1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
*****
T
T
R
R
Ầ
Ầ
N
N
T
T
H
H
Ị
Ị
M
M
A
A
I
I
Đ
Đ
À
À
O
O
L
L
Ỗ
Ỗ
I
I
P
P
H
H
Á
Á
T
T
Â
Â
M
M
P
P
H
H
Ụ
Ụ
Â
Â
M
M
T
T
I
I
Ế
Ế
N
N
G
G
A
A
N
N
H
H
C
C
Ủ
Ủ
A
A
H
H
Ọ
Ọ
C
C
S
S
I
I
N
N
H
H
V
V
I
I
Ệ
Ệ
T
T
N
N
A
A
M
M
L
L
U
U
Ậ
Ậ
N
N
V
V
Ă
Ă
N
N
T
T
H
H
Ạ
Ạ
C
C
S
S
Ĩ
Ĩ
N
N
G
G
Ô
Ô
N
N
N
N
G
G
Ữ
Ữ
H
H
Ọ
Ọ
C
C
Hà Nội - 9/2003
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
****
T
T
R
R
Ầ
Ầ
N
N
T
T
H
H
Ị
Ị
M
M
A
A
I
I
Đ
Đ
À
À
O
O
L
L
Ỗ
Ỗ
I
I
P
P
H
H
Á
Á
T
T
Â
Â
M
M
P
P
H
H
Ụ
Ụ
Â
Â
M
M
T
T
I
I
Ế
Ế
N
N
G
G
A
A
N
N
H
H
C
C
Ủ
Ủ
A
A
H
H
Ọ
Ọ
C
C
S
S
I
I
N
N
H
H
V
V
I
I
Ệ
Ệ
T
T
N
N
A
A
M
M
L
L
U
U
Ậ
Ậ
N
N
V
V
Ă
Ă
N
N
T
T
H
H
Ạ
Ạ
C
C
S
S
Ĩ
Ĩ
N
N
G
G
Ô
Ô
N
N
N
N
G
G
Ữ
Ữ
H
H
Ọ
Ọ
C
C
Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ
Mã số : 5.04.08
Hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thế Quế
Hà Nội - 9/2003
3
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
2. Đối tƣợng, nhiệm vụ, giới hạn của luận văn 6
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu 6
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 7
2.3. Giới hạn của đề tài 7
3. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 8
3.1. Tƣ liệu nghiên cứu 8
3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
4. Những đóng góp của luận văn 9
5. Bố cục của luận văn 10
6. Ký hiệu phiên âm quốc tế 10
7. Giải thích những từ đƣợc viết tắt trong luận văn 12
Chương 1: Cơ sở lý luận 13
1.1. Giới thiệu hệ thống âm vị PA tiếng Anh 13
1.1.1. Tiếng Anh RP và các biến thể địa phƣơng 13
1.1.2. Hệ thống âm vị PA tiếng Anh 13
1.1.2.1. Định nghĩa và danh sách PA 13
1.1.2.2. Các nét khu biệt của PA tiếng Anh 15
1.2. Sự hiện thực hoá hệ thống âm vị PA tiếng Anh 21
1.2.1. Âm mạnh và âm yếu 21
1.2.2. Cụm PA 22
1.2.2.1. Cụm PA đầu 22
1.2.2.2. Cụm PA cuối 24
1.2.3. PA âm tiết tính 26
1.2.4. Quy tắc âm vị học tiếng Anh 27
1.2.5. Quan hệ giữa âm và chữ trong tiếng Anh 29
1.3. Đặc điểm ngữ âm tiếng Việt 30
1.3.1. Cấu trúc âm tiết 31
4
1.3.2. Danh sách PA 31
1.3.2.1. Hệ thống PA đầu 32
1.3.2.2. Hệ thống PA cuối 33
1.3.3. Mô tả PA tiếng Việt 33
1.3.4. Quan hệ giữa âm và chữ trong tiếng Việt 35
1.4. Chơng trình tiếng Anh ở trờng THCS 35
1.5. Tình hình dạy phát âm tiếng Anh ở trờng THCS 38
Tiểu kết 42
Chương 2: Khảo sát các dạng lỗi phát âm PA tiếng Anh 44
2.1. Cơ sở xác định lỗi 44
2.1.1. Xây dựng các dạng trắc nghiệm cho khảo sát lỗi 44
2.1.1.1. Mục đích 44
2.1.1.2. Danh sách từ thử dạng trích dẫn (Đơn PA) 44
2.1.1.3. Danh sách từ thử dạng trích dẫn (Cụm PA chính) 48
2.1.2. Vấn đề chọn nguồn tƣ liệu ngƣời mắc lỗi phát âm tiếng Anh 54
2.1.3. Các bƣớc tiến hành thu thập tƣ liệu về lỗi phát âm tiếng Anh 56
2.2. Phân loại các dạng lỗi phát âm PA trên cơ sở vốn tƣ liệu 56
2.2.1. Định nghĩa lỗi phát âm 56
2.2.2. Tiêu chí phân loại 57
2.2.3. Mô tả các dạng lỗi phát âm PA 58
2.2.3.1. Lỗi biến thể âm vị PA tiếng Anh 58
2.2.3.2. Lỗi chân dung âm vị PA tiếng Anh 60
Tiểu kết 76
Chương 3: Thử bàn về các tác nhân gây lỗi phát âm PA tiếng Anh
và đề nghị các biện pháp khắc phục 79
3.1. Các tác nhân gây lỗi 79
3.1.1. Quá trình dạy và học ngôn ngữ thứ hai 79
3.1.2. Tiếp xúc ngôn ngữ 83
3.1.2.1. Những chuyển di tích cực 84
3.1.2.2. Những chuyển di tiêu cực 84
3.1.3. Các tác nhân gây lỗi khác 97
3.1.3.1. Từ phía HS 97
5
3.1.3.2. Từ phía chơng trình và SGK 98
3.1.3.3. Từ phía môi trờng dạy và học ngoại ngữ 99
3.2. Các giải pháp đề nghị đối với việc khắc phục các lỗi phát âm PA
tiếng Anh cho HS THCS. 100
3.2.1. Tổng quan 100
3.2.1.1. Truyền đạt kiến thức ngữ âm 101
3.2.1.2. Thái độ đối với lỗi phát âm 103
3.2.1.3. Tạo môi trờng tiếng 104
3.2.2. Giải pháp đề nghị đối với việc khắc phục lỗi phát âm 106
3.2.2.1. Các PA đơn 107
3.2.2.2. Các PA trong cụm 110
Tiểu kết 114
Kết luận 116
Tài liệu tham khảo 120
Phụ lục 124
6
MỞ ĐẦU
Có thể nói rằng quá trình học ngoại ngữ, trong một chừng mực nào đó,
là quá trình ngƣời học nhận thức, tiếp thu kiến thức ngôn ngữ-văn hoá của
dân tộc nói tiếng mình học và cũng là quá trình ngƣời học rèn luyện nhằm
hình thành kỹ năng và thói quen sử dụng các phƣơng tiện của ngoại ngữ đó
cho những hoạt động giao tiếp của mình. Và cũng có thể nói rằng, học ngoại
ngữ là học những dị biệt và tƣơng đồng của ngoại ngữ với tiếng mẹ đẻ của
ngƣời học. Vì thế, khi ngƣời học chƣa đạt đến trình độ của ngƣời bản ngữ về
kiến thức ngôn ngữ-văn hoá và kỹ năng giao tiếp, họ mắc lỗi trong khi nói và
khi viết là tất yếu và thƣờng xuyên. Tất cả mọi ngƣời, không loại trừ ai, đều
mắc lỗi khi học ngoại ngữ. Một trong những yếu tố góp phần làm cho quá
trình dạy-học ngoại ngữ đạt hiệu quả cao là việc chữa lỗi cho ngƣời học. Do
đó, có thể thấy rằng, truyền đạt-tiếp thu kiến thức-rèn luyện kỹ năng và chữa
lỗi của ngƣời học là hai bộ phận cấu thành của quá trình dạy-học .
