Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Phát triển du lịch làng nghề ở tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.52 MB, 119 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

***




NGUYỄN THỊ HUỆ




PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG NGHỀ
Ở TỈNH HẢI DƢƠNG







LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH









Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

***

NGUYỄN THỊ HUỆ



PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG NGHỀ
Ở TỈNH HẢI DƢƠNG


Chuyên ngành : Du lịch
(Chƣơng trình đào tạo thí điểm)




LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH




Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Văn Thông









Hà Nội - 2013

1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 6
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6
4. Lịch sử nghiên cứu của đề tài 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 9
6. Những đóng góp mới 9
7. Cấu trúc của luận văn 9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LÀNG NGHỀ VÀ DU
LỊCH LÀNG NGHỀ 10
1.1. Cơ sở lý luận 10
1.1.1. Làng nghề 10
1.1.2. Du lịch làng nghề 21
1.2. Cơ sở thực tiễn 26
1.2.1. Phát triển du lịch làng nghề ở Việt Nam 26
1.2.2. Phát triển du lịch làng nghề ở Đồng bằng sông Hồng 28
Tiểu kết chƣơng 1 31

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG
NGHỀ Ở TỈNH HẢI DƢƠNG 33
2.1. Khái quát chung về tỉnh Hải Dƣơng 33
2.1.1. Vị trí địa lý 33
2.1.2. Dân số, cơ sở hạ tầng và tình hình kinh tế 34
2.2. Thực trạng của các làng nghề ở Hải Dƣơng hiện nay 36
2.2.1. Tổng quan về làng nghề ở tỉnh Hải Dƣơng 36
2.2.2. Giá trị của các làng nghề tại Hải Dƣơng 39

2
2.2.3. Đánh giá một số làng nghề tiêu biểu để xây dựng sản phẩm phát triển du
lịch làng nghề ở Hải Dƣơng 42
2.2.4. Vấn đề ô nhiễm môi trƣờng các làng nghề ở Hải Dƣơng 54
2.3. Thực trạng khai thác du lịch làng nghề 58
2.3.1. Công tác tổ chức quản lý du lịch tại các làng nghề 58
2.3.2. Thực trạng khách du lịch làng nghề tỉnh Hải Dƣơng 61
2.3.3. Thực trạng phát triển du lịch làng nghề tại tỉnh Hải Dƣơng 64
Tiểu kết chƣơng 2 79
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN
DU LỊCH LÀNG NGHỀ Ở TỈNH HẢI DƢƠNG 82
3.1. Định hƣớng phát triển 82
3.1.1. Định hƣớng phát triển theo ngành 82
3.1.2. Định hƣớng phát triển theo lãnh thổ 84
3.2. Một số giải pháp cơ bản 86
3.2.1. Giải pháp về cơ chế chính sách 86
3.2.2. Giải pháp về thị trƣờng 88
3.2.3. Đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực phục vụ du lịch làng nghề 89
3.2.4. Giải pháp về đầu tƣ vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật 91
3.2.5. Giải pháp về bảo tồn và phát huy giá trị làng nghề 93
3.2.6. Giải pháp về môi trƣờng tại các làng nghề ở Hải Dƣơng 99

3.3. Xây dựng các tuyến du lịch chuyên biệt và kết hợp 97
Tiểu kết chƣơng 3 102
KẾT LUẬN 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
PHỤ LỤC…………………………………………………………………………108





3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BVMT
Bảovệ môi trƣờng
CCN
Cụm công nghiệp
CN-TTCN
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
CNH-HĐH
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH
Đồng bằng sông Hồng
HTX
Hợp tác xã
QĐ-SVHTT&DL

Quyết định - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
sở VH-TT&DL
Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch
TCDL
Tổng cục Du lịch
THPT
Trung học phổ thông
TMDL
Thƣơng mại du lịch
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn

Trung ƣơng
UBND
Ủy ban nhân dân











4


DANH MỤC BẢNG BIỂU


Trang
Bảng 1.1: Phân loại làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất 15
Bảng 2.1: Tổng hợp làng nghề ở tỉnh Hải Dƣơng………………………… 38
Bảng 2.2: Tổng hợp khách du lịch đến Hải Dƣơng từ năm 2005 - 2010 65
Bảng 2.3: Số lƣợng đoàn khách đến làng gốm cổ Chu Đậu 67
Bảng 2.4: Số lƣợng đoàn khách du lịch đến Chu Đậu qua các tháng năm
2010 68
Bảng 2.5: Số lƣợng cơ sở lƣu trú trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng 72
Bảng 2.6: Hiện trạng phân bố cơ sở lƣu trú tại các huyện năm 2011 72
Bảng 2.7: Hiện trạng chất lƣợng cơ sở lƣu trú của Hải Dƣơng từ năm 2006 -
2011 73
Bảng 2.8: Hiện trạng đơn vị kinh doanh lữ hành tại Hải Dƣơng 75

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ: Số lƣợng khách du lịch đến Hải Dƣơng 2005 - 2010 66
Biểu đồ: Số khách du lịch làng nghề Hải Dƣơng từ 2005 - 2010 66
Biểu đồ: Số đoàn khách du lịch đến làng gốm Chu Đậu từ 2007 - 2010 67
Biểu đồ: Tổng số cơ sở lƣu trú trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng từ năm 1999 -
2011 72
Biều đồ: Hiện trạng cơ sở lƣu trú của Hải Dƣơng từ năm 2006 - 2011 74
Biểu đồ: Tổng số đơn vị kinh doanh lữ hành tại Hải Dƣơng từ năm 2006 -
2011 75

DANH MỤC BẢN ĐỒ
Bản đồ 1: Bản đồ hành chính tỉnh Hải Dương 32

5
Bản Đồ 2: Bản đồ tài nguyên du lịch tỉnh Hải Dương 81
Bản Đồ 3 : Bản đồ hiện trạng tài nguyên du lịch tỉnh Hải Dương 103

