Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Tác động của vốn FDI tới kinh tế, xã hội ở Việt Nam trong những năm 1988 - 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 138 trang )



đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn



Trần thị ph-ơng



Tác động của vốn fdi tới kinh tế, xã hội
ở việt nam trong những năm 1988 2008




Luận văn thạc sĩ lịch sử








Hà Nội - 2009



1


MỤC LỤC

Lời mở đầu 4
CHƯƠNG 1. QUÁ TRÌNH ĐẦU TƯ CỦA VỐN FDI Ở VIỆT NAM (1988 – 2008)
1.1.Một số khái niệm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam…………………………………………………………….……9
1.2.Vốn và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam (1988 – 2008)
1.2.1. Tiền đề kinh tế – xã hội……………………………….… …13
1.2.2.Vốn và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam từ 1988 – 2008………… 16
CHƯƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA NGUỒN VỐN FDI TỚI KINH TẾ – XÃ HỘI
VIỆT NAM (1988 -2008)
2.1. Tác động của nguồn vốn FDI tới kinh tế Việt Nam………………….39
2.1.1. Những ảnh hưởng tích cực ………………………………… 39
2.1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực 65
2.2. Tác động của vốn FDI tới xã hội Việt Nam 74
2.2.1. Những ảnh hưởng tích cực 74
2.2.2. Những ảnh hưởng tiêu cực 83
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT RA
3.1. Bài học kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới về
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài………………………………… … 91
3.2. Các giải pháp cơ bản …………………………………………. 95
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật ……………… …95
3.2.2. Cải cách thủ tục hành chính, ………… …… …… ………96
3.2.3. Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư …………………………… 98
Tài liệu tham khảo 106
Phụ lục 111







2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BOT Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao
BTO Xây dựng – Chuyển giao - Kinh doanh
BT Xây dựng – Chuyển giao
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
FII Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Indirect Investment)
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
KCN Khu công nghiệp
KCX Khu chế xuất
KCNC Khu công nghệ cao
KKT Khu kinh tế
NICs Các nước công nghiệp mới
TNCs Các công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporations)
UNCTAD Hội nghị thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc
(United Nation Conference on Trade and Development)
WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)
WB Ngân hàng thế giới





3
DANH MỤC BẢNG BIỂU


Danh mục bảng
Bảng 1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng
Bảng 1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ
Bảng 1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp
Bảng 2.1. Bảng mô tả đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu
tư và GDP
Bảng 2.2: Đóng góp của các thành phần kinh tế vào giá trị sản xuất công nghiệp
Bảng 2.3: Bảng mô tả đóng góp của các thành phần kinh tế vào xuất khẩu
Bảng 2.4: Tỷ lệ lao động có kỹ năng của các doanh nghiệp
Bảng 2.5: Đóng góp từ khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho ngân sách
Bảng 2.6: Số lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Danh mục biểu
Hình 2.1. Biểu đồ mô tả đóng góp của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng
vốn đầu tư và trong GDP
Hình 2.2. Biểu đồ mô tả đóng góp cả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào giá trị sản
xuất công nghiệp
Hình 2.3. Biểu đồ mô tả đóng góp của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào xuất khẩu
Hình 2.4. Tỷ lệ lao động có kỹ năng của các doanh nghiệp
Hình 2.5. Đóng góp của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngân sách
Hình 2.6. Biểu đồ mô tả số lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài



4
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, công cuộc đổi mới của Việt Nam đạt được kết quả hết sức to
lớn trên nhiều lĩnh vực, đó là nhờ trong thời gian qua Việt Nam đã không chỉ
biết phát huy nội lực mà còn tranh thủ được những nguồn lực từ bên ngoài,

đặc biệt là từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct
Investment - FDI).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng
cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo điều kiện khai thác các lợi thế so
sánh, mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý và
trình độ công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm và
chủ động tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Sức mạnh kinh tế đóng vai trò quyết định đến sức mạnh của một quốc
gia. Trong quá trình phát triển kinh tế, các nước luôn biết tranh thủ nguồn vốn
từ bên ngoài, nhất là vốn FDI thành “chìa khoá vàng” cho sự phát triển kinh
tế. Ở Việt Nam, vốn FDI cũng có những đóng góp quan trọng, nó đã và đang
mở ra nhiều cơ hội mới cho Việt Nam đạt được bước phát triển nhanh chóng.
Hơn nữa, hiện nay xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ
trên thế giới, mở ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia đồng thời nó
cũng đặt các nước này trước những thách thức lớn. Nếu muốn tránh nguy cơ
tụt hậu thì sự lựa chọn duy nhất là phải hội nhập. Tuy nhiên, muốn hội nhập
một cách chủ động và có hiệu quả thì các nước, trong đó có Việt Nam phải tự
xây dựng cho mình một nền tảng vững chắc. Trong điều kiện của Việt Nam
hiện nay, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn tích luỹ trong nước thì thực sự là điều



