Tải bản đầy đủ (.pdf) (237 trang)

Cải cách giáo dục và những tác động chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.93 MB, 237 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHẢN VĂN




________ * * * ________ ____
_

ĐẶNG XUÂN KHÁNG

CẢI CÁCH GIÁO DỤC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG
CHỦ YẾU ĐỐI VỚI S ự PHÁT TRIÊN
KINH TẾ - XÃ HỘI NHẬT BẢN
(TừMINH TRỊ DUY TẦN ĐẾN THỜI K Ỳ SAU
CHIẾN TRANH THÊ GIỚI THỨ HAI)
CHUYẾN NGÀNH: LỊCH s ử CẬN ĐẠI VÀ HIỆN ĐẠI
M ã số: 5.03.04

LU Ậ N Á N T IẾ N S ĩ L ỊC H s ử

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

G S . V Ũ D Ư Ơ N G N IN H

HÀ NỘI - 2003


MỤC LỤC

A- PHÂN MỚ ĐÃU


1. Ý n g h ĩa k ho a h ọc và m ục đích n g h iên cứu của đề tài
2. L ịc h sử n g h iên cứu vấn đề
3. P h ạ m vi và phư ơng p h áp n g h iên cứu
4. K ế t q u ả và đó n g gó p của luận án

5. Nguồn tư liệu
6. Kết cấu của luận án
B- PHẨN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CẢI CÁCH GIÁO DỤC THỜI MINH TRỊ DUY TÂN
1.1. N ư ớ c N h ậ t và n ền giáo dục N h ậ t Bản trước thời M in h Trị
1.2. C ô n g cu ộc D u y tân M in h Trị
1.3. N h ữ n g n g u y ê n tắc tiến h à n h cải cách giáo dục
1.4. C ác giai đ o ạn cải cách chủ yếu

1.4.1. Giai đoạn 1872-1885: Du nhập mơ hình giáo dục mới
1.4.2. G iai đ o ạn 1885-1912: H o àn thiện hệ th ố n g g iá o dục
và luật g iáo dục

1.5. Hình thành hệ thống giáo dục hiện đại
1.5.1. Trường tiểu học
1.5.2. Trường trung học và trường chuyên nghiệp
1.5.3. Giáo dục cao đẳng và đại học
1.5.4. T rư ờng sư p h ạm và vấn đ ề đ ào tạo giáo v iên

1.6. Những tác động chủ yếu đến sự phát triển kinh tế - xã hội
Nhật Bản


CHƯƠNG 2: CẢI CÁCH GIÁO DỤC SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI


107

THỨ HAI

2.1. Tình hình nước Nhật và giáo dục Nhật Bản sau chiến tranh
2.2. Sự chiếm đóng củ a M ỹ và bước khởi đầu của c ô n g cu ộ c cải
c á c h giáo dục

2.3. Cải cách giáo dục lần thứ hai
2.3.1. Luật giáo dục cơ bản

107
113
123
123
129

2.3.2. Áp dụng hệ thống giáo dục mới
2.4. N h ữ n g tác đ ộ n g củ a cải cách giáo dục đối với sự ph át triển

147

k in h tế - x ã hội.

CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VỀ CẢI CÁCH GIÁO DỤC ở NHẬT BẢN VÀ
TÌNH HÌNH GIÁO DỤC NHẬT BẢN HIỆN NAY
3.1.

Nhận xét


về cải cách giáo dục thời M inh Trị và cải cách

sau n ă m 1945.
3.2.

Mấy suy

n g h ĩ về tình hìn h giáo

dục N h ật Bản

h iệ n nay.

156
156
167

c. KẾT LUẬN

183

DANH MỤC C Á C CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CƠNG BÔ

190

TÀI LIỆU THAM KHẢO

191

PHỤ LỤ C


210

m



m


DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
1.1. Số lượng các trường trong thời Tokygavva.
1.2. Số học sinh đến trường trung bình hàng năm.

26

1.3. Tỷ lệ người biết chữ những năm cuối thời kỳ Tokugavva.

27

1.4. Số lượng chuyên gia nước ngoài đến Nhật Bản thời kỳ đầu
Minh Trị.

37

1.5. Tỷ lệ chi phí cho giáo dục của Trung ương và địa phương.

39


1.6. Tỷ lệ ngàn sách dành cho giáo dục của các cấp hành chính.

40

1.7. So sánh chi phí giáo dục và quân sự của một số nước.

50

1.8. Phân bố kinh phí năm 1873 của Bộ Giáo dục.

51

1.9. Số lượng trường học và học sinh trung học.

79

1.10. Tỷ lệ hoàn thành giáo dục nghĩa vụ.

92

1.11. Tỷ lệ đi học xếp theo nhóm xã hội và thời gian đi học năm
1885 ở tỉnh Mie.

93

1.12. Tiền lương khởi điểm của xí nghiệp Mitsubishi.

101


1.13. Lý lịch học của các nhà kinh doanh của 250 công ty lớn nhất

102

1.14. Các ứng viên trúng tuyển chuyển ngạch viên chức cao hơn
theo năm và trường tốt nghiệp.

102

2.1

112

Tinh trạng thể lực của trẻ em Nhật Bản.

26

2.2. Thực trạng lớp học khổng đúng tiêu chuẩn (1949).

135

2.3. Tỷ lệ học sinh theo học trung học bậc cao.

140

2.4. Tổng số sinh viên hệ đại học ngắn hạn.

143

2.5. Số sinh viên và giáo viên trong các trường đại học và đại

học viện.

149

2.6. Trình độ học vấn trong công nhân.

150

2.7. Xu hướng học ỉên trong thanh thiếu niên Nhật Bản.

151

2.8. Những thay đổi trong cơ cấu cư dâ

152

3.1. Giáo dục nghĩa vụ ở một số nước (đến 1958).

161


A- PHẦN Mỏ ĐẨU
1. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN c ứ u CỦA ĐỂ TÀI
1.1.

V ào nửa

sau củ a

th án g 8 n ă m 1945, trong k h u n g cản h h oan g tàn vì


bại trận, ng ay cả người N h ật lạc q u an nhất c ũ n s k h ô n g n g h ĩ rằng họ lại có
được đất nước giàu có n h ư n g ày nay. N h ư n g họ đã n han h c h ó n g thích nghi với
m ột thực t ế k h ô n g thể p hủ nh ận , để rồi 20 n ăm

sau, v à o

n ă m 1968, G N P

củ a

N hật Bản đã vượt Đ ức, vươn lên đ ứ n g h àn g thứ hai th ế giới tư bản, sau Mỹ.
N g hĩa là vừa tròn 100 n ăm , từ m ột quốc gia p h o n s kiến, dựa vào nông nghiệp,
N hật Bản trở th àn h m ộ t cường qu ốc côn g nghiệp. H ọ đã thực h iện được trọn
vẹn k h ẩ u h iệu m à th ế hệ T hiên h o àn g M in h Trị vạch ra có vẻ n h ư duy ý chí
vào thời đ iểm của n ă m 1868 là “h ọ c tập phương Tây, đuổi k ịp phư ơng Tây, đi

vượt phương Tây”.
Sự p h át triển “th ần k ỳ ” của q uố c gia phương Đ ô ng d u v n h ất lúc này đã
k hiến cho người p hư ơ ng T ây ng ạc n h iên và từ đó N hật Bản trở th àn h đối tượng
n g hiên cứu củ a các h ọ c giả, các n h à ch ín h trị, kinh tế... trên to àn t h ế giới.
H ọ đ ã lý giải th àn h cô ng n ày từ nhiều góc độ k h á c n hau . C hẳng hạn,
trong c u ố n Phát triển kinh t ế của nước N hật hiện đại , hai tác giả T ak afusa
N a k a m u ra và B em ard R .G .G ra c e đặt câu hỏi để lý giải “ cái gì đ ã làm cho sự
tăn g trư ở ng k é o dài đó có thể thực h iện được?