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây, du lịch làng nghề đã và đang trở thành xu hƣớng phổ
biến của nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực. Du lịch làng nghề còn đƣợc xem
là sản phẩm đặc thù của các quốc gia đang phát triển.
Việt Nam cũng nhƣ các nƣớc đang phát triển trên thế giới phát triển du lịch
chủ yếu dựa vào nguồn lực tự nhiên và sự đa dạng về bản sắc văn hóa dân tộc, coi
đó là vốn để phát triển du lịch. Ở nƣớc ta du lich làng nghề cũng đƣợc xác định là
một trong những loại hình du lịch đặc thù, có thế mạnh và tiềm năng phát triển
phong phú, thu hút nhiều khách du lịch trong nƣớc và quốc tế.
Làng nghề thủ công truyền thống với các bí quyết nghề nghiệp riêng là sản
phẩm độc đáo của nền văn hóa Việt Nam. Đó là một cộng đồng có sự liên kết chặt
chẽ bởi những mối liên hệ khăng khít về lãnh thổ, kinh tế, văn hóa tâm linh. Đây là
nơi lƣu giữ kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng quý giá, phong
phú, nơi biểu hiện cụ thể, sinh động bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của nền
kinh tế thị trƣờng thì các làng nghề truyền thống cũng có những cơ hội phát triển.
Tuy nhiên, đi liền với sự phát triển của hoạt động sản xuất, nhiều giá trị văn hóa bị
mai một, bí quyết nghề nghiệp bị thất truyền cùng với sự ra đi của các nghệ nhân
lớn tuổi.
Xu hƣớng thƣơng mại hoá do chỉ hƣớng tới mục tiêu lợi nhuận làm cho bản
sắc văn hóa của làng nghề bị phai mờ. Không phải ai cũng nhận thức rõ đƣợc rằng,
đánh mất bản sắc văn hóa là điều nguy hiểm đối với sự tồn tại bền vững của mỗi
một làng nghề. Nếu chúng ta cứ chạy theo lợi nhuận kinh tế mà không lƣu tâm bảo
tồn giá trị văn hóa thì nguy cơ mai một các làng nghề sẽ không có cách nào chống
đỡ nổi.

6
Từ những thông tin khảo sát ban đầu về các làng nghề ở Hải Dƣơng, tôi thấy
cần có những nghiên cứu để có thể vừa khai thác các giá trị văn hóa của các làng

nghề tại Hải Dƣơng để tạo ra các sản phẩm phục vụ cho phát triển du lịch. Bên cạnh
đó cũng cần có những chính sách khai thác phù hợp, bảo tồn và phát huy hơn nữa
những giá trị văn hóa truyền thống của các làng nghề ở Hải Dƣơng nói riêng và
trong cả nƣớc nói chung để tạo ra đƣợc các sản phẩm du lịch làng nghề đặc trƣng
cho phát triển du lịch.
Để có thể khôi phục, khai thác các làng nghề truyền thống tại Hải Dƣơng
phục vụ cho nhu cầu phát triển du lịch đồng thời đóng góp vào sự phát triển bền
vững cho các làng nghề tại Hải Dƣơng, tôi quyết định chọn đề tài " Phát triển du
lịch làng nghề ở tỉnh Hải Dƣơng" làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích
Mục đích của luận văn khi thực hiện là góp phần phát triển du lịch làng nghề
ở tỉnh Hải Dƣơng cũng nhƣ góp phần bảo tồn di sản văn hóa trong kinh doanh du
lịch.
* Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn sẽ tiến hành giải quyết các nhiệm vụ
chính là:
- Nghiên cứu lý luận về du lịch làng nghề cũng nhƣ thực trạng khai thác du
lịch làng nghề ở Việt Nam và vận dụng chúng vào địa bàn tỉnh Hải Dƣơng.
- Thu thập tƣ liệu và phân tích thực trạng làng nghề cũng nhƣ khả năng phát
triển du lịch làng nghề ở địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất định hƣớng và các giải pháp phát triển du lịch làng nghề ở tỉnh Hải
Dƣơng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Thực tiễn hoạt động du lịch làng nghề tỉnh Hải Dƣơng, cụ thể về các vấn
đề: cơ sở vật chất phục vụ du lịch làng nghề, nhân lực du lịch, thị trƣờng khách,

7
công tác tổ chức quản lý du lịch làng nghề, hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Hải
Dƣơng.



- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về không gian: Nghiên cứu các làng nghề trên địa bàn tỉnh Hải
Dƣơng, trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu một số làng nghề quy mô lớn, có
khả năng phát triển du lịch, là những điểm thu hút khách du lịch của tỉnh Hải
Dƣơng.
+ Phạm vi về thời gian: số liệu, tài liệu sẽ thu thập từ thời điểm năm 1998
đến nay, các định hƣớng phát triển sản phẩm du lịch làng nghề của tỉnh và các giải
pháp đƣợc đƣa ra cho thời gian tới.
4. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề
Làng nghề truyền thống là một vấn đề thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều
tác giả trong và ngoài nƣớc từ rất sớm. Sách "Đại Nam nhất thống chí" thời Nguyễn
cũng cho thấy sự phong phú của các tác phẩm thủ công ở ĐBSH: Hà Nội có tơ, lụa
trắng, nón lá, giấy, quạt tre, cốm dẹp, ngói, nồi đất Tỉnh Ninh Bình có chiếu trơn,
bông vải, đƣờng mía, chè, Tỉnh Hƣng Yên có bông ,vải, đƣờng mía, mật, quạt
lông, chiếu trơn. Tỉnh Nam Định có thuốc lào, mật mía, nƣớc mắm thơm, gạch và
bát, đồ mã, quạt, hƣơng nén, lƣới, chiếu Tỉnh Bắc Ninh có lụa trắng, vải trắng,
thâm, vàng lá, sơn sống, đồ đồng, gốm, gạch ngói, rƣợu trắng Trong quá trình
phát triển các làng nghề hình thành.
Làng nghề truyền thống luôn là một trong những đề tài hấp dẫn đối với nhiều
nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về
làng nghề với các đề tài nhƣ vai trò của làng nghề trong việc phát triển kinh tế xã
hội, sự biến đổi của các làng nghề trong giai đoạn mới Hay các công trình nghiên
cứu tổng quát về làng nghề truyền thống Việt Nam nhƣ “Làng nghề thủ công truyền
thống Việt Nam” của tác giả Bùi Văn Vƣợng nêu lên một cách khái quát về các làng
nghề truyền thống của Việt Nam; “Phát huy nghề và làng nghề truyền thống” tác

