Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 111 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN










VŨ THỊ PHƢƠNG





Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết
của Nguyễn Bình Phƣơng




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC









HÀ NỘI, 2008


Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 2
Chương 1 NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG TRONG SỰ VẬN ĐỘNG CỦA
TIỂU tHUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI (TỪ 1986 ĐẾN NAY) 12
1.1 KHÁI QUÁT VỀ XU HƢỚNG VẬN ĐỘNG CỦA TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI 12
1.1.1 Bức tranh chung về tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại 12
1.1.2 Xu hƣớng cách tân của tiểu thuyết Việt Nam. 16
1.2 SỰ XUẤT HIỆN CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG TRONG DÒNG
CHẢY CÁCH TÂN TIỂU THUYẾT 24
Chương 2 NHỮNG CÁCH TÂN VỀ MẶT KẾT CẤU TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG 35
2.1 TÍNH LIÊN VĂN BẢN 36
2.1.1 Ranh giới thể loại tiểu thuyết trở nên nhoè mờ 37
2.1.2. Sự giễu nhại lại các văn bản cũ 43
2.2. TÍNH XOẮN KÉP 47
2.2.1. Kết cấu đa tuyến 47
2.2.2 Kết cấu đồng hiện 51
2.3 TÍNH PHÂN MẢNH 56
2.3.1 Cốt truyện phân rã 56
2.3.2 Kết cấu dòng ý thức 60

Chương 3. SỬ DỤNG YẾU TỐ KỲ ẢO – MỘT THỦ PHÁP NGHỆ
THUẬT TRONG TIỂU THUYÊT CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG 67
3.1 YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT 67
3.1.1. Nhân vật với những yếu tố dị thƣờng 68
3.1.2 Thế giới vô thức và nỗi ám ảnh sợ hãi của nhân vật 72
3.2 YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TỔ CHỨC KHÔNG GIAN - THỜI
GIAN 80
3.2.1 Yếu tố kì ảo trong xây dựng không gian 80
3.2.2 Yếu tố kỳ ảo trong tổ chức thời gian 86
3.2. HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG 92
3.2.1. Biểu tƣợng trăng 94
3.2.2. Biểu tƣợng con cú 97
3.2.3 Một số biểu tƣợng khác 100
PHẦN KẾT 103
THƢ MỤC THAM KHẢO 106




Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
2

PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Nguyễn Bình Phƣơng không phải là cái tên xa lạ đối với giới phê
bình nghiên cứu chuyên nghiệp, nhƣng với phần đông độc giả đây vẫn là
nhà văn chƣa đƣợc biết đến rộng rãi. Trong gần 20 năm, kể từ khi bƣớc vào

thế giới tiểu thuyết, Nguyễn Bình Phƣơng cho ra đời 7 tác phẩm (Bả Giời,
Vào Cõi, Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt
kỳ thủy, Ngồi). Ở nhà văn này ta bắt gặp những tìm tòi và lao động nghệ
thuật nghiêm túc nhọc nhằn. Tiểu thuyết của anh đều thống nhất về phong
cách đồng thời mỗi tác phẩm lại là một sáng tạo mới, cả về nội dung và kĩ
thuật văn xuôi.
Mặc dù đến nay Nguyễn Bình Phƣơng đã trở thành một hiện tƣợng
của giới phê bình, nhƣng tiểu thuyết của anh vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu
một cách đầy đủ và có hệ thống. Xung quanh việc nghiên cứu Nguyễn Bình
Phƣơng có những luồng ý kiến trái chiều, những nhận xét khen chê mang
đậm chất cảm tính, chủ quan.
Luận văn chọn đề tài “Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết
của Nguyễn Bình Phương” với mong muốn tìm ra những nét mới trong
nghệ thuật sáng tác tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng.Từ đó chỉ ra vị trí
cũng nhƣ đóng góp của tác giả trên hành trình nỗ lực làm mới tiểu thuyết
Việt Nam nói riêng, văn học Việt Nam nói chung.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Viết về Nguyễn Bình Phƣơng chủ yếu là các bài viết đƣợc đăng tải
trên báo điện tử và các báo, tạp chí chuyên ngành. Đáng chú ý có thể kể tới
bài viết sau:
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
3
“Một số điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương” Trƣơng
Thị Ngọc Hân, () trong bài viết này, tác giả chỉ ra ba đặc
điểm lớn trong sáng tác của Nguyễn Bình Phƣơng, đó là: 1.cách chọn hiện
thực (chủ yếu nhà văn viết về những mảng tự sự nhỏ phân mảnh). 2.
Nguyễn Bình Phƣơng sử dụng lối kết cấu xoắn kép với nhiều mạch chạy

song song. 3.Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng. Có
thể khẳng định đây là những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn
Bình Phƣơng, nhƣng do dung lƣợng có hạn nên bài viết mới chỉ dừng lại ở
mức độ giới thiệu các luận điểm chứ chƣa đƣợc triển khai phân tích sâu.
Thụy Khuê là một ngƣời có quan tâm đặc biệt đến sáng tác của
Nguyễn Bình Phƣơng. Hầu nhƣ tiểu thuyết nào của Nguyễn Bình Phƣơng
ra mắt độc giả, Thụy Khuê đều có những bài viết đầy tâm huyết và có
những ý kiến khá sắc sảo có giá trị nhƣ: về tiểu thuyết Những đứa trẻ chết
già Thụy Khuê cho rằng đây là cuốn tiểu thuyết mang đậm khuynh hƣớng
hiện thực huyền ảo với sự tồn tại của hai cõi âm – dƣơng, của những “điềm
báo”, với diễn biến của nhiều thế hệ sống chết giao nhau trên mảnh đất
Thái Nguyên. Thụy Khuê còn phát hiện đƣợc hiện thực của Người đi vắng
cùng với kết cấu đồng hiện về thời gian trong tác phẩm là một “hiện thực
linh ảo âm dƣơng, một thế giới bao quát gồm thiên nhiên, vật giới, hiện
tƣợng và con ngƣời”, do đó con ngƣời không còn có giá trị độc tôn nhƣ
trƣớc đồng thời chỉ ra chủ đề chính của tác phẩm là sự tha hóa của con
ngƣời. Với Trí nhớ suy tàn bài phê bình của Thụy Khuê lại tập trung nhận
diện những yếu tố của tiểu thuyết Mới trong tác phẩm. Trên cơ sở ứng
dụng lý thuyết về tiểu thuyết Mới ở phƣơng Tây, nhà phê bình khẳng định:
những dấu hiệu của tiểu thuyết Mới trong tác phẩm đƣợc ngƣời viết chỉ ra
bao gồm: tính “không tiêu biểu”, không xác định” của nhân vật, lối nói
“trống không” với những mệnh đề không có chủ từ và “hiện thực trong tác
phẩm là một hiện thực hiện sinh trong trí tƣởng tƣợng của nhà văn, nó đã
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
4
khác xa với hiện thực chụp ảnh thời Balzac”. Thụy Khuê lại nhấn mạnh
những điểm mới trong Thoạt kỳ thủy so với truyền thống: “Thoạt kỳ thủy
là cuốn tiểu thuyết khác thƣờng, khó đọc bởi lối hành văn và cấu trúc
truyện rất lạ, một thứ “thoạt kỳ thủy” trong văn chƣơng mang dấu ấn sáng

