đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhăn văn
PHAN CH THNH
Dòng họ và đời sống làng xã ở đồng
bằng bắc bộ qua t- liệu ở một số xã
thuộc huyện thạch thất - hà tây
Luận án tiến sĩ lịch sử
H ni, 2006
Hà Nội, 2006
2
Mục lục
Trang
mở đầu
5
Ch-ơng I: Thực trạng dòng họ ở đồng bằng bắc bộ.
18
1.1. Khái l-ợc về địa bàn nghiên cứu.
18
1.2. Những vấn đề lý luận chung.
26
1.3. Các quan hệ dòng họ ở Thạch Thất - Hà Tây.
37
1.3.1 - Quan hệ hôn nhân của dòng họ.
37
1.3.2 - Quan hệ xã hội trong dòng họ.
43
1.3.3 - Quan hệ kinh tế trong dòng họ.
54
Tiểu kết ch-ơng I
61
Ch-ơng II: Thực chất của kết cấu dòng họ ở đồng bằng
bắc bộ
63
2.1 Kết cấu dòng họ.
63
2.2. Sinh hoạt tinh thần trong dòng họ.
74
2.3. Thực chất của kết cấu dòng họ ở ng-ời Việt thuộc Đồng
bằng Bắc bộ.
85
Tiểu kết ch-ơng II
96
Ch-ơng III: Vai trò của dòng họ trong làng xã ở Đồng
bằng Bắc bộ.
97
3.1. Trạng thái d-ới chế độ cũ.
97
3
3.2. ảnh h-ởng của dòng họ trong đời sống làng xã hiện nay.
111
3.3. Những kiến nghị về ứng xử chính trị - xã hội đối với dòng họ ở
nông thôn.
124
Tiểu kết ch-ơng III
129
Kết luận
131
Tài liệu tham khảo
136
Các công trình nghiên cứu của tác giả
146
Phụ lục
147
4
MỞ ĐẦU
I. Lý do chän ®Ò tµi
Trong đời sống nông thôn Việt Nam hiện nay, dòng họ và quan hệ dòng
họ vẫn còn là một đặc trưng thể hiện ở gần như khắp nơi, và cũng có thể nói
là trên mọi khía cạnh của đời sống. Họ hàng - làng - nước vẫn được coi là các
khuôn khổ quen thuộc đối với mọi người. Các giá trị văn hóa của mỗi làng
nói riêng, của mỗi vùng nếu nói rộng hơn, thậm chí của cả dân tộc, đều mang
dấu ấn của văn hóa dòng họ. Những ảnh hưởng tích cực của dòng họ và văn
hóa dòng họ đang đóng góp vào việc gìn giữ và phát triển văn hóa của dân
tộc. Nhưng những ảnh hưởng tiêu cực cũng thường xuyên tác động tới quá
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đặc biệt là tới công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, xây
dựng đời sống văn minh, dân chủ và hiện đại ở khu vực nông thôn.
Trong mỗi làng người Việt (Kinh) ở Đồng bằng Bắc Bộ, quan hệ dòng
họ (và quan hệ thân tộc nói chung) là một trong hai quan hệ cổ truyền cơ bản
cố kết các thành viên của làng. Quan hệ còn lại là quan hệ lân cư, tức quan hệ
giữa các thành viên của làng với nhau. Tất nhiên, quan hệ lân cư là quan hệ cơ
bản hơn, bởi nó được chính thống hóa, thậm chí là pháp chế hóa. Nhưng quan
hệ dòng họ không vì thế mà bị thu hẹp dần. Nó vẫn tồn tại rất dai dẳng, và có thể
nói là biến đổi ít hơn quan hệ lân cư, là loại quan hệ mà tính chất của nó có thể
được định hướng bởi chế độ chính trị từng thời kỳ. Do đó, để hiểu biết đầy đủ về
thực chất của đời sống nông thôn Việt Nam thì không thể thiếu những hiểu biết
về dòng họ và sinh hoạt dòng họ.
Có một hiện tượng rất đáng suy nghĩ, đó là sự phục hồi của hàng loạt
những hoạt động có liên quan đến dòng họ kể từ khi Việt Nam bắt đầu thực
hiện chiến lược đổi mới đất nước. Trước đó, có thể nói là trong vòng ba, bốn
5
thập kỷ, sinh hoạt dòng họ hầu như bị lắng chìm. Có nhiều lý do của sự lắng
chìm đó, nhưng trong đó chắc phải có lý do là tư tưởng về dòng họ mặc nhiên
bị coi là tư tưởng phong kiến, không phù hợp với tư tưởng xã hội chủ nghĩa
chính thống. Sự phục hưng có chiều rầm rộ của vấn đề dòng họ có tính chất tự
phát, nhưng cũng có tính khách quan, và được xã hội chấp nhận. Hàng chục
dòng họ đầu tư công sức, tiền của để xác minh quan hệ, nhận họ, nhận ngành,
nhiều họ còn lập ban liên lạc dòng họ để liên lạc trong cả nước, tổ chức giỗ họ
(có khi được coi là có quy mô toàn họ trong cả nước), khôi phục và tiếp nối
tộc phả, xuất bản sách về dòng họ, như các họ Ngô, họ Trịnh, họ Phạm, họ
Phan, họ Mạc, họ Hồ, họ Đỗ, họ Trần Một số tỉnh như Nghệ An, Thái Bình,
Vĩnh Phúc, Hải Phòng và nhiều tỉnh khác đã tổ chức những Hội thảo khoa
học về các dòng họ trong tỉnh, về văn hóa dòng họ với sự quan tâm của lãnh
đạo các tỉnh và sự tham gia của nhiều nhà khoa học ở Trung ương và địa
phương. Và nhân dịp Giỗ tổ Hùng Vương, ngày 27 - 4 - 1996, tại Bảo tàng
Cách mạng Việt Nam đã khai mạc hội thảo khoa học Dòng họ với truyền
thống văn hóa dân tộc, với sự tham gia của hàng trăm nhà khoa học và đại
biểu các dòng họ. Có lẽ trong lịch sử, chưa có thời nào chuyện dòng họ được
đặt ra một cách quan phương mà lại có quy mô rộng lớn đến thế. Một câu lạc
bộ thông tin về dòng họ cũng được hình thành trong khuôn khổ chương trình
hợp tác của UNESCO.
Những hiện tượng trên chứng tỏ rằng dòng họ cho đến hôm nay vẫn còn
là vấn đề rất cần quan tâm. Nếu nói làng xã là hằng số trong lịch sử dân tộc
Việt Nam, thì quan hệ dòng họ, nếu không được coi là hằng số, chí ít cũng
phải được coi là một nhân tố đóng góp vào sự trường tồn của làng xã.