Thật vậy, quá trình dạy-học và chữa lỗi có quan hệ mật thiết và hữu cơ
với nhau và luôn luôn đƣợc tiến hành song song. Nhƣng việc chữa lỗi nhƣ từ
trƣớc đến nay thƣờng đƣợc tiến hành chủ yếu mang tính chữa bệnh. Điều đó,
chúng tôi nghĩ, là do những vấn đề liên quan đến chữa lỗi và loại bỏ lỗi ở
ngƣời học ngoại ngữ còn chƣa đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện.Vì thế, việc cảm thấy lúng túng khi phân định lỗi của ngƣời học, ví dụ lỗi
này thuộc bình diện nào, lỗi này thuộc loại lỗi nặng hay nhẹ, nguyên nhân
mắc lỗi là gì cũng là dễ hiểu. Ngoài ra, theo chúng tôi, một trong những mục
đích của việc chữa lỗi của ngƣời học và cho ngƣời học chính là ngăn ngừa tái
phạm và loại bỏ lỗi. Điều đó có nghĩa là, việc chữa lỗi của ngƣời học và cho
ngƣời học phải mang tính phòng bệnh nhiều hơn. Phòng bệnh càng tốt bao
nhiêu thì nguy cơ mắc bệnh càng ít đi bấy nhiêu. Rõ ràng là kết quả nghiên
cứu vấn đề này sẽ có ảnh hƣởng nhất định đến việc thay đổi, điều chỉnh ở một
7
mức độ nào đó nội dung và thủ thuật dạy học, đến nâng cao chất lƣợng đào
tạo ngoại ngữ.
Liên quan chặt chẽ đến vấn đề nâng cao chất lƣợng đào tạo ngoại ngữ
chúng tôi thấy cần thiết phải nói đến việc phát triển tính năng động, sáng tạo,
tích cực của ngƣời học nhằm tạo khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề cho
họ trong quá trình học tập. Trong dạy học ngoại ngữ luận điểm này càng đúng
vì không ai có thể thay thế ngƣời học trong việc nắm vững các phƣơng tiện
ngoại ngữ và sử dụng ngoại ngữ trong hoạt động giao tiếp bằng chính năng
lực giao tiếp của mình. Thực hành giao tiếp là nội dung chủ yếu, là mục tiêu
chiếm lĩnh hàng đầu của cả ngƣời dạy và ngƣời học trong dạy học ngoại ngữ.
Sẽ không bao giờ đạt đƣợc mục tiêu của môn học ngoại ngữ nếu nhƣ hoạt
động chủ đạo lại không phải là rèn luyện thành thạo các kỹ năng thực hành
giao tiếp.
Muốn dạy học đạt đƣợc mục tiêu nhƣ đã đề ra buộc phải thay đổi cách
dạy học ngoại ngữ. Sự thay đổi này là việc tiếp cận với một ngoại ngữ cần
phải bắt đầu bằng luyện nói. Việc học viết, luyện viết sẽ có một vị trí xứng
đáng ở cấp độ khác, trong những năm sau. Ở giai đoạn đầu, việc ƣu tiên cho
luyện nói là điều cần thiết, tất yếu. Việc thực hiện đối thoại giữa ngƣời dạy
với ngƣời học, giữa ngƣời học với nhau là một hành động giao tiếp tuyệt vời
cần đƣợc khuyến khích, tăng cƣờng.
Từ quan điểm về chữa lỗi cho ngƣời học cộng với tầm quan trọng của
hoạt động giao tiếp trong giai đoạn đầu học ngoại ngữ, chúng tôi cho rằng
việc phát hiện, phân loại và khắc phục lỗi của ngƣời học trong giao tiếp bằng
ngoại ngữ phải đƣợc quan tâm nghiên cứu trƣớc tiên. Do đó, trong luận văn
này chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề lỗi phát âm của ngƣời Việt khi học
tiếng Anh trên những tƣ liệu thu thập đƣợc trong quá trình điều tra. Sau đó,
chúng tôi thử bàn về các tác nhân gây lỗi và đề nghị các biện pháp khắc phục.
8
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những vấn đề có liên quan đến lỗi của ngƣời học ngoại ngữ đã đƣợc
nhiều nhà giáo học pháp, ngôn ngữ học, tâm lý học và giáo viên trực tiếp
giảng dạy quan tâm, nghiên cứu. Và đã xuất hiện nhiều bài báo, cuốn sách và
công trình nghiên cứu về chuyên mục này ở nƣớc ngoài và ở Việt Nam .