8
giả của Phạm Thị Thảo, Viện Văn hóa Dân tộc, 2007; “Làng nghề, phố nghề Thăng

Long - Hà Nội” của hai tác giả Trần Quốc Vƣợng và Đỗ Thị Hảo.
Từ thế kỷ XV, thợ làm vàng bạc làng Châu Khê, tỉnh Hải Dƣơng đã đƣợc
nhà Lê mời ra Hà Nội đúc bạc nén, sau đó ngƣời Châu Khê quy tụ thành phƣờng,
xây nhà, mở cửa hiệu, cùng với ngƣời dân làng Đồng Xâm (tỉnh Thái Bình), và làng
Định Công (Hà Nội),…góp phần vào việc hình thành phố hàng Bạc ngày nay.
Đã có nhiều nghiên cứu về làng nghề Hải Dƣơng và du lịch làng nghề Hải
Dƣơng nhƣ:
Phát triển làng nghề gốm Chu Đậu - Hải Dƣơng, Phạm Thị Mai Xuân, Khóa
luận tốt nghiệp.
Điều tra hiện trạng làng nghề tỉnh Hải Dƣơng, KS Nguyễn Duy Sách, Phó
giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hải Dƣơng.
Ngoài ra còn có cuốn sách "Làng nghề du lịch Hà Nội và các vùng phụ
cận", nhà xuất bản Tài nguyên môi trƣờng và bản đồ Việt Nam. Cuốn sách ra mắt
nhằm giới thiệu, hƣớng dẫn bản đồ du lịch, các tuyến du lịch làng nghề khởi hành
từ Hà Nội. Bộ sách góp phần quảng bá về nét đẹp văn hóa và các sản phẩm truyền
thống đặc sắc nổi tiếng của các làng nghề truyền thống ở Hà Nội và các vùng phụ
cận.
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu chƣa nghiên cứu riêng và chuyên sâu về
làng nghề Hải Dƣơng, chƣa nghiên cứu tổng thể, toàn diện về du lịch làng nghề Hải
Dƣơng. Bên cạnh đó, thực tiễn hoạt động du lịch làng nghề Hải Dƣơng hiện nay cho
thấy sản phẩm du lịch ở đây còn nghèo nàn, đơn điệu, chƣa tƣơng xứng với tiềm
năng du lịch của tỉnh, chƣa tạo đƣợc tính cạnh tranh trên thị trƣờng, vì thế chƣa thỏa
mãn nhu cầu tìm hiểu của du khách.
Từ những đề tài mang tính chất chuyên biệt hóa nêu trên, tác giả luận văn
mong muốn tìm hiểu một hƣớng đi chung cho hoạt động du lịch làng nghề ở tỉnh
Hải Dƣơng sao cho có hệ thống và ngày càng đa dạng hơn nữa trong du lịch Hải
Dƣơng nói chung và du lịch làng nghề nói riêng. Vì thế tôi đã quyết định chọn đề
tài "Phát triển du lịch làng nghề ở tỉnh Hải Dƣơng". Từ đề tài này có thể có cái

9

nhìn khái quát về lịch sử các làng nghề ở Hải Dƣơng, hiện trạng của các làng nghề,
vấn đề môi trƣờng, vấn đề phát triển kinh tế cũng nhƣ văn hóa các làng nghề, khai
thác cho phát triển du lịch làng nghề

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu thực địa: Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
qua việc đi thực tế tại các làng nghề đó để đánh giá tiềm năng, hiện trạng khai thác
phục vụ du lịch. Phƣơng pháp này giúp thu thập số liệu và có những đánh giá khách
quan.
- Phương pháp thống kê: Là phƣơng pháp tổng hợp các số liệu của các hiện tƣợng
để tiến hành phân tích, so sánh nhằm làm rõ những vấn đề thuộc bản chất
của hiện tƣợng nghiên cứu. Qua các số liệu thống kê, ta có thể thấy đƣợc tính quy luật
của các hiện tƣợng và rút ra đƣợc nhận xét và kết luận đúng đắn.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng phƣơng pháp:
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp miêu thuật
6. Những đóng góp của luận văn
- Xây dựng đƣợc cơ sở lý luận và thực tiễn cho phát triển du lịch làng nghề.
- Đánh giá đƣợc thực trạng làng nghề nói chung và các làng nghề có khả
năng phục vụ mục đích du lịch nói riêng ở tỉnh Hải Dƣơng.
-Phân tích đƣợc thực trạng phát triển du lịch làng nghề ở tỉnh Hải Dƣơng
theo một số tiêu chí chủ yếu về ngành (số lƣợng khách, cơ sở vật chất kỹ thuật ) và
về lãnh thổ (các tuyến, điểm du lịch ).
- Đƣa ra đƣợc định hƣớng và một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh hơn nữa
du lịch làng nghề ở tỉnh Hải Dƣơng.
7. Cấu trúc của luận văn
Đề tài đƣợc chia làm 3 chƣơng với những nội dung cụ thể nhƣ sau.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về làng nghề và du lịch làng nghề.

10

Chƣơng 2: Thực trạng làng nghề và phát triển du lịch làng nghề ở tỉnh Hải
Dƣơng.
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp nhằm góp phần phát triển du lịch làng
nghề ở tỉnh Hải Dƣơng.

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LÀNG NGHỀ VÀ
DU LỊCH LÀNG NGHỀ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Làng nghề
a, Quan niệm về làng nghề
* Quan niệm
Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nền kinh tế của nƣớc ta đang
phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, ngoài sản xuất nông nghiệp thì nhân dân ta từ rất
lâu đời còn có những nghề khác hỗ trợ đắc lực cho đời sống kinh tế, xã hội. Đó là
những nghề mang tính sản xuất phi nông nghiệp- nghề phụ, mà thực chất là nghề
thủ công. Lúc đầu những nghề phụ chỉ là hoạt động sản xuất đƣợc làm tranh thủ
trong thời gian nông nhàn để tạo ra những sản phẩm thiết yếu phục vụ cho cuộc
sống hàng ngày. Nhƣng do nhu cầu của xã hội ngày càng tăng nên ngƣời thợ thủ
công cần nâng cao tay nghề, đầu tƣ nhiều thời gian hơn và họ tách khỏi nghề nông
để chuyên tâm làm đồ thủ công. Các hoạt động thủ công cũng dần dần đƣợc chuyên
môn hóa thành các nghề và đƣợc gọi chung là thủ công nghiệp nhƣ nghề: mộc,
nghề gốm, nghề đúc đồng, nghề dệt
Nhiều nghề thủ công tinh xảo đã hình thành và phát triển trải qua nhiều thế
kỷ, tạo đƣợc nhiều môi trƣờng phát triển kinh tế, văn hóa và mỹ thuật giúp cho đất
nƣớc trở nên một lãnh thổ có nền văn minh tiến triển đặc thù mà ngày nay khiến
cho thế giới phải thán phục.
Theo Từ điển Tiếng Việt, " làng là khối dân cƣ ở nông thôn, lập thành một
đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt và là đơn vị hành chính cấp thấp nhất thời
phong kiến [4]; còn nghề là công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội."


