Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (857.28 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***




HOÀNG THỊ HỒNG NGA






XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945-1954)



CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.54


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRƯƠNG THỊ TIẾN








HÀ NỘI - 2009

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và với sự phát triển của toàn xã
hội. Một dân tộc tồn tại trƣớc tiên là do dân tộc ấy có nền văn hóa của mình. Trong
các hoạt động của con ngƣời, văn hóa là một trong những hoạt động mang dấu ấn
đặc sắc, bền bỉ và tiêu biểu. Dân tộc này khác với dân tộc khác, trƣớc tiên cũng ở lối
sống, cách nghĩ, cảm xúc, ở hiện thực, ở cuộc sống đấu tranh đời này qua đời khác
để tồn tại và phát triển. Văn hóa là sức sống của một dân tộc, hay nói cách khác, sức
sống của một dân tộc thể hiện tập trung ở một nền văn hóa.
Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo
cách mạng Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua, mặt trận văn hoá luôn luôn sôi
động. Đảng ta coi văn hoá là một mặt trận đấu tranh cách mạng cực kỳ quan trọng
nhằm đánh thắng kẻ thù, một vũ khí tƣ tƣởng sắc bén góp phần xoá bỏ xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới và con ngƣời mới.
Sau cách mạng Tháng Tám 1945, sự thành lập một nhà nƣớc kiểu mới của
nhân dân lao động do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo đã kéo theo sự ra
đời của một nền văn hóa mới. Bởi vì văn hóa là một hình thái ý thức xã hội kiến
trúc thƣợng tầng, văn hóa cũng biến đổi một khi cơ sở hạ tầng thay đổi. Từ trong
bản chất, nền văn hóa mới gắn bó chặt chẽ với chế độ mới. Chế độ mới đòi hỏi một
nền văn hóa mới và sự ra đời, phát triển của nền văn hóa mới góp phần củng cố và
thúc đẩy xã hội mới phát triển. Đó là phép biện chứng của lịch sử và phép biện
chứng giữa văn hóa và cách mạng. Phép biện chứng đó không phải diễn ra một cách
tự phát, vô ý thức, mà trái lại một cách tự giác thông qua quá trình hoạt động thực
tiễn của Đảng Cộng sản.

Trong chín năm kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp (1945-
1954), vấn đề kháng chiến về mặt văn hóa đƣợc đặt ra nhƣ một trong những bộ
phận đấu tranh vô cùng quan trọng của nhân dân ta. Đồng chí Trƣờng Chinh khẳng
định “kháng chiến về mặt quân sự, chính trị, kinh tế chƣa đủ gọi là kháng chiến toàn
diện. Phải kháng chiến về mặt văn hóa nữa”[33, tr.46]. Sự nghiệp văn hóa đƣợc

2
Đảng coi là một những mặt trận kháng chiến quan trọng, không thể thiếu đƣợc. Để
củng cố chính quyền, để kháng chiến thắng lợi, Đảng cần lãnh đạo chặt chẽ văn hóa
yêu cầu văn hóa phải tham gia chính trị, tham gia kháng chiến.
Trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, với hạt nhân ban đầu là
bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) và Hội Văn hóa cứu quốc, chúng ta đã
xây dựng nên một nền văn hóa mới của chính thể nhà nƣớc mới. Quá trình xây
dựng nền văn hóa mới đó là rất bền bỉ và gian khổ, là quá trình Đảng lãnh đạo văn
hóa cƣơng quyết chống lại văn hóa phản động, vừa phê phán, thuyết phục những
quan điểm văn hóa lạc hậu, chủ nghĩa cá nhân trong văn hóa. Đồng thời tiếp thu
những ảnh hƣởng của các mô hình, các nguyên tắc xây dựng nền văn hóa mới mang
tính chất vô sản nhƣ Liên Xô, nền văn hóa dân chủ mới nhƣ Trung Quốc để xây
dựng nên những nền tảng cơ bản nhất cho đƣờng lối lý luận văn hóa Việt Nam
trong giai đoạn mới. Công tác tổ chức các lĩnh vực văn hóa cụ thể cũng đƣợc đặt ra
phù hợp với từng thời kỳ kháng chiến, lôi kéo đƣợc đông đảo đội ngũ các nhà văn
hóa, các văn nghệ sĩ phục vụ công tác xây dựng nền văn hóa mới.
Quá trình xây dựng nền văn hóa mới trong kháng chiến chống Pháp đã đạt
đƣợc một số thành tựu căn bản đáng ghi nhận. Đây đƣợc xem nhƣ là một thời kỳ
bản lề, có tính chất quyết định xây nền, dựng móng cho một nền văn hóa Việt Nam.
Tìm hiểu, nghiên cứu về các nội dung, thành tựu của nền văn hóa mới thời kỳ này
sẽ rút ra đƣợc nhiều bài học về lý luận cũng nhƣ thực tiễn quan trọng đối với lịch
sử, đặc biệt là đối với chính sách xây dựng nền văn hóa Việt Nam dân chủ, tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay. Những bài học lý luận về văn hóa, cũng nhƣ
những bài học vận động của thực tiễn lịch sử cũng góp phần rút ra đƣợc nhiều nhận

định quý báu để bổ sung cho hiện tại.
Với ý nghĩa đó, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Xây dựng nền văn hóa trong
kháng chiến chống Pháp (1945-1954)” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lịch sử của cuộc kháng chiến thần thánh chín năm trƣờng kỳ của dân tộc
Việt Nam từ 1945-1954 là một hƣớng đề tài hấp dẫn, thu hút đƣợc rất nhiều nhà

3
nghiên cứu quan tâm. Từ trƣớc đến nay, giới nghiên cứu lịch sử hiện đại chủ yếu
tập trung vào các đề tài quân sự, ngoại giao, kinh tế, xã hội Nghiên cứu về đề tài
văn hóa kháng chiến cũng có một số công trình nhƣng số lƣợng còn rất khiêm tốn
và chủ yếu tập trung ở một số mảng đề tài:
Một số giáo trình, sách chuyên khảo có nội dung đề cập tới đề tài văn hóa mà
chủ yếu là tập trung làm nổi bật đƣờng lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam,
trong đó có đƣờng lối văn hóa của Đảng thời kỳ 1945-1954 tiêu biểu nhƣ:
- Học viện CTQG HCM, Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa
của đảng Cộng sản Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội, 2002.
- Học viện CTQG HCM, Học viện chính trị khu vực I, Khoa văn hóa và phát
triển, Tìm hiểu đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, (Sách tham khảo),
NXB CTQG, Hà Nội, 2006.
- Hoàng Xuân Nhị, Tìm hiểu đường lối văn nghệ của Đảng và sự phát triển
của văn học cách mạng Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, 1962.
- Hoàng Trinh, Phong Lê: Đường lối văn nghệ của Đảng và thành tựu của
văn học cách mạng (Đọc xây dựng nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta,
thời đại ta của Tố Hữu), Tạp chí Học tập 9/1975.
- Lê Đình Kỵ, Đại cương về đường lối văn nghệ của Đảng, trong cuốn Cơ sở
lý luận văn học, tập 3, NXB Đại học Và THCN, 1983.
- Hà Xuân Trƣờng, Đường lối văn nghệ của Đảng, vũ khí ánh sáng, trí tuệ,
NXB Sự thật, Hà Nội, 1977.
Về phƣơng diện lịch sử của ngành văn hóa thông tin, cũng đã có một số cuốn

sách biên niên, tổng kết lịch sử của ngành nhƣ:
- Ban tƣ tƣởng, văn hóa TW, Lịch sử biên niên công tác tư tưởng, văn hóa
của Đảng Cộng sản Việt Nam, 03 tập, NXB CTQG, 2005.
- Bộ VH-TT, Năm mươi năm ngành văn hóa thông tin Việt Nam, Hà Nội,
1995.
Các sách trên chủ yếu viết theo lối biên niên sự kiện, nêu bật những sự kiện,
những cột mốc lịch sử đáng ghi nhớ của ngành văn hóa, thông tin Việt Nam từ 1945

