thu thập thông tin và viết các báo cáo chuyên đề cho dự án. Vì
vậy có thể hiểu rõ về mục tiêu cũng như kết quả của dự án cũng như có điều kiện thu
thập thêm các thông tin định tính phục vụ cho luận văn của mình.
- Phương pháp quan sát: đây là một phương pháp được sử dụng dụng nhằm kiểm
chứng các thông tin đã thu thập được từ bảng hỏi cũng như nhằm cung cấp thêm thông
tin cần thiết cho việc chứng minh giả thuyết nghiên cứu. Việc quan sát ở đây chủ yếu là
quan sát về điều kiện sống, sinh hoạt của nhóm dân nghèo ở một số khu vực đô thị phía
Bắc.

12
- Phương pháp phân tích tài liệu: được sử dụng nhằm bổ sung thêm các thông tin
chứng minh cho giả thuyết nghiên cứu. Nguồn tài liệu được sử dụng chủ yếu: sách,
báo, tạp chí, tài liệu trên mạng Internet…
- Phương pháp phỏng vấn sâu: được thực hiện nhằm cung cấp thêm thông tin đa
dạng, chi tiết để chứng minh cho giả thuyết nghiên cứu. Trong đề tài này, người nghiên
cứu tiến hành 10 cuộc phỏng vấn sâu với các đối tượng khác nhau như: người dân, cán
bộ chính quyền phường, tỉnh.
5.2.2. Phương pháp xử lý thông tin.
Thông tin định lượng được xử lý bằng chương trình SPSS.
6. Giả thuyết nghiên cứu.
- Đa số người dân nghèo, cận nghèo đô thị đều chịu tác động tiêu cực của tình trạng
lạm phát.

- Có sự khác biệt giữa người nghèo, cận nghèo đô thị tại các địa phương về khả năng
ứng phó với tác động của lạm phát.
- Người nghèo, cận nghèo đô thị ít nhận được các chính sách hỗ trợ ứng phó với tác
động của lạm phát.

13
7. Khung lý thuyết
ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI
ĐẶC ĐIỂM HỘ GIA ĐÌNH
LẠM PHÁT
ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI
NGHÈO, CẬN NGHÈO ĐÔ THỊ
- THU NHẬP
- CHI TIÊU
- CÁC ỨNG PHÓ CỦA
NGƯỜI NGHÈO
CÁC ĐẶC TRƯNG NHÂN
KHẨU HỌC
CÁC ĐẶC TRƯNG LAO
ĐỘNG, VIỆC LÀM
CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
CÁC CHÍNH
SÁCH XĐGN
CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ
VỚI LẠM PHÁT

14
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các hướng tiếp cận lý thuyết xã hội học

1.1.1. Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý của George Homans.
George Homans (1910 – 1989), nhà xã hội học người Mỹ, một trong các tác giả
của lý thuyết trao đổi xã hội, nổi tiếng với chủ trương đưa con người trở lại xã hội học.
Trong các lý thuyết của mình Homans đưa ra mô hình lựa chọn duy lý của hành vi cá
nhân trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản đã được khái quát thành các định đề sau:

Định đề phần thưởng: đối với tất cả các hành động của con người, hành động
nào càng thường xuyên được khen thưởng thì càng có khả năng được lặp lại.

Định đề kích thích: nếu một (nhóm) kích thích nào trước đây đã từng khiến
cho một hành động nào đấy được khen thưởng thì một (nhóm) kích thích mới càng
giống với kích thích đó bao nhiêu thì càng có khả năng làm cho hành động tương tự
trước đây được lặp lại bấy nhiêu.

Định đề giá trị: Kết quả của hành động càng có giá trị cao đối với chủ thể bao
nhiêu thì chủ thể đó càng có xu hướng thực hiện hành động đó bấy nhiêu. Và khi thấy
mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ sẵn sàng bỏ ra nhiều “chi phí” vật chất và tinh thần để đạt
được nó.