Ở các nƣớc phƣơng Tây, nhƣ ở Anh, Hoa Kỳ, việc nghiên cứu, phân tích
lỗi của những ngƣời học tiếng Anh nhƣ một ngoại ngữ hoặc ngôn ngữ thứ hai
từ lâu đã thu hút sự quan tâm ngày càng lớn của nhiều giáo sƣ, nhiều trung
tâm, nhiều trƣờng đại học. Nhiều công trình đã đƣợc công bố nhƣ: “Language
Learners and Their Errors” [45, 1992], “Error Analysis” [49, 1984], “Learners
English: A Teacher‟s Guide to Interference and other Problems
[53,1991]…Trong các công trình này, ở những mức độ khác nhau và những
cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã tìm hiểu các hệ thống ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp, của tiếng mẹ đẻ của ngƣời học tiếng Anh thuộc các dân tộc
khác nhau nhƣ: Hà Lan, Đức, Pháp, Ý, Nhật Bản, Việt Nam, Thái Lan, và so
sánh đối chiếu với tiếng Anh. Với kết quả nghiên cứu đó cộng với số liệu thu
thập đƣợc qua thực tế giảng dạy tiếng Anh cho ngƣời nƣớc ngoài, các tác giả
đã thống kê, phân loại, dự báo lỗi và nêu lên một số nguyên nhân mắc lỗi của
ngƣời học tiếng Anh của các dân tộc đã kể trên, đồng thời đề xuất những giải
pháp dạy tiếng Anh cho ngƣời nƣớc ngoài và chữa lỗi cho họ. Kết quả nghiên
cứu của các tác giả kể trên là rất quan trọng, giúp cho những ngƣời nghiên
cứu vấn đề này đối với các ngoại ngữ khác nhau một số cơ sở lý luận, phƣơng
pháp và cách thức tiến hành nghiên cứu.
Có thể nói không sai rằng, ngƣời học ngoại ngữ mắc lỗi trong giao tiếp
bằng ngoại ngữ là điều có thật và hiển nhiên. Song, ở Việt Nam cho đến nay
chƣa có những chuyên gia thuộc lĩnh vực này và, vì thế, chƣa thấy xuất hiện
các công trình đáng kể, có giá trị lý thuyết và thực tiễn giúp cho việc nghiên
9
cứu lỗi của ngƣời Việt Nam học ngoại ngữ nói chung hoặc một ngoại ngữ cụ
thể nói riêng.
Trong giảng dạy tiếng Anh, vấn đề lỗi và nghiên cứu lỗi của ngƣời Việt
Nam khi học tiếng Anh chƣa đƣợc quan tâm đúng mực. Quan tâm đến vấn đề
phân tích lỗi và tầm quan trọng của nó trong giảng dạy ngoại ngữ nói chung
phải kể đến tác giả Lê Thị Hải Hà với luận văn “Phân tích lỗi và ý nghĩa của
phân tích lỗi trong dạy tiếng”[29,2001]. Lỗi ở từng kỹ năng cụ thể (viết và
phát âm) cũng đã đƣợc một số tác giả nghiên cứu nhƣ tác giả Nguyễn Văn
Lợi với luận văn “Nguyên nhân các lỗi trong văn viết tiếng Anh của sinh viên
chính qui tiếng Anh ở trình độ trung cấp”[39,1999]; Lê Tuyết Ngọc với “Phân
tích lỗi trong văn viết của sinh viên trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội” [42,
1999]; Phan Thị Nhất với “Phân tích lỗi trong giảng dạy môn viết tiếng Anh ở
trình độ sơ cấp và tiền trung cấp của sinh viên trƣờng Đại Học Kiến trúc Hà
Nội” [43,1991]. Bên cạnh đó, một số tác giả lại quan tâm đến vấn đề lỗi phát
âm, phƣơng pháp để phát âm tốt cũng nhƣ thiết kế chƣơng trình dạy phát âm
tiếng Anh cho sinh viên Việt Nam. Đó là Nguyễn Thị Hồng Mai với “Thiết kế
chƣơng trình dạy phát âm cho sinh viên tiếng Anh trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm
Hà nội” [40,2001]; Dƣơng Thị Bạch Nhật với “Thiết kế chƣơng trình dạy phát
âm tiếng Anh cho sinh viên năm thứ nhất tại trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm Qui
nhơn” [44,2001]; Hoàng Minh Hiền với “Phân tích lỗi phát âm và biện pháp
để phát âm tốt hơn trong giảng dạy tiếng Anh tại trƣờng Đại học Xây dựng
Hà Nội”[31,2000] Đặc biệt phải kể đến một số tác giả đã quan tâm nghiên
cứu vấn đề lỗi phát âm tiếng Anh của sinh viên Việt Nam, nhƣ Phan Quang
Bảo với “ Khó khăn ngƣời học tiếng Anh ở Huế gặp phải khi phát âm một số
âm vị tiếng Anh” [21,1999], Nguyễn Thị Phúc Hoa với “Một số vấn đề phát
âm sinh viên Đại học Huế gặp phải khi nói tiếng Anh một cách tự nhiên”
[32,1999], Lê Thị Minh Trang với “Nghiên cứu sự lƣợc bỏ cụm PA cuối âm
tiết trong quá trình nói tiếng Anh của ngƣời học Việt Nam” [54,2000]
10
Điểm qua một số tác giả và công trình nghiên cứu của họ về vấn đề lỗi
trong dạy học ngoại ngữ cũng nhƣ những vấn đề xung quanh việc khắc phục
lỗi, chúng tôi nhận thấy:
1.Các tác giả đều đã thống nhất cho rằng lỗi nảy sinh trong quá trình học
ngoại ngữ nói chung và học tiếng Anh nói riêng là điều không thể tránh đƣợc
và cho rằng việc khắc phục lỗi cho ngƣời học là cần thiết và cần phải đƣợc
tiến hành càng sớm càng tốt.
2.Một số tác giả đã quan tâm nghiên cứu về lỗi trong văn viết tiếng Anh
của ngƣời học ở những trình độ khác nhau. Họ đã thống kê các dạng lỗi, nêu
ra đƣợc phần nào nguyên nhân mắc lỗi nhƣng chƣa đề xuất biện pháp khắc
phục lỗi khi viết tiếng Anh thật cụ thể.
3.Ngoài lỗi trong văn viết, một số tác giả đã khảo sát lỗi phát âm tiếng
Anh của ngƣời học Việt Nam và những vấn đề liên quan đến lỗi phát âm nhƣ
các dạng lỗi phát âm (lỗi trong nội bộ từ, lỗi ngôn điệu), nguyên nhân mắc lỗi
(chuyển di tiêu cực) cũng nhƣ đề xuất những biện pháp chung để khắc phục
lỗi Cách tiếp cận lỗi chƣa phát huy đƣợc ƣu điểm của ngôn ngữ học hiện đại.