tạo (…) Những yếu tố vừa kịch, vừa phi kịch, vừa thơ vừa phi thơ chính là
những mấu chốt của tiểu thuyết”. Ở bài “Những đặc trưng của bút pháp
huyền ảo trong tiểu thuyết Ngồi”, Thụy Khuê cho rằng bút pháp huyền ảo
trong Ngồi của Nguyễn Bình Phƣơng là sự kết hợp của ba bút pháp: bút
pháp huyền ảo phi lý của F. Kafka, bút pháp huyền ảo siêu nhiên, bút pháp
huyền ảo tâm lý. Và tác giả cho rằng Nguyễn Bình Phƣơng sử dụng cái ảo
nhƣ một cách để khai thác hiện thực và tìm về sâu hơn bản chất con ngƣời.
Còn ở bút pháp huyền ảo siêu nhiên (có sự kết hợp với bản sắc dân tộc) tác
giả đánh giá đây là điểm chƣa thành công của Nguyễn Bình Phƣơng.
Ở những bài viết trên Thụy Khuê đã khảo sát khá kĩ các tác phẩm
của Nguyễn Bình Phƣơng và chỉ ra đƣợc những nét đặc trƣng nhất của từng
tác phẩm cụ thể. Đó là những phát hiện rất tinh tế và chính xác, góp phần
gợi mở hƣớng tiếp cận tác phẩm. Tuy nhiên, bài viết của Thụy Khuê cũng
có những chỗ tỏ ra áp đặt, suy diễn, chẳng hạn: “Tất cả những sắc này (đỏ
hay vàng ) dƣờng nhƣ đều mang những ngụ ý riêng, đều gắn liền với lịch
sử của đất nƣớc này”. Nhiều chỗ trong bài viết rơi vào cái nhìn chính trị
nhƣ: “Thoạt kỳ thủy khởi tố những cách dìu dăt trẻ thơ về những con
đƣờng chém giết, là hồi chuông cảnh tỉnh, báo hiệu những nguy cơ của
mảnh trần gian lấy bạo lực và dốt nát làm cẩm nang giáo dục con ngƣời”;
Hay “Khẩn là nhân vật đảng viên đầu tiên có những nhận thức nội tại về
mình. Khẩn cũng là ngƣời cán bộ cộng sản đầu tiên có cái nhìn hiện sinh về
bản thân và đất nƣớc. Khẩn còn là tình trạng khẩn cấp của con ngƣời cần
phải tìm hiểu mình trƣớc khi tìm hiểu và đánh giá ngƣời khác. Một cá thể,
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
5
một xã hội, không biết hoặc không muốn nhìn lại mình, thì sẽ dẫn đến đâu?
Đó là một trong những câu hỏi chính của tác phẩm.”[25]
Đoàn Cầm Thi tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Bình Phƣơng từ cái
nhìn phân tâm học để chỉ ra chất vô thức sáng tạo và tình dục trong sáng

tác của Nguyễn Bình Phƣơng “Sáng tạo văn học: giấc mơ và điên (đọc
Thoạt kỳ thủy)” hay “Người đàn bà nằm: “Từ thiếu nữ ngủ ngày” đọc
Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương.” Bài viết của Đoàn Cầm Thi đã
nêu ra những nhận xét rất xác đáng”. “Vô thức chiếm vị trí trung tâm trong
Thoạt kỳ thủy, đƣợc diễn tả trong một văn phong chậm, ngắn, chính xác,
phản ánh một tƣ duy đang khảo sát, chiêm nghiệm. Đặc biệt, nó đƣợc xem
xét trong mối quan hệ với điên và mộng hai trạng thái trong vô thức hoạt
động tích cực nhất”. Tác giả cũng rất chú ý tìm hiểu ngôn ngữ điên của
nhân vật trong tác phẩm dựa trên sự đối sánh với các nhân vật điên đã có
trong văn học truyền thống. Bài viết có một liên tƣởng khá thú vị giữa
Thoạt kỳ thủy với Thơ điên của Hàn Mạc Tử.
Gần đây, trên Tạp chí Văn học (số 4/ 2008) có đăng một bài nghiên
cứu khá công phu về Nguyễn Bình Phƣơng của nhà nghiên cứu trẻ Đoàn
Ánh Dƣơng “Nguyễn Bình Phương lục đầu giang tiểu thuyết”. Tác giả đã
khảo sát và chỉ ra những đặc điểm nổi bật ở mỗi tác phẩm của Nguyễn
Bình Phƣơng nhƣ những “chi lƣu” nhỏ, đều có những độc đáo riêng. Đoàn
Ánh Dƣơng đặc biệt nhấn mạnh đến phƣơng thức kết cấu và phƣơng thức
huyền thoại trong sáng tác của Nguyễn Bình Phƣơng. Tác giả cho rằng có
sự “hợp lƣu” trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng, đó là nhà văn đã
thành công ở phƣơng thức kết cấu huyền thoại. Đây là một trong những bài
viết đƣợc đánh giá cao và gợi mở hƣớng đi khi tiếp cận tác phẩm của
Nguyễn Bình Phƣơng.
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng trong bài “Người đi vắng, ai đọc Nguyễn
Bình Phương? Hay nỗi cô đơn của tiểu thuyết cuối thế kỷ” đã chỉ ra những
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
6
“cái mới” trƣớc hết ở việc tạo ra một hệ thống những ám ảnh của nhân vật.
Ông cho rằng tính chất hiện đại ở tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng thể hiện
ở lối kết cấu không có mở đầu cũng không có kết thúc, nhân vật không có

tiểu sử, ở lối kết cấu theo dòng tâm trạng và đặc biệt “huyền thoại hóa cuộc
sống đời thƣờng là một đặc điểm dễ nhận thấy trong tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phƣơng”. Tất cả những điều đó đƣợc Nguyễn Mạnh Hùng
đánh giá là “không chỉ lạ hóa nội dung và hình thức biểu hiện mà còn làm
một thay đổi lớn về thể loại tiểu thuyết không phải bằng lý luận mà bằng
hình tƣợng nghệ thuật”. Tác giả cho rằng chính điều đó khiến tác phẩm của
Nguyễn Bình Phƣơng khó tiếp cận độc giả khi thói quen thẩm mỹ cộng
đồng chƣa thay đổi.
Nguyễn Chí Hoan với bài viết: “Cấp độ hiện thực và sự hão huyền của
ý thức trong Thoạt kỳ thủy”, đã rất quan tâm đến kỹ thuật của cuốn tiểu
thuyết. Đó là các kết cấu lập thể, kết cấu thời gian đồng hiện, là lối hành
văn với sự giản yếu các câu văn “tạo ra một sắc thái tƣợng trƣng trùng hợp
rõ rệt với đối tƣợng mô tả - cái thoạt kỳ thủy”. Ông cho rằng mặt hạn chế
của tác phẩm là hiện thực của tác phẩm “bị kỹ thuật kết cấu kéo căng ra
quá mức, khiến cho tham vọng luận đề của cuốn sách trở nên giống nhƣ
một tham vọng khái quát bằng kỹ thuật dựng truyện hơn là những hoa trái
của một trải nghiệm suy tƣ thực thụ”.
Trong bài viết “Tiểu thuyết như là trạng thái tìm kiếm ý nghĩa đời
sống” đăng trên Báo Văn nghệ số 45, (11.2006), nhà nghiên cứu Phạm
Xuân Thạch cho rằng Ngồi là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc, thể hiện độ
chín trong nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng: “Nó là một
cuộc mời gọi đặt đặt vấn đề phản tƣ về đời sống và ý nghĩa của đời sống.
Nó là một tiểu thuyết bắt ngƣời ta phải suy tƣ và làm điều ấy, nó xứng đáng
là một tiểu thuyết xuất sắc. Theo tác giả thì tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
7
Phƣơng là kiểu tiểu thuyết mới, phản tiểu thuyết hay chính xác hơn là
chông chênh trên bờ của một thứ phản tiểu thuyết.
Bên cạnh đó cũng có những bài viết trái chiều khi nhận xét về tiểu

thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng nhƣ bài của nhà phê bình Nguyễn Hòa:
“Một cách lý giải về thực trạng tiểu thuyết Việt Nam đương đại” cho rằng
những cố gắng cách tân của một số tác giả, trong đó có Nguyễn Bình
Phƣơng “chƣa làm nên những đột biến trong tƣ duy thể loại, vẫn chỉ là
những tìm tòi hình thức, mà nếu chuyên chú với hƣớng đi ấy, chƣa hẳn đã
có thành tựu”. Và “trong motip nhân vật bị chi phối bởi trạng thái bệnh lý
“tâm thần”, “điên” trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng có thể cung
cấp một cái nhìn “bất bình thƣờng” về cuộc sống và con ngƣời, nhƣng sự
trở đi trở lại của motip này đang đẩy tác giả tới nguy cơ đơn điệu nhàm
chán” [45;209]
Hàn Thủy trong bài Trăng đen - đọc Thoạt kỳ thủy của Nguyễn
Bình Phƣơng lại tỏ ra e ngại về mâu thuẫn giữa phạm vi ý nghĩa chủ đề của
tác phẩm với độ dài của cuốn sách: “Nếu đây là một cố gắng đi tìm kiếm
cái vô thức sâu thẳm và mênh mông của con ngƣời nói chung và con ngƣời
Việt Nam nói riêng thì với khung cảnh quá hạn hẹp của Thoạt kỳ thủy chƣa
thể gọi là Nguyễn Bình Phƣơng đã thành công. Có nhiều ngƣời không đồng
tình với ý kiến này bởi đối với tiểu thuyết hiện đại, sự dồn nén thông tin là
một đặc điểm nổi bật
Hay Nguyễn Đình Chính trong bài “Sẽ chẳng có ma nào đọc Ngồi”
cho rằng Ngồi là một bƣớc lùi trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng
và cho rằng Nguyễn Bình Phƣơng đã xây dựng nên những nhân vật nửa
ngƣời nửa ngợm.
Có thể nói, nhiều ý kiến trái chiều nhƣ vậy khi nhìn nhận đối với
sáng tác của một nhà văn, đặc biệt là đối với một “hiện tƣợng” có nhiều cái
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
8
mới nhƣ Nguyễn Bình Phƣơng cũng không phải là điều lạ nếu nhƣ không
nói đó là thành công của tác giả.
Ngoài ra còn có các bài trả lời phỏng vấn của Nguyễn Bình Phƣơng

trên các phƣơng tiện báo chí nhƣ của các tác giả Yên Ba (Nguyễn Bình
Phương nhà văn người trôi dạt trong thời đại, Vietnamnet), Nguyễn Quyến
(Nguyễn Bình Phương - tôi không xây dựng một nhân vật điển hình, Báo
Thể thao và văn hóa); Thu Hà (Nguyễn Bình Phương với thói quen quan
sát người điên, Vietnamnet) Nội dung của các bài phỏng vấn nói trên, tựu
trung lại thƣờng tập trung vào các vấn đề: quan niệm của nhà văn về tiểu
thuyết, vấn đề kết cấu tiểu thuyết, vấn đề tình dục trong các tác phẩm ….
Về công trình nghiên cứu khoa học đã có một số luận văn và khóa
luận tốt nghiệp:
“Nguyễn Bình Phương với việc khai thác tiềm năng thể loại để hiện
đại hóa tiểu thuyết” (Hồ Bích Ngọc, Luận văn Thạc sĩ khoa học, ĐHSP Hà
Nội, 2006). Luận văn nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Bình Phƣơng ở
phƣơng diện thể loại và chỉ ra tiểu thuyết của anh có sự hiện đại hóa từ ý
thức mới về kết cấu đã “phá hủy mô hình cốt truyện truyền thống, thể hiện
cái hiện đại vận động, chuyển biến, không khép kín” đến việc từ chối quan
niệm điển hình hóa hiện thực, một ứng xử hiện đại về nhân vật và những
tìm kiếm về ngôn ngữ giọng điệu. Đây có thể coi là luận văn đầu tiên đặt
vấn đề nghiên cứu tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng một cách có hệ
thống trong nhà trƣờng và đã có những tìm tòi nghiên cứu nghiêm túc. Tuy
nhiên luận văn mới chỉ tiến hành khảo sát ở bốn tác phẩm (Những đứa trẻ
chết già. Người đi vắng, Thoạt kỳ thủy, Trí nhớ suy tàn). Ở khóa luận
“Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương”, (Nguyễn Thị
Phƣơng Diệp, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHKHXH&VN, 2007), ngƣời viết
tiến hành nghiên cứu những yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
9
Phƣơng và khẳng định Nguyễn Bình Phƣơng coi đó là một thủ pháp nghệ
thuật có tính thống nhất trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng.
Ngoài ra còn có các báo cáo khoa học của sinh viên, có thể kể đến

nhƣ: Cấu trúc tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương (Phùng
Diệu Linh, BCKH, ĐHSP HN, 2004), Phùng Diệu Linh đã đƣa ra những
nhận định về Thoạt kỳ thủy ở phƣơng diện cấu trúc đã phác thảo một mô
hình cấu trúc đồng hiện. Cấu trúc của Thoạt kỳ thủy bao gồm cấu trúc lập
thể, cấu trúc đồng hiện và cấu trúc hệ thống các biểu tƣợng. Ở bài “Lời câm
của nhân vật Tính trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy” (Hoàng Thị Quỳnh
Nga, BCKH, ĐHSPHN, 2004) và Quỳnh Nga chủ yếu tập trung ở vấn đề
ngôn ngữ trong tác phẩm, và cho rằng nội dung của những lời câm của
nhân vật Tính là những ám ảnh của bạo lực, cái chết, của máu và trăng.
Bên cạnh những luận văn, khóa luận đặt vấn đề trực tiếp nghiên cứu
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng còn có một số luận văn, khóa luận khác
có khảo sát các tác phẩm của Nguyễn Bình Phƣơng cùng với hệ thống các
sáng tác cùng thời nhằm chứng minh cho một vài yếu tố cách tân của tiểu
thuyết qua đó chỉ ra xu hƣớng vận động của tiểu thuyếtViệt Nam hiện đại.
Có thể kể tới: “Bước đầu tìm hiểu đặc trưng thể loại tiểu thuyết ngắn trong
văn học Việt Nam 1986 -2006, qua hai tác giả Tạ Duy Anh và Nguyễn Bình
Phương” (Phạm Thị Trang, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHKHXH&NV, 2007;
“Một số đặc điểm đáng chú ý của tiểu thuyết ngắn ở Việt Nam những năm
gần đây” (Bùi Thị Thu, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP HN, 2005); “Tiểu
thuyết Việt Nam năm năm đầu thế kỷ XXI”; (Phạm Thị Thu Hiền, Luận văn
Thạc sĩ khoa học, ĐHKHXH & NV, 2007); “Cấu trúc tiểu thuyết Việt Nam
thế kỉ XXI”(Hoàng Cẩm Giang, Luận văn thạc sĩ khoa học, ĐHKHXH&NV
2007).
Từ những bài biết và các công trình nghiên cứu trên đây chúng tôi
rút ra một số nhận xét sau:
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
10
1. Mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau nhƣng hầu hết những bài
viết đều khẳng định tiểu thuyết Nguyễn Bình Phƣơng có sự cách tân ở