Định đề duy lý: Cá nhân sẽ lựa chọn hành động nào mà giá trị của kết quả
hành động đó và khả năng đạt được kết quả đó là lớn nhất.

Định đề giá trị suy giảm (nhàm chán): Càng thường xuyên nhận được một
phần thưởng nào đó bao nhiêu thì giá trị của nó càng giảm đi bấy nhiêu đối với chủ thể
hành động.

Định đề mong đợi: nếu sự mong đợi của con người được thực hiện thì người ta sẽ
hài lòng, còn nếu không được thực hiện thì cá nhân sẽ bực tức, không hài lòng [18, tr313].
Như vậy, có thể thấy rằng con người là một động vật duy lý, trước khi thực hiện
hành động con người quan tâm nhiều nhất tới vấn đề lợi ích và phần thưởng, và thường

xuyên tìm cách cân đối vấn đề này làm sao khi thực hiện hành động này có thể đem lại
phần thưởng cao nhất. Sự xem xét, tính toán này không chỉ căn cứ vào khả năng của
chủ thể mà còn căn cứ vào những giá trị, chuẩn mực, phong tục truyền thống.

15
Bản thân mỗi người dân nghèo, với tư cách là một chủ thể của hành động,
những suy nghĩ và tính toán để đưa ra những hành động hay những quyết định để đảm
bảo cuộc sống của họ trước tình trạng giá cả leo thang cũng là một sự lựa chọn đầy hợp
lý (đối với họ) dựa trên các điều kiện thực tế, với những nguồn vốn cũng như những
nhu cầu thực tế mà họ có. Sự tính toán này, nhằm đem lại cho họ một phần thưởng có
giá trị cao nhất phù hợp với khoản chi phí mà họ đã bỏ ra. Trên thực tế, để đối phó với
“cú sốc” lạm phát - một tác nhân mới trong cuộc sống của người nghèo, cũng là một
thách thức khá lớn, bởi vốn dĩ cuộc sống của họ cũng đã có quá nhiều thử thách khác
nhau. Hơn thế nữa, bản thân họ, nguồn vốn mà họ có về vốn con người, vốn tài sản,
vốn xã hội… dường như cũng không đủ “chi phí” để giúp họ vượt qua cơn sóng gió
của lạm phát.
Lý thuyết sự lựa chọn hợp lý của Homans có thể giúp chúng ta lý giải một cách
hợp lý các hành vi,cách thức ứng phó của người dân nghèo đối với tình trạng lạm phát
khi chính bản thân họ cũng có quá ít những lựa chọn để ứng phó một cách tích cực. Do
đó, khi người nghèo “nhịn” các nhu cầu sinh học như ăn uống, hay cả những nhu cầu
xã hội: cưới xin, ma chay…để ứng phó với lạm phát cũng là hành vi bình thường.
1.1.2. Lý thuyết cái “vòng luẩn quẩn” & cú huých từ bên ngoài của Samuellson [15,
tr95];[26]
Paul Adam Samuellson (1915) là nhà kinh tế học người Hoa Kỳ, đại biểu của
trường phái Kinh tế học vĩ mô tổng hợp. Samuellson cho rằng, có 4 nhân tố quan trọng
để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia. Đó là: nhân lực, tài nguyên,
tư bản, kĩ thuật. Tuy nhiên, ở các quốc gia kém phát triển thì cả 4 nhân tố này đều
trong tình trạng khan hiếm hoặc chất lượng thấp. Sự yếu thế của bốn nhân tố này, cộng
hưởng vào nhau tạo nên một vòng tròn luẩn quẩn của sự nghèo khổ. Điều này được
ông mô tả qua sơ đồ:




16

Để thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn này, bên cạnh việc cải thiện các yếu thế của
mình như nhân lực, kỹ thuật, tư bản hay tài nguyên, Samuellson cũng đặc biệt đề cao
vai trò của cú huých từ bên ngoài. Cú huých mang tính đột phá này theo ông chính là
cú huých đầu tư FDI.
Ở khía cạnh vi mô, cuộc sống của người nghèo là một vòng luẩn quẩn. Người
nghèo vẫn thường là những nhóm yếu thế trong xã hội, sự yếu thế của họ được thể hiện
trên nhiều phương diện, nghèo cả về vốn tài nguyên, vốn vật chất, vốn nhân lực thậm
chí là cả vốn xã hội… Trên thực tế, sự cộng hưởng của những thiếu hụt này cũng khiến
cho cái đói nghèo vẫn mãi quanh quẩn trong cuộc sống của họ. Do đó, để phá vỡ được
vòng luẩn quẩn đó, cần có những cú huých thực sự kết hợp giữa nội lực của người
nghèo và sự hỗ trợ bên ngoài. Điều này không chỉ giúp người nghèo thoát nghèo, mà
còn hướng đến thoát nghèo bền vững.
1.2. Khái niệm công cụ.
 Nghèo [43], [29], [30]:
Nghèo là thuật ngữ diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương
ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo các tiêu chuẩn này và các nguyên
nhân dẫn đến nghèo thay đổi tùy thuộc vào từng địa phương và từng thời điểm nhất
định. Thông thường các yếu tố đói nghèo được xác định bằng các chuẩn nghèo, cách
tính chuẩn nghèo của các quốc gia, các tổ chức cũng rất khác nhau, ví dụ:
- Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO): một người là nghèo khi thu nhập hàng năm
ít hơn một nửa thu nhập bình quân đầu người hàng năm của quốc gia.
- Theo Ngân hàng thế giới: một người nghèo khi có mức thu nhập 1
USD/người/ngày theo sức mua tương đương (PPP).
Tiết kiệm đầu tư thấp
Tốc độ tích luỹ thấp

Thu nhập bình quân thấp
Năng suất lao động thấp

17
Ngoài ra còn có nhiều cách tính chuẩn nghèo cũng như các định nghĩa khác
nhau về nghèo. Trong giai đoạn 1993 đến năm 2005, Việt Nam đã có 4 lần điều chỉnh
chuẩn nghèo. Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
8/7/2005, chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 như sau: từ 200.000
đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực nông thôn và từ 260.000 đồng/người/tháng trở
xuống ở khu vực đô thị. Đây cũng là căn cứ chính cho việc xác định hộ nghèo ở đô thị
trong nghiên cứu này.
Theo quyết định số 117/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
27/8/2008 về điều chỉnh mức đóng bảo hiểm y tế đối với các đối tượng thuộc diện
chính sách xã hội, hộ cận nghèo được xác định là những hộ có mức thu nhập bình quân
đầu người tối đa bằng 130% mức thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình so với
hộ nghèo (khu vực nông thôn từ 201 ngàn đồng đến 260 ngàn đồng/người/tháng và khu
vực thành thị từ 261 ngàn đồng đến 338 ngàn đồng/người/tháng).
 Lạm phát [17],[33]:
Cũng giống như định nghĩa về nghèo, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về
lạm phát. Theo Mac: “Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập các kênh lưu thông,
vượt qua nhu cầu của lưu thông hàng hóa, dẫn tới sự mất giá của đồng tiền và phân
phối lại thu nhập quốc dân”, theo Samuelson “Lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong
mức giá cả chung”. “Lạm phát thường được hiểu là lạm phát giá mua hàng của người
tiêu dùng và được biểu thị bằng chỉ số giá người tiêu dùng, gọi ngắn gọn là chỉ số giá
tiêu dùng (CPI)” (Nguyễn Minh Huệ, Tổng cục Thống kê). Tóm lại có thể hiểu một
cách đơn giản: Lạm phát là tình trạng giá cả tăng nhanh và kéo dài.
 Đô thị [41]; [4]; [5]: Có nhiều định nghĩa khác nhau về đô thị, trong
nghiên cứu này, đô thị được xác định dựa trên các đặc điểm theo nghị định số
72/2001/NĐ-CP ngày 5/10/2001 của Chính phủ Việt Nam về việc phân loại đô thị và
cấp quản lý đô thị:

Đô thị là khu dân cư tập trung có những đặc điểm sau:
1. Về cấp quản lý, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định thành lập;
2. Về trình độ phát triển, đô thị phải đạt được những tiêu chuẩn sau:

18
Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như: vùng liên tỉnh, vùng
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành phố trực thuộc
Trung ương; vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện.
Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động của dân
cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng quy
định cho từng loại đô thị, quy mô dân số ít nhất là 4000 người và mật độ dân số tối
thiểu phải đạt 2000 người/km².
Mới đây nhất, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 42/2009/NĐ-CP ngày
7/5/2009 về việc phân loại đô thị. Trong đó, có đưa ra các tiêu chuẩn cơ bản để phân
loại đô thị như sau:
Các tiêu chuẩn cơ bản để phân loại đô thị được xem xét, đánh giá trên cơ sở hiện
trạng phát triển đô thị tại năm trước liền kề năm lập đề án phân loại đô thị hoặc tại thời
điểm lập đề án phân loại đô thị, bao gồm:
1. Chức năng đô thị
Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, cấp quốc gia, cấp vùng liên
tỉnh, cấp tỉnh, cấp huyện hoặc là một trung tâm của vùng trong tỉnh; có vai trò thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định.
2. Quy mô dân số toàn đô thị tối thiểu phải đạt 4 nghìn người trở lên.
3. Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng loại đô thị và
được tính trong phạm vi nội thành, nội thị và khu phố xây dựng tập trung của thị trấn.
4. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp được tính trong phạm vi ranh giới nội thành, nội
thị, khu vực xây dựng tập trung phải đạt tối thiểu 65% so với tổng số lao động.

5. Hệ thống công trình hạ tầng đô thị gồm hệ thống công trình hạ tầng xã hội và hệ
thống công trình hạ tầng kỹ thuật:
a) Đối với khu vực nội thành, nội thị phải được đầu tư xây dựng đồng bộ và có mức
độ hoàn chỉnh theo từng loại đô thị;
b) Đối với khu vực ngoại thành, ngoại thị phải được đầu tư xây dựng đồng bộ mạng
hạ tầng và bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường và phát triển đô thị bền vững.
6. Kiến trúc, cảnh quan đô thị: việc xây dựng phát triển đô thị phải theo quy chế
quản lý kiến trúc đô thị được duyệt, có các khu đô thị kiểu mẫu, các tuyến phố văn

19
minh đô thị, có các không gian công cộng phục vụ đời sống tinh thần của dân cư đô thị;
có tổ hợp kiến trúc hoặc công trình kiến trúc tiêu biểu và phù hợp với môi trường, cảnh
quan thiên nhiên.
1.3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Đói nghèo không chỉ là một vấn đề đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách
mà còn là một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm nhiều nhất của các nhóm
xã hội. Chính vì thế các nghiên cứu liên quan tới đói nghèo ở Việt Nam hiện nay là rất
nhiều. Mặc dù vậy, xu hướng chính của các nghiên cứu này cũng giống như hệ thống
các chính sách xoá đói giảm nghèo thường tập trung dày đặc ở khu vực nông thôn,
vùng sâu vùng xa trong khi ở khu vực đô thị số lượng các nghiên cứu liên quan trực
tiếp tới đói nghèo là rất khiêm tốn.
Báo cáo Phát triển Việt Nam năm 2008 với chủ đề: “Bảo trợ xã hội” của Ngân
hàng Thế giới. Báo cáo gồm có 3 phần chính: (i) Phần I: Các nguồn rủi ro gây tổn
thương, (ii) Phần II: Các chính sách và chương trình và (iii)Phần III: Chặng đường
phía trước. Trọng tâm của báo cáo tập trung vào các chính sách và chương trình liên
quan tới Bảo trợ Xã hội tuy nhiên trong phần mở đầu của báo cáo, các vấn đề về nghèo
đói ở Việt Nam cũng đã được cập nhật và đi kèm với đó là sự chuyển dịch của đói
nghèo cùng với các cú sốc xã hội được đặc biệt quan tâm. Báo cáo này cũng đã chỉ ra
một khía cạnh quan trọng trong xu hướng giảm nghèo đang diễn ra tại Việt Nam hiện
nay: “mặc dù tốc độ giảm nghèo chậm lại, xu hướng giảm nghèo nhìn chung vẫn rất