4
đến nay. Trong đó, có điểm qua các sự kiện của văn hóa thông tin nƣớc ta thời kỳ
1945-1954, nhƣng cũng chỉ là ở dạng biên niên, việc phân tích, đánh giá, tổng kết
rất hạn chế.
Một hƣớng đề tài nữa thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
cũng nhƣ nghiên cứu sinh, sinh viên, học viên cao học khi làm luận án luận văn tốt
nghiệp. Đó là lựa chọn nghiên cứu về các yếu tố riêng lẻ nhƣng có giá trị nổi bật
trong nền văn hóa kháng chiến nhƣ giáo dục, văn học, báo chí, tƣ tƣởng…Và cũng
đã có những công trình có giá trị:
- Bùi Đình Phong,“Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền văn hóa mới trước
năm 1954”, Luận án PTS Lịch sử, 1996. Luận án này tập trung làm sáng tỏ vai trò
và công lao to lớn của lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với việc định hƣớng và xây dựng
nền văn hóa mới Việt Nam thời kỳ 1945-1954.
- Đỗ Thị Nguyệt Quang, Quá trình xây dựng và phát triển nền giáo dục Việt
Nam mới từ tháng 6/1945 đến 7/1954, Luận án PTS khoa học lịch sử, Hà Nội, 1996.
- Nguyễn Thị Hoa, Báo chí cách mạng Việt Nam thời kỳ thực dân Pháp tạm
chiếm, khóa luận tốt nghiệp, 1991.
- Nguyễn Thị Minh Thuận, Tình hình hoạt động báo chí Việt Nam 1945-
1946, khóa luận tốt nghiệp, 1991
- Phạm Đản, Sự ra đời và ý nghĩa lịch sử của Đề cương văn hóa 1943, khóa
luận tốt nghiệp, 1959-1962.
- Lê Thị Thanh, Báo Nhân Dân trong kháng chiến chống Pháp (1951-1954),

Khóa luận tốt nghiệp, 1994.
- Nguyễn Thị Vân Hồng, Nguyên tắc khoa học, dân tộc, đại chúng trong
những hoạt động văn hóa đầu tiên của Đảng trước năm 1945, khóa luận tốt nghiệp,
1996.
- Nguyễn Ngọc Bội, Sự lãnh đạo của Đảng đối với văn học- nghệ thuật thời
kỳ 1945-1954, khóa luận tốt nghiệp khoa Ngữ văn, 1980.
Tựu chung lại, các hƣớng nghiên cứu riêng lẻ trên đây đều mới chỉ chú trọng
những mảng riêng rẽ của các lĩnh vực cấu thành nên nền văn hóa kháng chiến, kể cả

5
về đƣờng lối, lý luận cũng nhƣ những thành tựu trong từng lĩnh vực. Hầu nhƣ chƣa
có một công trình nào tập trung làm sáng tỏ toàn bộ quá trình xây dựng nền văn hóa
trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954) trong một chỉnh thể hệ thống với cái
nhìn toàn diện, đầy đủ, khái quát.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài hƣớng tới làm sáng tỏ quá trình Đảng và Nhà nƣớc ta xây dựng nền
văn hóa trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Quá trình đó đƣợc cụ
thể hóa là quá trình xây dựng thiết chế văn hóa mới, xây dựng đƣờng lối lý luận văn
hóa trong kháng chiến, đƣờng lối ấy có sự kế thừa tinh thần của bản “Đề cƣơng văn
hóa Việt Nam” (1943) ở giai đoạn trƣớc cách mạng Tháng Tám và phát triển gắn
liền với nhiệm vụ kháng chiến- kiến quốc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp
(1945-1954). Luận văn lựa chọn phân tích thành tựu ở một số mặt, một số ngành
của nền văn hóa kháng chiến nhƣ giáo dục, báo chí tuyên truyền, văn học nghệ
thuật để khẳng định những đóng góp thiết thực của nền văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ này. Từ kinh nghiệm của quá trình xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến
chống Pháp (1945-1954), cũng nhƣ từ các thành tựu các ngành đã đạt đƣợc, luận
văn góp thêm các kinh nghiệm thực tiễn cho chính sách văn hóa hiện tại của Đảng
và Nhà nƣớc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm sáng tỏ những ảnh hƣởng của bối cảnh thời đại và bối cảnh trong nƣớc
tới việc xây dựng một nền văn hóa mới trong kháng chiến chống Pháp.
- Tái hiện lại các yếu tố về mặt thiết chế văn hóa mới
- Phân tích quá trình xây dựng và các bƣớc trƣởng thành về mặt lý luận của
nền văn hóa mới thông qua các giai đoạn gắn liền với các Đại hội, Hội nghị văn hóa
quan trọng của Đảng trong thời kỳ 1945-1954.
- Nêu bật lên những thành tựu nổi bật của các ngành, các lĩnh vực tiêu biểu
của nền văn hóa mới trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

6
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng của luận văn lựa chọn nghiên cứu liên quan tới khái niệm văn hóa.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa trên thế giới cũng nhƣ ở
Việt Nam. Trong số đó đáng chú ý phải kể tới những định nghĩa nhƣ sau:
Trong ý nghĩa rộng nhất, “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét
riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm ngƣời trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn
chƣơng, những lối sống, những quyền cơ bản của con ngƣời, những hệ thống giá trị,
những tập tục và những tín ngƣỡng. Văn hóa đem lại cho con ngƣời khả năng suy
xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt
nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa
mà con ngƣời tự thể hiện, tự ý thức đƣợc bản thân, tự biết mình là một phƣơng án
chƣa hoàn thành đặt ra xem để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không
biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vƣợt trội lên bản
thân”
1

Năm 2002, UNESCO định nghĩa “văn hóa đƣợc xem là tập hợp các đặc
trƣng tâm linh, vật chất, trí tuệ và cảm xúc riêng biệt của một xã hội hay một nhóm

ngƣời trong xã hội, ngoài văn học và nghệ thuật, nó bao gồm lối sống, cách chung
sống, hệ giá trị, truyền thống và đức tin”
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đƣa ra một định nghĩa vô cùng sắc bén về văn
hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ vì mục đích cuộc sống con ngƣời sáng tạo ra, phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, văn
học, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
ăn, mặc, ở và các phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hóa” [140, tr.21]
4.2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu:

1
Tuyên bố về những chính sách văn hóa - Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì từ ngày 26/7 đến ngày
6/8/1982 ở Mêhicô:

7
Văn hóa là một phạm trù rất rộng, nó không phải là một lĩnh vực riêng biệt.
Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng
tạo ra. Trong giới hạn của một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ lựa chọn nghiên cứu ở
các phạm vi giới hạn nhƣ sau:
+ Về mặt nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các lĩnh vực trong phạm
trù văn hóa nhƣ thông tin tuyên truyền, văn hóa nghệ thuật và giáo dục. Nghiên cứu
các lĩnh vực đó ở trên các mặt nội dung nhƣ sau: thiết chế (bộ máy quản lý), lý luận
văn hóa và các thành tựu chủ yếu.
+ Không gian: Về mặt không gian, các nội dung của đề tài nghiên cứu chủ
yếu tập trung nghiên cứu ở vùng tự do trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lƣợc.
+ Thời gian: Giới hạn về mặt thời gian là từ khi nƣớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời (1945) và đến kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1954).
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn sử liệu

- Tƣ liệu lƣu trữ, sách báo là nguồn tƣ liệu gốc, phong phú và có độ tin cậy
cao. Đây là nguồn tƣ liệu đầu tiên mà tác giả luận văn tiếp cận và khảo sát khá kỹ
những vấn đề liên quan tới việc xây dựng nền văn hóa mới trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp (1945-1954).
+ Trƣớc hết là các tài liệu lƣu trữ ở Trung tâm lƣu trữ Quốc gia III bao gồm:
các báo cáo về công tác văn nghệ của Bộ, Nha Tuyên truyền và Văn nghệ, Hội Văn
hóa và văn nghệ qua các năm, biên bản các cuộc họp liên bộ về văn hóa xã hội, các
kế hoạch xây dựng văn hóa của Nha tuyên truyền và Văn nghệ từng năm…, biên
bản các kỳ đại hội, hội nghị văn hóa toàn quốc đặc biệt là Đại hội văn hóa toàn quốc
lần thứ 2 (7/1948), các sắc lệnh, công văn chỉ đạo công tác văn hóa…
+ Thứ hai, đó là nguồn tƣ liệu báo chí gốc trong thời kỳ này mà tác giả tiếp
cận đƣợc gồm có: Trọn tập Bộ sƣu tập Tạp chí Tiên Phong (1945-1946): 02 tập;
Trọn bộ Sƣu tập Tạp chí Văn nghệ: 1948-1954: 07 tập; Báo Nhân dân, Báo Sự thật,
Báo Cứu quốc…