11
Làng nghề hay làng nghề thủ công, làng nghề truyền thống, hoặc làng nghề
cổ truyền thƣờng đƣợc gọi ngắn gọn là làng nghề, là những làng mà tại đó hầu hết
dân cƣ tập trung vào làm một nghề nào đó. Nghề của họ làm thƣờng có tính chuyên
sâu và mang lại nguồn thu nhập cho dân làng.
Một đặc điểm cần phải nói đến là hầu hết các nghề thủ công và thợ thủ công
Việt Nam sau khi thoát ly nông nghiệp thì vẫn hành nghề ngay tại làng, hoặc lấy
làng làm gốc. Đến một thời điểm nhất định khi vai trò quan trọng của nghề thủ công
trong cơ cấu kinh tế của mỗi gia đình cũng nhƣ của làng nói chung đƣợc khẳng
định, thì khi đó làng ấy đƣợc gọi là làng nghề( để phân biệt với các làng thuần nông,
làng buôn, làng chài )
Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, đƣợc tạo bởi hai yếu
tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định, trong đó bao gồm
nhiều hộ gia đình sinh sống từ nguồn thu chủ yếu từ nghề thủ công, giữa họ có mối
liên kết về kinh tế, văn hóa và xã hội.
Theo Giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng, gọi là một làng nghề là làng ấy tuy vẫn có
trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ, cũng có một số nghề phụ khác, song
đã nổi trội một nghề cổ truyền tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên
nghiệp, có phƣờng có ông trùm, có phó cả cùng với một số thợ và phó nhỏ, đã
chuyên có một quy trình công nghệ nhất định, sống chủ yếu bằng nghề đó và sản
xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, trở
thành sản phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với một thị trƣờng là vùng rộng
xung quanh và với thị trƣờng đô thị, thủ đô, và tiến tới mở rộng ra cả nƣớc, và có
thể xuất khẩu ra nƣớc ngoài.
"Những làng nghề ấy ít nhiều đã nổi danh từ lâu, dân biết mặt, nước biết tên,
tên làng đã đi vào lịch sử, vào ca dao tục ngữ trở thành di sản văn hóa dân
gian."[18, tr38-39]
Theo thạc sĩ Bùi Văn Vƣợng: làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công,
ở đó không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Ngƣời thợ thủ
công nhiều trƣờng hợp cũng là ngƣời làm nghề nông. Nhƣng yêu cầu chuyên môn


12
hóa cao đã tạo ra những ngƣời thợ chuyên sản xuất hàng truyền thống ngay tại quê
mình, hay ở làng nghề, phố nghề nơi khác.[17,tr13]
Làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công nơi quy tụ các nghệ
nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính truyền thống lâu đời, có sự
liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo phƣờng hội, kiểu hệ thống doanh
nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề và các thành viên luôn ý thức, tuân thủ những
ƣớc chế xã hội và của gia tộc. Sự liên kết, hỗ trợ nhau về nghề, kỹ thuật, đào tạo thợ
trẻ giữa các gia đình cùng dòng họ, cùng phƣờng nghề trong quá trình lịch sử hình
thành, phát triển nghề nghiệp đã hình thành làng nghề ngay trên đơn vị cƣ trú, làng
xóm truyền thống của họ. [17,tr13,14] Thạc sĩ Bùi Văn Vƣợng đã đi sâu về vấn đề
nghề và quan hệ sản xuất trong làng nghề.
Nhƣ vây đã có một số các quan niệm khác nhau về làng nghề nhƣ sau:
- Quan niệm thứ nhất: Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi ngƣời trong làng đều
hoạt động cho nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu.
- Quan niệm thứ hai: Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công, nhƣng
không nhất thiết toàn bộ dân làng đều làm nghề thủ công. Ngƣời thợ thủ công nhiều
khi cũng làm nghề nông, nhƣng do yêu cầu chuyên môn hóa họ chủ yếu sản xuất
hàng thủ công ngay tại làng.
- Quan niệm thứ ba: Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ
các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có
sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phƣờng hội và có cùng tổ
nghề.
- Quan niệm thứ tư: Làng nghề là những làng ở nông thôn có các ngành nghề
phi nông nghiệp chiếm ƣu thế về số hộ, số lao động và số thu nhập so với nghề nông.
[8, tr.6 ]
Nhận rõ vai trò quan trọng của các sản phẩm nghề và làng nghề trong sự phát
triển kinh tế xã hội và vị trí của lĩnh vực phi nông nghiệp, nhất là trong giai đoạn
hội nhập kinh tế toàn cầu, các bộ ngành hữu quan đã và đang xây dựng các dự án,

nghiên cứu, xác định các tiêu chí chuẩn mực về làng nghề để có kế hoạch đầu tƣ

13
thỏa đáng và hiệu quả hơn, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất
nƣớc. Theo dự án của Trung tâm nghiên cứu dân số và nguồn lao động thuộc Bộ
Lao động - Thƣơng binh - Xã hội, tiêu chí để xác định một làng nghề phải đảm bảo
các yếu tố cơ bản sau[1]
Cơ cấu: Lao động thủ công trong số dân của làng phải đạt tối thiểu 20%, họ
phải sống bằng chính lao động thủ công.
Thu nhập bình quân từ nghề phải đạt tối thiểu 50% thu nhập của mỗi hộ gia
đình thợ.
Giá trị sản lƣợng của nghề thủ công trong làng phải chiếm 50% giá trị tổng
sản lƣợng của làng.
Đây là một tiêu chí đƣợc xây dựng trong đó các yếu tố cơ bản đã đƣợc lƣợng
hóa dựa trên kết quả khảo sát, điều tra thực trạng hoạt động của các làng nghề
truyền thống trong không gian nghiên cứu của dự án dƣới góc nhìn của ngành kinh
tế lao động.
Nhìn nhận dƣới góc độ của dự án phát triển ngành nghề thủ công theo hƣớng
công nghiệp hóa nông thôn, Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn và Tổ chức Hợp
tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) năm 2004 [20] cho rằng: Làng nghề là làng ở khu vực
nông thôn, phải đáp ứng đƣợc các điều kiện sau:
Nguồn thu nhập chính của làng phải đƣợc tạo ra từ sản phẩm nghề thủ công.
Phải có hơn 30% số hộ hoặc số lao động tham gia vào các hoạt động tạo ra
sản phẩm thủ công.
Chấp hành các chính sách của chính quyền địa phƣơng.
Những tiêu chí trên về làng nghề thủ công của các nhà kinh tế nhìn chung có
sự tƣơng đồng, tuy có sự khác nhau ở một số nội dung vì cách nhìn nhận vấn đề
dƣới góc độ chuyên môn khác nhau của mỗi ngành. Việc đƣa yếu tố vai trò của
chính quyền trong giám sát và thực thi các cơ chế chính sách là rất cần thiết. Đây là
yếu tố quan trọng đảm bảo khắc phục những yếu kém của làng nghề, tạo điều kiện

để duy trì, phát triển nghề và làng nghề một cách bền vững tạo điều kiện cho du lịch
phát triển.