5
không dễ dàng. Vì thế, việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn từ bên
ngoài, nhất là vốn FDI đang là một vấn đề đặt ra cấp thiết.
Xuất phát từ thực tiễn của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước, nền kinh tế đang chuyển sang giai đoạn phát triển tăng tốc, vấn đề là
cần thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho đầu tư
phát triển. Muốn được vậy thì việc nhìn lại quá trình thu hút và sử dụng vốn

FDI vừa qua, đặc biệt là dưới góc độ tác động của vốn FDI tới sự phát triển
kinh tế – xã hội để rút ra những bài học kinh nghiệm cho thời gian tới là điều
cấp thiết. Vì vậy, người viết đã chọn “Tác động của vốn FDI tới kinh tế xã
hội ở Việt Nam trong những năm 1988 – 2008” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong hai hình thức đầu tư chủ yếu
của đầu tư quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) luôn là mối quan tâm
lớn của các nhà nghiên cứu, đặc biệt là các nhà kinh tế học ở cả Việt Nam và
trên thế giới.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về FDI nhìn chung xuất hiện khá
muộn. Phải từ năm 1988 trở đi và nhất là trong khoảng chục năm trở lại đây
khi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu khẳng định vai trò ngày
càng quan trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam thì
hoạt động này mới dần trở thành tâm điểm chú ý của các nhà nghiên cứu Việt
Nam. Các công trình nghiên cứu về diễn biến của dòng FDI trên thế giới nói
chung, về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các quốc gia khác nói
riêng, nhìn chung số lượng còn ít và chủ yếu đều hướng tới việc rút ra những
bài học kinh nghiệm cho quá trình thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam.



6
Cho đến nay, đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu khá quy mô
về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Có thể chia các công
trình nghiên cứu làm hai nhóm sau:
Các bài viết và công trình nghiên cứu chung, tổng thể về hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Có thể kể đến các công trình như: Đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam: Cơ sở pháp lý, hiện trạng, cơ hội, triển vọng của
Nguyễn Anh Tuấn - Phan Hữu Thắng- Hoàng Văn Huấn, NXB Thế giới,

1994. Tìm hiểu đầu tư nước ngoài tại Việt Nam của Lê Minh Toàn, NXB
CTQG, 2004. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: thực trạng và giải
pháp của Trần Xuân Tùng, NXB CTQG, 2005
Đó là những công trình có tính khái quát và ở tầm vĩ mô nên chưa có
điều kiện phản ánh cụ thể về những tác động của nguồn vốn FDI tới kinh tế,
xã hội của Việt Nam từ khi hoạt động đến nay.
Các bài viết và công trình nghiên cứu về một khía cạnh cụ thể của hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Điển hình như các công trình:
Định hướng phát triển các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam của Ngô
Công Thành (2005). Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành kinh tế ở
Việt Nam của Tống Quốc Đạt (2005). Tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Lê Xuân Bá (CB), NXB Khoa học
kỹ thuật (2006)
Các công trình trên mới chỉ điểm qua tình hình hoạt động của vốn FDI
mà chưa đi sâu làm rõ sự tác động của nó tới toàn bộ kinh tế, xã hội Việt Nam
từ khi họat động tới nay.
Ngoài ra, có thể kể tới một số tài liệu của nước ngoài như các báo cáo
đầu tư hàng năm của UNCTAD cũng đề cập tới tình hình đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu



7
Luận văn tập trung nghiên cứu sự tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) ở Việt Nam từ khi hình thức đầu tư quốc tế này xuất hiện ở nước
ta vào năm 1988 cho đến hết năm 2008. Vì thế, trong quá trình nghiên cứu,
tôi xem FDI là chủ thể chính, là đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Tuy nhiên,
trong bài viết này tôi chỉ nghiên cứu về sự tác động của dòng vào FDI ở Việt
Nam (dòng FDI nước ngoài đầu tư vào Việt Nam) mà không nghiên cứu dòng