mạnh mẽ. Ngược lại tỷ lệ nghèo ở khu vực thành thị lại có vẻ như chững lại, thậm chí
còn tăng nhẹ” [23, tr4]. Đây là kết quả của việc đại đa số các chính sách xoá đói giảm
nghèo đều được tập trung cho các khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa trong khi quá
trình đô thị hoá đang ở tốc độ cao và thiếu những bộ giảm sốc phù hợp để hạn chế các
cú sốc từ những sự chuyển dịch này. Điều này chưa bao gồm các nguyên nhân nghèo
cố hữu đã tồn tại nhiều năm tại đô thị nhưng chưa được giải quyết một cách triệt để.
Như vậy, từ những nhận định của WB và những dự báo về tác động của lạm phát đến
đời sống các nhóm nghèo, việc nghiên cứu những tác động của lạm phát đến đời sống
các nhóm dân nghèo đô thị càng có nhiều ý nghĩa cả ở khía cạnh khoa học và thực tiễn.
Trong số các báo cáo phát triển Việt Nam hàng năm cho đến nay, báo cáo phát
triển Việt Nam năm 2004 của Ngân hàng Thế giới về chủ đề “nghèo” được coi là một
điển hình về nghiên cứu nghèo đói ở Việt Nam trên cả hai phương diện lý luận và thực

20
tiễn. Báo cáo gồm 3 phần: (i) Phần I: Người nghèo là ai và vì sao họ nghèo, (ii) Phần
II: Chính sách công hiện nay và người nghèo, và (iii) Phần III: Tiến tới chú trọng
nhiều hơn đến giảm nghèo trong các chính sách công. Trong báo cáo này, bên cạnh
việc tập trung phân tích, định hình các đặc trưng nghèo đói, nguyên nhân, biến động
nghèo đói ở Việt Nam, báo cáo còn tập trung đánh giá vai trò của hệ thống chính sách
đối với người nghèo và đi liền với đó là các khuyến nghị cụ thể đối với các vấn đề
chính sách liên quan tới nghèo đói. Tuy nhiên các nội dung liên quan tới nghèo ở khu
vực đô thị ít được đề cập đến trong nghiên cứu này, đây cũng là một xu hướng chung
trong các nghiên cứu về đói nghèo ở Việt Nam hiện nay.
Cho đến nay, Việt Nam đã và đang thực hiện rất nhiều các chương trình, mục
tiêu quốc gia liên quan tới xoá đói giảm nghèo trong đó chương trình 135 có thể coi là
chương trình lớn nhất. Báo cáo đánh giá và lập kế hoạch cho tương lai: đánh giá
chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và chương trình 135 do Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội & UNDP công bố năm 2004 đã đánh giá một cách chi
tiết và đầy đủ về tình hình thực hiện các chương trình, mục tiêu về xoá đói giảm nghèo
ở Việt Nam thành tựu và những cách thách thức mà Việt Nam đã, đang và sẽ gặp phải.