Một số tác giả khác cũng thấy đƣợc yêu cầu cần phải có một chƣơng trình dạy
phát âm cho sinh viên với đầy đủ yêu cầu về nội dung, thời lƣợng, thủ
thuật Các chƣơng trình đƣợc thiết kế đều dựa trên các giáo trình ngữ âm tốt
do ngƣời nƣớc ngoài biên soạn cho những ngƣời học tiếng Anh nhƣ một
ngoại ngữ. Nếu nhƣ các tác giả này sáng tạo hơn trong thiết kế một giáo trình
ngữ âm tiếng Anh cho ngƣời Việt (nói tiếng Việt), học tiếng Anh ở Việt Nam,
phần lớn do ngƣời Việt dạy , tập trung luyện tập các vƣớng mắc trong phát
âm tiếng Anh của ngƣời Việt thì chắc hẳn kết quả còn cao hơn nữa.
4.Các tác giả đã quan tâm đến lỗi trong văn viết và phát âm của các đối
tƣợng chủ yếu là sinh viên các trƣờng cao đẳng, đại học mà chƣa có tác giả
nào quan tâm đến đến đối tƣợng ngƣời học tiếng Anh đông đảo không kém đó
là HS THCS, THPT. Số đối tƣợng này cần phải đƣợc quan tâm trƣớc tiên và
11
nghiêm túc vì khả năng sử dụng tiếng Anh của các em ở giai đoạn này sẽ có
ảnh hƣởng lớn đến quá trình học tập ngoại ngữ của chính các em sau này.
5.Những vấn đề nhƣ nguyên nhân mắc lỗi, cách khắc phục các loại lỗi
khác nhau còn cần phải đƣợc đầu tƣ nhiều thời gian nghiên cứu hơn nữa;
nguyên nhân mắc lỗi cần phải đƣợc xem xét từ nhiều khía cạnh nhƣ: tâm lý
ngƣời học, khả năng của ngƣời học, yếu tố môi trƣờng Nhƣng quan trọng
hơn cả là nguyên nhân do chuyển di tiêu cực mà có. Khắc phục lỗi phải đƣợc
áp dụng đúng với thực tế giảng dạy của từng trƣờng hợp cụ thể, phải có ý
thức ngăn ngừa lỗi chứ không phải chỉ là sửa lỗi khi nguy cơ mắc lỗi đã quá
cao, thói quen sử dụng ngôn ngữ sai do lỗi đã ăn sâu vào suy nghĩ của ngƣời
học và trở thành mãn tính.
Dù sao cũng không thể phủ nhận một điều là những đóng góp của các
công trình vừa nêu rất quý giá và đáng đƣợc trân trọng. Kết quả của các
nghiên cứu này giúp cho việc giảng dạy của GV đạt hiệu quả cao hơn đồng
thời gợi mở cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề lỗi và khắc phục lỗi khi
sử dụng tiếng Anh một hƣớng nghiên cứu đối với từng kỹ năng cụ thể, từng
đối tƣợng cụ thể, từng hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
Tóm lại, vấn đề lỗi và chữa lỗi trong việc học ngoại ngữ, cụ thể là trong
việc phát âm tiếng Anh còn đang là vấn đề bỏ ngỏ. Có lẽ đây là mảng đề tài
khó nhƣng nó thực sự cần thiết cho những năm đầu học ngoại ngữ và cả về
sau này. Nghiên cứu vấn đề này là việc làm quan trọng nhằm nâng cao chất
lƣợng của dạy và học ngoại ngữ.
2. Đối tượng, nhiệm vụ, giới hạn của luận văn
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là hệ thống PA tiếng Anh và các
loại lỗi phát âm PA đơn trong từ và trong cụm từ tiếng Anh của HS Quảng
12
Ngãi mà cụ thể là HS truờng THCS Tịnh Ấn Tây huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng
Ngãi ở giai đoạn mới bắt đầu học tiếng Anh (giai đoạn từ lớp 6 đến lớp 9).
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Quá trình học ngoại ngữ đƣợc quan niệm là quá trình diễn ra sự tiếp xúc
ngôn ngữ. Việc nắm bắt một hệ thống thói quen mới (tiếng Anh) không thể
không chịu ảnh hƣởng của thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ. Một cách không có
ý thức, ngƣời học ngoại ngữ thƣờng “lái” những sự kiện, hiện tƣợng và đặc
trƣng của thứ tiếng mình đang học theo những sự kiện, hiện tƣợng và đặc
trƣng của tiếng mẹ đẻ. Từ đó, hình thành riêng một cơ cấu song ngữ theo hai
hƣớng ảnh hƣởng: tiêu cực và tích cực. Có nghĩa là, kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ
có tác dụng tích cực là hỗ trợ, thúc đẩy việc nắm ngoại ngữ nhanh hơn, tốt
hơn. Thế nhƣng cũng cần phải lƣu ý rằng kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ còn có ảnh
hƣởng tiêu cực, kìm hãm việc nắm vững tiếng nƣớc ngoài vì tính bảo thủ của
kinh nghiệm ngôn ngữ. Thói quen nói tiếng mẹ đẻ (cụ thể là cách phát âm) dễ
dàng đƣợc áp đặt đối với tiếng nƣớc ngoài. HS học tiếng Anh thực sự là một
sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt và chính từ đó xảy ra hiện tƣợng
giao thoa (cả hƣớng tích và tiêu cực). Vì vậy, chúng tôi đặt ra cho luận văn
nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau:
- Xác định một số các dạng lỗi mà các em thƣờng mắc phải trên cơ sở
khảo sát cách phát âm PA tiếng Anh (trong từ đơn) của HS THCS.
- Lý giải các nguyên nhân gây lỗi từ những đặc điểm của hệ thống PA
tiếng Anh và tiếng Việt, từ phía chƣơng trình và SGK, từ phía môi trƣờng dạy
và học tiếng, từ phía HS
-Đề nghị giải pháp khắc phục lỗi phát âm PA tiếng Anh cho HS THCS.
Các giải pháp này có tính đến đặc điểm của HS, môi trƣờng dạy và học tiếng,
thái độ đối với lỗi Bài tập phát âm nhằm khắc phục từng loại lỗi HS THCS
thƣờng mắc phải.