14
Nhƣ vậy hầu hết các làng nghề đều bắt đầu từ làng nông nghiệp, dựa trên nền
tảng nông nghiệp, một hay một số nghề thủ công đã nảy sinh và phát triển, từng
bƣớc chiếm vị trí chủ yếu trong cán cân kinh tế của làng.

* Phân loại làng nghề
Sự đa dạng trong các sản phẩm các làng nghề dẫn tới việc phân loại chúng
gặp rất nhiều khó khăn. Tùy theo mục đích nghiên cứu mà có nhiều cách phân loại
những tiêu chí khác nhau.
Tính đến cuối năm 2009 cả nƣớc ta có khoảng 2.790 làng nghề, trong đó có
khoảng 240 làng nghề truyền thống. Các làng nghề của nƣớc ta tập trung chủ yếu tại
ĐBSH (chiếm khoảng 60%), miền Trung (khoảng 30%), miền Nam ( khoảng 10%).
Sản phẩm và phƣơng thức sản xuất của các làng nghề khá phong phú với hàng trăm
loại ngành nghề khác nhau. Do đó căn cứ vào mục tiêu và tiêu chí có những cách
phân loại làng nghề khác nhau.
Phân loại theo số lƣợng và thời gian làm nghề gồm: Làng một nghề, làng
nhiều nghề, làng nghề truyền thống và làng nghề mới.[7]
Quan điểm của Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng phân loại làng nghề nhƣ sau:
- Theo thời gian.
- Theo ngành sản xuất.
- Theo loại hình sản phẩm.
- Theo quy mô sản xuất.
- Theo quy trình công nghệ.
- Theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm.
- Theo mức độ sử dụng nguyên, nhiên liệu.
- Theo thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm, tiềm năng tồn tại và phát triển.
Mỗi cách phân loại trên có những đặc thù riêng và tùy theo mục đích mà có

thể lựa chọn cách phân loại phù hợp. Dựa trên các yếu tố tƣơng đồng về ngành sản
xuất, sản phẩm thị trƣờng, nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm thì nƣớc ta gồm 6
nhóm ngành hoạt động làng nghề:

15
Một là làng nghề chế biến lƣơng thực, thực phẩm, có số lƣợng làng nghề lớn,
chiếm 20% tổng số làng nghề, với các làng nổi tiếng nhƣ nấu rƣợu, làm bánh đa
nem, đậu phụ, miến, dong, bún…
Hai là làng nghề dệt, nhuộm, ƣơm tơ, thuộc da: nhiều làng có từ lâu đời, có
sản phẩm mang tính lịch sử văn hóa, mang đậm nét địa phƣơng với những sản phẩm
nhƣ lụa tơ tằm, thổ cẩm, dệt may
Ba là làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá, hình thành từ
hàng trăm năm nay, tập trung ở những vùng có khả năng cung cấp nguyên liệu cơ
bản cho hoạt động xây dựng và sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Bốn là làng nghề tái chế phế liệu: chủ yếu là các làng nghề mới hình thành,
số lƣợng ít nhƣng lại phát triển nhanh về quy mô và loại hình tái chế nhƣ tái chế
kim loại, giấy, nhựa, vải
Năm là làng nghề thủ công mỹ nghệ: chiếm tỷ trọng lớn về số lƣợng ( gần
40% tổng số làng nghề), có truyền thống lâu đời, sản phẩm có giá trị cao, mang đậm
nét văn hóa và đặc điểm địa phƣơng, văn hóa dân tộc, gồm các làng nghề gốm, sành
sứ thủy tinh mỹ nghệ, chạm khắc đá, chạm mạ vàng bạc, sản xuất mây tre đan, đồ
gỗ mỹ nghệ, sơn mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren.
Sáu là các nhóm ngành khác: gồm các làng nghề chế tạo nông cụ thô sơ nhƣ
cày bừa,cuốc xẻng, liềm hái, mộc gia dụng, đan thừng, đóng thuyền, đan vó
lƣới những làng nghề này xuất hiện từ lâu, sản phẩm phục vụ trực tiếp nhu cầu
sinh hoạt và sản xuất của địa phƣơng.[2]
Nhƣ vậy, khái niệm làng nghề, tiêu chí làng nghề, phân loại làng nghề có thể
thay đổi theo thời gian cũng nhƣ mục đích nghiên cứu. Ở đây tác giả sử dụng cách
phân loại làng nghề theo ngành nghề sản xuất.
Bảng 1.1: Phân loại làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất

STT
Nhóm làng nghề
Tỉ lệ (%)
1
Làng nghề chế biến lƣơng thực thực phẩm, chăn
nuôi và giết mổ.
20

16
2
Làng nghề dệt nhuộm, ƣơm tơ, thuộc da.
17
3
Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác
đá.
5
4
Làng nghề tái chế phế liệu
4
5
Làng nghề thủ công mỹ nghệ
39
6
Các nhóm ngành khác
15
Nguồn: 2
b. Đặc trưng của làng nghề
* Làng nghề gắn chặt với nông thôn và sản xuất nông nghiệp
Các làng nghề xuất hiện và cùng tồn tại trong từng làng xã ở nông thôn, các
ngành nghề thủ công nghiệp tách dần khỏi nông nghiệp nhƣng không tách dần khỏi

nông thôn. Từ xa xƣa, do nhu cầu của sản xuất, sinh hoạt nên ngƣời nông dân đã
làm nghề thủ công bên cạnh làm ruộng. Khi lực lƣợng sản xuất đã phát triển thì thủ
công nghiệp tách ra thành ngành độc lập, rồi trở thành ngành sản xuất chính ở một
số làng. Ban đầu, ngƣời nông dân - thợ thủ công đã làm ra những sản phẩm thủ
công để phục vụ trực tiếp nhu cầu sản xuất tiêu dùng của thôn làng mình. Dần dần
nghề thủ công ngày càng đƣợc mở rộng và hàng loạt nghề thủ công truyền thống
nhằm đáp ứng nhu cầu của nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Chính vì thế, làng
nghề là một đặc trƣng của nông thôn. Cho đến nay, hầu hết các tỉnh trong cả nƣớc
từ Bắc vào Nam đều có làng nghề truyền thống, mặt khác ở trong các làng nghề đại
bộ phận các hộ chuyên làm nghề thủ công nghiệp vẫn còn tham gia sản xuất nông
nghiệp để tự mình trồng trọt hoặc thuê mƣớn ngƣời làm nông nghiệp cho mình.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh doanh thủ công nghiệp ở
các làng nghề đan xen với nhau và tạo nên sắc thái riêng của các làng nghề thủ công
truyền thống. Đây là nét đặc trƣng mới của nông thôn châu Á, của phƣơng thức sản
xuất châu Á.
* Sự kết hợp giữa công nghệ truyền thống và công nghệ mới trong sản xuất
của các làng nghề