M ichio M o ris h im a lấy tiêu đề

cho c u ố n sách củ a m ìn h: Tại sao N hật Bản thành công. Công nghệ phương


Tây và tính cách N hật Bản. Cịn E z o ra F .V ogel kinh n g ạ c vì nhữ ng thành
cô n g c ủ a N h ậ t Bản đã p h ân tích n h ữ n g n g u y ên nhân của h iệ n tư ợng N h ật Bản
tro n g c u ố n sách củ a m ìn h H oa K ỳ học gì ở N hật Bản (N hật B ản là số m ột).
D ù ở g ó c độ n g h iê n cứu nào, ch ín h trị, kinh tế, lịch sử h a y x ã hộ i học

thì giáo dục vẫn được coi là một trong những yếu tố góp phần vào sự thành

1


c ô n g c ủ a nước N hật. C ố T h ủ tướng N h ậ t Bản Y o sh id a S higeru [PL.1.44] cũng
c h o rằng: “ Q u an trọng n hất người N h ật là m ột giố ng có k h ả năng, với tiêu
c h u ẩn g iáo dục cao và h ãn h d iện về truy ền thống củ a m ìn h ” [176, tr.55].
V ì vậy việc n g h iên cứu nh ữ n g th àn h công trong lĩnh vực giáo dục của
N h ậ t Bản sẽ g ó p phần vào việc n h ìn n h ận m ộ t cách trực diện hơn những yếu tố
làm b iến đổi k h ô n g ngừ ng nước N hật, từ vị trí gần như “bị bỏ q u ê n ” trong con
m ắt củ a người phương Tây, trở thành m ộ t đất nước có ả n h hưởng tồn diện
trên quy m ơ toàn th ế giới.
1.2.

L ịc h sử g iá o d ụ c N h ậ t Bản đ ã trải q u a các g ia i đ o ạ n p h á t triển

k h á c n hau .
- T ừ khỏi thuỷ đến th ế kỷ V II được coi là giai đ o ạn p hát triển có tính
chất gia đình, tự phát. N h ờ việc du n hập chữ H án từ T run g H oa, người N hật đã
sáng tạo ra ch ữ viết riêng cho m ình. T u y nhiên, m ộ t nền g iá o dục m an g tính
q uốc gia vẫn chư a được h ìn h thành.
- T ừ th ế kỷ VIII đến năm 1600 là thời kỳ giáo dục có tổ chức. H ọc tập
văn m in h T run g H oa, N h ậ t Bản đã côn g b ố đạo luật về việc tổ chức nền giáo
dục 2 cấp trên q uy m ơ tồn quốc. N h ữ n g trường học đều đ ã được xây dựng ở

trung ương và địa phương.

- T ừ năm 1600 đến ỉ 868, N h ậ t Bản đặt dưới sự ch i phối củ a chính
q u y ền d ò n g họ T ok u g a w a. v ề g iáo dục, các tướng q u â n củ a dò n g họ
T o k u g a w a có cơ ng to lớn tro n g việc k h u y ế c h trương nền g iá o dục N h ật Bản.
N h iều trường học được m ở ra từ th àn h thị tới n ô n g thôn, c h o p h ép m ột tỷ lệ cư

dân đáng kể cắp sách tới trường. Điều đó đã tạo cơ sở thuận lợi cho sự phát
triển n h ả y vọt củ a nền g iáo dục nước n ày ở giai đ oạn sau.
- T ừ 1868 đến 1912 là thời kỳ N h ậ t Bản đặt dưới sự lã n h đ ạo củ a Thiên
H o à n g M in h Trị. C ù n g với n h ữ n g cải c á c h nổi tiếng tro n g thời k ỳ này, nền
g iá o d ụ c h iệ n đại củ a N h ậ t Bản đ ã h ìn h th àn h và được củ n g c ố vữ ng chắc.

2


- T ừ 1912 đến 1945 là thời kỳ m ở rộng hệ thống giáo dục N hật Bản và
thời k ỳ g iá o dục thời chiến. Sự p h á t triển khá n h a n h c ủ a các trường đại học
trong thời gian này p h ản á n h m ộ t n h u cầu m ới của giáo d ụ c N h ậ t Bản.
- T ừ năm 1946 là thời kỳ xây dựng hệ thống giáo dục dân chủ mới.
M ặ c dù sự vận động, p hát triển củ a n ền giáo dục N h ậ t Bản là liên tục.
N hư ng những cải cách dưới thời M inh Trị và những năm đầu sau chiến tranh

th ế giới thứ hai đã tác động mạnh m ễ nhất đến sự phát triển của nền giáo dục
nước này cũng như ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển kinh tế - x ã hội.
N h ờ nhữ ng cải cách triệt để trong thời M in h Trị đ ã đặt cơ sở thực sự
cho việc h ìn h th ành n ền giáo dục hiện đại của N h ật Bản. T oàn bộ hệ thống
giáo dục m ới được x ây dự ng theo m ơ hìn h của phư ơng Tây, từ tổ chức quản lý
đến việc sắp x ếp hệ th ố n g n h à trường và chương trình g iả n g dạy. T hô ng qua
m ộ t số sự kiện, bản lu ận án cho th ấy m ột cách nh ìn m ới về th ế giới của người

N hật. N h ữ n g chính sách do ch ính q u y ền M in h Trị thực thi phản ánh sự đổi
mới tư d u y trong tồn bộ đường lối nói chu ng và giáo d ụ c nói riêng. Từ đó
lịch sử nước n ày ch u y ển sang m ộ t giai đoạn phát triển mới. v ề kinh tế, N hật
Bản n h an h chóng trở th àn h m ộ t nước công ng hiệp cùng với k h ẩu hiệu văn minh

khai hố. v ề

chính trị, N h ật

Bản

khơng những thốt khỏi

âm m ưu thơn tính của

phương T â y m à còn th am gia vào hàng n gũ các nước đ ế q u ố c chủ nghĩa.
Sau chiến tranh th ế giới lần th ứ hai, m ộ t lần nữa ngư ời N h ậ t đổi mới tư
d uy trước th ả m h o ạ c ủ a ch iến tranh. N h ữ n g cải cách triệt đ ể lại được tiến
hành. N ề n g iáo dục N h ậ t Bản, m ặc dù vẫn tiếp tục chịu ả n h h ư ở ng của phương
Tây n h ư n g n ó đ ã thay đổi về chất tro n g bối cảnh q u ố c tế m ới.
Q u a việc trình b à y m ộ t cách h ệ th ố n g hai cu ộ c cải cách , bản luận án
p h â n tích n h ữ n g ảnh h ư ở ng trực tiếp c ủ a nó đối với sự p h á t triển kinh tế của
n ư ớc N h ậ t. Đ â y là n h ữ n g vấn đề k h ô n g ph ải chỉ riê n g củ a N h ậ t Bản m à còn là
bài h ọ c ch o các nước ở m ỗ i giai đ oạn p h át triển, tron g đ ó có V iệt N am đang

3


tron g q u á trìn h cơ ng n gh iệp h o á và h iện đại hoá. H ơn nữa, n ề n g iáo dục Việ
N a m c ũ n g đ an g trong thời kỳ đ iều ch ỉnh cải cách lần th ứ 3 n h ằ m đ áp ứn<

nh ữ n g y ê u cầu to lớn củ a công cu ộc p h át triển đất nước. V ì vậy những kirứ
n g h iệ m c ủ a N h ậ t Bản là bài học th am k h ả o có ý nghĩa cho cơ n g cu ộc đổi m ớ
giáo d ụ c c ủ a V iệt N am .

2. LỊCH SỬNGHIÊN cứu VẤN ĐỂ
2.1 V iệc n g hiên cứu N hật Bản k h ô n g phải chỉ phát triển m ấy chục nărr
trở lại đây, m à trên thực tế ngay từ trước đó rất lâu, nhiều h ọ c giả phương Tâ)
đã q u a n tâ m đến q uần đảo này n h ằ m phục vụ cho cơng việc tru yền giáo V

ch ính sách thực d ân h o á của họ. N h iều cơ ng trình nghiên cứu từ th ế kỷ XVIx v n vẫn c ò n được lưu trữ ở Tây Ban N ha, Bồ Đ ào Nha, H à Lan...
T uy nhiên, nhiều học giả cho rằng Siebod Philip F ran z V o n (1796-1866;
[PL.1.35] ch ín h là n h à n gh iên cứu N h ậ t Bản đầu tiên. Ô n g đ ế n N h ậ t năm 1823
và là m việc trong m ộ t thương quán H à Lan. Sau khi trở về nước n ă m 1828 ôns
đã c ô n g b ố n h iều sách viết về N h ật Bản, Trong đó có n hữ ng cu ố n được đánh
giá rất cao, làm c ẩ m n an g cho nhữ ng người ng hiên cứu về N h ật Bản sau này

như cuốn N ippon,

N hật Bản thực vật chí, N hật Bản động vật chí...