2.3. Giới hạn của đề tài
13
Thực tế cho thấy rằng, để cho việc đối chiếu ngôn ngữ có hiệu quả phải
thực hiện so sánh đối chiếu hai ngôn ngữ trên từng bình diện nhỏ, từng cấp độ
tƣơng đƣơng một cách có ý thức. Nếu việc đối chiếu ngôn ngữ thực hiện trên
phạm vi quá rộng trong toàn bộ hệ thống cấu trúc của hai ngôn ngữ thì đó
hình nhƣ chỉ là một việc làm mang ý nghĩa hình thức, kết quả thu đƣợc hạn
chế ở một số nét khái quát cơ bản, đôi khi không tránh khỏi sơ sài hoặc suy
diễn chủ quan.Vì lẽ đó, luận văn này giới hạn ở việc đối chiếu ngôn ngữ, cụ
thể là tiếng Anh và tiếng Việt ở phạm vi ngữ âm để phát hiện lỗi trong từ
đơn, cụ thể là lỗi phát âm PA. Những vấn đề còn lại nhƣ: lỗi phát âm NA và
lỗi ngôn điệu nhƣ lỗi về trọng âm và ngữ điệu cũng là những địa hạt khá quan
trọng hứa hẹn nhiều điều lý thú nhƣng chƣa đƣợc chúng tôi tập trung nghiên
cứu trong luận văn này vì phạm vi, giới hạn cho phép của luận văn.
Các lỗi phát âm PA của HS đƣợc chúng tôi thu thập chủ yếu trong môi
trƣờng dạy và học tiếng Anh tại lớp học trong phạm vi nhà trƣờng. Chúng
đƣợc phân loại và phân tích trên cơ sở những nguyên nhân ngôn ngữ học nào
gây ra các lỗi đó. Bởi vậy, những lỗi phát âm PA của HS nảy sinh do các
nguyên nhân tâm-sinh lý, các điều kiện xã hội bên ngoài phạm vi ngôn ngữ
học…không đƣợc chúng tôi thảo luận trong luận văn này.
3. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1. Tư liệu nghiên cứu
Đối tƣợng HS đƣợc chúng tôi khảo sát là HS THCS ở Quảng Ngãi (từ
lớp 6 đến lớp 9, nằm trong độ tuổi từ 12 đến 15). Các em là HS ngƣời Việt
(dân tộc Kinh), sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ mẹ đẻ trong giao tiếp, sinh
hoạt hàng ngày. Số HS này đang học ngoại ngữ (môn tiếng Anh) theo giáo
trình English 6, 7, 8, 9 của Bộ GD-ĐT có sửa đổi và bổ sung. Do vậy, số đối
tƣợng là ngƣời dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam sử dụng tiếng mẹ đẻ, tiếng
14
dân tộc (nếu có) bên cạnh tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông sẽ không đƣợc
chúng tôi đƣa ra khảo sát.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã vận dụng phƣơng pháp đối chiếu trên cơ sở loại hình ngôn ngữ
(tiếng Anh và tiếng Việt), lấy tiếng Việt làm cơ sở để nghiên cứu tiếng Anh.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát, phân loại lỗi bằng cách quan sát trực
tiếp cách phát âm của một số đối tƣợng là HS THCS ở giai đoạn mới bắt đầu
học tiếng Anh. Vận dụng các đặc trƣng âm vị học của âm vị PA tiếng Anh và
tiếng Việt chúng tôi tiến hành miêu tả cách phát âm PA của HS trong các từ
đơn đã chọn trong các bảng từ. Sự thể hiện thiếu hay thừa hay có khi sai lệch
các đặc trƣng âm vị học của âm PA là cơ sở để chúng tôi xác định lỗi.
Các đối tƣợng lần lƣợt phát âm các từ đã chọn trong bảng từ theo yêu
cầu. Cách phát âm từng âm vị ở từng vị trí khảo sát trong từ đơn tiếng Anh đã
đƣợc hiện thực hoá bằng những ký hiệu phiên âm quốc tế và những dấu phụ
trong những trƣờng hợp cần thiết. Phƣơng pháp thống kê cho phép chúng tôi
xác định đƣợc tỷ lệ mắc lỗi phát âm PA của HS.
4. Những đóng góp của luận văn
Đây là luận văn đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu lỗi của HS THCS, một
đối tƣợng có số lƣợng đông đảo không kém số lƣợng sinh viên đại học và cao
đẳng ở Việt Nam.
Luận văn tập trung khảo sát trực tiếp lỗi phát âm PA tiếng Anh ở từng vị
trí cụ thể dựa trên kết quả ghi âm cách phát âm PA tiếng Anh của HS THCS.
Kết quả ghi âm thể hiện đƣợc sự đầy đủ và chính xác các vị trí của PA tiếng
Anh trong từ đơn nhờ các bảng từ đƣợc xây dựng rất công phu và khoa học.
Nguyên nhân mắc lỗi đƣợc lý giải từ bao quát đến cụ thể dựa trên các
đặc điểm ngôn ngữ học, đặc điểm của chƣơng trình và SGK tiếng Anh,
phƣơng pháp dạy và học của GV và HS
15
Các giải pháp khắc phục lỗi có tính đến đặc điểm của đối tƣợng mắc lỗi
là HS THCS nhằm phát huy tính tích cực, vai trò chủ động của HS trong học
tập, đồng thời khẳng định vai trò không thể thay thế đƣợc của GV trong các
buổi luyện ngữ âm tại lớp.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung luận văn đƣợc tập trung
trong ba chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận
1.1.Giới thiệu hệ thống âm vị PA tiếng Anh
1.2.Sự hiện thực hoá hệ thống PA tiếng Anh
1.3.Đặc điểm ngữ âm tiếng Việt
1.4.Chƣơng trình tiếng Anh ở trƣờng THCS
1.5.Tình hình dạy phát âm tiếng Anh ở trƣờng THCS
Chƣơng 2: Khảo sát các dạng lỗi phát âm PA
2.1.Cơ sở xác định lỗi phát âm PA tiếng Anh
2.2.Phân loại các dạng lỗi phát âm PA trên cơ sở vốn tƣ liệu
Chƣơng 3: Thử bàn về các tác nhân gây lỗi phát âm PA tiếng Anh và các
biện pháp khắc phục
3.1.Các tác nhân gây lỗi
3.2.Giải pháp đề nghị đối với việc khắc phục lỗi phát âm PA tiếng Anh
cho HS THCS
6. Ký hiệu phiên âm quốc tế
Chúng tôi đã sử dụng ký hiệu phiên âm quốc tế để ghi lại cách phát âm
của các âm vị PA của tiếng Anh và tiếng Việt. Riêng đối với tiếng Anh trong
số 44 âm vị thì 24 âm vị PA có cách ký hiệu thống nhất trong tất cả các sách
16
chuyên ngành và các từ điển tiếng Anh từ trƣớc đến nay. Vấn đề cần thống
nhất ở đây là cách ghi ký hiệu phiên âm đối với NA (NA đơn và NA đôi).