ra của FDI (dòng FDI Việt Nam đầu tư ra nước ngoài). Tác động của FDI ở
đây được hiểu là toàn bộ những yếu tố chịu sự tác động của FDI. Vì thế trong
bài viết tập trung nghiên cứu sự tác động của FDI tới kinh tế – xã hội Việt
Nam trong suốt 20 năm qua (1988-2008).
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tôi đã
tiến hành khai thác và sử dụng tài liệu từ 4 nguồn chủ yếu sau:
Thứ nhất là các văn kiện của Đảng và Nhà nước như: Văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X; một số nghị định của Chính
phủ, thông tư của Bộ Kế hoạch và đầu tư; các văn bản pháp luật quan trọng
như Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam cùng với một số lần sửa đổi, bổ sung.
Nguồn tài liệu này đề cập đến chủ trương, chính sách của Nhà nước cũng như
những quy định đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ
khi đổi mới đến nay.
Thứ hai là nguồn sách báo, tạp chí đề cập đến vấn đề đầu tư trực tiếp
nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam nói riêng đã
được xuất bản trong những thập niên vừa qua. Nguồn tài liệu này cung cấp
những số liệu về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới và ở Việt
Nam.



8
Thứ ba là các báo cáo của một số tổ chức tài chính quốc tế và kinh tế
quốc tế như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Hội nghị
thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD). Các báo cáo này
chủ yếu đưa ra những đánh giá về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
toàn thế giới qua các năm và triển vọng của nền kinh tế thế giới trong những
năm tới.

Thứ tư là các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các khoá luận tốt nghiệp.
Đây là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về một số vấn đề của FDI,
một số khía cạnh có liên quan đến FDI hoặc là nghiên cứu mối quan hệ giữa
đầu tư trực tiếp nước ngoài với một số quá trình kinh tế – xã hội ở Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã áp dụng một số phương pháp nghiên cứu phương pháp lịch
sử kết hợp với phương pháp lôgic; phương pháp phân tích và thống kê so sánh
5. Bố cục của luận văn
Chương 1. Quá trình đầu tư của vốn FDI ở Việt Nam thời kì (1988 –
2008)
1.1. Một số khái niệm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
1.2. Vốn và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam (1988 – 2008)
Chương 2. Tác động của nguồn vốn FDI tới kinh tế - xã hội Việt Nam
thời kì (1988 – 2008)
2.1. Tác động của vốn FDI tới kinh tế Việt Nam
2.2. Tác động của vốn FDI tới xã hội Việt Nam
Chương 3. Một số vấn đề rút ra
3.1. Bài học kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới về thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.2. Các giải pháp cơ bản nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn FDI



9
CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH ĐẦU TƯ CỦA VỐN FDI
Ở VIỆT NAM THỜI KỲ (1988 – 2008)
1.1. Một số khái niệm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam

Ngày nay, việc huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc
gia hoặc một vùng lãnh thổ đã và đang trở thành phương thức hữu hiệu nhất,
một yếu tố quan trọng bậc nhất trong cơ cấu ngân sách phát triển của một
quốc gia, một hình thức quan trọng và phổ biến trong mối quan hệ kinh tế
quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bù đắp sự thiếu hụt về vốn, công nghệ
và lao động giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Một nước
đang phát triển sẽ khai thác tiềm năng vốn có của mình một cách có hiệu quả
hơn khi nhận được nguồn vốn và công nghệ từ các nước phát triển thông qua
việc liên doanh, hợp doanh và các dạng đầu tư BOT, BT, BTO. Mặt khác, các
nước phát triển sẽ thu được lợi nhuận cao hơn khi bỏ vốn đầu tư ra nước
ngoài- nơi có chi phí đầu vào thấp hơn trong nước. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài còn góp phần cải thiện mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, các
quan hệ về hợp tác thương mại, vấn đề môi trường, các quan hệ văn hoá xã
hội khác, tạo lên tiếng nói chung giữa các cộng đồng và khu vực.
Vì thế, đầu tư nước ngoài trong những thập kỷ qua đang là một trong
những hình thức đầu tư hết sức phổ biến và đóng vai trò quan trọng trong các
quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư nước ngoài về cơ bản có thể xem là sự di
chuyển các luồng vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm thu về lợi
nhuận cho nhà đầu tư.
Đầu tư nước ngoài được thực hiện thông qua hai hình thức chủ yếu là:
Đầu tư gián tiếp (Foreign Indirect Investment – FII) và đầu tư trực tiếp nước
ngoài (Foreign Direct Investment – FDI), trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài



10
được xem là hình thức đầu tư quan trọng nhất. Vì thế mà đã có rất nhiều định
nghĩa về FDI được đưa ra, phổ biến và thông dụng hơn cả là định nghĩa của
các tổ chức tài chính và kinh tế quốc tế.
Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI) diễn ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một
tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản
đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản
lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó nhà đầu
tư thường được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con”
hay “chi nhánh công ty”.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), đầu tư trực tiếp nước ngoài là vốn đầu tư
được thực hiện nhằm thu về những lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp hoạt động
ở nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư. Mục đích
của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh
nghiệp đó. [41, tr24]
Tại Việt Nam, “Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” năm 1987 đưa ra
khái niệm như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào
được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài theo quy định của luật này. [15, tr38]
Đến năm 2005, với việc ban hành Luật đầu tư áp dụng chung cho cả đầu
tư nước ngoài và đầu tư trong nước thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Luật nêu ra rằng, đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài
đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành
hoạt động đầu tư.



11
Như vậy, dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng về cơ bản, đầu
tư trực tiếp nước ngoài có thể xem là loại hình di chuyển vốn giữa các nước,
trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý, điều hành

hoạt động sử dụng vốn và phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước kết quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có thể phân loại đầu tư trực tiếp nước
ngoài thành nhiều hình thức khác nhau.
Trước hết, căn cứ vào mục đích của FDI, Hội nghị thương mại và phát
triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD) năm 2003 đã phân loại FDI làm 4 hình
thức chủ yếu sau:
FDI tìm kiếm tài nguyên: đây là hình thức đầu tư nguyên thuỷ mà các
công ty xuyên quốc gia (TNCs) thường đầu tư vào các nước đang phát triển.
Hình thức này có tác dụng thúc đẩy thương mại thông qua nhập khẩu tư liệu
sản xuất từ nước đầu tư sang nước nhận đầu tư và xuất khẩu thành phẩm hay
bán thành phẩm từ nước nhận đầu tư ra nước ngoài. [17, tr225]
FDI tìm kiếm thị trường (còn gọi là đầu tư theo chiều ngang): là hình
thức đầu tư mà nhà đầu tư tiến hành sản xuất các sản phẩm cùng loại với nước
đầu tư và tiêu thụ sản phẩm tại nước tiếp nhận đầu tư. Hình thức đầu tư tìm
kiếm thị trường cũng là động cơ chính đối với hoạt động đầu tư vào lĩnh vực
sản xuất của các nước đang phát triển trong các thập kỷ 60 -70 của thế kỷ XX
– thời kỳ thịnh vượng của công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu ở các nền kinh
tế mới công nghiệp hoá. Hình thức này xuất hiện chủ yếu là do các rào cản
thương mại và chi phí vận chuyển cao [17, tr226]
FDI tìm kiếm hiệu quả (còn gọi là đầu tư theo chiều dọc): đây là hình
thức đầu tư trong đó nhà đầu tư phân bố một số công đoạn sản xuất ở nước
ngoài để tận dụng chi phí thấp nhằm tối ưu hoá quá trình sản xuất. Hình thức
này thường áp dụng cho các ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu. Dạng



12
đầu tư cổ điển nhất của FDI tìm kiếm hiệu quả là đầu tư sang các nước đang
phát triển nhằm tìm kiếm các nguồn lao động chi phí thấp [17, tr227]

FDI tìm kiếm tài sản chiến lược: là hình thức đầu tư xuất hiện ở giai
đoạn phát triển cao của quá trình toàn cầu hoá sản xuất khi các nhà đầu tư tiến
hành đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm khả năng hợp tác nghiên cứu và phát
triển [17, tr227]
Căn cứ vào hình thức góp vốn, có 4 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
được sử dụng phổ biến sau đây:
Thứ nhất, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là hình thức
đầu tư mà doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài.
Những doanh nghiệp này do nhà đầu tư nước ngoài tự thành lập tại nước tiếp
nhận đầu tư, họ tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập
theo hình thức của công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân [17,
tr227]
Thứ hai, hình thức doanh nghiệp liên doanh: là hình thức doanh nghiệp
được thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký
kết giữa bên hoặc các bên của nước chủ nhà với bên hoặc các bên của nước
ngoài đến đầu tư, kinh doanh ở nước chủ nhà [17, tr 228]
Thứ ba, hợp đồng hợp tác kinh doanh: là văn bản ký kết giữa hai hoặc
nhiều bên quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
(bên nước ngoài và bên sở tại) để tiến hành đầu tư kinh doanh ở nước chủ nhà
mà không thành lập pháp nhân. [17, tr228]
Thứ tư, hợp đồng BOT (xây dựng - hoạt động - chuyển giao), BTO (xây
dựng - chuyển giao - hoạt động), và BT (xây dựng - chuyển giao) [17, tr228].
Hợp đồng BOT là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan
có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng, mở rộng nâng cấp, khai