Vùng Sơn Tây cũ, trong đó có Thạch Thất, là một vùng đất cổ khá điển
hình ở Đồng bằng Bắc Bộ. Ở đây, sinh hoạt dòng họ rất đậm nét. Đồng thời
đây cũng là một vùng đất mà con người rất năng động, thích ứng khá nhanh
6
với những biến đổi của xã hội. Về phía cá nhân, quê tổ của tôi là xã Hữu Bằng
thuộc huyện Thạch Thất. Tôi thường xuyên đi về, và cũng được chứng kiến
những đổi thay ở quê hương, trong đó có vấn đề dòng họ, một vấn đề mà tôi
đã quan tâm từ khi còn là sinh viên khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội. Vì thế tôi đã lựa chọn một số xã ở huyện Thạch Thất để làm địa bàn
nghiên cứu.
Đó là những lý do để tôi lựa chọn đề tài “Dòng họ và đời sống làng xã ở
Đồng bằng Bắc bộ qua tƣ liệu ở một số xã thuộc huyện Thạch Thất, Hà
Tây” làm đề tài luận án Tiến sĩ Khoa học Lịch sử của mình.
II. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI.
Mục tiêu đầu tiên của đề tài là đặt dòng họ trong bối cảnh đời sống xã
hội nông thôn để khảo sát và nghiên cứu hiện trạng của các dòng họ và sinh
hoạt dòng họ trong một số xã của huyện Thạch Thất, Hà Tây, trước hết là các
xã Lại Thượng, Hương Ngải, Hữu Bằng và Đại Đồng chứ không nghiên cứu
bản thân các làng xã. Trong số bốn xã này thì có ba xã sau là các xã có nhiều
dòng họ, có những dòng họ lớn với văn hóa dòng họ khá phong phú, và ảnh
hưởng dòng họ rất rõ rệt, theo cả hai ý nghĩa tích cực và tiêu cực tới đời sống
làng xã. Trên một ý nghĩa nào đó, sinh hoạt dòng họ ở ba xã sau là khá điển
hình, nếu so sánh với hiểu biết của tôi về dòng họ ở những nơi khác trong
vùng Đồng bằng Bắc Bộ và qua những gì mà các nhà nghiên cứu về dòng họ
đã nêu.
Mục tiêu thứ hai của đề tài là từ các tài liệu thực tế, chúng tôi nêu ra
quan niệm của mình về thực chất của dòng họ ở vùng này, tìm cách trả lời hai
câu hỏi cơ bản nảy sinh ra ngay trong quá trình nghiên cứu các tài liệu thực tế.
Thứ nhất: Kết cấu dòng họ thực ra là kết cấu con người theo cung cách nào
xét về mặt hiện thực? Và thứ hai: Nó có giá trị nhân học ra sao, tức là nó có
7
bản chất như thế nào, cái bản chất mà nhờ đó nó có thể tồn tại lâu dài trong
đời sống xã hội Việt Nam ở nông thôn? Vấn đề thứ hai này từ lâu đã là mối
quan tâm của nhiều người nghiên cứu về dòng họ, trong đó có tôi, và những
kết quả nghiên cứu thuộc lĩnh vực này nếu có giá trị khoa học thì có thể trở
thành những căn cứ cần thiết cho việc ứng xử chính trị - xã hội đối với vấn đề
dòng họ. Những ứng xử như thế ở nông thôn nước ta gần như vẫn chỉ có tính
chất kinh nghiệm, chứ chưa dựa trên những khuyến cáo khoa học, càng chưa
bao giờ được đặt ra một cách hệ thống, bài bản, chỉ làm theo lối xử lý điểm
nóng, “nước đến chân mới nhảy”.
Mục tiêu thứ ba là khảo sát và nghiên cứu những tác động của dòng họ
đối với đời sống xã hội ở địa bàn được nghiên cứu. Có thể nói đây là một
mục tiêu khó khăn, bởi vấn đề này rất phức tạp. Quan hệ dòng họ là quan
hệ riêng tư, và nó luôn luôn lẩn vào các quan hệ chính thống, lặng lẽ tác
động vào các quan hệ chính thống này, làm cho chúng bị “uốn” đi ở các xu
hướng khác nhau và ở các mức độ khác nhau, khó mà định lượng được,
mặc dù luôn luôn có nhu cầu khách quan là phải định lượng chúng. Tuy
nhiên, sự tồn tại thực sự của những ảnh hưởng dòng họ ở nông thôn lại
luôn là chuyện có thật. Hiểu biết được về các ảnh hưởng này là rất cần thiết
đối với sự nghiệp xây dựng nông thôn mới, một bộ phận thiết yếu của quá
trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa trên đất nước Việt Nam nói chung.
Cho nên mục tiêu này làm cho đề tài có tính chất thực tiễn, thiết thực và
không thể lảng tránh được.
Mục tiêu thứ tư là qua so sánh đối chiếu kết quả nghiên cứu của mình với
kết quả nghiên cứu của những người đi trước, bước đầu chúng tôi đưa ra
những nét chung về dòng họ của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ cũng như
ảnh hưởng của kết cấu này tới đời sống chính trị, kinh tế xã hội ở nông thôn.
Những nhận xét này nằm rải rác trong luận án mỗi khi chúng tôi thực hiện các
8
thao tác so sánh.
Cuối cùng, chúng tôi cũng mạnh dạn đề xuất những khuyến cáo về ứng
xử với vấn đề dòng họ ở nông thôn nói chung, dù chỉ là trên cơ sở những kết
quả nghiên cứu ở một vùng khá hạn chế về quy mô.
III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ.
Bởi dòng họ là một đặc trưng phổ biến trong đời sống xã hội Việt Nam,
nên nó đã được chú ý rất sớm. Ngay từ thời thuộc Pháp, các tác giả người
Pháp đã nghiên cứu nó, tất nhiên là chỉ để phục vụ cho công cuộc thực dân
hóa của Pháp mà thôi. Tuy nhiên, những nghiên cứu của họ lại là những
nghiên cứu khoa học đầu tiên, với tư cách là nghiên cứu có phương pháp xác
định. Các nhà nghiên cứu của Pháp thời kỳ này đã đề cập đến vấn đề dòng họ
như Bonifacy, Ory nhưng rõ nhất là hai tác giả P. Gourou và L. Cadière, P.
Gourou đã đưa ra con số 202 tộc danh ở Đồng bằng Bắc bộ, trong đó tỉnh Bắc
Ninh có 93 dòng họ, với 54% số hộ là họ Nguyễn. Đáng chú ý là ông phát
hiện ra ở Bắc Ninh có nhiều làng chỉ có một họ Nguyễn, con số này lên tới 48
làng, với quy mô trung bình 120 hộ và 730 nhân khẩu (36: 248). Số liệu này
được đưa ra từ năm 1938 trong sách của ông, và ngày nay chúng tôi không
còn đủ cơ sở để xác minh tính chính xác của nó. P. Gourou không quan tâm
tới bản chất và các mối quan hệ dòng họ, và toàn bộ phần viết về dòng họ của
ông cũng chỉ được thể hiện trên 5 trang sách. L. Cadière, tuy cũng không
khảo sát kỹ các quan hệ có tính chất dòng họ, nhưng đã cảm nhận được vai trò
của yếu tố tâm linh trong kết cấu dòng họ với trụ cột là “Đạo thờ tổ tiên”. [
trích theo 107, tr. 14].