Thực tế cho thấy rằng cách ghi phiên âm đƣợc sử dụng trong bộ SGK tiếng
Anh bảy năm English 6-12 ở Việt Nam lại không giống cách ghi ký hiệu
phiên âm thƣờng đƣợc dùng khá phổ biến. Sau đây là sự khác nhau đó:
(I) Ký hiệu phiên âm của quyển từ điển The Oxford Advanced Learner‟s
Dictionary of Current English [33,1980]
(II) Ký hiệu phiên âm của bộ SGK tiếng Anh [1,2,3,4,1998]
TT
(I)
(II)
Ví dụ
1
i:
i
see
2
I
I
sit
3
e
e
ten
4
ổ
ổ
hat
5
arm
6
got
7
saw
8
put
9
u:
u
too
10
cup
11
3
3:
fur
12
∂
∂
ago
13
eI
eI
page
14
aI
aI
five
15
I
I
join
16
home
17
now
17
18
I∂
I∂
near
19
e∂
e∂
hair
20
∂
∂
pure
Để tiện theo dõi và sử dụng chúng tôi chọn hệ thống ký hiệu phiên âm
quốc tế đƣợc sử dụng trong quyển từ điển The Oxford Advanced Learner‟s
Dictionary of Current English của A.S.Hornby [33,1980] vì tính phổ biến và
hiệu quả của nó; và cũng vì cách phiên âm này đại diện cho cách phát âm
chuẩn RP của miền Nam nƣớc Anh.
7. Giải thích về những từ được viết tắt trong luận văn
1. PA: phụ âm
2. NA: nguyên âm
3. GV: giáo viên
4. HS: học sinh
5. THCS: trung học cơ sở
6. SGK: sách giáo khoa
7. GD-ĐT: giáo dục-đào tạo
18
Chương1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. GIỚI THIỆU HỆ THỐNG ÂM VỊ PA TIẾNG ANH
1.1.1. Các biến thể của tiếng Anh và tiếng Anh RP.
Tiếng Anh phổ biến khắp thế giới đồng nghĩa với việc tiếng Anh có
nhiều biến thể (regional variations) khác nhau. Một số biến thể đƣợc biết đến
là: tiếng Anh-Mỹ (American-English), tiếng Anh-Anh (British-English), tiếng
Anh-Ca-na-da (Canadian-English), tiếng Anh-Úc (Australian-English),…
Vì tính phức tạp của các biến thể tiếng Anh chúng tôi buộc phải chọn
một thứ tiếng Anh để tiến hành đối chiếu với tiếng Việt trong luận văn này.
Tiếng Anh đƣợc sử dụng trong luận văn là tiếng Anh chuẩn, một biến thể
của ngôn ngữ Anh, đƣợc đánh giá cao, có uy tín trong đời sống giao tiếp ở
những khu vực nói tiếng Anh. Biến thể này thƣờng đƣợc gọi là tiếng Anh của
Nữ Hoàng (The Queen's English hay the King's English), tiếng Anh miền
Nam có giáo dục (the educated southern English) và tên gọi khá phổ biến của
nó là lối phát âm đƣợc nhiều ngƣời chấp nhận (Received Pronurciation), viết
tắt là RP. Chúng tôi coi đó là tiếng Anh chuẩn để sử dụng trong luận văn này.
Bản thân RP cũng rất phức tạp, "trong nó còn có thể phân ra nhiều giọng khác
nữa", nhƣng do chỗ "đa số ngƣời nói các biến thể này đề có chung một danh
sách âm vị và bản thân biến thể này cũng đã đƣợc nghiên cứu khá
kỹ"[47,1973] nên lựa chọn RP là tất nhiên.
1.1.2. Hệ thống âm vị PA tiếng Anh
1.1.2.1. Định nghĩa và danh sách PA
1.1.2.1.1.Theo quan điểm ngữ âm học
Xét về bản chất âm học, PA về cơ bản là tiếng động, có đƣờng cong biểu
diễn không tuần hoàn. Nhiều PA có thanh xen lẫn và chiếm một tỷ lệ cao, tuy
nhiên vẫn là PA chính vì sự có mặt của tiếng động.
19
Về mặt cấu âm, PA đƣợc tạo nên do sự cản trở không khí (vốn cần thiết
để gây nên tiếng động) trên lối thoát của nó. Có nhiều cách cản trở, đƣợc gọi
là phƣơng thức cấu âm, khác nhau. Cùng một cách cản trở nhƣng đƣợc thực
hiện ở những chỗ khác nhau, gọi là vị trí cấu âm, sẽ cho ta những PA khác
nhau. Miêu tả một PA chính là xác định âm đó theo hai tiêu chuẩn:
- Phƣơng thức cấu âm
- Vị trí cấu âm
1.1.2.1.2. Theo quan điểm âm vị học
PA là những đơn vị của hệ thống âm thanh đứng đầu và cuối âm tiết:
“dogs”/ dgs/ và “glad”/ glổd/. PA cũng có thể xuất hiện trong một chùm
những PA(/-gs/ và /gl-/) nhƣ trong hai ví dụ vừa nêu. Trên thực tế, ở đầu âm
tiết có thể có đến 3 PA đứng liền nhau tạo nên cụm PA đầu (ví dụ: string) và
ở cuối âm tiết có thể có đến 4 PA đứng liền nhau tạo nên cụm PA cuối mặc dù
số này không nhiều (ví dụ: twelfths /twelfs/, glimpsed /glimpst/).
Dựa vào đặc điểm tính thanh (voicing) có thể chia PA làm hai loại:
Khi phát âm, luồng khí không bị chặn lại ở ngay thanh quản mà thoát ra
ngoài miệng một cách tự do. Những PA đƣợc tạo theo kiểu này gọi là PA vô
thanh (voiceless consonant).
Khi phát âm, luồng khí bị chặn ở ngay thanh quản, không thoát ra ngoài
đƣợc (nếu có thì rất yếu) và làm cho dây thanh rung lên tạo nên tiếng thanh
Những PA đƣợc tạo ra theo kiểu này gọi là PA hữu thanh (voiced consonant).
Sự phân biệt PA vô thanh và PA hữu thanh dựa vào sự rung dây thanh là
không hoàn toàn tuyệt đối: nó phụ thuộc vào vị trí xuất hiện của PA trong một
từ, lúc này tạo ra mức độ của tính thanh (degree of voicing). Ở cuối từ, PA
hữu thanh mất đi phần lớn sự rung của dây thanh (vô thanh hoá/devoiced).