Nghiên cứu của Viên Nghiên cứu chính sách lương thực quốc tế và Viện nghiên
cứu về: “Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam: Các yếu tố về địa lý không gian”
năm 2003. Trong nghiên cứu này cũng đã chỉ ra những điểm mấu chốt quan trọng của
thực trạng đói nghèo và bất bình đẳng ở các xã, huyện và tỉnh của Việt Nam. Bằng việc
sử dụng phương pháp ước lượng diện tích nhỏ để ước lượng chỉ số đói nghèo và bất
bình đẳng, nghiên cứu đã cho thấy một bản đồ khá rõ nét về sự phân bố đói nghèo và
bất bình đẳng hiện nay ở Việt Nam. Theo đó, các tỉnh thuộc vùng sâu, vùng xa của Tây
Bắc, Đông Bắc và phía Bắc của Tây Nguyên là nơi có tỷ lệ nghèo cao nhất. Tỷ lệ đói
nghèo ở đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long ở mức độ trung bình.
Các thành phố lớn, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ đói
nghèo thấp nhất. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã chỉ ra mối tương quan khá chặt chẽ
giữa các yếu tố địa lý (khí hậu, đất đai, địa hình, lượng mưa, diện tích rừng….) với tỷ
lệ đói nghèo. Đây có thể coi là những kết quả khá tốt phân tích cho thực trạng đói
nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam hiện nay.
Ở một khía cạnh cụ thể hơn, khi xem xét vấn đề nghèo đói ở đô thị, cũng đã có
khá nhiều bài viết và nghiên cứu về vấn đề này như “Nhà ở cho người có thu nhập

21
thấp tại các đô thị Việt Nam” của tác giả Nguyễn Mạnh Kiểm, 1996; “Tạo lập nơi ở
cho người nghèo đô thị” – tác giả Ngô Xuân Hồng, 1997…
Khi lạm phát bùng nổ, đã xuất hiện nhiều bài viết về lạm phát cũng như tác
động của lạm phát đối với đời sống của người dân. Bài viết của tác giả Mai Thị Thanh
Xuân về: “Tác động của lạm phát đến đời sống của người thu nhập thấp ở Việt Nam
hiện nay” đăng trên tạp chí ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) cũng đã đưa ra những
phân tích khá sát thực về tình trạng lạm phát cũng như những tác động của lạm phát
đối với đời sống của người có thu nhập thấp ở Việt Nam. Theo tác giả, Việt Nam đã
từng rất thành công trong việc kéo chỉ số lạm phát xuống mức thấp và kiềm chế nó
trong suốt 10 năm. Tuy nhiên, sau những thành công đó, năm 2007, cùng với làn sóng
của khủng hoảng kinh tế và lạm phát trên toàn cầu, Việt Nam cũng phải đối mặt với
tình trạng lạm phát tăng cao. Mặc dù vậy, lần lạm phát này cũng có những điểm khác

biệt so với tình trạng lạm phát của những năm trước đó như sự gia tăng mạnh và đồng
đều ở các nhóm hàng lương thực và phi lương thực; vượt ngoài sự dự báo của Chính
phủ và kéo theo sự mất giá của đồng tiền Việt Nam. Từ đó, tác giả đã chỉ ra một số tác
động của lạm phát đối với đời sống của những người có thu nhập thấp. Trong đó có
những tác động cụ thể với từng nhóm đối tượng như: những người sống bằng tiền
lương với những tác động mạnh nhất tới vấn đề thu nhập và chi tiêu; những người
nông dân và những người kinh doanh nhỏ lẻ với áp lực về chi phí đầu vào tăng nhanh
và đầu ra không tương xứng. Có thể nhận thấy rằng, các phân tích và đánh giá của tác
giả trong bài viết là khá sâu sắc, với nhiều dẫn chứng về số liệu. Tuy nhiên, những
phân tích này cũng mới chỉ là cái nhìn tổng quát về lạm phát cũng như tác động của nó
đối với đời sống người có thu nhập thấp. Mặc dù vậy, đây cũng là một tư liệu quan
trọng, cung cấp những dữ liệu khá thiết thực cho người nghiên cứu trong việc tìm hiểu
những tác động cụ thể của lạm phát đối với đời sống của các nhóm nghèo và cận nghèo
ở khu vực đô thị.
Như vậy, có thể thấy vấn đề nghèo đói và nghèo đói ở đô thị cũng đã được đề
cập tới trong khá nhiều các công trình nghiên cứu và Báo cáo phát triển của các tổ chức
trong và ngoài nước. Tuy nhiên, nghèo đói luôn có tính thời sự và là một phạm trù chịu
tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Mỗi thời điểm, bối cảnh nhất định, sự nhận diện
về vấn đề đói nghèo, nguyên nhân cũng như hệ quả từ thực trạng này cũng luôn luôn
mới mẻ, đặc biệt trong bối cảnh lạm phát tăng cao. Do đó, cần phải có một nghiên cứu