8
- Các công trình lý luận cũng nhƣ chuyên khảo có liên quan tới văn hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận nghiên cứu của luận văn là chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh cũng nhƣ những định hƣớng, chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Việt Nam về
văn hóa.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử
dụng phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử là chủ yếu kết hợp với các phƣơng pháp bổ
trợ nhƣ: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, so sánh…để làm sáng tỏ vấn đề luận văn
cần trình bày.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn cố gắng tái hiện lại những yếu tố bối cảnh quốc tế và trong nƣớc,
những chặng đƣờng xây dựng lý luận của nền văn hóa mới: văn hóa dân chủ nhân
dân trong thời kỳ đất nƣớc có chiến tranh.
- Đồng thời, luận văn làm sáng rõ những thành tựu nổi bật của các ngành,

các lĩnh vực của nền văn hóa mới trong kháng chiến.
- Từ đó, khẳng định đƣợc những đóng góp to lớn của Đảng, cũng nhƣ giới
văn hóa, văn nghệ sĩ trong việc xây dựng một nền văn hóa mới.
7. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của đề tài luận văn bao gồm các phần nhƣ sau:
Chƣơng 1: Một số nhân tố của bối cảnh quốc tế và bối cảnh trong nƣớc ảnh
hƣởng tới quá trình xây dựng nền văn hóa kháng chiến (1945-1954)
Chƣơng 2: Xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống Pháp (1945-
1954)
Chƣơng 3: Một số thành tựu cơ bản của nền văn hóa kháng chiến.


9
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ NHÂN TỐ CỦA BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ BỐI
CẢNH TRONG NƢỚC ẢNH HƢỞNG TỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN
VĂN HÓA KHÁNG CHIẾN (1945-1954)
1.1. Một số nhân tố của bối cảnh quốc tế
1.1.1. Ảnh hưởng từ Liên Xô
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mƣời, Liên Xô trở thành trung tâm cách
mạng thế giới, và là chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh dân tộc, dân chủ
và vì hòa bình trên thế giới nói chung cũng nhƣ cho cách mạng Việt Nam. Đảng
Cộng Sản Việt Nam từ khi ra đời đã xác định đi theo con đƣờng của Cách mạng
tháng Mƣời, xác lập và duy trì quan hệ với Liên Xô. Việc xây dựng tình đoàn kết,
ủng hộ hợp tác với Liên Xô trong nhiều thập kỷ trƣớc đây đã đƣợc Đảng Cộng sản
Việt Nam coi là nhiệm vụ chiến lƣợc và là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại
của Đảng, đƣợc Đảng thƣờng xuyên vun đắp, giữ gìn. Quan hệ giữa Việt Nam và
Liên Xô trong giai đoạn 1945-1954 về cơ bản là thuận lợi và liên tục, từ quan hệ
cách mạng tới quan hệ hai nhà nƣớc, đặc biệt là từ phía Việt Nam. Liên Xô không
chỉ là cái nôi, chỗ dựa tinh thần, đồng minh chiến lƣợc, mà năm 1950 còn là “cửa sổ

nhìn ra thế giới” của Việt Nam. Từ sau Cách Mạng Tháng Tám đến những năm gần
đây, rõ ràng không có nƣớc nào trên thế giới lại giao lƣu văn hoá với nƣớc ta một
cách liên tục và trên nhiều bình diện nhƣ nƣớc Nga.
Cách mạng tháng Mƣời Nga năm 1917 có vai trò quan trọng trong lịch sử
loài ngƣời. Trên bình diện văn hóa, nó đã mở ra nền văn hóa XHCN, không chỉ có ở
Liên Xô mà còn ảnh hƣởng lớn đến nhiều nƣớc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Văn hóa Xô viết đã ảnh hƣởng lớn đến văn hóa Việt Nam. Hoàn toàn không phải
ngẫu nhiên mà những nhà văn hóa Việt Nam vào những năm kháng chiến chống
Pháp gian khổ đã tìm thấy ở các nhà văn Liên Xô những tình cảm trong sáng, những
chỗ dựa thân thiết và cao hơn nữa là một lý tƣởng văn hóa cao đẹp cần vƣơn tới để
xây dựng.
Trƣớc tiên cần nói rằng khái niệm "văn hoá Nga" ở Liên Xô trƣớc kia cũng
nhƣ ở nƣớc ta gần đây vẫn thƣờng đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp. Khi nói đến văn hoá

10
Nga, ngƣời ta thƣờng quan niệm đó là văn hoá của nƣớc Nga, của dân tộc Nga trong
quá khứ lịch sử, trƣớc Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa Tháng Mƣời. Còn những gì
mà ngƣời Nga và các dân tộc khác trong Liên Bang Xô Viết làm nên trong lĩnh vực
văn hoá từ sau Cách Mạng Tháng Mƣời thì đƣợc hợp nhất vào một phạm trù bao
trùm "Văn Hoá Xô Viết", phạm trù này đã mau chóng trội vƣợt lên hàng đầu trong
nền tuyên truyền, giáo dục, khoa học xã hội Xô Viết, đẩy lùi xuống hậu cảnh, vào
trong chỗ râm tối quan niệm truyền thống về văn hoá nhƣ một thực thể tinh thần
mang dấu ấn, bản sắc của từng dân tộc riêng biệt, trong trƣờng hợp cụ thể này là của
dân tộc Nga, Ucraina, Litva, Grudia, v.v Văn hoá Xô Viết, nhƣ những lý luận gia
và những ngƣời lãnh đạo, quản lý nó quan niệm, là một nền văn hoá có tính chất
quốc tế, nó do tất cả các dân tộc trong Liên Bang Xô Viết tạo nên và là tài sản tinh
thần chung của họ, do đó nó không mang dấu ấn đặc thù của một dân tộc nào riêng
biệt. Cảm hứng chủ đạo của nền văn hoá Xô Viết chính là cảm hứng sáng tạo thế
giới mới, một thế giới tốt đẹp, huy hoàng chƣa từng có trong lịch sử mà so với nó,
tất cả các giai đoạn trƣớc phải đƣợc xem nhƣ đêm trƣờng tăm tối.

Đối với lịch sử của Việt Nam, bắt đầu từ mốc 1920, Nguyễn Ái Quốc, lãnh
tụ của dân tộc đã xác định con đƣờng đi cho dân tộc là đi theo theo cách mạng
Tháng Mƣời Nga và cách mạng vô sản. Từ đấy lý tƣởng về chính trị, về mô hình
nhà nƣớc, lý tƣởng về một cuộc cách mạng vô sản bắt đầu nảy mầm và bén rễ trong
lòng một nƣớc Việt Nam đang rên xiết trong vòng nô lệ. Ngƣời Việt Nam hƣớng tới
ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin, hƣớng về Cách mạng tháng Mƣời Nga, hƣớng
về Lênin, hƣớng về Liên Bang Xô Viết. Đối với Việt Nam cũng nhƣ các nƣớc thuộc
địa, thì Liên Xô trở thành chỗ dựa vững chắc, làm tấm gƣơng sáng. Theo lý tƣởng
đó, chúng ta đã tự lực cánh sinh làm nên thắng lợi của của Tổng Khởi nghĩa Tháng
Tám cởi bỏ xiềng xích của chế độ thuộc địa.
Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam cũng là một cuộc cách mạng theo lý
tƣởng của Cách mạng tháng Mƣời Nga. Khi bƣớc vào xây dựng chính quyền dân
chủ nhân dân mới của nƣớc Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa trên lĩnh vực văn hóa
chính phủ ta hƣớng theo mô hình của Liên Xô. Chính ánh sáng của nền văn hóa Xô