Trước năm 1945, nghiên cứu về dòng họ người Việt (Kinh) chỉ xuất hiện
ở một số nhà nghiên cứu văn hóa như Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, và rõ
nhất là Phan Kế Bính trong cuốn Việt Nam phong tục và Đào Duy Anh với
9
Việt Nam văn hóa sử cương. Trong Việt Nam phong tục, qua các mục Thân
thuộc, Phụng sự tổ tiên, trong đó có tiểu mục Gia phả, Thượng thọ, Tang ma,
Phan Kế Bính đã trình bày một số nét trong sinh hoạt dòng họ, dựa trên tập
tục mà ông kinh nghiệm được, và cũng dựa trên Thọ Mai gia lễ do tiến sỹ
Nho học Hồ Sĩ Tân (1690 - 1760) biên soạn. Cũng tương tự như vậy, học giả
Đào Duy Anh trình bày một số nét trong sinh hoạt gia đình truyền thống và
dòng họ nhưng đôi chỗ có so sánh sự khác biệt ở cùng một vấn đề giữa tập tục
dân gian và quy định của pháp luật, chủ yếu là pháp luật thời Gia Long. Dưới
dạng trình bày khái lược đặc trưng văn hóa, cả hai ông đều không đưa ra các
tài liệu thực địa để chứng minh cho các đặc trưng dòng họ.
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng năm 1954, các ngành Khoa
học xã hội ở Việt Nam được thiết lập chính thống và triển khai nghiên cứu
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam, trong đó có Dân tộc học. Có lẽ
trong xu thế mới của sinh hoạt tư tưởng, dòng họ được coi là tàn dư của xã
hội cũ, có tính chất phong kiến - hay ít nhất là không còn phù hợp với chủ
nghĩa xã hội, do đó nó cũng ít được quan tâm. Chỉ có vấn đề dòng họ của một
số dân tộc ít người được giới thiệu trong các công trình dân tộc học của các
nhà khoa học như Đặng Nghiêm Vạn, Lã Văn Lô, Vương Hoàng Tuyên,
Trương Hữu Quýnh , tiếp đó là Mạc Đường, Nguyễn Dương Bình. Thậm
chí, hồi 1976, có cả một trào lưu tập trung nghiên cứu về nông thôn, được tập
hợp trong bộ sách hai tập Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, vấn đề dòng họ
của người Việt (Kinh) vẫn hầu như không được đề cập tới, lại càng không có
những chuyên khảo về vấn đề này.
Rốt cuộc, trước thời kỳ đổi mới, dòng họ người Việt (Kinh) chỉ được đề
cập đến rõ nhất trong cuốn Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ
của nhà nghiên cứu nổi tiếng Trần Từ, mặc dù cũng chỉ chiếm 6 trang sách
trên tổng số 166 trang sách của tác phẩm này. Ông xác định được vai trò của
10
dòng họ là tạo ra niềm cộng cảm, lại chịu “ảnh hưởng kéo dài qua hàng thế kỷ
của nền giáo dục nhà Nho, một nền giáo dục được củng cố trên bình diện tình
cảm bởi hình thái thờ cúng tổ tiên mà người Việt tiến hành, không những
trong từng hộ, từng gia đình nhỏ mà cả trong phạm vi toàn thể tông tộc, tại
nhà thờ họ” [102]. Về mặc thực tiễn, nó còn là chỗ dựa cho các thành viên
dòng họ giữa ngổn ngang những mâu thuẫn thường nhật trong đời sống xã hội
nông thôn, đặc biệt là với các dòng họ lớn.
Sau mở đầu thời kỳ đổi mới vài ba năm, sinh hoạt dòng họ trong nông
thôn cả nước bỗng dưng được khôi phục và phát triển ngày càng rộng khắp
như chúng tôi đã đề cập ở phần trên. Các cuốn sách của từng dòng họ tự soạn
thảo ít nhất cũng cung cấp vô cùng nhiều tư liệu mới về các dòng họ, nhất là
các dòng họ nổi tiếng ở nước ta, như các họ Ngô, Hồ, Phạm, Mạc, Trịnh, Lê,
Nguyễn, Phan , mặc dù tính chính xác của tư liệu trong rất nhiều trường hợp
còn phải xem xét thêm. Những thông báo của các Hội thảo khoa học về dòng
họ ở từng tỉnh có chú ý hơn tới vấn đề phương pháp, đề xuất việc cảnh giác
với hai khuynh hướng cực đoan hoặc quá đề cao, hoặc quá xem nhẹ vấn đề
dòng họ, kêu gọi việc bảo tồn và phát huy văn hóa dòng họ, và cung cấp thêm
nhiều tài liệu quan trọng, rất có giá trị về một số họ nổi tiếng trong các tỉnh.
Các nhà khoa học cũng phải vào cuộc. Tuy chưa có một công trình lớn nào
chuyên nghiên cứu về vấn đề dòng họ người Việt (Kinh) một cách có hệ
thống, nhưng các nhà nghiên cứu đã đề xuất nhiều vấn đề về lý luận và
phương pháp với nội dung khá phong phú, trong đó đáng lưu tâm nhất là các
luận điểm của các nhà nghiên cứu Phan Văn Các [15], Phan Đại Doãn [27],
Đặng Nghiêm Vạn [107], Trần Quốc Vượng [116]
GS. Phan Văn Các tóm lược lịch sử hình thành khái niệm Tính, Thị (tức
là Họ) trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, với tư tưởng “Kính tông pháp tổ”
của Nho gia, một số cấu trúc họ đơn, họ kép ở Trung Quốc và truyền thống
11
ghi chép tộc phả của người Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước Âu - Mỹ.
Ông cũng nêu ra các giá trị truyền thống quý báu cần phải quan tâm khi
nghiên cứu các dòng họ Việt Nam và sự cần thiết phải có phương pháp liên
ngành trong việc nghiên cứu về dòng họ [15].
GS. Trần Quốc Vượng trong một bài tham luận rất súc tích, đã đặt ra
những vấn đề phương pháp luận rất quan trọng trong nghiên cứu dòng họ, đề
phòng phương pháp tiến hóa luận cực đoan, đặc biệt quan tâm tới những
hiện tượng của dòng họ trái với lối suy nghĩ giản đơn thông thường như
tuyệt đối hóa tính chất phụ hệ, vai trò hoàn toàn lệ thuộc của phụ nữ trong
dòng họ, các họ nội hôn và nhấn mạnh Họ là một đơn vị cộng cảm mà
đỉnh cao là văn hóa tâm linh với tục thờ cúng tổ tiên [116, tr. 73-75].