22
mới về tác động của lạm phát đối với đời sống của nhóm dân nghèo thành thị cũng như
qua đó đánh giá khả năng ứng phó với tình trạng này của nhóm dân nghèo thành thị.
Với mục đích đó, đề tài: “Đời sống của nhóm dân nghèo, cận nghèo đô thị dưới tác
động của lạm phát” (Khảo sát tại một số tỉnh phía Bắc) được thực hiện.
1.4. Tổng quan địa bàn nghiên cứu
1.4.1. Phường Quyết Thắng -Thành phố Sơn La.
Thành phố Sơn La là một trong những thành phố trẻ của đất nước, mới được
chính thức thành lập vào năm 2008. Thành phố Sơn La được coi là thủ phủ của vùng

Tây Bắc, nối liền thành phố Điện Biên Phủ và thành phố Hoà Bình, một mảnh đất
nhiều tiềm năng cho việc phát triển kinh tế - xã hội.
Thành phố rộng 324,93 km
2
với dân số là 107.282 người gồm 6 phường và 6 xã:
[44]. Do là một thành phố trẻ nên thị dân Sơn La có một phần là nông dân, nhiều bản
làng vẫn nằm trong phố. Tổng GDP trong 3 năm qua của thành phố tăng bình quân trên
17%/năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2008 ước đạt 800 USD [6]. Đây cũng là
những tiền đề tốt cho việc đẩy mạnh các hoạt động giảm nghèo của thành phố. Tính
đến năm 2006, tỷ lệ đói nghèo thành thị của tỉnh Sơn La chỉ còn 13,3%, giảm xuống
2,26% so với năm 2004. Trong đó mỗi phường, xã của địa phương đều có những đóng
góp tích cực cho sự thành công này.
Phường Quyết Thắng nằm ở trung tâm của thành phố Sơn La. Tổng thu ngân sách
trên địa bàn phường năm 2008 đạt trên 1,4 tỷ đồng. Trong năm 2008, phường đã duy
trì được tốc độ tăng trưởng khá ổn định, đời sống của nhân dân từng bước được cải
thiện và nâng cao, mức thu nhập bình quần năm 2008 đạt 1,2 triệu đồng/người/tháng,
số hộ khá, giàu đạt 67%. Tổng sản phẩm xã hội trong năm đạt trên 120 tỷ đồng [28].
Đây là những tiền đề cần thiết để từ đó đẩy mạnh công tác giảm nghèo, cải thiện đời
sống các nhóm nghèo. Tuy nhiên, trong bối cảnh của lạm phát như trong năm 2007 và
đặc biệt là 6 tháng đầu năm 2008, công tác giảm nghèo của địa phương cũng đứng
trước nhiều thách thức lớn trong việc duy trì tốc độ giảm nghèo và cải thiện đời sống
cho các hộ nghèo của địa phương.
1.4.2. Phường Thái Bình-Thành phố Hoà Bình.
Thành phố Hoà Bình nằm ở cửa ngõ của vùng Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội 73
km. Đây là một tỉnh có nền văn hoá đa dân tộc với khoảng 30 dân tộc đang sinh sống,
đông nhất là người Mường chiếm 63,3%, người Kinh chiếm 27,73%; dân tộc Thái

×