13
thác công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định (để thu hồi vốn

và có lợi nhuận hợp lý), sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công
trình cho nước chủ nhà [13, tr42]. Hình thức BTO, BT tuy có những khác biệt
trong quy định so với hình thức BOT nhưng nhìn chung đây là những dạng
thức tương tự như BOT.
Hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinh doanh (BTO): là phương thức
đầu tư dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình
kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao
công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể dành cho nhà đầu tư quyền
kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư
và lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT): là một phương thức đầu tư
nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ
tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình
đó cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà tạo điều kiện cho nhà đầu tư
nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
1.2. Vốn và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam (1988 – 2008)
1.2.1. Tiền đề kinh tế – xã hội
Từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX, cục diện thế giới diễn ra những chuyển
biến rất sâu sắc. Xu thế đối đầu trong chiến tranh lạnh dần chuyển sang xu thế
đối thoại hợp tác khi các nước lớn đều tiến hành điều chỉnh chiến lược, đẩy
mạnh hòa hoãn, cải thiện quan hệ với nhau. Cùng với xu thế hợp tác, các quốc
gia trên thế giới đều nỗ lực tập trung phát triển kinh tế đất nước, tăng cường
cạnh tranh, chạy đua kinh tế và xem đây là nhân tố quyết định sức mạnh quốc
gia. Vì thế, toàn cầu hóa trở thành hiện tượng nổi bật và là xu thế khách quan



14

của nền kinh tế thế giới. Mỗi nước trong quá trình phát triển không thể tách
rời sự tác động của thị trường khu vực và thế giới. Liên kết kinh tế và hội
nhập trở thành một xu thế tất yếu của thời đại.
Trong bối cảnh đó, hầu hết các nước trên thế giới đã có sự điều chỉnh
hoặc cải cách kinh tế ở mức độ và hình thức khác nhau.
Trong khi đó, sau vài thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội, đến đầu những
năm 1980, các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa rơi vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Đó là hệ quả tất yếu của việc duy trì một mô hình kinh
tế xã hội không phù hợp, nó bộc lộ nhiều khuyết điểm và không đáp ứng được
nhu cầu phát triển khách quan của kinh tế - xã hội. Thực trạng đó đã buộc các
nước xã hội chủ nghĩa phải có sự điều chỉnh về đường lối, tiến hành đổi mới,
cải tổ, cải cách nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế -
xã hội.
Là một thành viên trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trên phạm vi cả nước trong suốt 10 năm (1975
- 1985) đã khắc phục được những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại đồng
thời đưa lại một số thành tựu nhất định cho nền kinh tế -xã hội Việt Nam. Tuy
nhiên, về cơ bản, trong những năm đó, chúng ta vẫn xây dựng chủ nghĩa xã
hội theo mô hình cũ của lối tư duy cũ, cho nên, giống như các nước xã hội
chủ nghĩa khác, Việt Nam cũng vấp phải những vấn đề có tính nguyên tắc
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và không tránh khỏi tình trạng đất nước rơi
vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vì vậy, đổi mới đã trở thành vấn đề bức
thiết đối với Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI họp tại Hà Nội (12/1986) đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, đi vào
thế ổn định và phát triển. Đại hội VI, vì vậy đã trở thành đại hội mở đầu cho
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước của Việt Nam. Sau đó, qua các Đại hội




15
Đảng lần thứ VII (1991), lần thứ VIII (1996), lần thứ IX (2001) và lần thứ X
(2006), Đảng ta vẫn nhất quán chủ trương tiếp tục công cuộc đổi mới đất
nước, thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Ngay từ Đại hội VI, trên cơ sở nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam đã có sự thay đổi về
tư duy phát triển kinh tế. Theo đó, Đảng xác định rằng, để có thể thực hiện
được mục tiêu lâu dài là chủ nghĩa xã hội, thì trong thời kỳ này phát triển kinh
tế phải được xem là vấn đề trọng tâm. Từ đó, Đại hội VI chủ trương chuyển
nền kinh tế Việt Nam từ một nền kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, mà vế sau được các Đại hội Đảng phát triển thành quan
điểm: xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do nền kinh tế của Việt Nam chưa có tích luỹ lớn đủ đáp ứng yêu cầu
phát triển của đất nước, cho nên bên cạnh việc phát huy tối đa các nguồn lực
trong nước, Đảng cũng nhấn mạnh phải tranh thủ các nguồn ngoại lực, đặc
biệt là nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài cho phát triển kinh tế. Vì vậy, trong
suốt thời kỳ đổi mới, Đảng luôn khẳng định tư tưởng đa dạng hoá, đa phương
hoá quan hệ đối ngoại nói chung, quan hệ kinh tế đối ngoại nói riêng và tích
cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời Đảng cũng khẳng định sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia, các tổ chức và cá nhân nước ngoài
vào Việt Nam đầu tư, hợp tác, kinh doanh.
Vì vậy, với đường lối đổi mới toàn diện nói chung, đổi mới kinh tế nói
riêng, được mở ra từ Đại hội VI thì những cơ sở cho hoạt động thu hút đầu tư
nước ngoài (bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp) đã được
khẳng định. Cơ hội mới cho Việt Nam có thể thu hút nguồn vốn từ bên ngoài
vốn rất dồi dào và có chất lượng đã được mở ra. Ngay sau đó, với sự kiện