T ro n g số các n h à n ghiên cứu về N h ậ t Bản ở nước n gồi thì các học giả
M ỹ th à n h cô n g n h ất trong lĩnh vực này. Có hai th ế hệ được coi là đặt nền
m ó n g ch o N hật Bản học ở M ỹ. T h ế hệ đầu tiên là con cái c ủ a các nhà truyền
giáo. H ọ sin h ra ở N hật, sống và h ọ c trong các trường học N h ậ t Bản. VI vậy
họ a m tư ờ n g về n g ô n n g ữ và m ọi m ặt củ a đời sống xã hộ i N h ậ t Bản. T h ế hệ
thứ h ai từ n g số ng tron g cơ q u an ng oại giao N h ật Bản ở T o k y o h o ặ c học tiếng
N h ậ t rất g iỏ i trong các trường của hải lục q u ân M ỹ thời kỳ ch iến tranh th ế giới
thứ hai. N h iề u người th u ộ c th ế hệ n ày q u a n tâm n ghiên cứu vấn đề g iáo dục c
N h ậ t Bản. C h ẳ n g hạn, n ă m 1965 H e b e rt Passin, G iáo sư Đ ạ i h ọ c Colum bis
ch o x u ấ t b ả n m ộ t cu ố n sách nổi tiếng Society and Education in Japan được


4
V


dịch s a n g tiến g N h ật là Giáo dục và hiện đại hoá Nhật Bản [213]. M ặc dù
cu ố n sách k h ô n g thật đồ sộ, như ng với 7 chương, tác giả đ ã trìn h bày m ột cách
hệ th ố n g về q u á trình hiện đại h o á n ền giáo dục N h ật Bản từ thời M in h Trị
D u y tân. T ác giả cho rằng sự k h ác n h au của giáo dục N h ậ t B ản trước và sau
n ăm 1945 là ở phương thức đào tạo tinh h o a trước năm 1945 và việc đại chúng
hoá g iáo d ục bậc cao sau n ăm 1945. P assin cũng cho rằ n g trình độ học vấn
ch ính là tờ g iấy thơng h àn h để bước vào giới lãnh đạo các cấp. M ộ t tác giả
khác, R ic h a rd R ubinger, là n h à giáo d ụ c học so sánh đã n h ậ n h ọ c vị Tiến sĩ
của V iện n g h iê n cứu Tokugavva q ua cu ốn sách Shiịuku (Tư th ụ c ) do ô n s côna
b ố ở Đ ại h ọ c C olu m bia n ăm 1979. C uốn sách đề cập m ộ t c á c h sâu sắc về hệ
thống trư ờng tư thuộc các trường phái k h ác nhau ở N h ật Bản trong thời kv
T o k u g a w a và cho rằn g Trường tư đ ã m ở cửa nước Nhật. Sau khi p hân tích về
hai p hái H á n h ọ c và L a n học trong các trường này, R ich ard R. đ ã chia thành 3
loại trường. T ư thục Q u ố c học là nơi đề cao chủ nghĩa dân tộc. C ác tư thục kv
n gh ệ ch u n g , là nhữ ng trường giảng dạy m an g tính thực tế. L o ạ i tư thục thứ 3
là n h ữ n g trường có m ụ c tiêu trực tiếp h àn h động. Đ ó là cá c tru n g tâ m truyền
bá tư tư ởng cải cách, g ó p phần tích cực cho công cuộc M in h Trị D u y tân.
C ũng viết về giáo d ụ c thời kỳ này cị n có cuốn Giáo dục thời kỳ Edo của
R o n a ld D o re (Đ ại h ọ c M ich igan , 1984). H oặc các cuốn sách viết về giáo dục
giai đ o ạ n sau này n h ư Nhà trường N hật Bản - Những bài học cho nước M ỹ

công

nhp
giệ


(The Jap an ese Schools - L esso ns for Ind ustrial A m erica) của

B en jam in D u k e, cuố n Trường Trung học N hật Bản (The J a p a n e se Secondary
Schools) c u ả T h o m as P .R ohlen. N h ìn ch u n g các tác giả đ ề u đ á n h giá rất cao
hệ th ố n g g iá o dục c ủ a nước N hật. T h ậ m ch í T h o m as R o h len c ò n cho rằng chất
lượng g iá o d ụ c củ a N h ậ t Bản th uộc loại h à n g đầu th ế giới. T u y n h iên R ohlen
c ũ n g đ ư a ra n h ữ n g m ặt trái của giáo d ục nước này n h ư vấn đ ề ch ạ y đ u a trong
thi c ử v à tệ

nạn h ọ c đường. T ho m as

R o h le n được coi là n g ư ò i n g h iê n cứu tỉ mỉ

th ự c tiễn g iá o d ụ c tru n g học của N h ậ t Bản h ơ n bất kỳ người M ỹ n à o khác.

5


N g o ài ra, rất n h iều tác p h ẩm củ a các học giả M ỹ viết về N h ật Bản,
trong đó đề cập tới g iáo dục n h ư là m ột trong những y ếu tố q u y ết định tới
th àn h cô n g củ a nước này. C h ẳn g hạn, Phong cách người N hật trong kinh

doanh (The Jap anese m in d - The goliath E xplained) của R o b e rt C.Christopher.
đ ã được N h à xu ất b ản T h ố n g kê dịch sang tiếng V iệt n ă m 1995, tác giả cho
rằng: H ệ thống giáo dục của N hật Bản có th ể là hĩãi hiệu nhất trên th ế giới
[21, tr.109]. E zra F. V o g e l đã đưa ra nh iều m ặt ưu điểm củ a g iáo dục N hật
Bản trong cơng trình n gh iên cứu của m ình: Nhật Bản là s ố một. Những bài

học cho Hoa Kỳ (Japan as n u m b e r one. L essons for A m erica).

Đ ố i với các h ọ c giả N h ật Bản, Bộ G iáo dục cũng n h ư H ội đ ồng Giáo
dục T ru n g ương đ ã có n h iều bản tổng kết, n h iều cuốn sách viết về quá trình
p hát triển của giáo dục N h ật Bản. Đ ặc biệt, nhân dịp kỷ n iệm 100 năm M inh
Trị D u y tân (1 8 6 8 -1 9 6 8 ) n h iều chuyên k hảo đã được cô n g bố. Bộ Giáo dục
N h ật Bản cho lưu h à n h cuố n sách Giáo dục và vấn đề canh tân hoá tại Nhật

Bản củ a hai tác giả M a k o to A so (Đại học Sư ph ạm T okyo) và Ik u n o A m ano
(Đ ại học

Nagoya).

C u ốn sách đã trình bày quá trình ph át triển củ a giáo dục

N h ật Bản từ thời M in h Trị và vai trị của nó trong q trình cơ n g n ghiệp hoá
đ ất nước. Đ ây cũ n g là dịp nước N h ật nhìn lại thành q u ả c ủ a 100 n ăm phát
triển nói ch un g và tro ng lĩn h vực giáo dục nói riêng. Đ ồ n g thời, cũ n g từ lúc
này, H ộ i đồ n g G iáo dục T ru ng ương có nhiều ng hiên cứu x â y dự ng m ố hình
g iáo dục N h ậ t Bản ch o t h ế kỷ XXI.
Các

nhà nghiên

cứu giáo dục cũng đặc biệt quan tâ m tới vấn đề này.