GS. Phan Đại Doãn cho rằng thể chế dòng họ người Việt chịu ảnh hưởng
của văn hóa Hán, mà đã được tái cấu trúc cho phù hợp với thực tế Việt Nam,
với thành phần phổ biến là các gia đình nhỏ và đây đó còn tàn dư song hệ
(phụ hệ - mẫu hệ) với vai trò của phụ nữ trong kinh tế còn khá cao. Ngoài ra,
chính chế độ kế thừa gia sản theo kiểu đa tử, được thừa nhận trong luật pháp,
đã góp phần làm cho quan hệ dòng họ còn đậm nét và lâu dài [29]
Trong bài “Bàn về dòng họ người Việt” [107], giáo sư Đặng Nghiêm
Vạn phân biệt ba ý nghĩa của khái niệm họ: Tộc danh; tập hợp tất cả những
người cùng huyết thống; và cũng là tập hợp ấy nhưng hạn chế từ ông tổ 5 đời,
tức chi họ. Sự phân biệt này rất gần gũi với các tài liệu thực tế ở nhiều nơi qua
tài liệu của các nhà nghiên cứu, nhưng không phù hợp lắm với tài liệu ở địa
bàn mà chúng tôi nghiên cứu. Ông cũng đưa ra khái niệm ba họ trong sinh
hoạt dòng họ ở người Việt (Kinh) và phân biệt với quan hệ ải noọng - lúng ta
- nhính xao ở người Thái.
Tất nhiên là còn nhiều nhà nghiên cứu khác cũng quan tâm đến vấn đề
12
dòng họ, như PGS - TSKH Nguyễn Hải Kế [55], TS. Bùi Xuân Đính [38],
Ngô Thị Chính [20], TS. Vũ Hồng Quân [75] Đặc biệt là cuốn sách của
Mai Văn Hai và Phan Đại Doãn Quan hệ dòng họ ở châu thổ sông Hồng
[48] qua tư liệu so sánh ở hai làng Tứ Kỳ (Hoàng Liệt - Thanh Trì - Hà Nội)
và Đào xá (An Bình - Nam Sách - Hải Dương) trong khuôn khổ đề tài khoa
học cấp bộ “Quan hệ dòng họ trong đời sống kinh tế - xã hội ở châu thổ
sông Hồng” với tư liệu phong phú và phương pháp nghiên cứu liên ngành,
mang lại những quan điểm mới về vai trò dòng họ trong hai điển hình của
làng Đồng bằng Bắc bộ: một làng ven đô với kinh tế nông nghiệp và vai trò
ngày càng quan trọng của thương nghiệp ven đô, và một làng là làng thuần
nông ở một tỉnh ngoài tứ trấn.
Ở khoa Lịch sử của trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, vấn đề
dòng họ cũng được các thầy giáo và sinh viên lưu tâm. Đã có những luận văn
thạc sĩ và khoá luận tốt nghiệp cử nhân về vấn đề dòng họ của người Việt ở
Đồng bằng Bắc bộ. Bản thân tác giả luận án này cũng có một đề tài cấp đại
học quốc gia, ký hiệu QX - 11: Dòng họ và chính quyền các xã qua tư liệu
một số xã thuộc huyện Thạch Thất - Hà Tây.
Như vậy có thể nói, vấn đề dòng họ người Việt (Kinh) ở Đồng bằng Bắc
bộ nói chung đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm từ vài chục năm nay,
nhưng chủ yếu là từ mười, mười lăm năm nay. Tư liệu đã khá dồi dào, tuy
chưa được hệ thống. Nghiên cứu của chúng tôi trong luận án này là sự tiếp nối
công việc của những người đi trước.
IV. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN.
Luận án của chúng tôi có thể góp được vào công việc nghiên cứu chung
trên ba vấn đề sau đây:
Thứ nhất là thực trạng dòng họ và sinh hoạt dòng họ ở bốn xã thuộc
huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây, một vùng đất cổ của người Việt, nơi đối
13
tượng mà chúng tôi nghiên cứu còn khá đậm nét. Thực trạng này được phản
ánh thông qua một mặt là những nguồn tài liệu của những người nghiên cứu
trước, của các cơ quan chính quyền địa phương, nhưng chủ yếu là từ các tài
liệu điền dã trực tiếp của chúng tôi tại các xã Hương Ngải, Lại Thượng, Hữu
Bằng, Đại Đồng và một số xã khác trong hơn ba năm, tuy không liên tục,
nhưng cũng khá tỷ mỷ. Ngoài những nét chung với đời sống dòng họ ở nhiều
khu vực khác của Đồng bằng Bắc bộ, đời sống dòng họ ở vùng này cũng có
nhiều sắc thái biểu hiện riêng biệt, đóng góp vào sự phong phú của sinh hoạt
dòng họ của cả nước nói chung và của Đồng bằng Bắc bộ nói riêng.
Thứ hai là, trên cơ sở nắm bắt được thực trạng sinh hoạt dòng họ ở
địa bàn mà chúng tôi lựa chọn và trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của
những người đi trước, chúng tôi mạnh dạn đưa ra quan niệm của mình về
thực chất thiết chế dòng họ của người Việt (Kinh) ở Đồng bằng Bắc bộ.
Chúng tôi không dám đưa ra một định nghĩa cho khái niệm “dòng họ”,
thậm chí chỉ là cho khái niệm “dòng họ người Việt ở Đồng bằng Bắc bộ”,
mà chỉ nêu lên những nội dung căn bản của khái niệm đó, phản ánh phần
nào thực chất của một trong những thiết chế tồn tài lâu đời nhất trong đời
sống làng xã người Việt ở vùng nghiên cứu, tất nhiên là mang ý nghĩa đại
diện ở một mức độ nào đó cho Đồng bằng Bắc bộ nói chung. Chúng tôi
nghĩ rằng, ở một luận án tiến sĩ, công việc này không những là cần thiết,
mà còn có ý nghĩa bắt buộc. Dĩ nhiên không bao giờ chúng tôi coi những
gì hàm chứa trong quan niệm khái quát này là hoàn toàn đúng đắn. Nó sẽ
phải chịu sự cọ sát với thực tế của công việc nghiên cứu tiếp sau, và trước
hết là với hội đồng đánh giá luận án. Dẫu sao đó cũng là một bước đi, hay
ít nhất cũng là một công cụ tạm thời, theo ý nghĩa một khái niệm công
tác, và nếu đắc dụng, nó có thể góp phần giải mã lịch sử cư dân ở vùng
14
này.