11
Viết đã tạo ra những đƣờng nét cơ bản của nền văn hóa mới của Việt Nam giai đoạn
1945-1954. Không chỉ ảnh hƣởng từ Liên Xô ở lý tƣởng văn hóa mới, ngoài ra
trong bối cảnh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, những ảnh hƣởng cụ thể,
sâu sắc của văn hóa Xô Viết với văn hóa Việt Nam còn diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là
từ sau năm 1950, sau chiến thắng Biên giới, chúng ta chính thức đặt quan hệ ngoại
giao với Liên Xô và đƣợc Liên Xô công nhận. Từ đó, văn hóa Liên Xô trở thành
một cánh cửa rộng mở ra đối với Việt Nam. Việt Nam đã bƣớc đầu vận dụng các
kinh nghiệm của mô hình văn hóa Xô Viết trong việc xây dựng nền văn hóa mới cụ
thể thể hiện rõ ở các lĩnh vực, các ngành văn hóa.
Trong lĩnh vực văn hóa- giáo dục, chính phủ đã kêu gọi toàn dân tham gia
xây dựng nền văn hóa mới, giải thể mọi tệ nạn xã hội, chống nạn mù chữ, diệt “giặc
dốt” từng bƣớc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân theo nguyên tắc dân tộc, dân
chủ và khoa học. Tiếng Việt đƣợc coi là quốc ngữ. Bên cạnh đó, theo một nguồn tin
của tạp chí Tiên Phong, cơ quan ngôn luận của Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam thì

từ ngày 17 tháng 12 năm 1945, tại trƣờng Đại học Việt Nam, tiếng Nga đƣợc bắt
đầu đƣa vào chƣơng trình giảng dạy cho sinh viên và công chức Nhà nƣớc [94,
tr.32].
Để hỗ trợ cho mặt trận văn hóa, chính phủ đặc biệt khuyến khích việc biên
dịch, in ấn và phát hành sách báo Xô Viết, tuyên truyền cho đời sống mới qua việc
giới thiệu văn hóa Liên Xô. Trong công trình “Ảnh hưởng của văn hóa Xô Viết ở
Việt Nam trong giai đoạn 1945-1954” của TS Lê Văn Thịnh, cho thấy rằng trong
những năm tháng đó, nền văn hóa Xô Viết có vị trí đặc biệt quan trọng, với ý nghĩa
góp phần hình thành đội ngũ trí thức mới của Việt Nam. “Riêng về mặt xuất bản,
chƣa bao giờ việc in ấn và phát hành sách báo Liên Xô lại phát triển mạnh nhƣ thế ở
Việt Nam. Trong những năm chống thực dân Pháp xâm lƣợc, tại Việt Nam có
khoảng 35 cơ sở in ấn và phát hành sách báo Liên Xô bằng tiếng Việt, với 107 đầu
sách và số lƣợng hàng vạn bản. Riêng năm 1946, có 14 cơ sở in ấn và phát hành
sách báo Xô Viết với trên 30 đầu sách, chiếm 40% cơ sở xuất bản và 28% đầu sách
trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp” [109, tr.68]. Khó có thể đánh giá

12
một cách thực sự đầy đủ ảnh hƣởng của sách báo Liên Xô trong tình hình lịch sử lúc
bấy giờ. Song có điều rõ ràng là với việc phát hành một số lƣợng lớn ấn phẩm văn
hóa Liên Xô bằng tiếng Việt ngay trong năm tháng khó khăn nhất của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đã thể hiện sự nỗ lực lớn lao của các nhà xuất bản Việt
Nam trong việc thực thi chính sách văn hóa của Đảng Cộng Sản Đông Dƣơng. Mặt
khác, nó cũng thể hiện sức hấp dẫn đặc biệt của nền văn hóa Liên Xô với công
chúng Việt Nam. Chính sự hấp dẫn đó đã góp phần hỗ trợ cho những ngƣời Cộng
sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chế độ mới.
Sau Đại hội II (2/1951), những ngƣời Cộng sản Việt Nam đã đẩy mạnh hoạt
động trên tất cả mọi mặt nhằm nhanh chóng đƣa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi.
Trong quá trình xây dựng chế độ mới và kháng chiến chống thực dân Pháp, hàng
loạt các vấn đề mới mẻ đặt ra đòi hỏi phải đƣợc soi sáng bằng lý luận. Những ngƣời
Cộng sản Việt Nam đã tìm lời giải đáp qua kinh nghiệm thực tiễn của đất nƣớc Xô

Viết, kinh nghiệm của các nƣớc dân chủ nhân dân anh em dƣới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác- Lênin.
Trong những năm tháng đó, ở Việt Nam diễn ra việc nghiên cứu và vận dụng
lý luận Stalin, đặc biệt là lý luận về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong
kiến… Mặc dù không lấy số lƣợng đầu sách nhiều hay ít để đánh giá một xu hƣớng,
song điều rõ ràng là từ năm 1950, phần lớn những tác phẩm lý luận của chủ nghĩa
Mác đƣợc in ấn và phát hành ở Việt Nam là những tác phẩm có đề cập đến các vấn
đề chiến lƣợc, sách lƣợc của cách mạng giải phóng dân tộc…
Trên lĩnh vực văn nghệ, ảnh hƣởng của nền văn học Xô Viết là đặc biệt đa
dạng và sâu sắc. Nhiều tác phẩm của văn học Xô Viết, chủ yếu là những tác phẩm
viết về nội chiến và chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô đã đƣợc dịch
ra tiếng Vỉệt, chẳng hạn nhƣ tác phẩm “Người mẹ” của M.Gorki, “Căm thù” và
“Sông Đông êm đềm” của M.Sôlôkhốp, “Tỉnh ủy bí mật” của A.Phêđêrốp, “Những
người Xô Viết chúng tôi” của Pôlêvôi, “Ngôi sao” của P.Kazakêvích, “Chất Nga”
của A.Tônstôi, “Thời gian ủng hộ chúng ta” của Êrenbua, “Thép đã tôi thế đấy”

13
của N.Ôxtôrôpxki…Ngoài ra, một số tác phẩm lý luận văn học khác nhƣ: “Kinh
nghiệm sáng tác” của Phađêep, “Làm một bài thơ như thế nào” của Maiacôpxki,
“Vài đoạn lý luận văn học” của M.Gorki [51, tr.71]… cũng đƣợc giới văn nghệ
Việt Nam kháng chiến biên dịch để tham khảo.
Hoạt động dịch thuật, in ấn, phát hành sách báo Liên Xô trong kháng chiến
luôn đƣợc gắn liền với công tác tuyên truyền và cổ động chính trị. Thậm chí “xuất
bản miệng” nhƣ giáo viên khu III dịch trực tiếp “Những người Xô Viết của chúng
tôi” và đọc cho học sinh nghe; hoặc lƣu hành bằng hình thức chép tay nhƣ các
chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam, đã chép lại tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy”
của Ôxtôrôpxki ròng rã bốn tháng trời, qua ba chiến dịch Thƣợng Lào, Tây Bắc,
Điện Biên Phủ, bằng mọi thứ giấy mực và trong số các chiến sĩ bảo vệ cuốn truyện
này có ngƣời đã hi sinh. Theo nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hải Hà, cuốn “Thép

đã tôi thế đấy” chép tay đặc sắc hiện đang đƣợc trƣng bày ở bảo tàng Ôxtôrôpxki ở
Matxcơva (do một nhóm chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam tặng bảo tàng năm
1956). Đây là một chứng tích hùng hồn về sức sống kỳ diệu của một tác phẩm văn
học và là biểu tƣợng tuyệt vời của tình bạn chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam và
nhân dân Liên Xô.
Chủ nghĩa anh hùng và lòng dũng cảm của con ngƣời Xô Viết trong đấu
tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc đƣợc xây dựng thành những hình tƣợng nghệ
thuật độc đáo trong văn học Liên Xô, không chỉ là tấm gƣơng sáng, giữ vai trò quan
trọng trong việc hình thành tinh thần yêu nƣớc, trách nhiệm nghĩa vụ cao trƣớc cộng
đồng dân tộc cho độc giả Việt Nam, mà còn là “một nguồn dinh dƣỡng mới” góp
phần to lớn vào việc bồi dƣỡng, hình thành lớp nhà văn mới của Việt Nam trong
kháng chiến chống Pháp.
Nhà văn Nguyễn Thành Long kể lại: “Lúc ấy chúng tôi hầu hết là học sinh
các trƣờng của chế độ thuộc địa. Câu văn Pháp xa rời với nếp suy nghĩ, sự nhận
thức của quần chúng. Để viết cho nhân dân hiểu, ngƣời viết phải đi theo xu hƣớng
quần chúng hóa. Thậm chí có khi chúng tôi hiểu chủ trƣơng này một cách cực tả,
không đúng…tình hình này có thể kéo dài, nếu không có sự xuất hiện của các tác