M ộ t trong nhữ ng n h à n g h iê n cứu giáo dục nổi tiếng nh ất N h ậ t Bản là G iáo sư
K aig o T o k io m i (Đ ại h ọ c T ổ n g hợp Tokyo). ô n g đã viết n h iề u sách về lịch sử
p h á t triển củ a n ền giáo dục N hật Bản, trong đó có cuốn: N ền giáo dục Nhật

Bản (1868-1968). M ộ t G iáo sư kh ác cũng của Đ ại h ọ c T o k y o là Ik u n o A m ano
đ ã cô n g b ố h àn g ch ục tác p h ẩ m đề cập các vấn đề k h ác n h a u c ủ a g iáo dục. Có


6


th ể k ể ra m ộ t số tác

phẩm như : Giáo

dục và thi tuyển

(1982), Suy

nghĩ vê' cải

cách giáo dục (1985), N guy cơ giáo dục (1987), Nghiên cứu giáo dục cao
đẳng N hật Bản hiện đại (1989), Bàn về trường chuyên nghiệp c h ế độ cũ
(1993), Q u a n sát về giáo dục hiện nay (1993)...
Ở V iệt N am , vào n hữ ng năm gần đây các học giả q u an tâm nhiều hơn
tới g iáo dục của N h ật Bản trước n hu cầu ngày càng cao trong việc đào tạo
n g u ồ n n h â n lực phục vụ sự n gh iệp cơng n ghiệp hố, h iện đại hố đất nước.
T uy n hiên, chỉ có m ộ t cu ố n sách viết về giáo dục N h ật Bản tương đối hoàn
chỉnh được x u ất b ản cách đây khá lâu vào năm 1965 ở Sài G òn là cuốn Giáo

dục N hật Bản hiện đại củ a Đ o àn V ăn An. Cuốn sách giới th iệu m ột cách khái
qu át n h ữ n g bước p h át triển củ a giáo dục N hật Bản và cơ cấu của nền giáo dục
N h ật Bản h iện đại. Các tác p h ẩ m gần đây hoặc trình bày m ộ t cách khái quát
n h ư c u ố n Lịch sử giáo dục thời Minh Trị Duy tân củ a PGS. N g u y ễn V ăn
H ồng, h o ặc đề cập trong c ả i cách ở N hật Bản trong những năm 1945-1951
của TS. H o à n g M in h H oa, ho ặc trình bày ở m ột góc độ k h ác như Chiến lược


con người trong phát triển kinh tế N hật Bản ở giai đoạn thần kỳ 1951-1973
củ a TS. L ư u N g ọ c T rịnh, h o ặc các bài ng hiên cứu của TS. N g u y ễ n V ăn Kim ,
Đ ặ n g X u â n K háng...
3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
V à o thời đ iểm triển k h ai đề tài luận án, cuộc cải cách g iáo dục lần thứ 3
ở N h ậ t B ản chư a thực sự k h ở i động. V ì vậy, luận án được giới hạn ở cuộc cải
cách lần th ứ n h ất (thời k ỳ M in h Trị D uy tân) và cải cách lần thứ hai (sau n ăm
1945). C u ộ c cải cách lần th ứ n h ất d iễn ra trong suốt thời kỳ M in h Trị (1868 1912). T rên thực tế, vào lúc này, n ền giáo dục N h ậ t Bản phải xây dựng lại từ
đ ầu , vừ a h ọ c tập vừa cải cách. V ì vậy, nhữ ng sự k iện đề c ậ p tro n g luận án diễn
ra tro n g m ộ t thời g ia n dài và được phân tích m ộ t cách to àn diện.

7


C uộ c cải cách lần th ứ hai d iễn ra trong m ột thời g ian n g ắ n hơn, chủ yếu
trong thời gian ch iếm đ ó n g củ a q uân Đ ồn g m inh (1945 - 1952). H ơn nữa, nền
giáo d ụ c h iện đại của N h ậ t Bản đ ã hình thành. V ấn đề q u a n trọ n g nhất của cải
cách là d â n ch ủ hoá nộ i d u n g và cơ cấu hệ th ố ng giáo dục.
C uộc cải cách lần th ứ b a n ằ m ng oài giới hạn của lu ận án nên chỉ được
đề cập đ ến ở chương 3 kh i nói về thực trạng của n ền g iáo dục N h ật Bản hiện
nay. H ơ n nữ a luận án chỉ n g hiên cứu hai cuộc cải cách m à k h ô n g giải quyết
những vấn đề của giáo dục N h ậ t Bản nói chung.
M ỗ i cuộ c cải cách d iễn ra trong bối cảnh quốc tế và trong nước khác
nhau. Y ế u tố thời đại lu ô n g iữ m ộ t vai trò hết sức quan trọng. V ì vậy, phương

pháp lịch sử đ ã được sử d ụ n g xu y ên suốt trong luận án, là cơ sở để đánh giá
phân tích các sự kiện m ộ t cách k h ách quan.
Bản lu ận án trình bày về hai cuộc cải cách. D o đó phương pháp so sánh
giúp lu ận án th ể hiện m ộ t cách rõ ràng hơn khi trình bày v ấn đề. N gồi ra, các


phương pháp thống kê, phương pháp cấu trúc, tổng hợp... cũ n g được sử dụng
để thể hiện chủ đề n g h iê n cứu. Đ ồ n g thời các vấn đề được đ á n h giá trình bày
đều dự a vào việc vận d ụ n g nh ữ n g tư tưởng, quan niệm c ủ a chủ n ghĩa M ácLênin.
4. KẾT QUẢ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
4.1. T ậ p hợp và hệ th ố n g hoá các n g uồ n tư liệu, các c ơ n g trình viết về
giáo d ụ c N h ật Bản nói c h u n g và cải cách giáo dục nói riê n g cùn g nhữ ng số
liệu, n h ữ n g sự k iện cơ b ản về giáo dục thời M in h Trị.
4.2. T rên cơ sở n g u ồ n tư liệu và các cơng trình n g h iê n cứu, lu ận án tiến
h à n h p h â n tích bối cản h, m ụ c tiêu và nội d u ng c ủ a cải c á c h giáo dục thời
M in h Trị và cải cách sau n ă m 1945.
4.3. T ừ

những cu ộ c

cải cách g iáo dục ở N h ậ t Bản lu ậ n án rút ra những

bài h ọ c k in h n g h iệ m có thể th am k h ảo phục vụ ch o cô n g cu ộ c đổi m ới giáo
d ụ c ở n ư ớ c ta h iện nay.

8


5. NGUỚN T ư LIỆU
L u ậ n án được sử d ụ n g chủ y ếu từ hai nguồn tư liệu: tiến g N h ật và tiếng
Việt. N g o à i ra, luận án cũ n g th am k h ảo m ột số sách tiếng N g a và tiếng Anh.
T rong đó, n g u ồ n tiếng V iệt b ao g ồ m

sách và

m ột số bài đ ă n g trên


các tạp chí

trong nước...
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
N g o à i p hần m ở đầu, k ế t luận, b ả n luận án kết cấu g ồ m 3 chương.

C hương 1: Cải

cách giáo d ục thời M in h

Trị D uy tân.

C hương 2: Cải cách g iáo dục sau chiến tranh th ế giới thứ hai.
C hương 3: N h ậ n xét về cải cách giáo dục ở N hật Bản và tình hình giáo
d ục N h ật Bản hiện nay.
P hần phụ lục c ủ a lu ận án g ồ m các sự kiện giáo d ụ c chính, các biểu,
bảng th ố n g kê, sơ đồ, bản đồ, tranh ảnh, các thuật ngữ tiến g N h ật được sử
dụng trong lu ận án.
D o n ăn g lực cá n h ân và đề tài n g h iên cứu lại rộng, ch ắc ch ắn nội dung
bản luận án k h ô n g tránh k h ỏ i nh ữ n g thiếu sót. Với tư c á c h là tác g iả luận án,
tôi rất m o n g n h ận được sự chỉ bảo c ủ a các giáo sư và các n h à n g h iên cứu để
h ồn thiện cơn g trình n g h iê n cứu củ a m ình.