Âm /z/ đứng đầu từ “zoo” /zu:/ dây thanh lúc phát âm rung mạnh hơn khi /z/ ở
cuối từ “ooze” /u:z/.
20
Dựa vào luồng hơi thở (an alternative way of capturing): Sự khác nhau
giữa những cặp PA nhƣ /p/ và /b/ là do cách luồng hơi đƣợc tạo ra nhƣ thế
nào. Các PA vô thanh đƣợc tạo ra với một luồng hơi mạnh hơn rất nhiều so
với những PA hữu thanh. Cách gọi âm mạnh (fortis/strong) và âm yếu
(lenis/weak) thƣờng đƣợc dùng để chỉ hai loại PA: âm mạnh và âm yếu.
Dựa vào cách sử dụng khoang mũi: Không giống NA, một số PA về cơ
bản đƣợc xác định qua cách sử dụng khoang mũi (the nasal cavity). Thông
thƣờng trong tiếng Anh, khi phát âm, ngạc mềm (soft palate) đƣợc nâng lên
ép sát vào cuống họng (back of the throat) không cho không khí thoát qua
đƣờng mũi. Với trƣờng hợp 3 âm mũi /m n /, ngạc mềm ở vị trí thấp (nhƣ
khi chúng ta thở) và kết quả là tạo ra một loạt âm vang mũi (nasal resonance)
khác biệt.
Dựa vào những đặc điểm vừa nêu (vị trí và phƣơng thức cấu âm, tiêu chí
vô thanh/hữu thanh, miệng/ mũi) hệ thống âm vị PA tiếng Anh đƣợc thể hiện
nhƣ sau:
Bộ vị
Phƣơng thức
Môi
Môi-
Răng
Răng
Lợi
Lợi-
Ngạc
Ngạc
Mạc
Họng
Tắc
Mũi
m
n
ŋ
Miệng
p b
t d
k g
?
Xát
f v
ố ð
s z
∫
h
Tắc xát
t∫ d
Bán
âm
Chính giữa
(w)
r
j
w
Bên
l
Theo P.Ladefoged [37,1982].
1.1.2.2 Các nét khu biệt của phụ âm tiếng Anh
1.1.2.2.1. Các PA tắc
Đối với các PA tắc luồng hơi bị tắc lại hoàn toàn tại một vị trí nào đó
trong khoang miệng, do hai môi, đầu lƣỡi hoặc gốc lƣỡi và sau đó luồng hơi
21
đƣợc xả ra với tiếng bật nổ nhẹ. Có ba cặp PA tắc, mỗi cặp đều gồm một PA
mạnh và một PA yếu.
1. / p - b/.
- Hai môi mím chặt lại, ngạc mềm đƣợc nâng lên để cho luồng hơi không
thể thoát ra ngoài qua đƣờng mũi hoặc đƣờng miệng nhƣng luồng hơi đƣợc
giữ lại trong khoang miệng một khoảng thời gian ngắn.
- Khi hai môi mở ra ngay lập tức luồng hơi đƣợc thoát ra ngoài với một
tiếng bật nổ nhẹ.
- Trƣớc khi hai môi mở ra, các cơ quan phát âm còn lại trong khoang
miệng chuẩn bị cấu âm cho âm kế tiếp, NA (pool) hoặc một PA (play)
/p/ là một âm mạnh, nhƣng ngoài ra nó còn có một nét đặc biệt nữa đó là
khả năng làm mất đi một phần tính thanh của âm đứng ngay sau nó. Ví dụ:
trong pool /pu:l/ phần đầu của NA /u:/ không có tính thanh, nó chỉ gồm luồng
hơi đi qua miệng ở vị trí cấu âm /u:/. Đó là sự bật hơi. Sự bật hơi này là nét
chính phân biệt giữa /p/ và /b/.
/b/ là một âm yếu và không bao giờ bật hơi.
2. /t - d/
- Đầu lƣỡi (chứ không phải mặt lƣỡi) ép chặt vào giữa lợi, nhƣng không
quá gần với răng cũng không quá gần với ngạc cứng.
- Ngạc mềm đƣợc nâng lên, vì thế luồng hơi không thể đƣợc thoát ra
ngoài qua đƣờng mũi cũng nhƣ qua đƣờng miệng nhƣng luồng hơi đƣợc giữ
lại trong khoang miệng trong một thời gian ngắn.
- Hai bên lƣỡi ép chặt vào hai bên ngạc vì thế luồng hơi không thể thoát
ra theo hai bên lƣỡi.
- Khi đầu lƣỡi hạ xuống thấp luồng hơi lập tức từ vị trí chân răng (teeth
ridge) thoát ra ngoài với tiếng nổ nhẹ.
/t/ là một âm mạnh, bật hơi.
/d/ là một âm yếu, ngắn và không bao giờ bật hơi.
22
3. /k - g/
- Gốc lƣỡi ép xát vào ngạc mềm và ngạc mềm đƣợc nâng lên để cho
luồng hơi đƣợc giữ lại một thời gian ngắn.
- Khi lƣỡi hạ xuống thấp lập tức luồng hơi từ ngạc mềm đƣợc thoát ra
ngoài miệng với một tiếng nổ nhẹ.
/k/ là một âm mạnh, bật hơi.
/g/ là một âm ngắn, yếu và không bao giờ bật hơi.
1.1.2.2.2.Các âm xát
Đối với các âm xát luồng hơi từ phổi đi qua một khe hẹp để thoát ra
ngoài gây nên sự cọ xát.
1. / f - v/
- Ngạc mềm đƣợc nâng lên không cho luồng hơi thoát ra ngoài qua
đƣờng mũi mà đi qua đƣờng miệng.
- Môi dƣới ép xát vào hàm răng trên (upper front teeth). Lúc này tạo nên
một khe hẹp và luồng hơi đƣợc thoát ra ngoài qua khe hẹp đó gây ra một sự
cọ xát nhẹ.
- Lƣỡi không trực tiếp liên quan đến việc tạo ra những âm này nhƣng
không phải lƣỡi không có tác dụng gì. Thật ra, lƣỡi giúp cho việc phát âm các
âm tiếp theo, ví dụ nhƣ trong /fi:/ lƣỡi sẽ ở vị trí của /i:/; trong /fri:/ lƣỡi sẽ ở
vị trí của /r/
Sự khác nhau giữa /f/ và /v/ chủ yếu là ở luồng hơi mạnh hay yếu khi
phát âm.