14
phẩm văn học Xô Viết từ Việt Bắc đƣa vào cuối năm 1950. Chúng tôi đƣợc đọc
“Người mẹ” của M.Gorki, “Những người bất khuất” của Gorbatốp, “Những người
Xô Viết chúng tôi” của Pôlêvôi, “Bão táp” và “Paris sụp đổ” của I.Erenbua,
“Stalingrát- ngày và đêm” của Ximônốp, “Ngôi sao” của Kadakêvích. Đặc biệt là
một tuyển tập truyện ngắn do Pháp tuyển và in lấy tên là Khu vực Nga, trong đó có
truyện ngắn “Chất Nga” của A.Tônstôi đã thực sự chiếm lĩnh tâm hồn chúng
tôi…Sự xuất hiện của loại sách báo này vô cùng quan trọng đối với chúng tôi, nó
vừa giúp chúng tôi lấy lại thế cân bằng trong khuynh hƣớng cực tả trƣớc đây của
“Văn nghệ Diên An”, vừa nhƣ là sự soi rọi của ngƣời đi trƣớc. Hơn nữa, việc phát
hiện ra một con ngƣời mới, mà sự thật mình muốn tìm tòi vƣơn tới văn học Xô Viết,
đã nhƣ một cánh cửa mở ra cho ánh sáng mặt trời chói chang bên ngoài rọi vào tâm

hồn đang bế tắc của chúng tôi…[113, tr.521-535]
Từ năm 1952, rất nhiều sách báo, tạp chí của Liên Xô đƣợc đƣa về nƣớc ta
qua con đƣờng Trung Quốc. Ngoài ra, qua Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc và
Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô, Việt Nam còn nhận đƣợc 308 bộ phim truyện,
60 bộ phim thời sự, hàng ngàn đĩa hát, 3640 máy chụp ảnh, 24 máy chiếu phim và
nhiều trang thiết bị khác phục vụ cho ngành điện ảnh- chủ yếu của Liên Xô và bằng
tiếng Nga [12;14]. Đây là một trong những vốn liếng đầu tiên của các nhà điện ảnh
xây dựng ngành điện ảnh non trẻ của Việt Nam. Nhiều bộ phim nhƣ “Đội cận vệ
thanh niên”, “Lửa căm thù”,“Thợ mỏ Đô-nết”, “Hạnh phúc ở nông trường” [95]
đã đƣợc đem chiếu và gây ấn tƣợng mạnh với công chúng Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Mƣời Nga và trong bối cảnh của thời đại cách mạng
vô sản, Liên Xô trở thành một biểu tƣợng của thành trì phe xã hội chủ nghĩa ở trên
thế giới. Liên Xô không những là ngƣời anh cả của cách mạng thế giới mà trên
phƣơng diện văn hóa thì văn hóa Xô Viết vẫn là một khuôn mẫu, một chuẩn mực có
ảnh hƣởng sâu đậm tới việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới. Yếu
tố ảnh hƣởng then chốt có thể khẳng định lại đó chính là việc hƣớng tới mẫu hình lý
tƣởng của văn hóa mác xít, văn hóa XHCN. Ngoài ra văn hóa Liên Xô còn là cánh
cửa mở rộng lớn cho văn hóa Việt Nam có cơ hội tiếp xúc, mở mang trên các lĩnh

15
vực văn hóa nghệ thuật cụ thể về phƣơng pháp, về loại hình, về các nguyên tắc lý
luận, sáng tác Một vấn đề nữa cũng phải nói tới đó chính là chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, lý tƣởng xây dựng một chế độ xã hội đem lại quyền lợi cho nhân dân
lao động đƣợc thể hiện đậm nét trong văn hóa Xô Viết đã có ảnh hƣởng sâu sắc tới
sự hình thành của văn hóa kháng chiến ở Việt Nam.
1.1.2. Ảnh hưởng từ Trung Quốc
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, thế giới chia làm hai phe, xã
hội chủ nghĩa và tƣ bản chủ nghĩa, trong đó Việt Nam và Trung Quốc cùng thuộc
phe xã hội chủ nghĩa, tức là nhƣ “anh em một nhà”. Do đó trong một phạm vi nào
đó, bên cạnh việc hƣớng về lý tƣởng của Liên Xô coi Liên Xô là ngƣời anh cả trong

phe xã hội chủ nghĩa thì Việt Nam lập tức có những chính sách ngoại giao đối với
Trung Quốc nhằm thiết lập mối quan hệ anh em trên nhiều phƣơng diện.
Ngày 01/10/1949, sau thắng lợi của cách mạng ở Trung Quốc, nƣớc Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Trung Quốc đã làm
nghiêng cán cân lực lƣợng quốc tế về phía cách mạng và hoà bình. Hai ngày sau,
(3/10/1949), Liên Xô công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ Trung
Quốc. Hành động thể hiện lập trƣờng trƣớc sau nhƣ một, ủng hộ phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc của Liên Xô có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn. Với hành
động này, Liên Xô đã kéo theo hàng loạt các nƣớc khác trong phe xã hội chủ nghĩa,
nhƣ Bungari, Hungari, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Tiệp Khắc, Ba Lan,
Mông Cổ, Cộng hoà dân chủ nhân dân Đức, Anbani công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao với Trung Quốc, mở rộng hành lang địa chính trị của phe xã hội chủ nghĩa ra
tới biên giới Việt Trung, góp phần quyết định vào việc phá vỡ vòng vây của chủ
nghĩa đế quốc với Việt Nam, nối Việt Nam với các nƣớc trong phe xã hội chủ
nghĩa. Những điều kiện để chính phủ Hồ Chí Minh thiết lập quan hệ ngoại giao
chính thức với các nƣớc đã chín muồi.
Trung Quốc có mối quan hệ ngoại giao rất quan trọng đối với Việt Nam.
Nhiều thập kỷ trƣớc cách mạng Tháng Tám, Trung Quốc không những là cửa ngõ,
chỗ đứng chân của các nhà yêu nƣớc Việt Nam, mà còn là nơi các nhà yêu nƣớc

16
Việt Nam tiếp thu tƣ tƣởng của cách mạng tháng Mƣời. Trên thực tế, nhiều nhà yêu
nƣớc Việt Nam đã tiếp thu ảnh hƣởng của cách mạng Tháng Mƣời qua lăng kính
Trung Quốc.
Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 đã tạo ra cục diện mới cho
cách mạng Việt Nam. Nhờ thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, cách mạng Việt
Nam mới có khả năng thoát khỏi ra tình trạng bị bao vây, cô lập, kiến lập các mối
quan hệ trực tiếp với Liên Xô và các nƣớc trong phe xã hội chủ nghĩa. Trƣớc vận
hội mới, ngày 14/01/1950, Chính phủ nƣớc Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa tuyên bố
cùng với chính phủ các nƣớc ở trên thế giới: “Trải qua mấy năm kháng chiến, nƣớc

Việt Nam từng đƣợc nhân dân toàn thế giới đồng tình và ủng hộ. Chính phủ nƣớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố với chính phủ các nƣớc trên thế giới rằng:
Chính phủ nƣớc Việt Nam Dân Chủ cộng hòa là chính phủ hợp pháp duy nhất của
toàn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nƣớc nào tôn
trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nƣớc Việt
Nam để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới…” [25]
Ngày 15/01/1950, Chính phủ Việt Nam tuyên bố công nhận nƣớc Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa và tỏ ý sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao cấp đại sứ.
Giải thích sự kiện này, ngày 25/01/1950, xã luận báo Sự thật viết: “Nƣớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bao giờ cũng đứng trong hàng ngũ dân chủ thế giới do
Liên Xô lãnh đạo,…nhƣng do tƣơng quan lực lƣợng giữa ta và địch, trong mấy năm
đầu kháng chiến, trƣớc đây biên giới của ta bị phong tỏa, sự liên lạc giữa ta và nƣớc
ngoài không có điều kiện tiến hành một cách thiết thực. Cho nên, trên trƣờng quốc
tế chúng ta chƣa chính thức đặt vấn đề ngoại giao. Ngày nay, ta đã mạnh lên và sức
địch thì ngày càng suy sụp. Ở vùng biên giới ta đã quét địch ra khỏi nhiều
nơi…Cách mạng Trung Quốc quật lại bọn phản động, giải phóng Trung Nguyên,
vƣợt Trƣờng Giang Nam tiến nhƣ vũ bão và hiện đang làm chủ suốt các vùng tiếp
giáp bờ cõi nƣớc ta Vòng vây của bè cánh địch đã đứt tung. Sự tƣơng trợ giữa các
nƣớc bạn với ta không còn đóng khung trong phạm vi những lời thanh viện trên làn