9


B. PHẨN NỘI DUNG



CHƯƠNG 1

CẢI CÁCH GIÁO DỤC
THỜI KỲ MINH TRỊ DUY TÂN


1.1. NƯ NHẬT V NỂNGIÁO DỤC NHẬT BẢ TRƯỚC THỜI M TRỊ
ỚC
À
N
INH
N h ậ t Bản là m ộ t quần đảo h ìn h cánh cung có tổng diện tích 377.815
k m 2. D ân s ố n ă m 2 0 0 0 là 126 triệu người, đứng hàng thứ 7 trên th ế giới, trong
đó k h o ản g m ộ t nửa sống tập trung ở 3 thành p h ố Tokyo, O sak a, N ag o y a và
các thành p h ố lớn lân cận. N gười ta d ự đ o án dân số N hật B ản sẽ tăng đến mức
tối đa là 129,5 triệu người vào n ăm 2 0 1 0 và sau đó giảm dần.
M ặc dù m ật độ d ân s ố bình q u ân 333 n g ư ờ i/lk m 2 n h ư n g diện tích đất
trồng trọt được rất ít (khoảng 15%). H ơ n 7 0% diện tích đất đai ở N h ật Bản là
đổi núi.
K h o á n g sản h ầ u n h ư k h ơ n g có g ì ng o ài m ột ít th a n đá ch ất lượng
k h ô n g tốt.
T h u ậ n lợi đ án g k ể n h ất đối với N h ậ t Bản là k h í h ậ u cận nh iệt đới và
nhiều mưa. N h ư n g đ iều k iện đ ịa lý lại rất bất lợi. N h ật Bản c á c h x a đất liền, có
hai d ị n g h ải lưu chảy m ạ n h dọc theo m iề n biển phía Tây, k h iế n ch o việc giao
lưu với lục địa

trong

q uá k h ứ càn g trở n ên k h ó khăn. H ơ n nữa, đ ộn g đất


thường x u y ê n xảy ra ở k h ắp m ọ i m iề n c ủ a đất nước cùng với bão, lụt, giá lạnh.
N h ữ n g k h ó k h ă n ấy c ủ a q uần đ ảo đ ã lu ôn được ngư ờ i N h ậ t cường điệu
lên, đ ể rồi trải từ đời n ày sang đời k h ác, họ nối tiếp n h au vượt qua. Vì vậy,
nh iều n g ư ờ i ch o rằng: n g u ồ n tài n g u y ê n du y nhất ở N h ậ t Bản, đó là con

người. N h à n g h iê n cứu về N h ật Bản n ổ i tiến g người M ỹ E d w in O .R e is c h a u e r
đ ã viết về đ iều n ày trong nh ữ n g d ò n g đ ầu tiên của tác p h ẩ m "Japan. The

10


strong o f a N ation" n h ư sau: "Từ xưa N h ật Bản đã là m ộ t

trong những

quốc

gia có n ền văn hố đặc sắc n hất và đến nay đang là m ộ t cường quốc kinh tẽ
lớn th ứ b a trên th ế giới, tiến sát tới nhữ ng tiến bộ to lớn n h ất trong nền văn
m inh n h â n loại. T h à n h tích này cị n đ án g nể hơn nữa n ế u ta để ý hình ảnh
nước N h ậ t trên bản đồ t h ế giới và biết rằng N hật Bản h ầ u n h ư k hô n g có tài
ng uy ên thiên nhiên, c ả địa lý lẫn tài ng u y ên đều ch ẳng đ ó n g góp gì vào sự vĩ
đại c ủ a q u ố c gia này m à chính là n h àn dân kiệt xuất và q u á trình lịch sử đặc
biệt" [127, t r . l l ] .
N h ư vậy, nguồn tài nguyên con người hay nhân dân kiệt xuất chính là
thành quả k h ô n g thể p h ủ n h ận của quá trình giáo dục.
V ào kho ảng 3 - 4 0 0 .0 0 0 n ăm trước, lớp cư dân đầu tiên đã có m ặt trên
quần đảo N h ật Bản, trong đó ch ủ yếu là nh óm cư d ân thuộc chủng tộc
M ongoloid.
D o vị trí của N h ậ t Bản tương đối tách biệt nên đã ản h h ư ở n s m ột cách

sâu đ ậ m đ ến bản sắc văn h o á củ a cộng đồng cư dân trên q u ần đảo này. N ền
văn h o á đ ầu tiên được x ác định hìn h th ành ở N hật Bản tro n g kh oảng 10.000300 n ă m trước C ông n g u y ên là n ề n văn hố Jomon (T h ằng Văn). Tiếp đó là
nền văn h o á Yayoi (Di Sinh, 300 n ă m T C N - 300 năm sau CN). Người Jo m o n
và người Y ayoi m ặc dù vẫn còn trong trạng thái của xã hộ i công xã nguyên
thuỷ - sống dựa vào tự nh iên dưới thời Jo m o n và bắt đ ầu biết trồng lúa trong
thời Y ay o i - nhưng đã bộc lộ sự k h ác biệt về hướng đi so với các quốc gia láng
giềng. J o m o n và Y ay oi là nhữ ng giai đo ạn lịch sử đặc biệt quan trọng của
N h ật Bản, đặt nền m ó n g cho x ã hộ i N h ậ t Bản sau này.
V ề m ặt giáo dục, tuy nước N h ậ t chư a có được c h ữ viết riêng làm công
cụ ch o g iáo dục, n hư ng n h iều yếu tố văn h o á xuất hiện lúc n ày đã chi phối nền
g iáo d ụ c N h ậ t Bản đến tận b ây giờ. C ù ng với nhữ ng b iến đổi củ a lịch sử, nền
g iáo đ ụ c N h ậ t Bản lu ô n luô n c h u y ể n đ ộ n g cho phù h ợ p thời đại mới. Đ ặc biệt,
k h i g iá o d ụ c N h ật Bản ở thời k ỳ ch ư a được tổ chức thì điều n à y chủ yếu vẫn là

11


việc riêng của mỗi gia đình, lấy lời lẽ truyền dạy, khuyên răn nhau về đạo xử

thế lập thân theo quan niệm của Thần đạo.
Tuy nhiên, sau việc tiếp xúc với Trung Hoa, tư tưởng giáo dục vốn bị

chi phối bởi Thần đạo lại tiếp tục chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho siáo và
Phật giáo.
Việc truyền bá văn minh Trung Hoa sang Nhật Bản đã ảnh hưởng rất
lớn đến xã hội nước này, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục. Nhưng khác với con
đường tiếp nhận văn hoá Trung Hoa của các nước láng giềng Triều Tiên và
Việt Nam, việc tiếp nhận văn minh Trung Hoa của Nhật Bản mans tính tự
nguyện, khơng có sự cưỡng ch ế văn hố. V ì vậy q trình này diễn ra có chọn
lọc, trên cơ sở vừa tiếp thu cái mới vừa bảo tồn, gìn giữ nền văn hố bản địa.

Theo sử sách Trung Quốc, người Nhật biết đến Trung Hoa ngay từ thế
kỷ m (TCN ). Sau đó, họ đã cử nhiều phái đoàn sang các nước chư hầu của
Trung Hoa thuộc bán đảo Triều Tiên ngày nay để tiếp xúc với giới cầm quyền
Trung Quốc. Theo Tống Thư, từ năm 413 đến 502, đã có 13 đồn như vậy

[251, tr.38].
Đây cũng là thời kỳ mở đầu cho làn sóng tiếp thu văn minh Trung Hoa
của người Nhật Bản. Hết đợt này đến đợt khác, Nhật Bản mời rất nhiều người
Trung Hoa và Triều Tiên có khả năng về văn tự và kỹ thuật sang Nhật để
giảng dạy cho họ. Những người này được gọi là K ik a jin (Quy hoá nhân),
nghĩa là “những người mang văn hoá đến”. Các Quy hoá nhân người Trung
H oa san g n h iều hơn cả vào thời T h iên hoàng

Ojin

(ứ n g T hần)[P L ,1.45],

khoảng thế kỷ thứ IV . Họ hướng dẫn người Nhật cách nuôi tằm, dệt vải, viết

thảo cơng văn giấy tờ ở triều đình.
Trong các thế kỷ V I -V I I , Quy hóa nhân chủ yếu là các nhà kỹ

thuật, nhà văn hoá hoặc vương tộc của thị tộc Hàn (Triều Tiên).

12


V iệ c mang đến những yếu tố văn minh tiêu biểu của đại lục đã góp
phần to lớn cho sự phát triển của Nhật Bản. Đặc biệt, việc truyền bá chữ Hán


có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Theo những ghi chép trong hai bộ sách cổ của
Nhật Bản là Koịiki (Cổ sự ký, 712) và Nikon Shoki (Nhật Bản Thư kỷ, 720),
người đầu tiên truyền chữ Hán đến Nhật Bản là Wani (Vương nhân). Wani từ

Bách Tế đến Nhật vào năm 285 theo yêu cầu của Thiên hoàng Ojin. ồng
mang theo bộ sách Luận ngữ gồm 10 quyển và một quyển Thiên tự văn. Mặc
dù chưa thể khẳng định độ chính xác của sự kiện này nhưng qua đó cũng cho

thấy Nho giáo đã được truyền sang Nhật Bản khá sớm cùng với chữ Hán. Chữ
Hán trở thành phương tiện chuyển tải tri thức của Trung Hoa sang Nhật Bản.