Thứ ba là, trên cơ sở những kết quả nghiên cứu và quan niệm về
thực chất của dòng họ, và tác động của dòng họ tới đời sống nông thôn
trên địa bàn nghiên cứu, chúng tôi mạnh đề xuất một số kiến nghị khoa
học. Những kiến nghị này có nguyện vọng được gửi tới những cơ quan
có trách nhiệm hoạch định những chính sách kinh tế - xã hội ở nông thôn
Đồng bằng Bắc bộ, khuyến cáo về phương châm ứng xử với thiết chế
dòng họ ở nông thôn, trên tinh thần chung là bảo vệ và phát huy những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dòng họ và văn hóa dòng họ, đồng thời
hạn chế được các tác động tiêu cực của nó trong quá trình Công nghiệp
hóa - Hiện đại hóa nông thôn.
V. NGUỒN TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP CỦA LUẬN ÁN.
Để thực hiện luận án này, tôi dựa trên nhiều nguồn tư liệu. Trước hết là
những bài đăng trên các tạp chí khoa học, đặc biệt là tạp chí Dân tộc học và
tạp chí Nghiên cứu lịch sử, và chú trọng hơn tới những bài viết có liên quan
tới dòng họ. Thuộc vào loại này có tới trên 20 bài đăng rải rác trong nhiều
năm, đặc biệt là từ những năm 90 của thế kỷ trước. Tiếp đó là những tài liệu
trong bộ phận tư liệu của Khoa Sử, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Dân tộc học. Những nghiên cứu về
dòng họ còn có ở nhiều cuốn sách hiện có ở Thư việc Quốc gia, Thư viện Đại
học Quốc gia, Thư viện Viện Dân tộc học và các Viện Khoa học xã hội khác,
trong đó có cả các cuốn sách của các tác giả Pháp viết từ cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX. Một trong các cuốn sách đó là của P. Ory, mà tôi đã dịch ra
tiếng Việt từ năm 1992. Những tài liệu kể trên tôi đã liệt kê lại ở phần Tài liệu
tham khảo của luận án này, cùng với các tài liệu về nông thôn và dòng họ ở
Hà Tây nói chung và huyện Thạch Thất nói riêng.
Tuy nhiên, nguồn tư liệu chủ yếu mà tôi dựa vào là các thông tin tôi có
15
được trong nhiều lần nghiên cứu trực tiếp trên địa bàn các xã thuộc huyện
Thạch Thất, bao gồm các gia phả chữ Nho và chữ Quốc ngữ, những sắc
phong, thần phả, bia ký… và đặc biệt là những tài liệu do các thành viên (trên
50 người) thuộc các dòng họ sinh sống trên địa bàn trực tiếp cung cấp. Và
cuối cùng là những gì tôi được biết như những trải nghiệm cá nhân tôi và các
bậc tiền bối của họ Phan Văn 3, dòng họ của tôi thuộc xã Hữu Bằng, huyện
Thạch Thất - Hà Tây có được và kể lại
Về phương pháp, trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật,
chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp trong nghiên cứu thực địa, sắp xếp,
xử lý tư liệu, hình thành các quan điểm khoa học trong quá trình thực hiện và
hoàn thành luận án.
Trước hết là các phương pháp và thao tác trong quá trình nghiên cứu
thực địa, đó là các phương pháp mô tả, phương pháp phỏng vấn, cả phỏng vấn
cá nhân và phỏng vấn nhóm, điều tra theo phiếu hỏi soạn trước Việc xử lý
tư liệu được tiến hành bằng các phương pháp nghiên cứu thống kê xã hội học,
hình thành nên các số liệu giúp cho việc lượng hóa, nhất là đối với quan hệ có
tính thực tiễn của sinh hoạt dòng họ.
Đối với đề tài mà chúng tôi lựa chọn, sự kết hợp giữa phương pháp phân
tích và tổng hợp có vai trò rất lớn, trước hết bởi đặc trưng của bản thân đối
tượng nghiên cứu. Các biểu hiện trong quan hệ dòng họ luôn phải được xem
xét vừa như một biểu hiện cụ thể, vừa là biểu hiện của một khía cạnh trong
sinh hoạt dòng họ, lại vừa như một biểu hiện chung của ý thức dòng họ. Do
đó, sử dụng kết hợp giữa phân tích và tổng hợp được coi như phương pháp
chủ yếu của chương I và chương II.
Để có được những quan niệm về bất kỳ một lĩnh vực nào của đời sống
dòng họ, tất nghiên là phải sử dụng phương pháp khái quát hóa và trừu tượng
hóa. Đặc biệt, mục tiêu khoa học chủ yếu của luận án này, tức thực chất của
dòng họ, tất nhiên phải là kết quả của phương pháp khái quát hóa, trừu tượng
16
hóa.
Ngoài ra, chúng tôi phải sử dụng các phương pháp khác như so sánh, đối
chiếu, phương pháp văn bản học khi tiếp xúc với các bản gia phả và những
tài liệu có liên quan.
VI. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận án có kết cấu gồm ba chương.
Chương I: Thực trạng dòng họ ở Đồng bằng Bắc bộ.
Trong chương này, sau phần giới thiệu khái quát về địa bàn nghiên cứu
và các vấn đề lý luận chung, chúng tôi trình bày kết cấu của dòng họ ở địa bàn
nghiên cứu và những khía cạnh của sinh hoạt dòng họ chủ yếu trên bốn xã mà
chúng tôi lựa chọn. Các quan hệ này được gọi theo tính chất của chúng, gồm
quan hệ dòng họ về hôn nhân, quan hệ dòng họ về xã hội, quan hệ dòng họ về
kinh tế, tức đều là các quan hệ có tính thực tiễn, theo ý nghĩa là các quan hệ
dòng họ có tính lợi ích xã hội, chứ không phải chỉ mang ý nghĩa tinh thần.
Những luận điểm phần lớn được hình thành bằng phương pháp lượng hóa
được dẫn chứng đôi khi bằng các bảng biểu thống kê trong trường hợp có thể
thống kê được, tất nghiên là trên một số lượng chỉ có thể là hạn chế mà thôi.
Chương II: Thực chất của kết cấu dòng họ.
Chương này được chia thành ba tiết. Trước hết, là phần Kết cấu dòng họ.
Tiếp đó, chúng tôi dành một tiết riêng để trình bày và phân tích thực chất tinh
thần trong các quan hệ dòng họ, mà theo chúng tôi, đó là nội dung trực tiếp
chuyển tải ý nghĩa sâu sắc nhất của kết cấu dòng họ, và khi được thực tiễn hóa
trong đời sống hiện thực, tức là khi phải tìm cách thể hiện ra trong đời sống
nhờ tông pháp, nó trở thành các quan hệ mang tính thực tiễn đã được trình
bày trong chương I, đồng thời trực tiếp thể hiện ra trong sinh hoạt tinh thần
như giỗ tổ, lập gia phả, chăm sóc mộ tổ, tìm họ hàng và tinh thần dòng họ. Ở
tiết thứ ba, chúng tôi đưa ra quan niệm của mình về thực chất của kết cấu
dòng họ, kèm theo những lập luận cốt để trình bày cho rõ quan niệm của
17
mình.