17
sóng điện nữa… Nhận xét tình hình ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố thái độ
chính thức của chúng ta với thế giới và đã thực hành ngay chủ trƣơng của chúng ta
bằng việc công nhận chính phủ Trung Hoa mới” [15].
Năm 1950 với chiế n dị ch Biên giớ i , Việ t Minh tƣ̀ nay đã khai thông đƣợc
đƣờng biên giớ i vớ i Trung Quố c . Với chiến thắng này, thế bao vây phong tỏa cách
mạng Việt Nam của thực dân Pháp đã bị phá tan. Từ đây, nƣớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa có vùng giải phóng rộng lớn tiếp nối với Trung Quốc và các nƣớc xã hội
chủ nghĩa [85, tr.121]. Từ đây, chúng ta đƣợc nhận nhiều sự chi viện giúp đỡ của

các nƣớc anh em trong phe xã hội chủ nghĩa trong đó quan trọng nhất là từ Trung
Quốc. Thực tế là từ năm 1950 cùng với việc chúng ta bắt đầu mở rộng mối quan hệ
với Trung Quốc cũng đồng thời với việc Trung Quốc ngày càng ảnh hƣởng tới cuộc
chiến tranh Đông Dƣơng kể cả về quân sự, cả về việc xây dựng chính thể của nƣớc
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới trong đó có cả xây dựng nền văn hóa trong cuộc
kháng chiến chống Pháp.
Nền văn hóa Trung Quốc trong thời kỳ mới chính là nền văn hóa dân chủ
mới chủ yếu tuân theo các nguyên tắc tƣ tƣởng của Mao Trạch Đông về văn hóa
nghệ thuật.
Nếu nhƣ văn hóa Liên Xô ảnh hƣởng tới quá trình xây dựng nền văn hóa
Việt Nam thời kỳ 1945-1954 ở tính chất phổ quát của nền văn hóa vô sản thì về mặt
lý thuyết chúng ta chịu ảnh hƣởng những quan điểm văn hóa dân chủ mới từ Trung
Quốc dần dần từng bƣớc một trong thực tế. Đặc biệt là từ sau chiến dịch Biên giới
năm 1950, Việt Nam khai thông biên giới với Trung Quốc, và bắt đầu nhận viện trợ
của các nƣớc XHCN anh em thông qua sự giúp đỡ trực tiếp của Trung Quốc, thì ảnh
hƣởng của văn hóa Trung Quốc bắt đầu ảnh hƣởng rõ nét hơn. Ảnh hƣởng đó đƣợc
biểu hiện cụ thể ở sự học tập những quan điểm văn hóa dân chủ mới của Mao Trạch
Đông. Những nguyên tắc nhƣ văn nghệ phục vụ chính trị, văn nghệ phục vụ quần
chúng công nông binh, văn nghệ gắn liền với cuộc sống, nguyên tắc Đảng trực tiếp
lãnh đạo văn nghệ… đều trở thành những nguyên lý mà khi các nhà văn hóa Việt
Nam trong quá trình xây dựng nền văn hóa đều phải học tập.

18
Nguyên tắc đầu tiên chi phối mạnh mẽ nhất chính là nguyên tắc Đảng Cộng
sản luôn phải là ngƣời nắm sự lãnh đạo tuyệt đối đối với công tác văn hóa, văn
nghệ. Mao Trạch Động trong văn kiện văn hóa ở Hội nghị văn nghệ Diên An năm
1942 đã nêu rõ: “Chúng ta đứng trên lập trƣờng giai cấp vô sản, đại chúng nhân
dân. Ngƣời đảng viên cộng sản lại còn phải đứng trên lập trƣờng của Đảng, đứng
trên lập trƣờng Đảng tính và chính sách của Đảng nữa”. Đối với Việt Nam, tính
Đảng trong văn hóa cũng in dấu ấn đậm nét. Từ bản “Đề cương văn hóa” của Đảng

năm 1943 cho tới bản báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” (1948) và
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai (1951) đều đƣa nội dung về sự lãnh đạo của
Đảng lên đầu tiên và xem nhƣ là một nguyên tắc căn bản. Đảng Cộng sản nắm
quyền tối cao lãnh đạo cách mạng văn hóa ở Việt Nam.
Nguyên tắc văn hóa phục vụ chính trị cũng là một trong những quy chuẩn đặt
ra đối với văn nghệ dân chủ mới. Mao Trạch Đông cho rằng “Văn nghệ là thuộc về
chính trị nhƣng lại có ảnh hƣởng trở lại rất lớn lao đối với chính trị”. Mối quan hệ
giữa công tác văn nghệ với toàn bộ công tác của Đảng là: “Văn nghệ cách mạng là
một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, là đinh ốc và bánh xe răng cƣa của
cả bộ máy, nó phải phục tùng nhiệm vụ cách mạng. Đó là nguyên tắc căn bản
nhất… Chúng ta thì chủ trƣơng một cách công khai “nghệ thuật vị cách mạng” [53,
tr.23]. Sau này trong các văn kiện lý luận của Đảng ta về công tác văn hóa trong
kháng chiến chống Pháp, việc yêu cầu văn hóa, văn nghệ phục vụ cách mạng, phục
vụ công tác kháng chiến kiến quốc cũng là vấn đề đƣợc đặt ra tối cao, và xuyên
suốt. Trong Đề cƣơng văn hóa Việt Nam (1943), Đảng ta chỉ ra rằng: “các phƣơng
pháp cải cách văn hóa đề ra bây giờ chỉ là dọn đƣờng cho một cuộc cách mạng triệt
để mai sau” [112, tr.15]. Hồ Chí Minh trong “Thƣ gửi Đại hội văn hóa toàn quốc
lần thứ nhất (11/1946)” từng phát biểu vai trò của văn hóa là: “văn hóa kháng chiến
kiến quốc thiết thực và rộng rãi để giúp sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của toàn
dân”
Trong đoạn mở đầu của bản báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”,
Trƣờng Chinh nêu rõ: “Chúng ta họp lại nơi đây, không ngoài mục đích định rõ

19
phƣơng châm hoạt động văn hóa, đoàn kết các nhà văn hóa nƣớc ta thành một mặt
trận, động viên các lực lƣợng văn hóa nƣớc ta để dốc vào cuộc chiến đấu của dân
tộc, để đuổi giặc, cứu nƣớc và xây dựng một nền văn hóa mới” [60, tr.117].
Chủ tịch Mao Trạch Đông trong quan điểm lý luận văn hóa dân chủ mới ở
Trung Quốc đã có những ý kiến biện chứng giữa phổ cập và nâng cao trong văn
hóa. Nâng cao trên cơ sở phổ cập, phổ cập dƣới sự chỉ đạo của nâng cao. Bất kể phổ