16
Quốc hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam vào tháng 7/1987 và
bắt đầu áp dụng từ ngày 1/1/1988 thì chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài
của Đảng đã được thực hiện hoá, chính thức đánh dấu quá trình thu hút đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam, trong đó đầu tư trực tiếp là một bộ phận quan trọng.
Bên cạnh đó, trong suốt thời kỳ Đổi mới, tại các Đại hội đại biểu toàn
quốc của Đảng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh phải quan tâm đến
hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài và xem đó là một trong những nhân tố
quan trọng thúc đẩy và đưa sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
đi đến thành công. Đặc biệt, tại Đại hội Đảng lần thứ X (2001), lần đầu tiên
Đảng đã chính thức công nhận khu vực đầu tư nước ngoài là một thành phần
kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam
1
có vai trò “hướng
vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công
nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm” [8, tr147]. Điều đó cho thấy Đảng và
Nhà nước ta đã ghi nhận và đánh giá cao vai trò quan trọng của khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam.
Chính sự ghi nhận này đã trở thành cơ sở và động lực quan trọng thúc đẩy quá
trình thu hút FDI của Việt Nam.
Như vậy, có thể nói công cuộc đổi mới đất nước đã mở ra cơ hội lớn cho
Việt Nam thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp
nước ngoài nói riêng để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.2. Vốn và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam từ 1988 – 2008
Kể từ khi bắt đầu cuộc đổi mới đến nay, nền kinh tế nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn: tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và ổn định

1
Trước năm 2000 khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được coi như một chủ thể độc lập, một

thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam, song các Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII (1996)
của Đảng đã ghi nhận sự hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài, khẳng
định khu vực đầu tư nước ngoài có vai trò to lớn trong động viên về vốn, công nghệ, khả năng tổ
chức quản lý…vì vậy, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với khu vực FDI là khuyến
khích nhà đầu tư liên doanh với doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam hoạt động trong nhiều lĩnh
vực kinh tế, trừ lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với kinh tế quốc dân và an ninh quốc phòng



17
trong nhiều năm, cơ cấu kinh tế đang từng bước chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao
cả về vật chất và tinh thần, xã hội đang từng ngày thay đổi. Tất cả những
thành tựu trên cho thấy nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng và từng
bước tiến vào thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
Ngày 29/07/1987 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và bắt đầu có hiệu lực
chính thức từ ngày 1/1/1988 đã tạo ra khung pháp lý cho hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Từ đây, dòng vốn FDI bắt đầu chảy vào
Việt Nam, mở ra một quá trình thu hút và sử dụng vốn FDI vào Việt Nam.
Sau đại hội VI đất nước tiến hành mở cửa đổi mới. Từ đó năm 1987 những dự
án đầu tư FDI đầu tiên đã vào Việt Nam. Trải qua 20 năm FDI không ngừng
biến động qua từng thời kì, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức
thương mại WTO, FDI đã không ngừng tăng trưởng một cách mạnh mẽ và
đỉnh điểm năm 2008 FDI đạt tới 64 tỷ USD. Sau đây chúng ta cùng điểm qua
tình FDI vào Việt Nam trong 20 năm qua.
Như vậy, quá trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam từ 1988-2008 được chia làm năm giai đoạn chính:
Giai đoạn từ (1988- 1990): Đây được coi là thời kỳ khởi động cho quá
trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Vì đây là giai đoạn đầu

tiên nên FDI vào Việt Nam rất khiêm tốn, tổng 3 năm chỉ đạt 1,79 tỷ USD và
chưa có tác động rõ rệt đến nền kinh tế- xã hội Việt Nam. Kết quả đó tuy nhỏ
nhưng có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta. Nó đánh dấu sự thành công
ban đầu của công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, thực hiện đường lối mở
rộng và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Sau ba năm tiến hành thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta
đã cấp giấy phép cho 214 dự án với tổng vốn đăng ký 1417 triệu USD. Tốc độ