Bên cạnh việc truyền bá chữ Hán, Nho giáo và Phật giáo cũng lần lượt
được du n h ậ p vào N h ật Bản. So với P hật giáo thì N ho g iáo tru y ền bá vào Nhật

Bản sớm hơn nhưng lại phổ cập chậm hơn vì mấy thế kỷ đầu Nho giáo chỉ hạn
chế trong giới thượng lưu. Một mặt do tiếng Hán đơn âm nhưng tiếng Nhật lại
đa âm nên người Nhật rất khó tiếp thu. Hơn nữa, chỉ những gia đình có thế
lực, giàu có mới đón được thầy về dạy cho con cháu mình. Mặt khác, số học

giả uyên bác kinh sử từ lục địa sang chỉ đủ cho nhu cầu của triều đình. Cịn
thầy đồ, thầy cúng chủ yếu làm việc trong các sia đình quan lại, chùa chiền
nên dân nghèo khơng có điều kiện học hành, tiếp thu Nho học.
Trong khi đó Phật giáo truyền bá sang Nhật từ năm 538 lại nhanh
chóng được phổ biến trong nhân dân. V iệc du nhập Phật giáo đã tạo ra môi
trường thuận lợi cho Nhật Bản tiếp thu văn minh Trung Hoa. Thái tử nhiếp
chính Shotoku (Thánh Đức, 574-622) là người nhận thấy điều này hon ai hết.
Hơn nữa, ông cho rằng việc học tập văn minh Trung Hoa không chỉ trông chờ
vào các Q uy hoá nhân, mà Nhật Bản phải đưa người sang trực tiếp học tập,

mắt thấy tai nghe. Vì vậy, từ thời đại của Thái tử Shotoku, Nhật Bản đã bắt

đầu chương trình gửi học sinh đi du học một cách có tổ chức. Đã có ba đồn
được cử đi dưới thời ơng nhiếp chính. Chuyến đi đầu tiên khởi hành vào năm

13


607 do học giả Onono Imoko (Tiểu Dã Chu tử) đứng đầu, gồm nhiểu lưu học

sinh và hoà thượng Phật giáo. Trong số đó có 3 người lưu lại Trung Hoa hơn
30 năm sau mới về nước. Đó là lưu học sinh Takamuko N ogenri, hai hoà
thượng M inabuchino Shiyoan và

Min.

Sau khi về nước, M in và T akam uko

được triều đình phong kuninohakase (quốc bác sĩ) - một chức cố vấn chính trị
trong triều - để giúp triều đình tiến hành cải cách [PL,1.31]. Còn Minabuchi
đảm nhận việc dạy những kiến thức về Chu H y cho hoàng tử Nakano Ooe
(Trung Đ ại Huynh) và Nakatomi Kam atari (Trung Thần Liêm Túc). Nhưng

Thái tử Shotoku chưa đi hết được con đường cải cách khi ông mất vào tuổi 49.
Vị Thiên hồng mới Kotoku lên ngơi năm 645 đã tiếp tục sự nghiệp mà Thái
tử Shotoku còn đang dang dở.
Sau khi lên ngơi, Kotoku đặt niên hiệu cho mình là Taika (Đại Hố).

Đây là lần đầu tiên Thiên hồng Nhật Bản bắt chước Trung Quốc đặt niên
hiệu. Ông tiếp tục tiến hành những cải cách mới mà sau này người ta gọi là
“C ả i cách T a ỉ k a Đ ây chính là cao trào học tập văn minh Trung Hoa mà kết


quả đã đưa nước Nhật đến một giai đoạn phát triển mới.
Trong giai đoạn này Nhật Bản liên tục gửi phái đồn chính thức sang
Trung Hoa học tập. Thành phần những người sang du học cũng rất phong phú.

Ngồi chánh phó sứ cịn có phán quan, thư ký, giáo viên, học sinh, nghệ sĩ,
thợ thủ công và tăng ni Phật giáo. Tính từ năm 630 đến 894 đã có 15 đồn tới
Trung Quốc. Mỗi đồn khoảng 100-250 người. Trong điều kiện lúc bấy giờ,

đó là những con số đáng khâm phục.
Mặc dù việc học tập Trung Hoa chưa phải đã hồn tồn mãn nguyện,
nhưng thành cơng lớn nhất là việc thúc đẩy nền giáo dục của Nhật Bản phát
triển. Trên đà của công cuộc cải cách lần đầu tiên, Thiên hồng T en ji

(Thiên Trí, 625-671) đặt ra chức Quan học đảm nhận việc đôn đốc giáo dục
trong cả nước.

14


Nhưng kể từ khi Thiên hoàng Monmu (Văn V ũ , 683-707) ban hành

(Đại Bảo luật lệnh) [PL,1.6] vào năm 701 mới đánh dấu hệ
thống giáo dục Nhật Bản bước sang giai đoạn có tổ chức. Gakurei (Học lệnh )

Taihoritsuryo

nằm trong hệ thống Đ ạ i Bảo Luật Lệnh bao gồm 22 chương. Mặc dù chịu ảnh
hưởng nhiều của chế độ giáo dục Trung Quốc lũc bấy giờ, nhưng nó vẫn là cơ

sở để xây dựng nền giáo dục có tổ chức của Nhật Bản. Kể từ lúc này việc học

tập được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Những người làm nghề dạy học (mochi
noshi) xếp vào 1 trong 8 giới thượng lưu được ưu đãi theo Yakusa no sho (Bát

sắc chi tính) ban hành năm 684. Theo đó, thầy đồ được dùng từ Đạo
Họ cho mình, và được miễn tồn bộ tơ, điều, dung, dịch.

sư để làm

H ọ c lệnh đặt ra chế độ Daigaku - Kokugaku (Đại học - Quốc học). Hệ
thống giáo dục được chia thành 2 cấp giống như giáo dục của Trung Quốc thời

cổ đại là tiểu học và đại học. Theo đó, 1 trường đại học đã được thành lập ở
kinh đơ có nhiệm vụ chủ yếu là giảng dạy và nghiên cứu Tứ thư, Ngũ kinh.
Đến thời kỳ H eian (đầu thế kỷ IX ) trường có tất cả 4 khoa: M inh kinh (Triết
học Trung Quốc), K ỷ truyền (Lịch sử), M inh pháp (Pháp luật) và Toán. Học

sinh tất cả đều là con trai tuổi 13 đến 16, xuất thân từ các gia đình hồng thân
quốc thích, giới q tộc và một số thuộc gia đình học giả có nhiều cống hiến
cho đất nước. Ngồi 4 khoa đại học cịn có 2 khoa tiểu học là khoa Toán và
Tập viết dành cho những học sinh nhỏ hon.
Quốc học là trường công ở các tỉnh. Trong thời Nara cứ 3-4 tỉnh đặt 1
trường. Nhưng từ cuối thời Nara đến thời Heian, mỗi tỉnh lập 1 trường quốc
học. Vào lúc này Nhật Bản chia thành nhiều Đ ạo . M ỗi Đ ạ o gồm nhiều
Quốc (tương đương đơn v ị tỉnh của V iệ t Nam) nên trường cấp tỉnh được sọi
là Quốc học. Những học sinh quốc học sau khi trải qua một kỳ thi có thể đỗ
vào đ ạ i h ọ c

ở k in h

đơ.