Chương III: Dòng họ trong đời sống làng xã ở Đồng bằng Bắc bộ.
Những gì trình bày ở chương III này chỉ là bước đầu của một công việc
nghiên cứu công phu và dài hơi hơn nhiều, bởi đó là một lĩnh vực rất phong
phú, phức tạp và tình hình rất khác nhau ở những làng xã khác nhau. Trong
phạm vi địa bàn nghiên cứu, dựa trên các tư liệu thực tế, chúng tôi nêu lên
thực trạng,và có khi đối chiếu, tham khảo với các tư liệu của những nhà nghiên
cứu khác, và đưa ra những nhận định sơ bộ. Vì dòng họ chắc chắn là còn tồn tại
rất lâu dài, cho nên sự biến đổi của mối quan hệ giữa dòng họ với các quan hệ
khác ở nông thôn tất nhiên cũng biến đổi.
Cuối cùng là những đề xuất về ứng xử đối với vấn đề dòng họ ở nông thôn.
Cả vấn đề này nữa cũng chỉ là những ý kiến ban đầu, chủ yếu là có tính chất tham
khảo, bởi đây là một đề tài Dân tộc học chứ không phải một đề tài Chính trị học.
18
Chương I
THỰC TRẠNG DÕNG HỌ Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
1.1. KHÁI LƢỢC VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Thạch Thất là một vùng đất Việt cổ, nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Hà Tây,
cách Hà Nội chừng 40 km. Về mặt địa lý tự nhiên, Thạch Thất là vùng bán
sơn địa, nơi chuyển tiếp giữa vùng núi phía Tây Bắc (Hòa Bình) với Đồng
bằng Bắc bộ. Sông Tích chảy qua huyện theo hướng Tây Bắc - Đông Nam
chia huyện thành hai vùng có cấu tạo địa chất, địa tầng khác nhau. Theo
các nhà địa chất, có hai quá trình địa chất xảy ra mạnh mẽ và gần đây nhất,
quyết định tới địa hình, địa chất hiện nay của huyện Thạch Thất: Lần thứ
nhất thuộc hệ trầm tích Meogen cách đây 30 triệu năm, và lần thứ hai là Kỷ
Tân sinh, cách đây chừng hai triệu năm. Tài nguyên Thạch Thất nghèo, chỉ
có đá ong, than bùn và vàng cám ở phía Tây huyện với phẩm vị thấp. Hai
vùng địa chất được phân chia ra khá rõ rệt là vùng gò đồi ở phía tây huyện
gồm các xã: Cẩm Yên, Lại Thượng, Bình Yên, Tân Xã, Cần Kiệm, Kim
Quan, Hạ Bằng, Đông Trúc, Thạch Hòa và vùng đồng bằng phù sa chiếm
36% diện tích huyện, gồm các xã Phùng Xá, Bình Phú, Hữu Bằng, Thạch
Xá, Chàng Sơn, Canh Nậu, Dị Nậu, Hương Ngải, Liên Quan, Phú Kim, Đại
Đồng (Xin xem bảng 1).
Căn cứ vào những tài liệu khảo cổ học, các nhà khoa học khẳng định
rằng, trên địa bàn huyện Thạch Thất từ cách đây 4 nghìn năm đã có những
cộng đồng người Việt cổ sinh sống, trước hết là ở những vùng cao như dãy
núi Vua Bà, Đồng Bãi và vùng gò cao ở Thạch Hòa ngày nay. Có thể họ là
những cư dân của nền văn hóa Hòa Bình tràn xuống vùng này, chủ nhân của
nền văn hóa trước núi, theo khái niệm công tác của GS. Trần Quốc Vượng.
19
Các kết quả nghiên cứu về thời đại Hùng Vương cũng có những kết luận phù
hợp với nhận định này: “Vào thiên niên kỷ thứ II Tr. CN (cách chúng ta 4
nghìn năm) có những nhóm tộc người cư trú ở vùng trung du và những vùng
đất cao ven rìa phía Bắc của Đồng bằng Bắc bộ, đó là các vùng đất thuộc các
tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Bắc [111, tr. 15].
Bảng số 1: Phân bố đất từng xã ở huyện Thạch Thất - Hà Tây (2004)
(Nguồn: Phòng Thống kê huyện Thạch Thất - Số liệu năm 2004)
Tên xã
DT
tự nhiên
DT
N/nghiệp
DT
Thổ cƣ
DT
L/nghiệp
DT nƣớc
thủy sản
Đất chƣa
sử dụng
Chàng Sơn
259,88
196,05
19,75
4,85
413
Lại Thượng
813,31
504,81
83,13
25,29
11,59
Hữu Bằng
178,40
124,96
30,82
7,83
Bình Phú
471,53
335,63
27,00
3,7
38,07
Cần Kiệm
624,97
403,16
67,03
57,07
0,89
66,32
Thạch Xá
321,92
220,77
27,38
5,73
15,24
Hạ Bằng
571,25
397,24
39,88
5,40
50,02
Phú Kim
597,99
377,70
57,45
5,00
15,48
92,45
Tân Xá
704,50
348,07
26,21
125,90
19,43
24,06
Đồng Trúc
568,68
378,06
29,78
2,84
11,28
60,39
Đại Đồng
502,95
390,57
45,58
10,13
Dị Nậu
306,82
227,13
22,53
2,95
Liên Quan
291,10
182,99
27,25
9,24
19,12
Bình Yên
1067,28
494,81
46,95
272,82
11,27
166,38
Cẩm Yên
392,48
224,93
25,39
7,72
5,93
76,54
20
Hương Ngải
446,31
350,24
37,69
13,80
12,92
Theo bản thảo địa chí Thạch Thất do Ban tuyên giáo huyện đang biên
soạn, khoảng 500 năm Tr. CN, địa bàn cư trú của cư dân Thạch Thất vẫn chủ
yếu là những vùng đất cao, và bắt đầu phát triển ra khu vực các xã Hạ Bằng,
Đồng Trúc, Lại Thượng… rồi sau đó mới tụ cư ở vùng đồng bằng, mà gọi
theo người Thạch Thất là vùng nông giang. Ở khu vực này đất đai phì nhiêu,
màu mỡ, rất thuận lợi cho việc trồng lúa nước. Cho đến đầu thế kỷ thứ VI thì
cư dân ở Thạch Thất đã khá đông đúc.