cập hay nâng cao đều là để phục vụ đại chúng công nông binh. Sau này, trong thực
tiễn của quá trình vận động văn hóa của Việt Nam, vấn đề giữa phổ cập và nâng cao
đƣợc cụ thể hóa trong điều kiện Việt Nam đó chính là cuộc tranh luận giữ nghệ
thuật và tuyên truyền. Phổ cập chính là tuyên truyền, mà nâng cao chính là nghệ
thuật. Cuộc tranh luận này là vấn đề khúc mắc kéo dài khá lâu trong đấu tranh lý
luận ở Việt Nam. Sau này cũng nhƣ Trung Quốc, Đảng ta trong “Chủ nghĩa Mác và
văn hóa Việt Nam” cũng chỉ rõ: “Tuyên truyền tới mức cao sẽ trở thành nghệ thuật,
nghệ thuật thiết thực tới một mức nào đó thì nghệ thuật có tính chất rõ rệt tuyên
truyền”. Và “nếu nhà văn đó thiết thực và trung thành với thời đại thì tác phẩm của
họ, nghệ thuật càng cao, càng có ý nghĩa tuyên truyền mạnh” [60, tr.156]. Đƣợc chỉ
đạo chặt chẽ bởi đƣờng lối văn nghệ kháng chiến, quan điểm nghệ thuật gắn liền
với nhiệm vụ tuyên truyền, văn hóa gắn liền với nhiệm vụ chính trị trở thành xu thế
phát triển chung của ý thức văn hóa thời đại ấy. Khi đời sống tinh thần chung của
một dân tộc đều hƣớng về chiến đấu và chiến thắng, khẩu hiệu “yêu nƣớc và căm
thù giặc” trở thành phƣơng châm hoạt động của nghệ sỹ thì quan điểm nghệ thuật
gắn liền với tuyên truyền, văn hóa đi cùng với chính trị là phù hợp với quy luật vận
động của lịch sử. Ở đây tính thực tế của văn hóa nghệ thuật đƣợc phát huy mạnh
mẽ.
Muốn giải quyết vấn đề văn nghệ phục vụ cách mạng, phục vụ công nông
binh, văn hóa phải phản ánh đúng đắn cuộc sống của nhân dân. Vấn đề mấu chốt
căn bản nhất là những ngƣời làm công tác văn nghệ phải gắn bó với quần chúng, cải
tạo tƣ tƣởng, đồng thời tìm nguồn sáng tác trong việc gắn bó với quần chúng. Đó là
một quan điểm trọng yếu trong tƣ tƣởng văn nghệ của Mao Trạch Đông. “Muốn cải

20
tạo tƣ tƣởng cũ và xây dựng thế giới quan vô sản có hiệu quả, các văn nghệ sĩ chỉ
cần hạ quyết tâm, thông qua việc học tập lý luận chủ nghĩa Mác trƣờng kỳ…lao
mình vào cuộc đấu tranh cách mạng, hòa mình với quần chúng và kết hợp qua lại
giữa lý luận và thực tế”. “Những ngƣời công tác văn nghệ nhất định phải làm tròn
nhiệm vụ đó, phải bỏ đầu óc tiểu tƣ sản đi, phải đi sâu vào công, nông, binh, vào

phong trào đấu tranh thực tế, phải học tập chủ nghĩa Mác-Lê-nin và học tập xã hội,
dần dần đi hẳn với công, nông, binh. Chỉ nhƣ thế, chúng ta mới có một nền văn
nghệ công, nông, binh chân chính [53, tr.27-28]. Đây là điểm xuất phát của chủ
trƣơng chỉnh huấn, chỉnh phong nhằm cải tạo tƣ tƣởng, nâng cao lập trƣờng chính
trị cho cán bộ và quần chúng, kể cả trong văn hóa, văn nghệ. Ở Việt Nam thời kỳ
này, ảnh hƣởng của quan điểm này rất lớn. Từ 1950, trong lĩnh vực giáo dục đã tiến
hành cuộc vận động “rèn cán chỉnh cơ” rầm rộ. Từ năm 1952, trong văn học nghệ
thuật, các văn nghệ sĩ trăn trở trong quá trình “nhận đƣờng” và “lột xác” để xác lập
lập trƣờng chính trị của mình. Cùng với cán bộ, anh chị em văn hóa văn nghệ tham
gia cuộc vận động chỉnh huấn. Đây là dịp mà các anh chị em nhìn lại ƣu điểm,
khuyết điểm của chính mình, kiểm tra lại nhận thức của mình đối với cách mạng
dân tộc dân chủ. Từ đó năm 1954, anh chị em văn nghệ sĩ hăng hái hơn trong chiến
đấu, và đặc biệt là hăng hái đi vào cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất, tìm
hiểu sâu hơn đời sống nhân dân. Các đợt chỉnh huấn, chỉnh phong suốt trong thời kỳ
từ 1950-1954 là một trong những biện pháp để nhằm giáo dục tƣ tƣởng, chỉnh đốn
lập trƣờng cho không chỉ cán bộ, bộ đội mà còn dành cho cả các văn nghệ sĩ.
Nhƣng ảnh hƣởng của việc coi trọng yếu tố “hồng” (yếu tố chính trị) hơn yếu tố
“chuyên” (chuyên môn) trong sáng tác văn nghệ, lấy tính Đảng là yếu tố quy chuẩn
chi phối quá trình sáng tạo văn học nghệ thuật cũng có những tác động trái chiều.
Một trong những hạn chế của việc yếu tố chính trị chi phối sáng tạo nghệ thuật là vô
hình chung trong nhiều trƣờng hợp, các văn nghệ sĩ tự đánh rơi đi “cái tôi” riêng
của mình trong nghệ thuật. Những cá tính sáng tạo riêng cũng đã bị yếu tố chính trị
chi phối đi ít nhiều. Do đó, có những lúc chúng ta bắt gặp tâm trạng “băn khoăn”, lo
âu của một số văn nghệ sĩ trên con đƣờng đi theo kháng chiến.

21
Có một điều có thể nhận thấy trong văn hóa Việt Nam thời kỳ 1945-1954 là
khi mà những nguyên tắc xây dựng nền văn hóa dân chủ mới chúng ta học tập từ
Trung Quốc đƣợc đẩy lên thái quá thì trong một chừng mực nó sẽ mang tính hẹp
hòi, giáo điều. Một số nhà văn thời kỳ bấy giờ nhƣ Nguyễn Thành Long cũng nhận

ra rằng đó là những khuynh hƣớng “cực tả” của “văn nghệ Diên An” [113, tr.523].
Thực tế là những nguyên tắc mang tính “giai cấp” phần nào đó đã có những tác
động tới quá trình nhận thức tƣ tƣởng cũng nhƣ quá trình sáng tác của các nhà văn
hóa, các văn nghệ sĩ Việt Nam thời kỳ này.
Trƣớc năm 1950, cuộc kháng chiến của chúng ta bị bao vây, cô lập. Do đó
nền văn hóa kháng chiến cũng ít có khả năng ảnh hƣởng từ bên ngoài. Nhƣng từ
năm 1950 trở đi, khi chúng ta phá đƣợc thế bao vây cô lập của Pháp sau chiến thắng
Biên giới 1950, thì không khí của nền văn hóa thay đổi hẳn và bắt đầu có sự đón
nhận những luồng gió mới thổi từ Trung Quốc, đặc biệt đó là những ảnh hƣởng của
các nguyên tắc văn hóa dân chủ nhân dân. Nền văn hóa bắt đầu có những sắc màu
đa diện, phong phú. Các nhà văn hóa Việt Nam đã có những sự trăn trở để áp dụng
những nguyên tắc đó phù hợp với bối cảnh cũng bản sắc truyền thống của văn hóa
Việt Nam.Tuy nhiên, trong buổi đầu xây dựng, sự vận dụng khó tránh khỏi những
biểu hiện ấu trĩ, ít nhiều ảnh hƣởng tới thành tựu của nền văn hóa kháng chiến.
Tóm lại, trong bối cảnh của cuộc kháng chiến trƣờng kỳ chúng ta bị bao vây
cô lập từ nhiều phía, việc chúng ta vẫn hƣớng tới sự giúp đỡ và học tập những kinh
nghiệm của các nƣớc anh em nhƣ Trung Quốc và Liên Xô vẫn đƣợc đặt ra và coi
trọng. Chính vì vậy mà “việc khai thác vốn cũ dân tộc không thể tách rời với việc
họp tập văn nghệ của nƣớc bạn, nhất là học tập kinh nghiệm về việc tổ chức sáng
tác văn nghệ, về bản thân những sáng tác của Liên Xô, Trung Quốc. Học tập văn
nghệ các nƣớc bạn là một trong những yếu tố quan trọng trong việc phát triển văn
nghệ Việt Nam. Nhiều băn khoăn của chúng ta, các nƣớc bạn đặc biệt là Liên Xô và
Trung Quốc, đã đi đến những kết luận có thể giúp chúng ta giải quyết thích đáng.
Nhiều mò mẫm của chúng ta hiện nay, chúng ta cũng có thể trong khi học tập các
tài liệu của các nƣớc bạn, tìm ra ánh sáng để tránh nhiều vấp váp” [93, tr.224].