Có thể nói rằng, nếu thế kỷ VIII là thế kỷ mở ra bước ngoặt cho lịch sử
giáo dục Nhật Bản thì thế kỷ IX như một sự bùng nổ của giáo dục.
15


Trong thế kỷ IX , lần đầu tiên, Khổng siáo chính thức được ghi vào

chương trình

học. Đồng thời một số môn của Phật giáo cũng được đưa vào

giảng dạy. Sau khi triều đình chuyển về Heian (794), một trường đại học mới
đứợc xây dựng tại kinh đô. Giới quý tộc cũng đua nhau mở trường riêng cho
dịng họ mình, để con cháu có điều kiện học nhiều hơn. Tất nhiên các trường

này cũng phải là những cơ sở giáo dục đạt tới trình độ kiến thức của Đại học,
Kinh, Thư, sử, Truyện và từ, phú, thơ, ca theo âm luật của Hán văn.
Bước sang thế kỷ X-XII, Nhật Bản vẫn coi trọng việc học và những
người có học vấn cao bất kể thuộc tầng lớp nào. Thái độ này được Thái thượng
hoàng S h ữ ak aw a (1 158 - 1192) thể hiện rõ ràng. Ô ng k h ô n g đưa lên chức vụ

cao những người ít học. Nhà nghiên cứu Nhật Bản nổi tiếng người M ỹ George

Sansom cho rằng tình hình này khác với Châu Âu. Vào lũc đó, ở Châu Âu việc
học chỉ dành cho giới tăng lữ. Một thường dân nào có học vấn un bác thì đó
là chuyện lạ và coi như ngoại lệ [137, tr.294]. Cùng trong thời gian này, xã hội
Nhật Bản có nhiều biến đổi. Do việc tư nhân hoá ruộng đất từ cuối thời cải
cách Taika đã dẫn tới việc hình thành cắc Shoen (trang viên). Trang viên được
tổ chức như một đơn vị kinh tế xã hội khép kín và dần dần trở thành đơn vị

hành chính mà chính quyền trung ương khơng kiểm sốt nổi. Mặt khác, giữa
họ lại ln tìm cách thơn tính lẫn nhau. V ì vậy các chủ đất phải tự lập ra nhóm

vũ trang để bảo vệ đất đai và tính mạng cho gia đình. Trên cơ sở đó các nhóm
võ sĩ chuyên nghiệp xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ X . Lực lượng bảo vệ tại thủ
đô được gọi là Sam urai (thị), nghĩa là những người tôi tớ sang trọng. Sau này,
Samurai được phổ thơng hố, đồng nghĩa với từ võ sĩ.
Năm 118 5 phía dịng họ Minamoto (Ngun thị) giành thắng lợi sau
một thời gian chiến tranh kéo dài, mở ra một giai đoạn mới cho lịch sử Nhật
Bản: võ sĩ trở thành lực lượng lãnh đạo đất nước trong gần 7 thế kỷ liên tục, để
lại những dấu ấn vô cùng đậm nét trên tất cả các lĩnh vực. Đ ây cũng là thời kỳ
Nhật Bản có hai chính quyền song song tồn tại: chính quyền của giai cấp võ sĩ

16


Năm 1600, Ieyasu đánh tan liên minh đối lập của các thủ lĩnh Đ ại danh
miền Tày và được Thiên hoàng ban chức Tướns quàn vào năm 1603. Ievasu
thiết lập Mạc Phủ ở Edo, mở ra một giai đoạn lịch sử mới của nước Nhật. Rút
kinh nghiệm thành bại của những người đi trước, Ievasu chủ trươns xây dựns
một thể chế bền vững và hồ bình làu dài. V ì vậy, ơng đã khời lập những

chính sách phù hợp với từng lớp người trons xã hội. Với võ sĩ ôns thực thi
chính sách Sankinkotai (Tham cần giao đại) [P L ,1.5 1]. V ớ i quảng đại quần
chúng nhân dân ông áp dụng chủ trươnơ thân phận thôhg trị [P L,1.52].

Về mặt đối ngoại, trong những năm đầu chính quyền mới thành lập,
Mạc Phủ Tokugawa lấy việc buôn bán với bên nsồi làm phươnơ tiện bổ suna
nguồn tài chính quốc sia . Tu y nhiên, do nhữns nguyên nhân khác nhau, trong


đó có mối đe doạ tới nền độc lập dân tộc, chính quyền Edo đã thi hành chính
sách bế quan toả cảng một cách triệt để từ năm 1639. Khơnơ có bất kv sự giao

lưu bn bán nào giữa trons và ngồi, ngoại trừ mơt hịn đảo nhỏ thuốc cảns
o
c?

7

w

.

.

.

o

Nagasaki, Mạc Phủ còn cho phép thươns nhân Hà Lan và Trung Quốc cập bến
bn bán.
Tất cả những chính sách đó đã siúp cho chính quyền duy trì được nền
độc lập, hồ bình và ổn định chính trị. Tu y nhiên, Tokugawa leyasu cho rằng:
muốn duy trì được chính quyền lâu dài thì chỉ dựa vào lực lượng quân sự là
khơng đủ mà cịn phải có nền văn trị cũns cứng rắn khồnă kém đi kèm. Tronơ
bộ luật võ sĩ (.Bukeshohatto - V ũ gia chư pháp độ) ban hành nãm 16 15 gồm 13
điều thì điều thứ I yêu cầu người võ s ĩ phải chuyên tâm cả hai mặt võ đạo và
học vấn. Học vấn phải được tiếp nhận trước khi học võ. Những nơười kế tục sự
nghiệp của Ieyasu cũng có quan điểm như vậv. V iệc khuyến khích phát triển
giáo dục trở thành đường lối xuyên suốt qua các đời tướns quán Mạc Phủ

Tokugawa. Trong đó, Nho học trở thành nền tảng của chính sách văn trị và
Tống học của Chu H y được gọi là K angaku (Quan học), mơn giáo dục chính
của nhà nước. V ì vậy, ngay sau khi được ban chức Tướng quân, Ieyasu đã mòi

18


môn đệ của nhà Nho nổi tiếng đương thời Fu jiw ara Seika (Đằng N suyèn Tinh
Oa, 15 6 1-16 19 ) và H a y a sh i Razan (Làm La Sơn, 15 8 3-16 57) làm rườns cột
cho chế độ trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, đến đời tướng quân thứ 3 Iemitsu
(Gia Quang, 1604 - 16 51), ngành giáo dục mới chính thức lấy Nho giáo làm
quan học (quốc học). Dòng họ Lâm được kế tiếp nhau giữ chức Jukan (Nho
quan) điều khiển ngành quan học xây dựng trên lý thuyết của Khổng giáo và
Tống Nho. Tư thục của dòng họ Lâm (Lâm G ia G ia Thục) thành lập năm 1607
được chuyển về Gaoka (Nhẫn Cương) thuộc khu vực truns tâm Tokvo hiện nay,
đổi tên thành Shoheiiaka Gakưmonsho (Xươns Bình Phản Học Vấn sở) và trở
thành trung tâm đào tạo nho sĩ, giảng dạy Tốns học do Mạc Phủ trực tiếp quan
lý. Tất cả quan chức Mạc Phủ, các thủ lĩnh Đại danh và Tiểu danh (Shomvo)
[149, tr.258] xung quanh Edo đều phải luân phiên đến theo học từ 6 tháng đến
1 năm.
Vào năm 1691 Mạc Phủ cịn tiến hành xây dựng trons khn viên
trường

nhà Văn miếu để thờ Khổng Mạnh và các tiên Nho. Đồns thời yêu cầu

các thủ lĩnh Đại danh sau khi kết thúc khố học ở Edo trở về điền trang của
mình cũng phải xây dựng Thánh Đườns và trường học. Một mỏ hình trườns
mới xuất hiện.
Loại trường học mới này được gọi là H anko (Phiên hiệu), nghĩa là các
trường học của phiên, trấn. Các trường phiên hầu hết được xây dựng theo mơ


hình trường do Mạc Phủ trực tiếp quản lý. Trường phiên duy trì chế độ đẳng
cấp nghiêm ngặt và Nho giáo cũnơ là mơn học chính thức. Ngồi ra cịn một
số mơn như ngữ pháp, tập làm văn, thuật viết chữ đẹp, lịch sử Nhật Bản và
Trung Hoa. Tuy nhiên chương trình giáo khoa khác nhau tuỳ theo đối tượns
học sinh. T h í dụ, với võ sĩ lớp trên khơng quan tâm đến mơn tốn, vì tính toán
chỉ cần thiết cho các thương nhân. Đ ố i với võ sĩ lớp dưới, việc học toán là cần
thiết. Cịn võ sĩ lớp giữa là mơn học khơng bắt buộc. Chương trình giảng dạy