Theo thống kê của huyện năm 1999, Thạch Thất có 140.529 nhân
khẩu, với 31.851 hộ gia đình được phân bố ở 20 xã, thị trấn như sau (Xin
xem bảng số 2)
Rõ ràng là Thạch Thất là một trong những vùng đất cổ của người Việt, là
một vùng đất văn vật với di tích văn hóa nổi tiếng cả nước là chùa Tây Phương,
và cũng giáp giới với chùa Thầy. Do đó, chắc chắn việc tụ cư ở vùng này đã có
từ trước Công nguyên. Tuy nhiên, do nhiều biến cố lịch sử, các làng xã ở vùng
này chỉ ghi nhận được lịch sử của mình muộn hơn, và chủ yếu là qua thần tích
của đình chùa. Ví dụ thần tích làng Hương Ngải nhận rằng lập làng là ba anh
em họ Chu, được Hán Hiếu đế phong quan chức và Hương Ngải là một trong
năm hành cung của họ (cùng với Đại Đồng, Đình Vồi, Kim Quan (Liên Quan).
Làng Hữu Bằng qua thần phả đình làng có lịch sử trên dưới 900 năm, từ Trại
Ba nhà đến Trại Bông, Nủa Chợ đến Hữu Bằng trang. Các làng Chàng Sơn,
Bùng (Nủa bừa) cũng chỉ ghi nhận được lịch sử làng mình từ thời Lý.
Từ xưa đến nay, phần lớn các làng xã của Thạch Thất vẫn chủ yếu sống
bằng nghề làm ruộng nước. Đồng đất vùng này rất phì nhiêu, người dân nổi
tiếng là cần cù, ham việc, có gan làm giàu, có chí khí và có bản lĩnh, sẵn sàng
đi làm ăn ở bất cứ nơi nào. Cũng từ lâu đời, nhiều nghề thủ công đã ra đời và
phát triển, như nghề rèn ở Phùng Xá, nghề dệt vải, nhuộm vải, kéo sợi ở Hữu
Bằng, nghề mộc và đan lát ở Chàng Sơn trong đó nổi tiếng nhất là làng Hữu
Bằng với cái chợ khá to, được coi như trung tâm thương mại của cả vùng, đến
21
mức chính làng này có cái tên là Nủa Chợ. Truyền thống này của Hữu Bằng
ngày càng được phát huy.
Bảng số 2: Số nhân khẩu và số hộ các xã của huyện Thạch Thất - Hà Tây (2005)
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Thạch Thất - Hà Tây số liệu năm 2005)
TT
Tên xã,
thị trấn
Số hộ
Nhân
khẩu
Mật độ
DS/km
2
Tỷ lệ
tăng DS
Lao động
Tổng
số
NN
TTCN
D.vụ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
1
Liên Quan
1086
5376
1827
139
1810
1681
129
2
Đại Đồng
1965
8809
1589
174
424
3768
256
3
Cẩm Yên
843
4236
1007
154
1610
1580
30
4
Lại Thượng
1687
8068
457
178
3567
3485
82
5
Phú Kim
1855
8620
1381
167
3702
3591
111
6
Hương Ngải
1861
7390
1632
169
3655
3585
70
7
Canh Nậu
2266
11854
2310
221
4625
4499
126
8
Dị Nậu
1208
6273
1857
221
2399
2352
47
9
Bình Yên
1797
8454
685
139
3404
3064
340
10
Kim Quan
1452
6626
1358
151
2894
2806
88
11
Chàng Sơn
1591
8018
2692
226
1719
2583
1866
12
Thạch Xá
1211
5717
1666
177
2570
2476
94
13
Hữu Bằng
2564
13481
6749
206
3614
1682
1932
14
Phùng Xá
2075
9814
182
197
1817
318
3499
15
Tân Xá
730
3892
552
129
1727
1712
15
16
Cần Kiệm
1591
7813
1118
158
3414
3170
244
17
Bình Phú
1734
8621
1620
205
4060
3282
778
18
Hạ Bằng
1161
5697
920
187
2611
2537
74
22
19
Đồng Trúc
1006
5573
956
125
2065
2008
57
20
Thạch Hòa
1834
7978
422
236
2169
2049
120
Tổng cộng
31851
152230
1143
1,43
63486
52528
10958
Kể từ thời kỳ đổi mới, bộ mặt nông thôn Thạch Thất có những đổi thay
rất quan trọng. Giao thông nông thôn khá phát triển, nhà ở của dân được xây
cất khá tốt, ở những xã phát triển như Hữu Bằng, Phùng Xá, nhà cửa gia đình
không kém gì thành phố, với công trình phụ khép kín, thậm chí hiện đại.
Nhưng quan trọng hơn là cơ cấu kinh tế bắt đầu có thay đổi, dù là rất không
đều, tức là nổi bật vẫn là các làng xã có truyền thống tiếp cận thị trường (Xin
xem bảng số 3).
Nhìn vào bảng số 3, chúng ta nhận thấy trừ xã Phú Kim, còn lại một thị
trấn huyện (Liên Quan) và 18 xã khác đất nông nghiệp trồng lúa trong một
năm đã giảm từ thấp nhất là 1ha (Hương Ngải) đến cao nhất là 36 ha (Hữu
Bằng). Có hai lý do cơ bản giải thích hiện tượng này. Thứ nhất là quá trình
tăng dân số và tách hộ, và thứ hai là chuyển đất nông nghiệp sang làm đất
công nghiệp, điển hình lại vẫn là xã Hữu Bằng. Tình hình này phù hợp với sự
ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp, từ doanh nghiệp tư nhân tới công ty
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Hai bảng 3 và 4 phản ánh phần nào những biến đổi về cơ cấu kinh tế ở
các xã trong huyện Thạch Thất. Trong khi phần lớn các xã trong huyện vẫn
còn được coi là xã thuần nông như Hương Ngải, Đại Đồng, Phú Kim, Dị Nậu,
Hạ Bằng, Đồng Trúc, Lại Thượng thì một số xã đã phát triển các ngành
nghề thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp, đất nông nghiệp bị thu hẹp lại
nhiều, điển hình là Chàng Sơn, Phùng Xá, và nhất là Hữu Bằng. Năm 2003,
trong khi diện tích cấy lúa của Đại Đồng là 730 ha, đạt sản lượng 4. 600 tấn
thóc với số dân là 8.643 thì Hữu Bằng chỉ còn 181 ha đất cấy lúa, sản lượng
chỉ còn 963 tấn, thấp nhất huyện, mà dân số thì đông nhất huyện với 13.191
người. Tuy nhiên, trong khi Hữu Bằng có 35 công ty trách nhiệm hữu hạn thì
Đại Đồng chỉ có 3. Về mặt ngành nghề, các làng tiểu thủ công nghiệp vừa
23
phát huy nghề truyền thống, vừa hình thành khuynh hướng tập trung vào một
số ngành nghề. Ở xã Phùng Xá, tỷ lệ cơ sở kinh doanh ngành nghề có liên
quan đến kim khí là 15 trên 35, tức 43% trong tổng số cơ sở kinh doanh, ở
Chàng Sơn, các cơ sở kinh doanh chế biến sản xuất đồ mộc là 13 trên tổng số
15 doanh nghiệp, tức 86%. Hữu Bằng vốn rất linh hoạt trong làm ăn, vừa có
số cơ sở kinh doanh đông nhất, vừa phong phú nhất về ngành nghề, vừa rất
linh hoạt trong chuyển đổi nghề kinh doanh. Hiện Hữu Bằng có 19 cơ sở kinh
doanh chế biến gỗ, 3 cơ sở kinh doanh may mặc và các ngành nghề khác như
xây dựng, điện tử, trang trí nội thất, phụ tùng ô tô
Bảng số 3: Diện tích - năng xuất - sản lƣợng lúa cả năm 2003 của các xã
thuộc huyện Thạch Thất - Hà Tây.