22
1.2. Một số nhân tố của bối cảnh trong nƣớc
1.2.1.Đời sống kháng chiến
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nƣớc Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa thành lập, trƣớc khi bƣớc vào cuộc kháng chiến, đất nƣớc ta đang đứng
trƣớc muôn vàn khó khăn và bị chủ nghĩa đế quốc bao vây bốn phía. Thế nhƣng
chúng ta có những tiền đề thuận lợi cho công cuộc xây dựng nƣớc nhà trong một kỷ
nguyên độc lập. Quá trình xây dựng nền văn hóa mới của nƣớc nhà không vận động
ngoài hoàn cảnh đó.
Từ thân phận nô lệ trở thành công dân và ngƣời làm chủ của một nƣớc độc
lập, tự do, đồng bào ta khắp từ Nam chí Bắc dâng trào niềm tự hào, phấn khởi. Các
giai cấp, các tầng lớp yêu nƣớc, nhân dân các dân tộc một lòng tin tƣởng vào Chính
phủ cách mạng, vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiên quyết bảo vệ thành quả của Cách
mạng tháng Tám. Trƣớc những hành động xâm lƣợc và phá hoại của đế quốc và tay
sai, nhân dân ta từ Nam chí Bắc, từ miền ngƣợc đến miền xuôi càng thêm đoàn kết
chặt chẽ xung quanh Chính phủ Cụ Hồ, hăng hái tham gia Mặt trận Việt Minh- mặt
trận dân tộc thống nhất rộng rãi do Đảng lãnh đạo. Các Hội cứu quốc trong mặt trận
nhƣ Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu
quốc, Nhi đồng cứu vong, v.v phát triển mạnh mẽ. Khối liên minh công nông do
giai cấp công nhân lãnh đạo, nền tảng của mặt trận đƣợc phát triển và củng cố vững
chắc. Đây thực sự là khối quần chúng cách mạng, khối đoàn kết toàn dân đƣợc tổ
chức chặt chẽ, là lực lƣợng chính trị hùng hậu. Lực lƣợng chính trị hùng hậu ấy đã
giữ vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ
chủ quyền quốc gia, chủ quyền dân tộc. Đây là cơ sở vững chắc để xây dựng, phát
triển lực lƣợng mọi mặt của cách mạng, là nền tảng để thực hiện vũ trang toàn dân,
hình thành và phát triển lực lƣợng vũ trang nhân dân. Đây cũng chính là cơ sở vững
chắc nhất để xây dựng hậu phƣơng kháng chiến ở trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, xã hội.
Trƣớc các âm mƣu và hành động phá hoại nền độc lập thống nhất của ta, đặc
biệt là sau khi cuộc đàm phán ở Phông-ten-nơ-bơ-lô tan vỡ, ngày 19 tháng 10 năm

23
1946 Đảng triệu tập Hội nghị quân sự toàn quốc. Hội nghị khẳng định: “Không sớm
thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp” [5, tr.94].

Lúc bấy giờ cả nƣớc đƣợc chia làm 12 chiến khu nhƣ khu 11 (Hà Nội); khu XII
(Bắc Giang, Bắc Ninh); khu V (Vĩnh Phúc); khu III; khu IV; khu V…Các phƣơng
án tác chiến đƣợc đề ra. Kế hoạch phá hoại đƣờng sá, cầu cống, làm “vƣờn không
nhà trống” đƣợc chuẩn bị để ngăn địch. Vùng núi rừng Việt Bắc đƣợc củng cố làm
căn cứ địa vững chắc của Trung ƣơng, sẵn sàng bƣớc vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Máy móc, nguyên vật liệu của nhiều nhà máy, xí nghiệp đƣợc bí mật tháo gỡ
chuyển từ các thành phố về các chiến khu xây dựng các nhà máy, công xƣởng phục
vụ các yêu cầu chiến đấu và đảm bảo đời sống. Các cơ sở văn hóa, các tổ chức văn
hóa vừa mới thiết lập ở thủ đô cũng thực hiện công tác di tản lên chiến khu Việt
Bắc. Các hệ thống trƣờng học cũng tiến hành di chuyển đảm bảo việc học vẫn đƣợc
tiến hành trong điều kiện có chiến tranh. Thầy và trò cùng nhau chuyển vào điều
kiện học tập thời chiến.
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã chủ động chuẩn bị sẵn sàng vào
cuộc chiến đấu. Đầu tháng 11 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết văn kiện
“Công việc khẩn cấp bây giờ” nêu những phƣơng hƣớng và nhiệm vụ chủ yếu của
kháng chiến và vạch rõ “ta sẽ kháng chiến lâu dài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc,
tổ chức du kích khắp nơi, tăng gia sản xuất khắp nơi”. Hội nghị Thƣờng vụ Trung
ƣơng Đảng họp trong hai ngày 18 và 19/12/1946 khẳng định cuộc kháng chiến của
ta là cuộc kháng chiến trƣờng kỳ, gian khổ nhƣng nhất định thắng lợi. Hội nghị
vạch ra đƣờng lối cơ bản của cuộc kháng chiến mà nội dung chủ yếu chứa đựng
trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) và
Chỉ thị toàn dân kháng chiến (22/12/1946) của Ban Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Tống bí thƣ Trƣờng Chinh viết một loạt bài đăng
trên báo Sự thật từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1947, giải thích, cụ thể hóa đƣờng lối
kháng chiến của Đảng. Các văn kiện trên vạch rõ mục đích, tính chất của cuộc
kháng chiến là toàn dân, toàn diện trƣờng kỳ và tự lực cánh sinh.

24
Về chính trị: đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí, động viên
nhân lực, tài lực, đoàn kết với hai dân tộc Lào và Cam-pu-chia, với nhân dân Pháp,

với các nƣớc châu Á và các dân tộc bị áp bức, các dân tộc yêu chuộng hòa bình dân
chủ trên thế giới, củng cố chế độ cộng hòa dân chủ, đánh đổ chính quyền bù nhìn;
lập ra ủy ban kháng chiến các cấp để chỉ đạo kháng chiến.
Về quân sự: triệt để dùng “du kích vận động chiến” thực hành phá hoại “làm
cho địch đói, khát, mù, điếc, câm, tiêu hao, mệt mỏi, chán nản”, tản cƣ nhân dân ra
khỏi vùng có chiến sự, vừa đánh vừa xây dựng lực lƣợng; cuộc kháng chiến phải
trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công.
Về kinh tế: tăng gia sản xuất tự cấp tự túc, tự sản xuất vũ khí và lấy súng giặc
đánh giặc, tiếp tế cho bộ đội vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
Về văn hóa: chống nạn mù chữ, thực hiện cần, kiệm, liêm chính; văn nghệ sĩ
ủng hộ kháng chiến [5, tr.15]
Trong vận động cách mạng nói chung và trong đấu tranh vũ trang nói riêng
phải dựa vào lực lƣợng to lớn nhất là nông dân, phải có cơ sở vững chắc trong nhân
dân để huy động đƣợc sức ngƣời, sức của phục vụ kháng chiến, do đó tất yếu phải
đặt ra vấn đề xây dựng hậu phƣơng. Căn cứ địa cách mạng để chuẩn bị cho Tổng
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là hình ảnh đầu tiên về hậu phƣơng của chiến tranh
nhân dân ở nƣớc ta. Trong quá trình kháng chiến, nhờ có đƣờng lối đúng đắn sáng
tạo nên hậu phƣơng của cuộc chiến tranh nhân dân sớm hình thành bao gồm ba
vùng tự do lớn (Việt Bắc, Thanh - Nghệ - Tĩnh và Khu 5), các vùng tự do, khu căn
cứ rộng lớn ở Đồng Tháp Mƣời, U Minh Thƣợng, U Minh Hạ và Đông Nam Bộ.
Mỗi liên khu mỗi tỉnh cũng có các khu căn cứ, nơi đứng chân của mình. Theo quan
điểm của Đảng ta, nội dung của hậu phƣơng kháng chiến còn hàm chứa trong liên
minh chiến đấu Việt - Lào - Miên, trong sự ủng hộ của các nƣớc xã hội chủ nghĩa
nhất là Trung Quốc và Liên Xô, sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân Pháp và nhân dân
tiến bộ trên thế giới. Hậu phƣơng của ta còn là lòng dân và sự đóng góp của nhân
dân ngay trong vùng tạm bị chiếm.

×