17
Công cụ lao động của thợ thủ công trong các làng nghề hết sức đơn giản thô
sơ. Các sản phẩm thủ công truyền thống đƣợc làm ra chủ yếu dựa vào đôi bàn tay
khéo léo, đức tính cần cù, bộ óc thẩm mỹ sáng tạo của ngƣời thợ, ngƣời nghệ nhân.
Ngoài ra các làng nghề còn sử dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ
mới vào phục vụ sản xuất. Đó là việc thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa trong sản
xuất của các làng nghề. Điều này tạo ra năng suất lao động cao hơn, giải phóng sức
lao động cho ngƣời thợ thủ công.
* Hình thức tổ chức sản xuất làng nghề
Về quy mô hầu hết các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền
thống có quy mô nhỏ, bình quân mỗi hộ gia đình có số vốn từ vài ba chục đến hàng
trăm triệu đồng. Hiện nay ngoài quy mô kinh tế hộ gia đình, các làng nghề còn phát

triển các hình thức khác nhau nhƣng vẫn mang đậm sắc thái nông thôn, nông nghiệp
nhƣ tổ hợp tác, hợp tác xã đặc biệt với sự phát triển sản xuất mạnh mẽ của các
làng nghề đã xuất hiện các hình thức tổ chức sản xuất theo lãnh thổ ở trình độ cao
hơn mang dáng dấp của sản xuất đô thị hoặc các khu công nghiệp vừa và nhỏ, CCN
làng nghề ở nông thôn.
* Phân công lao động làng nghề
Hầu hết các làng nghề thủ công đều có các nghệ nhân làm nòng cốt và là bộ
phận quan trọng để duy trì và phát triển làng nghề. Với đôi "Bàn tay vàng" của các
nghệ nhân đã tạo nên những sản phẩm độc đáo tinh xảo vừa mang giá trị vật chất,
vừa mang giá trị nghệ thuật.
Ngày nay sự phân công lao động trong các làng nghề ngày càng đƣợc chuyên
môn hóa sâu sắc. Trẻ em, phụ nữ và ngƣời già đƣợc phân công làm những công
việc nhẹ nhàng, những ngƣời có tay nghề cao đảm nhiệm những khâu kỹ thuật quan
trọng. Bên cạnh những ngƣời trực tiếp sản xuất ra sản phẩm thì còn có những ngƣời
chuyên lo đầu vào, đầu ra cho sản phẩm: sự phân công này thể hiện rất rõ ở những
làng nghề có tính tập trung cao.
Hiện nay việc thuê mƣớn lao động ở các làng nghề đã trở nên rất phổ biến,
dẫn đến sự hình thành các thị trƣờng lao động nhộn nhịp. Tuy nhiên lao động làm

18
thuê trẻ thƣờng chỉ đƣợc giao những công việc đơn giản theo hƣớng dẫn của thợ cả,
những công đoạn mang tính kỹ thuật kỹ xảo cao thì thƣờng do thợ cả làm.
* Các sản phẩm có tính mỹ nghệ cao, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc
Mỗi sản phẩm thủ công truyền thống là một tác phẩm nghệ thuật, sản phẩm
của các làng nghề đều là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phƣơng pháp thủ công khéo
léo, tinh xảo và sự sáng tạo nghệ thuật. Các sản phẩm vừa có giá trị sử dụng vừa có
giá trị thẩm mỹ, nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí
trong nhà, đền chùa, công sở nhà nƣớc Các hàng thủ công truyền thống là biểu
tƣợng của bản sắc văn hóa địa phƣơng, văn hóa dân tộc.
* Thị trường tiêu thụ khá rộng

Các làng nghề ở nƣớc ta hiện nay đã có một thị trƣờng tƣơng đối phong phú
đa dạng bao gồm cả thị trƣờng trong nƣớc và thị trƣờng nƣớc ngoài, với nhiều loại
đối tƣợng tiêu dùng. Do sự phát triển kinh tế ngày càng mạnh mẽ, thu nhập ngƣời
dân tăng cao, sức mua lớn, tạo điều kiện cho thị trƣờng nội địa phát triển. Hơn nữa
đƣờng lối kinh tế đối ngoại đa phƣơng hóa đa dạng hóa của Đảng, sự hội nhập ngày
càng sâu vào nền kinh tế thế giới đã mở ra thị trƣờng xuất khẩu khá rộng lớn ở khắp
các châu lục, đặc biệt là thị trƣờng Bắc Mỹ, Tây Âu và châu Á. Sự phát triển của du
lịch nhất là du lịch làng nghề đã đem đến cho các làng nghề cơ hội phát triển mới,
trong đó triển vọng nhất là khả năng giới thiệu nguồn hàng, quảng bá sản phẩm cho
các đối tƣợng khách thƣơng gia đi du lịch kết hợp tìm kiếm cơ hội đầu tƣ. [7,16]
c. Vai trò của làng nghề
* Về kinh tế, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu vùng nông thôn
Từ khi mới hình thành các làng nghề đã có vai trò quan trọng trong sản xuất,
sinh hoạt ở các vùng nông thôn. Trải qua thời gian dài phát triển các làng nghề đã
có nhiều thay đổi nhƣng vẫn khẳng định đƣợc vai trò với sản xuất, đời sống của
nhân dân địa phƣơng cũng nhƣ với sự phát triển của đất nƣớc.
Một yêu cầu cấp thiết trong chiến dịch phát triển kinh tế của đất nƣớc ta là
phải chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế: Từ nền kinh tế nông thôn với cơ cấu thuần

19
nông, sản xuất tự túc, tự cấp là chủ yếu sang nền kinh tế nông thôn công nghiệp
hóa, với cơ cấu nông công nghiệp dịch vụ và sản xuất nhiều sản phẩm hàng hóa.
Sự phát triển của các làng nghề và các dịch vụ hỗ trợ làng nghề thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH - HĐH cho các địa phƣơng làng nghề.
Đó là tăng tỉ trọng của CN - TTCN và dịch vụ, giảm tỉ trọng của nông nghiệp.
Trong những năm gần đây, trong cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề, công nghiệp và
dịch vụ đạt 60-80%, nông nghiệp đạt 20-40%. [19]
Sự phát triển của làng nghề cũng làm thay đổi tƣ duy, tập quán sản xuất của
ngƣời dân, từ tập quán sản xuất thủ công, nhỏ lẻ, manh mún mang tính tự cung tự
cấp sang sản xuất với quy mô sản xuất lớn hơn tăng cƣờng áp dụng máy móc.