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Thạch Thất - Hà Tây số liệu năm 2004)
Số
TT
Tên xã, thị trấn
Diện tích
Năng suất
(tạ/ha)
Sản xuất (tấn)
Năm.
2002
Năm
2003
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2002
Năm
2003
1
T.T Liên Quan
274,4
259,5
50,8
54,91
1.484
1425
2
Đại Đồng
737
730
63
63,01
4.645
4.600
3
Phú Kim
680
706
55,3
53,87
3.757
3.803
4
Hương Ngải
634
633
55,3
50,98
3.508
3.227
5
Canh Nậu
715
709
60,96
61,57
4.358
4.365
6
Dị Nậu
348
430
62,3
62,4
2.727
2.683
7
Chàng Sơn
362
349,2
56,6
54,75
2.015
1.912
8
Thạch Xá
413
412
57,36
55,24
2.369
2.276
9
Bình Phú
611
610
56,12
54,41
3.429
3.319
10
Hữu Bằng
217
181
52,02
53,2
1.129
963
11
Phùng Xá
597
593
58,42
54,76
3.383
3.247
12
Cần Kiệm
568
556
53,9
53,02
3.063
2.948
13
Kim Quan
395
395
56
54,15
2.213
2.139
14
Lại Thượng
716
711
52,47
49,04
3.757
3.487
15
Cẩm Yên
370
378
53,32
52,25
2.047
1.975
24
16
Bình Yên
494,5
460
46,37
51,48
2.293
2.368
17
Tân Xã
251
243,5
47,53
47,56
1.193
1.158
18
Hạ Bằng
395,2
367,3
56,98
53,77
2.253
1.975
19
Đồng Trúc
354
352
51,36
51,7
1.818
1.820
20
Thạch Hoà
198
192
48,03
50,63
951
972
Bảng số 4: Các cơ sở kinh doanh của một số xã
ở huyện Thạch Thất - Hà Tây (2005)
(Nguồn: Phòng thống kê huyện Thạch Thất - Hà Tây số liệu năm 2004)
Tên xã
Cty
TNHH
Cty
Cổ phần
Doanh
nghiệp
tƣ nhân
HTX
thủ công
Doanh thu 2004
(triệu đồng)
Liên quan
7
1
2
1
5.622,5
Thạch Xá
5
0
3
0
23.129
Chàng Sơn
15
0
1
6
48.345
Hữu Bằng
35
0
1
0
150.487
Phùng Xá
14
2
25
3
333.695
Phú Kim
0
0
0
0
0
Đại Đồng
3
0
0
0
3.261
Canh Nậu
13
0
0
2
13.378
Bình Yên
7
1
1
2
33.104
Hương Ngải
0
0
0
2
787
Những biến đổi về cơ cấu kinh tế, ngành nghề tất nhiên cũng sẽ ghi dấu
ấn lên sinh hoạt dòng họ.
Việc xác định nguồn gốc các dòng họ ở Thạch Thất là một việc rất phức
tạp, giống như tình hình ở mọi nơi. Lý do đầu tiên và căn bản là tư liệu gốc,
tức gia phả, đã trở nên rất hiếm hoi, do bị thất thoát bởi rất nhiều biến cố lịch
sử của đất nước và của dòng họ. Chúng tôi tạm chia thành ba trường hợp.
25
Thứ nhất là trường hợp các họ còn giữ được gia phả gốc, trong đó ghi rõ
sự kiện tối quan trọng đối với các dòng họ, sự kiện ông thủy tổ về Thạch Thất
lập nghiệp. Đó là các trường hợp họ Nguyễn Văn ở Hữu Bằng với sự kiện ông
Nguyễn Ngung, con trai cụ Tổ từ Hà Nam lên lập nghiệp ở đây, cụ Ngung đỗ
Tiến sĩ khoa Đinh Mùi 1487, và là người khai khoa cho Hữu Bằng, họ Kiều
Bá ở xã Đại Đồng với sự kiện cụ Tổ Kiều Phi Diên do có loạn lớn ở Lạng Sơn
đem hai con trai chạy về Thạch Thất năm 1547; họ Đỗ ở Hương Ngải với sự
kiện vua Lê Thánh Tông ban cho cụ Tổ của họ này tên hiệu Vô vi Tiên sinh,
họ Phan Lạc ở Hữu Bằng với sự kiện con trai cụ Tổ Phan Tế là cụ Phan Bảng
đỗ Tiễn sĩ vào năm 1623 Thuộc vào trường hợp một này chỉ có 11 dòng họ.
Phần lớn các họ ở vùng Thạch Thất thuộc vào trường hợp thứ hai, đó là
những họ mà thông tin về nguồn gốc dòng họ được ghi lại trong các gia phả
mới được khôi phục từ những người trong dòng họ. Các gia phả loại này lại
thường được chép từ những nguồn tin do nhiều người trong họ cung cấp, khi
thì là một phần gia phả cũ, khi thì là những ký ức do tiền nhân để lại, cũng khi
là những việc được ghi lại gắn liền với một sự kiện trong làng Kết quả là
một hình thức gia phả mới được ra đời thuần túy viết bằng chữ quốc ngữ, ghi
chép được từ 10 tới 15, 16 đời kể từ thế hệ hôm nay. Căn cứ vào các tài liệu
này, thì phần lớn các dòng họ ở vùng này có lịch sử từ đời Lê Trung Hưng trở
lại, tức là có lịch sử từ 200 đến 300 năm.
Trường hợp thứ ba là loại họ có gia phả được xây dựng trên cơ sở những
thông tin từ những người đang còn sống kết hợp lại với nhau, tức là từ dòng
họ hiện đang tồn tại kết hợp với ký ức xác thực về quan hệ huyết thống giữa
họ với nhau, rồi từ đó mà ngược lên tới chừng nào mà họ còn nhớ được. Loại
này khá giống với trường hợp thứ hai, chỉ có điều số thế hệ trong dòng họ
được ghi lại không quá 10 đời, như hai họ Phan Văn ở Hữu Bằng, một họ
Nguyễn ở Phú Kim, họ Lê ở Kim Quan