/f/ là một âm mạnh
/v/ là một âm yếu. Và theo cách hiểu nhƣ vậy, /f/ không bao giờ hữu
thanh, và /v/ lại là một âm hữu thanh. Âm /f/ đƣợc phát âm dài hơn /v/.
Vậy, /f/ là âm mạnh, vô thanh và đƣợc phát âm dài.
/v/ là âm yếu, hữu thanh và đƣợc phát âm ngắn.
23
2. / - ð/
-Ngạc mềm đƣợc nâng lên không cho luồng hơi thoát ra qua đƣờng mũi,
mà đi qua đƣờng miệng.
-Đầu lƣỡi ép sát vào răng trên, tạo ra một khe hẹp, gây ra sự cọ xát khi
luồng hơi thoát ra ngoài.
-Tiếng động do sự cọ xát gây ra trong trƣờng hợp và ð không lớn lắm,
không bằng s và z.
3. /s - z/
-Ngạc mềm đƣợc nâng lên để luồng hơi thoát qua đƣờng miệng.
-Đầu lƣỡi và mặt lƣỡi ép xát vào lợi. Vị trí gây ra sự cọ xát không ở gần
răng mà ở gần ngạc cứng.
-Hai hàm răng xít chặt vào nhau.
-Sự cọ xát của hai âm này, đặc biệt là /s/ mạnh hơn rất nhiều so với /f, v,
và ð/
4. /∫ -
/
-Ngạc mềm đƣợc nâng lên để luồng hơi đi qua miệng
-Có sự chẽn hẹp ở giữa đầu lƣỡi và chân lợi (back of the alvelor ridge).
-Phía trƣớc lƣỡi cao hơn khi phát âm s và z.
-Hai môi hơi tròn.
5. /h/
Âm /h/ luôn đứng trƣớc NA. Cách phát âm /h/ nhƣ một luồng hơi đi qua
những dây thanh để ngỏ và thoát ra ngoài qua đƣờng miệng rồi chuẩn bị cấu
âm NA đứng ngay sau nó.
Để phát âm /h/, miệng ở vị trí cấu âm của NA đứng kế ngay sau /h/. Ví
dụ khi đứng trƣớc /i:/, miệng ở vị trí cấu âm /i:/, trƣớc /a:/ miệng ở vị trí cấu
âm của /a:/. Đồng thời việc chuẩn bị phát âm NA là một luồng hơi ngắn từ
phổi thoát ra ngoài /h/ không đƣợc phát âm quá mạnh cũng nhƣ không thể bị
24
bỏ qua. Bởi vì nhiều từ cần có sự phân biệt giữa sự hiện diện và vắng mặt của
//h/; “hear” và “ear”. Lý do thứ hai là vì bỏ qua không phát âm /h/ là cách
phát
âm của những ngƣời không có học thức.
1.1.2.2.3.Các PA tắc xát
Đối với hai PA tác xát này,luồng hơi đƣợc giữ lại một thời gian ngắn
trong khoang miệng đối với tất cả các âm tắc. Nhƣng sau đó, luồng hơi đƣợc
xả ra với một sự cọ xát của âm xát ∫và
.
- Đầu lƣỡi chạm vào phần cuối của lợi và ngạc mềm đƣợc nâng lên để
luồng hơi đƣợc giữ lại trong khoang miệng với thời gian ngắn.
- Phần còn lại của lƣỡi đặt ở vị trí cấu âm của ∫và
.
- Đầu lƣỡi di chuyển khỏi vị trí ban đầu một chút, lƣỡi đặt ở vị trí cấu âm
∫và
để có thể nghe đƣợc tiếng cọ xát. Tuy vậy, sự cọ xát của t∫và d
không
dài nhƣ khi phát âm ∫và
.
1.1.2.2.4.Các âm mũi
Khi cấu âm ba âm mũi, ngạc mềm đƣợc hạ thấp xuống và cùng lúc đó
luồng hơi bị giữ lại trong khoang miệng để sau đó đƣợc thoát ra ngoài qua
đƣờng mũi.
1. / m- n/
-Ngạc mềm đƣợc hạ thấp xuống đối với cả /m/ và /n/
-Đối với /m/, hai môi mím chặt vào nhau; đối với /n/ đầu lƣỡi ép chặt với
lợi và hai bên lƣỡi cùng ép chặt vào hai bên của ngạc.
-Cả hai âm đều hữu thanh và luồng hơi đƣợc thoát qua đƣờng mũi.
2. //
-Ngạc mềm đƣợc hạ thấp xuống và luồng hơi đƣợc thoát ra ngoài qua
đƣờng mũi.
25
-Gốc lƣỡi ép xát vào ngạc mềm
- là âm hữu thanh.
1.1.2.2.5. Các bán âm
1./l/
Thay vì luồng hơi đƣợc thoát qua đƣờng miệng thì nó đƣợc thoát ra
ngoài theo đƣờng vòng vì sự cản trở đƣợc tạo ra ở giữa miệng.
-Ngạc mềm đƣợc nâng lên
-Đầu lƣỡi (và hai bên thân lƣỡi) tiếp giáp với lợi, sự cản trở đƣợc tạo ra ở
giữa miệng.
-Hai bên lƣỡi không tiếp giáp với hai bên ngạc, vì vậy luồng hơi có thể
đi qua hai bên lƣỡi và ngạc, vòng qua chỗ bị cản trở ở giữa. Sự cản trở này
đƣợc tạo thành bởi đầu lƣỡi và mặt lƣỡi, sau đó thoát qua đƣờng miệng
-Âm /l / hữu thanh và không có tiếng cọ xát.
2. /j/
Cấu âm /j/ ở vị trí của NA /i:/ hay /I/
3. /w/
Cấu âm /w/ ở vị trí của NA /u:/ hay //
4. /r/
Không giống nhƣ trƣờng hợp /j/ và /w/
-Lƣỡi cong với đầu lƣỡi hƣớng về phía ngạc cứng ở phía trong cùng,
phần trƣớc thấp, phần sau cao.
-Đầu lƣỡi không tiếp xúc quá gần với ngạc để gây ra sự cọ xát.
-Môi tròn, đặc biệt khi ở đầu từ.
-Ngạc mềm đƣợc nâng lên, luồng hơi hữu thanh thoát ra cách nhẹ nhàng
giữa đầu lƣỡi và ngạc mà không có sự cọ xát nào.
Các âm /j,w và r/ đƣợc phát âm nhẹ, nhanh, không cọ xát.
1.2.SỰ HIỆN THỰC HOÁ HỆ THỐNG PA TIẾNG ANH