18
tăng trưởng hàng năm đạt 255/năm. Quy mô mỗi dự án đạt khoảng 7 triệu
USD/dự án. Lĩnh vực đầu tư chủ yếu trong thời kì này là thăm dò dầu khí
32,2%, khách sạn 20,6% và bưu chính viễn thông, còn các lĩnh vực khác thì
rất ít hầu như chưa được triển khai. Tổng số vốn thực hiện của cả thời kì đạt
40 triệu USD băng 27% tổng vốn đăng kí.[4, tr 147]
Giai đoạn (1991- 1996): Đây là giai đoạn FDI tăng trưởng nhanh và
góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Giai đoạn này đã
thu hút 25,179 tỷ USD vốn đăng ký, tốc độ tăng trưởng hàng năm cao. Vốn
đăng ký năm 1991 là 1,322 tỷ USD thì năm 1996 là 8,497 tỷ USD, bằng 6,43
lần[4, tr148]. Sự hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã
tạo ra nhiều sản phẩm mới có chất lượng cao, giá thành hạ đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra, các kết quả khả quan của các dự án thăm
dò dầu khí đã tạo cơ sở để phát triển ngành công nghiệp lọc dầu, hoá dầu
thành ngành công nghiệp mũi nhọn ở nước ta.
Giai đoạn (1997- 2003): Đây là thời kỳ suy thoái của FDI. Do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Vốn đăng ký bắt
đầu giảm từ năm 1997 và giảm mạnh trong 2 năm tiếp theo. Năm 1996 vốn
đăng ký là 8,498 tỷ USD, thì năm 1997 chỉ bằng 50%, còn 4,649 tỷ USD. Tồi
tệ hơn là năm 1999 chỉ còn 1,568 tỷ USD và tiếp tục ngưng trệ cho đến năm

2003[4, tr149].
Giải thích sự giảm sút của hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời kì này
ta thấy nổi lên một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Phần lớn vốn đầu
tự trực tiếp nước ngoài là thu hút từ các nhà đầu tư trong khu vực nên khi xảy
ra khủng hoảng, các nhà đầu tư trong khu vực gặp khó khăn về tài chính do
đó họ giảm việc đầu tư ra nước ngoài dẫn đến lượng vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam giảm.



19
Do sức hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ta ngày càng giảm vì sự
thay đổi của một số chủ trương, chính sách cũng như một sự biến động của tỉ
giá hối đoái, giá cả, sức mua của thị trường trong nước
Mặc dù có sự giảm mạnh về số lượng đăng kí nhưng mức vốn vẫn không
ngừng tăng lên khoảng 50%/năm và đang có sự chuyển biến lớn trong xu
hướng đầu tư: từ đầu tư theo chiều rộng chuyển sang đầu tư theo chiều sâu.
Giai đoạn (2004- 2006): Đây là giai đoạn FDI phục hồi và phát triển.
Năm sau tăng gấp đôi so với năm trước. Năm 2004 chỉ mới đạt 2,084 tỷ USD
thì năm 2006 lên tới 10,200 tỷ USD tăng 400% so với 2004.[14]
Giai đoạn (2007-2008): Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại
WTO các chính sách ngoại thương cởi mở hơn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư, nhờ đó đã tạo ra một hiệu ứng rất tốt trong việc thu hút FDI,
nó được phản ánh qua năm 2007, 2008. Năm 2007 Việt Nam đã thu hút 1544
dự án và 21,3 tỷ USD, tăng gần 2 lần năm 2006, đó mới chỉ là kết quả của 1
năm gia nhập WTO. Chưa dừng lại ở đó qua năm 2008 Việt Nam đã thu hút
một con số cực kỳ ấn tượng với 64 tỷ USD gấp gần 3 lần so với năm
2007.[59] Qua đó lọt vào Top 10 nền kinh tế hấp dẫn vốn đầu tư FDI nhất.
a. Tình hình thu hút vốn ĐTNN đăng ký từ 1988-2008

+ Cấp phép đầu tư từ 1988-2008
Tính đến cuối năm 2008, cả nước có hơn 10000 dự án ĐTNN được cấp
phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 159 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm).
Trong 3 năm 1988 -1990, mới thực thi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam nên kết quả thu hút vốn còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới
1,6 tỷ USD) [2, tr3] ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế -xã hội đất
nước.
Trong những năm 1991 - 1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1409 dự án với
tổng vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình



20
kinh tế - xã hội đất nước. Thời kỳ 1991 - 1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ”
ĐTNN tại Việt Nam (có thể coi như “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt
Nam) với 1781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp
mới và vốn tăng thêm) 28,3 tỷ USD. [2, tr3] Đây là giai đoạn mà môi trường
đầu tư -kinh doanh tại Việt Nam đă bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu
tư - kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao
động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh
chóng, có tác động lan toả tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích
cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của đất nước. Năm 1995 thu
hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD).
Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm
trước.[2, tr3]
Trong 3 năm 1997 - 1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng
ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm
1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8 % năm 1998), chủ
yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ [2, tr3]. Cũng trong thời gian này
nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng

triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn
Quốc, Hồng Kông).
Từ năm 2000 -2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi chậm. Vốn đăng ký mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so
với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng
ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD) tăng
6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5tỷ
USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%, năm 2006 tăng
75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69%



21
so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời
kỳ trước khủng hoảng. [2, tr4]
Trong giai đoạn 2001 -2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt
20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ - CP ngày
28/8/2001 của Chính phủ, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với
mục tiêu. Nhìn chung, trong 5 năm 2001 - 2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng
đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng
đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007,
dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD)[2, tr4] với sự
xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công
nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao) và dịch vụ (cảng
biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch -dịch vụ cao cấp). Riêng năm
2008, tổng số vốn FDI đăng kí tại Việt Nam khoảng 64 tỷ USD, gấp gần 3
lần năm 2007.[40] Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai
vào Việt Nam.
+ Tình hình tăng vốn đầu tư (1988-2008)
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt

động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất - kinh doanh, tăng thêm vốn
đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4100
lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng
23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới [2, tr4]. Riêng năm 2008, số dự án
tăng vốn cũng rất lớn với 311 dự án đăng ký tăng vốn, với tổng số vốn đăng
ký tăng thêm là 3,74 tỷ USD.[39] Chỉ tính riêng số vốn tăng thêm của các dự
án đang hoạt động tại Việt Nam trong năm 2008 đã tương đương với tổng số
vốn đăng ký mới trong một năm của đầu những năm 2000.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng
doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD



22
trong 5 năm 1991 -1995 thì ở giai đoạn 1996 - 2000 đã tăng gần gấp đôi so
với 5 năm trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm
đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so với dự kiến là 6 tỷ USD, tăng 69% so với 5
năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt
đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2
tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.[2, tr5]
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất
công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995;
65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005.
Trong 2 năm 2006-2007 tỷ lệ tương ứng là 80,2% và 79,1% tổng vốn tăng
thêm.[3, tr5] Riêng năm 2008 vốn tăng thêm đạt 3,7 tỷ USD.[39]
Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn
tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao
nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000,
đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006-2007 tỷ lệ tương ứng
là 72,1% và 80%.[2, tr5]

Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng
kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm
phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995; đạt 68,1% trong thời kỳ
1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong hai năm tỷ lệ tương
ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%;
20,4%; 21,1%; 24% và 20%.[2, tr5]
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản - JETRO tại
Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng
vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam [10]. Điều đó chứng tỏ sự tin tưởng và an
tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
+ Quy mô dự án



23
Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng
tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư
Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua
các thời kỳ, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu
vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5
triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án
đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự
án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn
được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy
nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời
kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn
2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006-2007, quy
mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD,[2, tr5]
cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua
sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn

(Intel, Panasonic, Piaggio…). Đến năm 2008 thì quy mô dự án đã cao hơn rất
nhiều so với các năm trước (51,47 triệu USD/ dự án)[40]
+ Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988-2008
ĐTNN phân theo ngành nghề:
* Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài 1987, Việt Nam đã chú trọng
thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp - xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các
lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh
mục các lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những
năm 90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách
ưu đãi, khuyến khích các dự án: sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu,



24
sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), sử dụng
nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hóa cao.
Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam
đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với các dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao,
không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu
trong nước. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công
nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản
vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ
cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện
tử. Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị tăng cao và Việt Nam
có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN
thuộc các lĩnh vực trên vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng
kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng
triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia
tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông

tin với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel,
Panasonic, Canon. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp
xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao,
do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành.
Tính đến hết năm 2008, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng
lớn nhất với 6303 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 87 tỷ USD,
chiếm 64,3% về số dự án, 58,6% tổng vốn đăng ký và 57% vốn thực hiện.[39,
tr103]




×