* Về văn hóa, bảo tồn các giá trị văn hóa, nhân văn, thúc đẩy du lịch
Trong mỗi sản phẩm của làng nghề làm ra đều ẩn chứa những sắc thái riêng
của làng nghề, đây chính là sự kết tinh những giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc, là
di sản văn hóa mà ông cha ta tạo lập ra và để lại. Do vậy mà sự phát triển của các
làng nghề cho đến nay chính là bảo tồn các giá trị văn hóa, nhân văn - nhƣ một bảo
tàng sống động bảo lƣu những giá trị ấy cho các thế hệ mai sau.
Văn hóa của một làng nghề đƣợc thể hiện trong cuộc sống, sinh hoạt văn
hóa, phong tục tập quán, trong văn hóa ứng xử của cộng đồng và kể cả trong hình
thức mẫu mã của các mặt hàng truyền thống.
Ngày nay, toàn cầu hóa và quốc tế hóa đang là xu thế tất yếu của quá trình
hội nhập, cùng với những tác động tích cực, quá trình này đang làm mai một dần đi
những bản sắc văn hóa của dân tộc. Nên việc phát triển và bảo tồn những nét văn
hóa đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc đang là một yêu cầu tất yếu. Đó cũng chính là
đòi hỏi tất yếu của các sản phẩm ở các làng nghề thủ công truyền thống.
Trong những năm gần đây, loại hình du lịch làng nghề ở Việt Nam ngày
càng hấp dẫn du khách, đặc biệt là du khách nƣớc ngoài, bởi những giá trị văn hóa
lâu đời và cách sáng tạo sản phẩm thủ công đặc trƣng của mỗi vùng. Ngoài lợi ích
trực tiếp do du lịch đem lại, còn là cơ hội để quảng bá và tiêu thụ các sản phẩm của
làng nghề.

20
* Về xã hội, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn
Làng nghề là một hợp thành của công nghiệp nông thôn, nên có vai trò quan
trọng, là động lực trực tiếp trong việc giải quyết việc làm, góp phần tăng thu nhập
cho ngƣời lao động nông thôn.
Hiện nay làng nghề Việt Nam đang đứng trƣớc cơ hội phát triển mạnh. Một
điều tra của Bộ Công nghiệp cho thấy làng nghề Việt Nam đang sử dụng 1,3 triệu
thợ thủ công chuyên nghiệp và 3 - 5 triệu lao động thời vụ.[19]
Làng nghề đã khẳng định đƣợc vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế
chung, giải quyết việc làm và hạn chế thất nghiệp. Thu nhập bình quân của ngƣời

lao động hƣởng lƣơng ở các làng nghề hiện nay là từ 1.000.000 đến 2.500.000
đồng, cao hơn nhiều so với thu nhập từ nông nghiệp.
Mặc dù vậy hiện nay có nhiều làng nghề đang trong tình trạng khó khăn vì
thiếu vốn, không có doanh nghiệp làm đầu tàu, sản phẩm không có đầu ra mặc dù
tiềm năng phát triển của làng nghề vẫn đang rất lớn. Nếu nhƣ năm 2000, kim ngạch
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đạt tới 274 triệu USD thì năm 2006 đã
đạt khoảng 650 triệu USD, bán ra trên 100 nƣớc và vùng lãnh thổ, chƣa kể 2 ngành
gỗ và da giầy xuất khẩu mỗi năm hàng tỷ USD đều có đóng góp rất lớn của các làng
nghề.
Nhà nƣớc cần quan tâm hơn đến thành phần kinh tế tƣ nhân nhỏ ở làng nghề
bằng các giải pháp cụ thể nhƣ chính sách thông thoáng, nguồn vốn dễ tiếp cận, hỗ
trợ xúc tiến thƣơng mại, hỗ trợ đào tạo nghề, giúp đỡ giải quyết ô nhiễm môi
trƣờng thì các làng nghề mới phát triển đồng bộ đƣợc.
Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các làng nghề giúp cho lực lƣợng lao
động trong lĩnh vực này cũng ngày một gia tăng. Trong các làng nghề truyền thống,
mỗi cơ sở chuyên làm nghề có thể tạo việc làm ổn định cho 27 lao động thƣờng
xuyên và 8-10 lao động thời vụ. đặc biệt ở nghề dệt, thêu ren, mây tre đan, mỗi cơ
sở có thể thu hút 200 - 250 lao động. Nhiều làng nghề thu hút trên 60% lao động
tham gia vào các hoạt động ngành nghề.[6]

21
Hiện nay, nhiều làng nghề đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng. Số hộ giàu tại các làng nghề ngày càng tăng
nhanh, tính chuyên môn hóa ngày càng xác định, nhiều hộ gia đình đã chuyển hẳn
sang làm nghề thủ công.

1.1.2. Du lịch làng nghề
a, Khái niệm về du lịch làng nghề
Du lịch làng nghề là loại hình du lịch dựa vào việc khai thác các giá trị văn
hóa truyền thống, các kỹ năng nghề nghiệp thể hiện trong các sản phẩm thủ công