phƣơng diện nội dung và đặc biệt là ở kỹ thuật tiểu thuyết.
2. Những bài viết trên chủ yếu là các tiểu luận hay các phát biểu
ngắn - bàn về những đặc điểm cụ thể của từng tác phẩm hay một vài một
vài khía cạnh trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng
3. Những bài viết có tính tổng hợp do sự hạn chế về mặt dung lƣợng
đăng tải báo chí, mới chỉ đƣa ra đƣợc những luận điểm chứ chƣa phải là
những bài phê bình nghiên cứu công phu.
Tóm lại, những bài viết, những công trình đó, bằng các hƣớng tiếp
cận khác nhau đã ít nhiều đề cập đến yếu tố cách tân trong tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phƣơng. Đó là sự gợi mở quý báu giúp chúng tôi thực hiện
đề tài này. Với tinh thần kế thừa, tiếp thu ý kiến của những ngƣời đi trƣớc,
cũng nhƣ chỉ ra điểm dừng của những ngƣời đi trƣớc, luận văn tiến hành
mở rộng phân tích nghiên cứu, từ đó đƣa ra một cái nhìn khái quát về
những cách tân nghệ thuật của Nguyễn Bình Phƣơng.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng nghiên cứu là 7 cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phƣơng nhƣ: Bả giời, Vào cõi, Trí nhớ suy tàn, Người đi vắng, Thoạt kỳ
thủy, Những đứa trẻ chết già, Ngồi. Ngoài ra luận văn có khảo sát thêm
một số truyện ngắn và thơ của tác giả nhằm làm nổi bật lối viết của anh.
Luận văn cũng khảo sát thêm một số tác phẩm của các tác giả có nét
tƣơng đồng với Nguyễn Bình Phƣơng trong cách tân tiểu thuyết nhƣ:
- Chinatown, Made in Vietnam, Paris 11.8, T. mất tích (Thuận)
- Thiên thần sám hối, Đi tìm nhân vật (Tạ Duy Anh)
- Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà)
- Tấm ván phóng dao (Mạc Can)
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
11

4. NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN

Với đề tài này, luận văn nhằm hƣớng đến những mục đích sau:
- Tiến hành khảo sát để tìm ra những nét cách tân đặc sắc trong từng
tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng
- Chỉ ra cách tân nổi bật thể hiện sự thống nhất và vận động trong kỹ
thuật tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng. Đặc biệt ở hai phƣơng diện:
cách tân về kết cấu tiểu thuyết và sử dụng yếu tố kỳ ảo như là một thủ pháp
nghệ thuật
- Ghi nhận những đóng góp mới của Nguyễn Bình Phƣơng trong hƣớng
vận động cách tân của tiểu thuyết Việt Nam.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Luận văn sử dụng chủ yếu các phƣơng pháp truyền thống bao gồm:
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tác phẩm, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp. Bên cạnh đó luận văn cũng sử dụng một số
phƣơng pháp nghiên cứu khác để bổ trợ nhƣ: thi pháp học, phương pháp
cấu trúc, phương pháp ký hiệu học, phương pháp liên văn bản.
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn triển khai
nội dung trong 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Nguyễn Bình Phƣơng trong sự vận động của tiểu thuyết
Việt Nam đƣơng đại (từ 1986 đến nay)
Chƣơng 2: Những cách tân về mặt kết cấu tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phƣơng
Chƣơng 3: Sử dụng yếu tố kỳ ảo - một thủ pháp nghệ thuật trong tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương

Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
12
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG TRONG SỰ VẬN ĐỘNG CỦA
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI (TỪ 1986 ĐẾN
NAY)

1.1 KHÁI QUÁT VỀ XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

1.1.1 Bức tranh chung về tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại
1.1.1.1 Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đứng trƣớc nhu cầu
“đổi mới tƣ duy tiểu thuyết”, bắt đầu có những vận động nhất định về cả đề
tài, chủ đề lẫn phƣơng thức biểu hiện. Vệt dƣ âm của đề tài chiến tranh còn
kéo dài đến cuối thế kỉ XX, những tác phẩm mang chủ đề lịch sử (tự sự lịch
sử) vẫn chiếm một tỉ trọng cao. Tuy nhiên mặc dù vẫn khai thác đề tài
chiến tranh nhƣng không còn là tiểu thuyết mang cảm quan sử thi, với
những chiến thắng oai hùng, những nhân vật mang tính huyền thoại mà
thay vào đó là cái nhìn trầm lắng, sâu sắc hơn về thân phận của con ngƣời
trong chiến tranh, chiến tranh đã qua đi nhƣng vẫn để lại bao nỗi đau ám
ảnh. Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng, Khúc bi tráng
cuối cùng (Chu Lai), Thời xa vắng (Lê Lựu) , là những tác phẩm ít nhiều
đã chạm tới những cách tân về nội dung biểu hiện cũng nhƣ hình thức trần
thuật. Chúng ta dễ nhận ra việc đổi mới tƣ duy nghệ thuật, đổi mới cách
nhìn là cơ sở quan trọng để có đƣợc sự đa dạng về phong cách và giọng
điệu với nhiều phƣơng thức biểu hiện mới mà trƣớc đó chƣa có, nhƣ sử
dụng hiện thực tâm linh, yếu tố kì ảo, dòng ý thức.

Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
13
Trong không khí hội nhập, với nhiều luồng văn hóa, ý thức cách tân
của nhà văn cũng trở thành phù hợp với sự phát triển của chính bản thân
văn học và phù hợp với nhu cầu đổi mới, khát vọng dân chủ trong xã hội.
Các quy luật, các sự kiện của lịch sử, của xã hội bắt đầu đƣợc nhìn qua lăng
kính cá nhân, mang màu sắc riêng của mỗi cá tính sáng tạo, của mỗi nhân
vật. Bên cạnh những tiểu thuyết về đề tài chiến tranh thành công, tiểu
thuyết về thế sự đời tƣ ngày càng chiếm tỉ lệ lớn. Những tác phẩm nhƣ:
Nước mắt đỏ (Trần Huy Quang), Gặp gỡ cuối năm, Cha và con
và…(Nguyễn Khải), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Chim én bay
(Nguyễn Trí Huân), Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Mùa lá rụng trong
vườn, Đám cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Ăn mày dĩ vãng
(Chu Lai), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Bến không chồng (Dƣơng Hƣớng),
Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trƣờng), Tường thành (Võ
Thị Xuân Hà), Trăm năm thoáng chốc (Vũ Huy Thanh), Ngụ Cư (Thùy
Dƣơng), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân) Khúc sông mê (Triệu Xuân), Dòng
sông mía (Đào Thắng), Tấm ván phóng dao (Mạc Can)…. nghiêng về khai
thác những cảnh ngộ, số phận con ngƣời cả trong chiều thuận và nghịch
của nó, một hƣớng tiếp cận và khai thác sâu hơn vào cái đời thƣờng của
cuộc sống cá nhân. Về mô hình tính cách, bên những con ngƣời anh hùng –
con ngƣời cộng đồng, đã xuất hiện con ngƣời thân phận, cá thể, con ngƣời
mang bi kịch cá nhân. Vấn đề tình dục là một vấn đề rất đỗi bình thƣờng
của con ngƣời nhƣng nó cũng là một vấn đề vô cùng nhạy cảm. Ở giai đoạn
trƣớc vấn đề này ít đƣợc đề cập đến, nếu có thì cũng rất tế nhị. Sang giai
đoạn này vấn đề đó đƣợc khai thác nhiều hơn và với cái nhìn tự do, phong
phú hơn. Các tác giả Hồ Anh Thái (Mười lẻ một đêm), Thuận (Chinatown,
Pari 11 tháng) đã không ngần ngại miêu tả chất sắc dục, tình yêu nhục
thể, một lĩnh vực rất riêng của đời sống cá nhân. Miêu tả con ngƣời với

Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
14
những yếu tố tích cực của con ngƣời tự nhiên cũng là một khía cạnh nhân
bản của văn học.
Tiểu thuyết Việt Nam những năm gần đây xuất hiện tiểu thuyết tự
truyện đã để lại nhiều ấn tƣợng trong độc giả với những tác phẩm nhƣ:
Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải).
Chuyện của thiên tài (Nguyễn Thế Hoàng Linh), Gia đình bé mọn (Dạ
Ngân). Tìm đến tự truyện, các nhà văn nhƣ trở về với chính mình. Tiểu
thuyết tự truyện cốt truyện đƣợc xây dựng trên cơ sở của sự kiện chính về
cuộc đời, về con ngƣời tác giả. Tất nhiên trí nhớ không hoàn toàn là máy
quay phim có thể chụp lại một cách chính xác, cho nên việc có mặt của yếu
tố hƣ cấu là tất yếu không thể đòi hỏi tự truyện, giống y nhƣ thật. Với loại
hình tiểu thuyết này, cốt truyện có chức năng tái tạo lại một đoạn đời của
ngƣời viết. Đây là một dạng truyện viết theo cách hồi ức tự nghiệm, thấm
đẫm những cảm quan cá nhân của từng nhân vật. Ở đây không có cái gọi là
“tự sự hoàn chỉnh”, công việc của mỗi ngƣời đọc là chắp nối các mảnh hồi
ức rời rạc trong dòng suy tƣởng của cá nhân để tự tạo nên một hình dung
tổng thể cho riêng mình.
1.1.1.2 Cùng với đề tài đời tƣ thế sự, đề tài lịch sử cũng là đối tƣợng
đƣợc các nhà tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại quan tâm, có thể kể tới
những tác phẩm tiểu biểu: Thăng Long ký (Nguyễn Khắc Phục), Giàn
thiêu (Võ Thị Hảo), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh)…. Mỗi tác phẩm là
một phong cách riêng, hƣớng độc giả tới một cái nhìn mới về tiểu thuyết
lịch sử. Nói đúng hơn, các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này tiến
sâu vào những đặc điểm mang tính bản chất của thể loại tiểu thuyết. Nghĩa
là chúng ta đƣợc thƣởng thức các tác phẩm tiểu thuyết thực sự chứ không
phải là tiếp xúc với các sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử sau khi đƣợc
tiểu thuyết hóa. Nếu trƣớc đây, sự thật lịch sử luôn là yếu tố quan trọng mà

Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
15
các nhà tiểu thuyết lịch sử phải bám sát thì giờ đây nó chỉ đƣợc xem là “cái
đinh” để nhà văn treo các “bức tranh” của mình lên. Các biến cố lịch sử
đƣợc dựng lên từ những góc nhìn khác nhau, các nhân vật lịch sử đƣợc tái
hiện một cách sống động với đầy đủ đời sống nội tâm và các cung bậc tình
cảm của con ngƣời. Nhân vật lịch sử không còn đƣợc thần thánh hóa để trở
thành những hình tƣợng cao siêu, họ hiện lên cả trong những chiến công
oanh liệt và cả trong cuộc sống đời thƣờng muôn vẻ. Về phƣơng thức biểu
hiện, các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này không còn lệ thuộc vào
tiểu thuyết cổ điển chƣơng hồi, câu văn biền ngẫu… nó tạo cho mình một
kết cấu lạ, tạo tính hấp dẫn góp phần chuyên chở ý đồ nghệ thuật của nhà
văn. Ngôn ngữ linh hoạt vừa mang màu sắc văn hóa của thời đại lịch sử mà
nó xâm nhập vừa mang màu sắc hiện đại. Bên cạnh đó nghệ thuật hƣ cấu
giúp cho các hiện tƣợng sự kiện, nhân vât lịch sử không còn là một hằng số
đứng yên mà tiếp tục vận động cùng cuộc sống muôn hình.
Hơn nữa, trong bối cảnh giao lƣu hội nhập văn hóa quốc tế, đội ngũ
nhà tiểu thuyết đƣợc bổ sung các cây bút hải ngoại, cho chúng ta hiểu về
cuộc sống của ngƣời Việt ở nƣớc ngoài. Bên cạnh đó góp thêm những điểm
nhìn khác lạ về đời sống trong nƣớc: Made in Vietnam, Chinatown, Paris
11 tháng 8 (Thuận), Tìm trong nỗi nhớ, Trên đỉnh dốc (Lê Ngọc Mai),
Gió từ thời khuất mặt (Lê Minh Hà)…
Nhìn chung, những đổi thay mạnh mẽ về đề tài, chủ đề, sự đổi mới
quan niệm về hiện thực và cách kể chuyện của tiểu thuyết, đã không ngừng
đƣợc đặt ra qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau trên văn đàn: từ “thế hệ thứ
nhất” (với Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, …) đến “thế hệ
thứ hai” (Nguyễn Huy Thiệp, Dƣơng Thu Hƣơng, Phạm Thị Hoài, Bảo
Ninh…). Giờ đây, với “thế hệ thứ ba” (Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phƣơng,
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương

Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
16
Hồ Anh Thái, Thuận…), với những “thử nghiệm”, những thành tựu của các
nhà văn sinh ra trong một thế hệ đã khác trƣớc, nhu cầu cách tân lại ngày
càng mạnh mẽ. Tiểu thuyết Việt Nam đã đi qua nhiều biến động, thậm chí
cả những cuộc lột xác để đến với đời sống đƣơng đại và có đƣợc diện mạo
mới mẻ nhƣ ngày hôm nay.
Quả thực, sự xuất hiện của “làn sóng thứ ba” trên văn đàn đƣơng đại,
nó không chỉ là kết quả của sự hội nhập giữa nhiều luồng văn hóa và thông
tin, mà còn là kết quả của sự đổi mới trong nhận thức của một thế hệ “đang
lớn dần, một thế hệ đã đủ xa cách để vƣợt qua khỏi những mặc cảm và giáo
điều trong cả văn học và cuộc sống.” (Nguyễn Thanh Sơn). Đó là một sự
phát triển mang tính vận động nội tại; một sự biến đổi về chất, từ những
đổi mới về “lƣợng”; một sự biến đổi về hình thức, từ những biến đổi về
nội dung [11]