về quân sự cũng vậy. Thuật đánh kiếm, bắn cung, cưỡi nsựa được giảng dạy

19


môn độ của nhà Nho nổi tiếng đương thời Fujiw ara Seika (Đằng Nguyên Tinh
Oa, 15 6 1-16 19 ) và H ayash i Razan (Lâm La Sơn, 1583-1657) làm rường cột
cho chế độ trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, đến đời tướng quân thứ 3 lemitsu
(Gia Quang, 1604 - 1651), ngành giáo dục mới chính thức lấy Nho giáo làm
quan học (quốc học). Dòng họ Lâm được kế tiếp nhau giữ chức Jukan (Nho
quan) điều khiển ngành quan học xây dựng trên lý thuyết của Khổng giáo và
Tống Nho. Tư thục của dòng họ Lâm (Lâm Gia Gia Thục) thành lập năm 1607
được chuyển về Gaoka (Nhẫn Cương) thuộc khu vực trung tâm Tokyo hiện nay,
đổi tên thành Shoheizaka Gakumonsho (Xương Bình Phản Học Vấn sở) và trở
thành trung tâm đào tạo nho sĩ, giảng dạy Tống học do Mạc Phủ trực

tiếp quản

lý. Tất cả quan chức Mạc Phủ, các thủ lĩnh Đại danh và Tiểu danh (Shomyo)
[149, tr.258] xung quanh Edo đều phải luân phiên đến theo học từ 6 tháng đến
1 năm.

Vào năm 1691 Mạc Phủ còn tiến hành xây dựng trong khuôn viên
trường nhà Văn miếu để thờ Khổng Mạnh và các tiên Nho. Đồng thời yêu cầu
các thủ lĩnh Đ ại danh sau khi kết thúc khố học ở Edo trở về điền trang

của

mình cũng phải xây dựng Thánh Đường và trường học. Một mô hình trường
mới xuất hiện.
Loại trường học mới này được gọi là Hanko (Phiên hiệu), nghĩa là các
trường học của phiên, trấn. Các trường phiên hầu hết được xây dựng theo mơ
hình trường do Mạc Phủ trực tiếp quản lý. Trường phiên duy trì chế độ đẳng
cấp nghiêm ngặt và Nho giáo cũng là mơn học chính thức. Ngồi ra cịn một
số môn như ngữ pháp, tập làm văn, thuật viết chữ đẹp, lịch sử Nhật Bản và
Trung Hoa. Tuy nhiên chương trình giáo khoa khác nhau tuỳ theo đối tượng
học sinh. T h í dụ, với võ sĩ lớp trên khơng quan tâm đến mơn tốn, vì tính tốn
chỉ cần thiết cho các thương nhân. Đ ối với võ sĩ lớp dưới, việc học tốn là cần
thiết. Cịn võ sĩ lớp giữa là mơn học khơng bắt buộc. Chương trình giảng dạy
về quân sự cũng vậy. Thuật đánh kiếm, bắn cung, cưỡi ngựa được giảng dạy

19


cho con em võ sĩ lớp trên. Nhưng đối với con em võ sĩ lớp dưới phải dạy kỹ
thuật đánh tập đoàn, nhu thuật, giáo thuật...
Từ cuối thế kỷ x v i n , đa số trường đều mở thêm môn học mới như y
học Trung Hoa, Tây y hoặc môn học về phương Tây, tiếng Anh... Do sớm
tiếp xúc với phương Tây, nên các thủ lĩnh Đ ại danh có tư tưởng cấp tiến hơn
so với Mạc Phủ. V ì vậy, chương trình Âu học cũng được giảng dạy sớm hơn
trong các trường phiên. Nhưng lĩnh vực quan tâm nhất của Nhật Bản lúc này
vẫn là khoa học quân sự của phương Tây. Theo quan điểm chính thức của Mạc

Phủ, Âu học chắc chắn là thiết thực, nhưng về lĩnh vực đạo đức và sự trác
tuyệt của phương Tây chắc chắn khơng bằng Nhật Bản, nên nó khơng thích
hợp với giai cấp lãnh đạo. Từ đó, Sakumashi Yozan (Tá Cửu Gian Tượng Sơn
18 11 - 1864) nhà Nho học và binh học cuối thời Tokugawa, đã khái quát bằng
một câu rất nổi tiếng mà sau này được vận dụng vào thời M inh Trị: "Đạo đức
phương Đông, kỹ thuật phương T ây". Cũng chính từ quan niệm ấy, ở rất nhiều
phiên, khi tiếp nhận Âu học người ta chỉ giới hạn trong lĩnh vực kỹ thuật.
N hìn chung, kiến thức dạy ở các trường phiên phản ánh rất rõ mục tiêu
bổi dưỡng cho võ sĩ lớp trên những tư chất của người lãnh đạo mà trước hết là
nhân cách. Cịn đối với số đơng võ sĩ lớp dưới nhằm giúp họ có được kiến thức
cơ bản. đủ năng lực làm những cơng việc phù hợp.
Ngồi số trường do Mạc Phủ thành lập và quản lý, trường phiên, trong
thời kỳ này còn xuất hiện một loại trường khác được gọi là Kyogaku (Hương
học) [PL,1.22]. Hương học ra đời nhằm giúp cho con em võ sĩ đang sống ở
những nơi xa trung tâm phiên trấn có địa điểm học, hoặc dành cho con em
bình dân lớp trên, người lớn tuổi chưa có điều kiện tới trường.
Hương học đầu tiên được thành lập ở han Okayama vào năm 1667 nhờ
sự quan tâm của phiên chủ Ikeda M itsum asa (Trì Điền Quang Chính, 160982). Đến năm 1674 có tới 124 hương học được thiết lập ở phiên này. Tuy

20


nhiên, việc thử nghiệm đó nhanh chóng rơi vào tình trạng khó khăn. Bước sang
năm 1675 con số này giảm xuống chỉ cịn 14, khơng bao lâu sau bị xố hẳn.
Nhưng dần dần, hương học cũng được phục hồi và số lượng gia tăng
đều đặn trong suốt thời kỳ Tokugavva.
Dù tồn tại dưới hình thức nào, việc thành lập hương học đều cùng một
mục đích là nàng cao tri thức cho bình dân lớp trên ở làng hoặc phố. Đặc biệt,
đối với những trường hợp con nhà danh giá, có thể kế tục công việc quản lý
thôn làng trong tương lai sau khi trưởng thành, thì việc đến trường là tất yếu.

Chúng không những phải biết đọc, biết viết, biết tính tốn mà cịn phải được
giáo dục đạo đức. Dần dần, con em tầng lớp võ sĩ nhận thấy việc đến trường
này thuận tiện hơn so với trường phiên xa xơi, cách trở, nên hầu hết gia đình
đã cho con em mình vào cùng học. Đến cuối thời kỳ Tokugawa việc học
chung trở nên phổ biến ở khắp nơi.
Do hương học mang tính chất cơng lập nên đã nhận được sự quan tâm
của chính quyền. Giáo viên, chương trình giảng dạy, sách giáo khoa, giáo
trình đều được quản lý giống như trường phiên.
Nếu xét về chất lượng một cách toàn diện thì hương học xếp vào loại
trung bình giữa trường phiên và tự tử ốc - một loại trường có quy mơ nhỏ hơn.
Trong thời Edo cịn tồn tại loại hình trường đựơc đánh giá rất cao là
Shijuku hoặc Juku (trường tư thục). Trong cơng trình nghiên cứu của mình,
Richard Rubinger, nhà nghiên cứu giáo dục nổi tiếng của M ỹ, viết rằng
Shijuku đ ã mở ra nước Nhật hiện đại. Theo Hebert Passin, vào cuối thời kỳ
Mạc Phủ, ít nhất có khoảng 1.500 tư thục các loại. Dựa theo Jiro Namata, H.
Passin còn đưa ra những con số cụ thể là: năm 1829 có 407 trường. Vào năm
1853 con số này là 1066 và tăng lên thành 1528 vào năm cuối cùng của chế độ
Mạc Phủ (1867). Trong những năm đầu thời kỳ Minh Trị, trước khi áp dụng
chế độ giáo dục hiện đại, số lượng có giảm đi một chút, gồm 1374 trường vào
năm 1870 và 118 2 trường vào năm 18 71 [213, tr.29].

21


×