mỹ nghệ để phục vụ du khách.
Du lịch làng nghề là một loại hình còn mới nên không phải bất kỳ làng nghề
nào cũng đón đƣợc khách du lịch, cũng trở thành làng nghề du lịch.
Khái niệm du lịch làng nghề theo cách hiểu thông thƣờng, đó là loại hình du
lịch thuộc nhóm các loại hình đƣợc phân loại theo môi trƣờng tài nguyên. Vấn đề
đặt ra là làng nghề thuộc loại môi trƣờng tài nguyên du lịch nào, xác định rõ đƣợc
vấn đề này thì chúng ta sẽ biết đƣợc du lịch làng nghề thuộc loại hình du lịch nào.
Nhìn từ góc độ du lịch thì làng nghề có mấy điểm chú ý nhƣ sau:
+ Làng nghề thuộc khu vực nông thôn, thôn quê.
+ Làng nghề với nét nổi trội là tài nguyên nhân văn, với những tinh hoa công
nghệ truyền thống, những di tích lịch sử văn hóa nhƣ miếu thờ tổ nghề, đình, chùa,
đền , những cảnh quan hài hòa giữa vẻ đẹp tự nhiên và nhân văn, những phong tục
tập quán, sinh hoạt lễ hội. Điều đáng nói là tài nguyên nhân văn làng nghề thƣờng
mang sắc thái đặc thù bởi truyền thống công nghệ mà làng đang nắm giữ. Bởi thế
khác với các loại hình du lịch khác thì những chuyến du khảo đồng quê thông
thƣờng, đến với mỗi làng nghề, du khách có thể phát hiện thêm những điều mới mẻ
trên hành trình du lịch của mình.
Đến với làng nghề cũng là đến với một cảnh quan thiên nhiên nhƣ bến nƣớc,
dòng sông, bờ bãi, núi đồi.

22
Đối với những ngƣời sống ở đô thị hiện đại, đến với làng nghề cũng là đến
với một môi trƣờng sinh thái, mà ở đó cuộc sống đƣợc cảm nhận nhƣ chậm lại, tâm
hồn trở nên thƣ thái hơn. Khung cảnh và nhịp sống thôn quê giúp cho du khách cân
bằng lại trạng thái tinh thần của mình.
Nhƣ vậy du lịch làng nghề thể hiện tính chất của ít nhất ba loại hình du lịch:
-Du lịch nông thôn.
-Du lịch văn hóa.
-Du lịch sinh thái.
Qua đó có thể thấy du lịch làng nghề là một loại hình du lịch sinh thái nhân

văn đƣợc tiến hành tại các làng nghề tiêu biểu, mà ở đó còn lƣu giữ tƣơng đối
nguyên vẹn những di sản văn hóa làng xã truyền thống, đặc biệt là truyền thống
công nghệ cổ, thông qua những nghệ nhân tài giỏi. Đến với mỗi làng nghề, du
khách sẽ đƣợc khám phá và thẩm nhận những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc, vừa độc đáo, mang tính đặc thù địa phƣơng. Ngoài sự chứng kiến tận mắt
những thao tác công nghệ do các thợ thủ công thực hiện, du khách có thể đƣợc tìm
hiểu sâu thêm về truyền thống công nghệ ở các nghệ nhân, có thể mua đồ lƣu niệm
là những sản phẩm công nghệ với giá cả phải chăng. Có thể tìm kiếm cơ hội đầu tƣ,
hợp tác kinh doanh, đồng thời đó cũng là dịp để du khách lấy lại sự cân bằng về tinh
thần sau những bức xúc, căng thẳng do nếp sống công nghiệp và cuộc sống đô thị
gây ra. Thông qua chuyến viếng thăm làng quê, du khách sẽ thu lƣợm đƣợc nhiều
nhất những giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống, và có thể hiểu sâu sắc hơn về đất
nƣớc và con ngƣời Việt Nam.
b. Mục đích của du lịch làng nghề
Ngày nay khi đời sống con ngƣời ngày càng đƣợc cải thiện và đƣợc nâng
cao, nhu cầu đi du lịch cũng từ đó mà phát triển theo. Ngƣời ta tìm đến các điểm du
lịch để mong thỏa mãn các nhu cầu vui chơi, giải trí, sự trải nghiệm, sự hiểu biết, sự
học hỏi, khám phá và nghiên cứu
Các làng nghề truyền thống là một phần quan trọng cấu thành nên tài nguyên
du lịch nhân văn. Sự tồn tại và phát triển của mỗi làng nghề truyền thống luôn gắn

23
với một vùng văn hóa, hệ thống di tích và truyền thống riêng, với những cách thức
riêng trong việc sáng tạo ra sản phẩm mang tính đặc thù.
Chúng ta biết rằng môi trƣờng văn hóa làng nghề cũng chính là khung cảnh
làng quê với cây đa, giếng nƣớc, sân đình, các hoạt động lễ hội và hoạt động
phƣờng hội, phong tục tập quán, nếp sống đậm nét dân gian và chứa đựng tính nhân
văn sâu sắc. Làng nghề là một môi trƣờng văn hóa - kinh tế - xã hội và công nghệ
truyền thống lâu đời, nó bảo lƣu những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời
này sang đời khác, chung đúc ở các thế hệ nghệ nhân tài năng, với những sản phẩm

mang bản sắc riêng của mình, nhƣng lại tiêu biểu và độc đáo cho cả dân tộc Việt
Nam.
Qua nghiên cứu cũng nhƣ từ thực tế, để hình thành làng nghề du lịch, cần
thiết phải có 2 yếu tố.
+ Thứ nhất, sản phẩm làng nghề du lịch phải phong phú và độc đáo, thể hiện
đƣợc tính sáng tạo nghệ thuật và tài hoa của ngƣời thợ, ẩn chứa trong đó những nét
đặc thù của văn hóa bản địa.
+ Thứ hai, làng nghề phải bảo tồn đƣợc những nét văn hóa mang bản sắc
riêng có của mình. Đối với mỗi làng nghề truyền thống, du lịch làng nghề là một cơ
hội lớn để giữ làng và giữ nghề.
Theo Tiến sĩ Phạm Từ, nguyên Phó Tổng cục trƣởng Tổng cục Du lịch thì "
Du lịch làng nghề là loại hình du lịch văn hóa chất lƣợng cao. Theo thống kê, lƣợng
khách chọn du lịch văn hóa - làng nghề hiện chiếm tới 60 % trong tổng lƣợng 800
triêụ khách du lịch trên toàn thế giới. Việt Nam là một nƣớc có nhiều tiềm năng để
khai thác, phát triển du lịch làng nghề, nếu đƣợc đầu tƣ đúng mức, khai thác hợp lý,
đây sẽ là phƣơng tiện giao lƣu, quảng bá đất nƣớc, con ngƣời mạnh mẽ và sâu rộng
nhất. Khi văn hóa đƣợc giao thoa một cách tích cực thì giới hạn về không gian, địa
lý sẽ không còn ý nghĩa. Lợi ích kinh tế, văn hóa, vị thế của địa phƣơng, quốc gia sẽ
tăng lên gấp bội"
- Hoạt động du lịch dựa vào sự đa dạng của các sản phẩm thủ công truyền
thống để thu hút du khách. Ngƣợc lại, các làng nghề cũng đƣợc hỗ trợ lại trong việc

×