1.1.2 Xu hướng cách tân của tiểu thuyết Việt Nam.

1.1.2.1 Bên cạnh những yếu tố truyền thống, tiểu thuyết Việt Nam đã
xuất hiện nhiều yếu tố của tiểu thuyết “hiện đại” và “hậu hiện đại”
Đứng trƣớc yêu cầu đổi mới tƣ duy tiểu thuyết và trên tầm nhìn của
thời đại mới, các tác giả tiểu thuyết có điểm nhìn khái quát hơn.Từ đó
những quan niệm về văn chƣơng, về con ngƣời, về hiện thực… mang một
hình thức mới mẻ hơn, tự do hơn. Bên cạnh những yếu tố truyền thống, tiểu
thuyết Việt Nam đã xuất hiện nhiều yếu tố của tiểu thuyết “hiện đại” và
“hậu hiện đại”. Theo các nhà mĩ học hiện đại và hậu hiện đại, đời sống, đặc
biệt là đời sống đƣơng đại, cho thấy nhiều hiện thực phong phú, phức tạp
và không thể hoặc khó có thể “kể lại” đƣợc (những cái không xảy ra theo
trình tự thời gian, không gian; những cái nằm sâu trong tiềm thức, vô thức;
những cái lẫn lộn hỗn mang…). Lúc này, chức năng cơ bản của tiểu thuyết

Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
17
không phải là minh hoạ bằng một câu chuyện, một quan niệm về thế giới
hay về lịch sử đã đƣợc xác lập, mà là làm phát lộ, bằng những con đƣờng
đặc trƣng của nó, “cái mà chỉ có tiểu thuyết mới nói đƣợc… cái không
đƣợc nói bởi chính sử, các vùng trải nghiệm của con ngƣời mà các nhà sử
học đã bỏ qua… mặt trái của cái hình ảnh mà xã hội chúng ta đã tự xây
dựng về chính mình” (Guy Scarpetta). Milan Kundera cũng khẳng định tiểu
thuyết vốn có một sứ mệnh khác hẳn với việc cung cấp một bức tranh “hiện
thực” về xã hội, và phải “phát minh ra các hình thức” Đó chính là phần
mà tiểu thuyết “hiện đại” và đặc biệt, “hậu hiện đại”, tiếp tục đảm đƣơng.
“Hậu hiện đại” phản kháng khuynh hƣớng và điều kiện sống của xã
hội ngày nay. Nó ảnh hƣởng biến chuyển chủ nghĩa từ trong bản chất.
Những đặc tính tiêu biểu có thể kể là: hỗn độn, rối mù, chao đảo, đứt rời,
phân mảnh, do dự, xúc động, mâu thuẫn, ít coi trọng quyền lực, coi thƣờng
sự trong sáng, không để ý đến nguyên bản, phân hóa, nhại lại, lắp ghép để
sáng tạo, sao chép để tái chế, chế nhạo để soi rọi làm sáng lịch sử và hình
dung hoá hiện thực.
Đặc trƣng thứ hai và có lẽ tiêu biểu nhất của văn chƣơng hậu hiện
đại là tính liên văn bản, trích dẫn ở cấp độ thể loại và motive. Bằng cách sử
dụng nhiều thể loại, nhiều kiểu tự sự và phong cách khác nhau, sử dụng trò
chơi kết hợp, nhà văn tạo ra một cấu trúc lai ghép và văn bản đa thanh.
Cũng nhƣ đặc trƣng thứ nhất, điều này khơi dậy nỗi hoài nghi đối với
những phƣơng thức hiện có trong việc nhận biết thực tại và thế giới, bằng
cách khẳng định rằng chúng ta chỉ có thể nhận biết thế giới thông qua các
văn bản, mà trên thực tế là những mảnh rời, trích đoạn và dấu vết của các
văn bản. Điều này tƣơng đồng với liệu pháp phân tâm học, vốn thông qua
việc liên tƣởng tự do các chi tiết và những thành tố còn thiếu để giúp con
ngƣời quay lại tính hay quên nguyên thủy và cái yếu tính mà mình đã đánh mất.

Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
18
Bằng cách dùng nhiều mô thức văn chƣơng - ngôn ngữ khác nhau
nhƣ huyền thoại, truyền thuyết, sự tích các thánh, kinh ngụy tác, truyện cổ,
lịch sử, v.v., đồng thời sử dụng chúng thông qua các hình thức diễn dịch lại
hay giễu nhại, làm phong phú cấu trúc văn chƣơng ngoạn mục của mình
bằng toàn bộ thành tựu của văn xuôi hiện đại, thiết lập đƣợc sự tiếp nối và
hài hòa giữa những nền văn hóa khác nhau và đạt đƣợc sự dung hợp giữa
cái cũ và cái mới. Phƣơng thức thực hiện việc này có thể quy về cách sử
dụng một số mô thức kỳ dị (Sava Damjanov gọi đây là sự “hậu hiện đại
hóa” cái kỳ dị), thông thƣờng nhất là dựa trên hiệu quả giấc mơ. Lý do làm
ta có ấn tƣợng này là có một sự hỗn độn thấy rõ về thời gian, gắn liền với
đặc trƣng cốt lõi của văn chƣơng hậu hiện đại: sự xóa mờ các quan hệ
không/thời gian. Đặc trƣng này ở mức độ nào đó đã hàm chứa sẵn trong
đặc trƣng thứ ba, bởi nó dựa trên sự phá bỏ tính hiện thực và không thừa
nhận trình tự logic của các quan hệ không / thời gian
Một đặc trƣng nữa của văn chƣơng hậu hiện đại là nhân vật không
hoạt động trên cấp độ tâm lý, điều này dẫn đến việc thiếu vắng sự phân tích
tâm lý đối với nhân vật, nó loại trừ khả năng minh định nhân vật theo lối cổ
điển. Tác giả xóa nhòa nhân vật bằng cách đƣa ra cùng một lúc nhiều điểm
nhìn và phối cảnh khác nhau đối với chủ thể mà cùng một lúc có thể vừa là
tác giả, vừa là ngƣời kể chuyện vừa là chính nhân vật, do đƣờng phân giới
giữa ba chủ thể này đã bị xóa mờ một cách có chủ ý. [22] Chúng ta có thể
thấy đƣợc sự manh nha của những yếu tố đó trong các tiểu thuyết gần đây.
Đó là nhƣng tiểu thuyết còn rất mới, lạ lẫm: Giàn thiêu (Võ Thị Hảo),
Thoạt kỳ thủy, Trí nhớ suy tàn, Ngồi (Nguyễn Bình Phƣơng), Chinatown,
Made in Vietnam, Paris 11.8, T. mất tích (Thuận), Người sông mê (Châu
Diên) Thiên thần sám hối, Đi tìm nhân vật (Tạ Duy Anh), Cơ hội của
Chúa, Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà), Tấm ván phóng dao (Mạc

Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
19
Can) Ấn tƣợng mạnh nhất khi đọc các tiểu thuyết này đó là sự khác lạ:
“Dƣờng nhƣ nhà văn không phải tái hiện bức tranh hiện thực mà đang trình
bày cách thức họ làm ra các “kết cấu nghệ thuật” nhƣ thế nào. Đây là các
kết cấu mang rõ tinh thần “khƣớc từ truyền thống”, nghĩa là vƣợt khỏi mô
hình tiểu thuyết quen thuộc, xác lập mối quan hệ giữa văn chƣơng với hiện
thực” [4].
Đây là những tác phẩm mở đầu cho cuộc thử nghiệm kiếm tìm hình
thức mới cho tiểu thuyết khá phong phú và vẫn đang tiếp tục. Quan niệm
truyền thống về tiểu thuyết mờ dần đi. Nguyễn Bình Phƣơng và Thuận sử
dụng dòng hồi ức miên man của ngƣời kể chuyện tạo ra những mảng màu
hiện thực, dùng thì hiện tại cho mọi thời gian của quá khứ. Hồ Anh Thái
với Cõi người rung chuông tận thế và Châu Diên với Người sông Mê đã
thể hiện một lối kết hợp ảo và thực đƣa ngƣời đọc vào sự bất định, mê hoặc
“nhƣ trong trò chơi rubic hay kính vạn hoa” (Nguyễn Thị Bình, Tiểu thuyết
Việt Nam sau 1975, một cái nhìn khái quát, NCVH số 2/2007). Tất cả tạo
ra cảm giác về sự trôi dạt của thân phận con ngƣời. Các thủ pháp nghệ
thuật nhƣ đồng hiện, kỹ thuật dòng ý thức, độc thoại nội tâm. Motip giấc
mơ, hồi ức hoài niệm đã tỏ ra có hiệu lực bộc lộ đƣợc nỗi niềm sâu kín của
con ngƣời. Ở đây, cái ngổn ngang bề bộn và khuynh hƣớng tự do trong
hành ngôn và sự co giãn của kết cấu đã góp phần tạo nên giọng điệu mới,
hơn nữa có thể nói lên đƣợc một cái gì đó khá chuẩn xác về một tâm thế có
thật và rất khó phát hiện trong cuộc sống hôm nay.
Khuynh hƣớng hiện thực với bút pháp mới, từ kết cấu trần thuật đến
hình tƣợng, từ nhân vật đến giọng điệu. Với những phối hợp “đa phức”, đa
tầng và có nhiều đứt gãy về điểm nhìn, về ngƣời kể chuyện, các tác giả đã
mang đến những “thế giới hiện thực” bị xáo trộn, bị phân mảng, trở nên
biệt lập và không thể kết nối thành một cái nhìn toàn vẹn, duy nhất nhƣ

Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
20
trong các tiểu thuyết truyền thống nữa. Ở đây đã nảy sinh một cuộc “đối
thoại ngầm” giữa tác giả với nhân vật và bạn đọc thông qua sự “tƣơng tác”
giữa các điểm nhìn, các ngôi, và hệ quả tất yếu của nó sẽ là đa dạng hóa các
giọng điệu trần thuật, phá vỡ sự độc tôn của một “giọng chủ âm” trên văn
bản tự sự. Tất cả đều hƣớng đến một phƣơng pháp đọc mới đòi hỏi sự sáng
tạo của ngƣời đọc. Đó là cách đọc không thụ động, đòi hỏi ngƣời đọc chủ
động suy nghĩ, cùng sáng tạo với tác giả. Bên cạnh đó trong quá trình đọc,
chính công chúng là ngƣời luôn khách quan trong việc “đào thải” các hiện
tƣợng vô giá trị hoặc phản giá trị, cổ vũ và định hƣớng cho những xu
hƣớng phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ của xã hội, của dân tộc.
Với những cách tân ở nhiều mức độ khác nhau, tiểu thuyết Việt Nam
đã có những thành tựu đáng kể trong nỗ lực hòa nhịp cùng dòng chảy văn
học đƣơng đại thế giới. Những cách tân mạnh mẽ đó (có dấu hiệu xuất hiện
chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn chƣơng) đã phá vỡ ranh giới của hàng loạt
quan niệm mang tính định giá: về chủ nghĩa hiện thực, về vai trò của chủ
đề tƣ tƣởng trong tác phẩm, về tầm vóc và quy mô của các tự sự.
1.1.2.2 Xu hướng rút ngắn dung lượng tiểu thuyết
Ngày nay với sự phát triển nhƣ vũ bão của công nghệ thông tin nó
cuốn nhịp độ cuộc sống đi nhanh hơn, tiểu thuyết cũng không nằm ngoài sự
ảnh hƣởng đó. Con ngƣời ngày càng có nhiều nguồn để tiếp nhận thông tin
hơn nên tiểu thuyết cũng phải có quá trình vận động cho phù hợp với thời
đại mới nhƣ rút ngắn dung lƣợng tiểu thuyết, không còn là những bộ
trƣờng thiên tiểu thuyết mà thay vào đó là những tiểu thuyết mang hình
thức một truyện dài nhƣng lại có có độ nén lớn về nội dung phản ánh.
“Chân lý luôn nằm bên ngoài chúng ta, và thay vì lèn chặt đời mình bằng
những ngôn từ, chúng ta có thể rút lại, nói ít đi, nhưng hãy làm sao gia
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương

Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
21
tăng trọng lượng mỗi từ, hãy làm cho mỗi từ chứa đầy sự bí ẩn và niềm
kính sợ, ngôn ngữ xứng đáng được như vậy” [12]. Phạm Thị Hoài với
Thiên Sứ (80 trang) đƣợc coi là tác giả tiên phong của tiểu thuyết ngắn ở
Việt Nam, sau đó là Nguyễn Bình Phƣơng với Thoạt kì thuỷ (167 trang)
Vào cõi (180 trang), Những đứa trẻ chết già (202 trang), Trí nhớ suy tàn
(127 trang), Ngồi (300 trang) ; Thuận - Chinatown (227 trang), Paris 11
tháng 8 (287 trang) ; Mạc Can - Tấm ván phóng dao (193 trang); Tạ Duy
Anh - Thiên thần sám hối – (125 trang) Đi tìm nhân vật (225 trang); Vũ
Huy Anh - Trăm năm thoáng chốc (190 trang)…. Những tác phẩm này có
sự xuất hiện của “trò chơi cấu trúc văn bản” nhằm phá hủy cốt truyện
truyền thống, tiến hành biểu hiện và nhận thức thế giới theo tinh thần phân
mảnh, và sự liên kết bề sâu của các phân mảnh đó tạo ra đƣợc một ý niệm
nhất quán nào đó về thế giới. Tự nó mang ý nghĩa biểu đạt sự phân rã, đổ
vỡ của hiện thực đời sống đƣơng đại. Tiểu thuyết ngắn còn mang tính triết
lý và chất thơ. Chất triết lý toát ra từ những suy tƣ trực tiếp, từ những tranh
biện cật vấn độc thoại, từ việc công khai đem vào truyện những đoạn tiểu
luận…Chất thơ lại thể hiện trong những mơ mộng, xúc cảm nội tâm, hoặc
cả những chất liệu huyền thoại đƣợc các nhà văn công khai sử dụng… Hầu
hết các tiểu thuyết ngắn đều tạo ra rất nhiều những biểu tƣợng nghệ thuật
có sức khái quát và sức gợi cao. Biểu tƣợng có khi là những hình ảnh của
cuộc sống trần thế hàng ngày, có khi là những mẫu gốc có sẵn từ truyền
thống văn hóa của văn học Việt Nam và thế giới [9]

1.1.2.3 Phương thức tiếp cận tác phẩm phong phú hơn tạo ra một
văn hóa đọc mới

Giờ đây các nhà xuất bản, tòa soạn không còn là bà đỡ duy nhất của
tiểu thuyết nữa mà không ít tác phẩm đƣợc thai nghén và sinh ra từ môi

Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
22
trƣờng internet (Trƣờng hợp Chuyện của thiên tài của Nguyễn Thế Hoàng
Linh là một điển hình). Môi trƣờng internet (mạng điện tử toàn cầu) nhƣ
các website văn hóa - văn học trong và ngoài nƣớc, các tờ báo điện tử, các
blog của cá nhân, khiến tác phẩm đến đƣợc với công chúng (ở nhiều lứa
tuổi, nghề nghiệp, tầng lớp khác nhau) và cũng nhận đƣợc phản hồi nhanh
chóng, rộng rãi hơn từ phía công chúng. Sự quan tâm của đông đảo độc giả
với các tác phẩm: Tấm ván phóng dao, Cánh đồng bất tận, Thiên thần
sám hối, Đi tìm nhân vật trong thời gian vừa qua là những dẫn chứng
tiêu biểu.
Có thể thấy “văn học mạng” chính là: văn bản đƣợc chuyển từ trang
giấy lên màn ảnh, kéo theo sự thay đổi trong chính bản thân khái niệm “văn
bản”. Nếu văn bản cổ điển đƣợc thiết kế theo một trật tự tuyến tính, thì văn
bản điện tử, ngƣợc lại, có tính chất phi tuyến tính. Ở đó, ngƣời đọc đƣợc tự
do chọn các điểm nối (link) để có thể chuyển mạch văn hay mạch truyện
theo một chiều hƣớng khác, không nhất thiết phải theo một kết cấu nào cố
định. Nếu văn bản theo nghĩa cổ điển là cái gì tĩnh tại, cố định thì văn bản
điện tử có thể biến hoá liên tục tuỳ theo cách tiếp cận của mỗi ngƣời đọc,
thậm chí, của mỗi lần đọc. Tóm lại, bản thân “văn học trên mạng” cũng góp
phần tạo ra độ mở cho việc đọc cũng như việc sáng tạo nên văn bản [11]


1.1.2.4 Một số điểm hạn chế

Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, trong xu hƣớng chung của một
“làn sóng mới” ít nhiều còn mang tính chất “tìm đƣờng”, một số tiểu thuyết
còn mang tính “thử nghiệm”, chƣa thực sự đạt đến độ hài hòa nhuần
nhuyễn giữa tƣ tƣởng ý nghĩa của tác phẩm với hình thức nghệ thuật mới lạ

(VD: Cõi người rung chuông tận thế, Khải huyền muộn ). Việc cực
đoan hóa khía cạnh “cái biểu hiện”, cụ thể hơn nữa là kĩ thuật tự sự, nhƣng
lại không gắn với một chiều sâu của tƣ tƣởng, của quan niệm về nghệ thuật
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
23
và con ngƣời đã không thể dẫn tới một tác phẩm hay, thực sự thuyết phục
ngƣời đọc. Bởi lẽ, điều quan trọng hơn cả là phải “biến đƣợc những kỹ
thuật sáng tác đó thành những giá trị, khả năng đẩy đến tận cùng những tìm
tòi nghệ thuật của mình cũng nhƣ khả năng đào sâu cái nhìn nghệ thuật dựa
trên những quan sát, cảm nhận và suy tƣ cá nhân về hiện thực chứ không
chỉ dựa trên những công thức sách vở có tính giáo điều.
Một điểm hạn chế nữa là mặc dù các tác giả thuộc “dòng cách tân”
nêu trên đều nỗ lực thay đổi truyền thống tự sự, vƣơn đến tính đa âm, tính
phức điệu của tiểu thuyết ; song điều mà phần lớn các tiểu thuyết Việt Nam
còn thiếu chính là một nền tảng triết học sâu sắc làm chỗ dựa cho những
cảm quan, suy tƣ mới mẻ về thế giới và con ngƣời. Bởi một tác phẩm nghệ
thuật hấp dẫn thì dù ở phƣơng trời nào cũng sẽ có những mẫu số chung :
phải có một chiều sâu tƣ tƣởng nhân văn, cảm quan mới mẻ về thế giới và
đƣợc chứa chở trong một hình thức phù hợp, hấp dẫn.
Có thể nói, nhƣ xu thế chung của tiểu thuyết phƣơng Tây, tiểu thuyết
Việt Nam đầu thế kỉ XXI đang ngày càng tiến gần đến với “truyện ngắn”,
đến “thơ”, đến “tiểu luận triết học”… Sự giao thoa của các thể loại trong tự
sự nghệ thuật đƣơng đại, nói cho cùng là vấn đề “thu hút và biến đổi các
thể loại khác” của tiểu thuyết – nhƣ Bakhtin đã từng nhận định. Nó gắn liền
với bản chất, đồng thời cũng là cách thể hiện sự tồn tại và phát triển riêng
của thể loại đặc biệt này. Tất nhiên, công cuộc cách tân một thể loại không
phải là một việc dễ dàng và nhanh chóng: trên đƣờng đi của nó sẽ luôn có
những thử nghiệm thất bại và những sáng tạo thành công.
Nhƣ vậy, sự đổi mới theo hƣớng hiện đại, đặc biệt là sự cách tân về

hình thức tiểu thuyết tạo ra những hiệu ứng đặc biệt, tuy nhiên cũng có
không ít hạn chế khi các tác giả còn quá chú trọng vào việc làm mới về mặt
Luận văn thạc sỹ Vũ Thị Phương
Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
24
hình thức khiến cho tác phẩm rơi vào tình trạng luẩn quẩn, khó hiểu không
đạt đƣợc mục đích đặt ra. Một điều nữa rất đáng lƣu ý: các tác giả hầu nhƣ
đều theo xu hƣớng “cách tân triệt để hình thức” tự sự. Tuy nhiên, trên thực
tế, xu hƣớng này chƣa thực sự phù hợp với quan niệm văn hóa – thẩm mỹ
truyền thống của độc giả Việt Nam nói chung.
Nhìn chung, tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, đặc biệt là tiểu
thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI của Nguyễn Bình Phƣơng, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Việt Hà, Thuận với xu hƣớng cách tân thể loại đã có những bƣớc
đột phá rõ rệt về cả nội dung ý nghĩa cũng nhƣ hình thức thể hiện. Trong đó
có sự xuất hiện của những yếu tố hiện đại và hậu hiện đại. Mảng hiện thực
chung mà các tiểu thuyết hƣớng đến là số phận và tâm hồn cá nhân trong
đời sống hiện đại mang xu thế “tiểu tự sự” hơn là “đại tự sự”. Từ đó, tiểu
thuyết có xu hƣớng cắt giảm dung lƣợng, tiến gần đến truyện vừa và truyện
ngắn, mang đậm chất thơ và chất triết lý ; đặc biệt có sự giao thoa với nhiều
thể loại văn chƣơng và “phi văn chƣơng” khác. Không thể đồng nhất cái
mới với cái hay. Song không thể có cái hay nếu nhƣ không mới.

1.2 SỰ XUẤT HIỆN CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG TRONG
DÒNG CHẢY CÁCH TÂN TIỂU THUYẾT

Nguyễn Bình Phƣơng sáng tác từ khi còn rất trẻ. Anh có tập thơ:
Khách của trần gian (NXB Văn học, 1986), Xa thân (1997), Lam chướng
(1992). Ngoài ra anh còn viết một số tiểu luận và truyện ngắn. Đặc biệt
ngƣời đọc biết đến Nguyễn Bình Phƣơng nhiều hơn khi anh bƣớc vào sáng
tác tiểu thuyết. Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phƣơng theo Hoàng Nguyên

Vũ đó là những mảnh ghép tạo nên xã hội Việt Nam đƣơng đại
Bả giời là tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Bình Phƣơng, tác phẩm
chƣa thực sự thu hút đƣợc sự chú ý bởi chƣa đủ sức nặng, để ám ảnh ngƣời
đọc. Tuy nhiên cái kỳ ảo tạo nên kết cấu tác phẩm với hai cõi âm dƣơng đã

×