Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 104 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN









TRẦN LỆ THU





Phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu





LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC









HÀ NỘI, 2008



1
Mục lục
Mục lục
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn.
6. Cấu trúc của luận văn.
Phần nội dung
Chương 1: Những chặng đƣờng thơ Nguyễn Đức Mậu
1. Nguyễn Đức Mậu – từ người chiến sĩ đến nhà thơ mặc áo lính
Con người – Quê hương – Gia đình
Người chiến sĩ – Nhà thơ mặc áo lính Nguyễn Đức Mậu trong phong trào
thơ ca chống Mỹ.
2. Những chặng đường sáng tác
Những vần thơ ra trận.
2.2. Những vần thơ đi ngược thời gian.
Chương 2: Những cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Đức Mậu
1. Cảm hứng về đất nước và con người trong chiến tranh
Cảm hứng về đất nước trong những năm tháng không bình yên.
Cảm hứng về con người trong chiến tranh.
2. Cảm hứng về cuộc sống trong hoà bình

Dư âm chiến tranh trong cuộc sống hòa bình
Cảm hứng về cuộc sống đời thường (đất nước, thiên nhiên thanh bình,
những người thân yêu,…).
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Nguyễn Đức Mậu
1. Thể thơ
2. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ thơ
3. Phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh
4. Giọng điệu
Phần kết luận
Thƣ mục tƣ liệu tham khảo

2
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Vốn là thể loại thuộc phương thức trữ tình, thơ ca ra đời rất sớm trong
lịch sử phát triển của nhân loại, ngay từ khi con người có nhu cầu tự biểu
hiện. Cho đến nay, loài người đã có những bước phát triển vượt bậc trên
nhiều lĩnh vực. Những bí ẩn của đời sống dần dần được khám phá, được lý
giải và cắt nghĩa trên tinh thần của phương pháp luận khoa học. Song không
phải vì vậy mà những sản phẩm thuộc về giá trị tinh thần của con người
giảm đi sức hấp dẫn. Thơ là một địa hạt như vậy. Ra đời từ sớm và đồng
hành cùng con người trong suốt hành trình dài, cho tới tận bây giờ, người ta
vẫn tìm thấy những nét mới, tìm thấy sự quyến rũ trong thơ, thậm chí vẫn
băn khoăn đi tìm một định nghĩa cho thơ. Bởi những gì thuộc về thơ không
phải cao siêu, bí ẩn nhưng nó phong phú, đa dạng, nhiều biến thái và nhiều
sắc màu cho nên cũng không dễ nắm bắt và không thể thoả đáng trong một
vài câu. Nói như Giáo sư Hà Minh Đức, có thể “ví thơ với một con sông
đang chảy qua nhiều phong cảnh khác nhau với lịch sử, và mỗi thời điểm mà
nó đi qua đã cho con sông thơ ấy một sắc thái riêng. Nó có thể là mặt hồ yên

tĩnh nơi này, mà lại là gào thét nơi khác, tuỳ theo địa hình, tuỳ theo lịch sử.
Nếu là sông thì con sông thơ Việt Nam đã chảy qua quá dài thời gian, qua
bao địa hình khác lạ. Điều ấy giúp rất nhiều các nhà lý luận vẽ bản đồ con
sông nhưng không dễ, đơn giản, xuôi chiều”. [16; 13, 14]. Con sông thơ Việt
Nam bắt nguồn dòng chảy bất tận của mình từ ca dao, dân ca, xuôi theo
chiều dài của lịch sử dân tộc. Ở mỗi chặng đường, âm hưởng của thơ ca
cũng có sự khác biệt. Đến thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, con sông
thơ cùng cả dân tộc hát lên những khúc tráng ca hào hùng.
Chiến tranh đã qua đi, với một “độ lùi thời gian” cần thiết, thơ chống
Mỹ ngày càng trở thành đối tượng hấp dẫn giới nghiên cứu và người đọc.
Với âm hưởng hùng tráng, thơ chống Mỹ có sự góp mặt của nhiều thi sĩ tài
năng, tâm huyết, với nhiều tác phẩm có sức sống lâu bền cùng thời gian.
Góp phần làm nên những thành tựu cả về số lượng và chất lượng, cả nội
dung và nghệ thuật của thơ chống Mỹ là sự xuất hiện của những nhà thơ trẻ.
Với tuổi trẻ tràn đầy lý tưởng cách mạng, vốn văn hoá, vốn sống thực tế
phong phú cùng tài năng của mình, các nhà thơ lứa tuổi 20 – 30 đã đem đến
cho thơ một tiếng nói khoẻ khoắn, sôi nổi, hồn nhiên và nhạy cảm, thơ đậm

3
chất sống của chiến trường với sức sáng tạo và những tìm tòi nghệ thuật mới
mẻ. Họ đã làm nên “một vùng sáng rất đẹp trong thơ” [18; 101].
Song song với việc nghiên cứu một giai đoạn thơ, một nền thơ, việc
khảo sát, đi sâu nghiên cứu một tác giả có vai trò tiêu biểu và là hướng đi
cần thiết. Bởi, với những tác phẩm của mình, mỗi tác giả đã tạo nên một
phong cách riêng, một gương mặt riêng, một dấu ấn nghệ thuật riêng biệt
của mỗi người nghệ sĩ.
Nguyễn Đức Mậu là nhà thơ xuất hiện vào thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ. Ông là một trong số những người đã viết tiếp truyền thống của cha anh,
những con người “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. Đường thơ của
ông đã trải dài con đường hành quân ra mặt trận, đi hết “một thời đạn bom”

oanh liệt, sôi nổi rồi trầm tư bước vào thời kỳ hoà bình. Nguyễn Đức Mậu đã
tạo dựng được một phong cách riêng rõ nét và có đóng góp quan trọng cho
sự thành công của nền thơ thế hệ. Xuyên suốt từng trang thơ là tấm lòng tha
thiết, gắn bó với đất nước, với con người Việt Nam. Tiếng thơ Nguyễn Đức
Mậu vừa giản dị chân thành vừa giàu những rung động nội tâm tinh tế và
cảm xúc nồng nàn sâu lắng. Ông đã viết những câu thơ từ chiến trường lửa
cháy bằng chính những trải nghiệm của bản thân mình. Không cầu kỳ tô vẽ,
không một chút giả tạo, thơ ông đượm chất sống của hiện thực và độ sâu của
tâm hồn. Giản dị trong thơ, khiêm tốn và thành thực trong đời, Nguyễn Đức
Mậu và những vần thơ của ông đã làm người đọc yêu mến và cảm động.
Chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn là: Phong cách thơ
Nguyễn Đức Mậu với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên
cứu, đánh giá về một gương mặt quen thuộc trong nền thơ ca hiện đại nước
nhà.
2. Lịch sử vấn đề
Raxun Gamzatốp trong tác phẩm Đaghextan của tôi đã tâm sự ông rất
thích câu nói ghi trên sản phẩm vùng Kubatri nói: “Qua giọng hát anh nhận
ra người hát. Qua nét khắc anh nhận ra người thợ bạc”. Nói cách khác, giọng
hát ấy, nét khắc ấy chính là dấu ấn phong cách không thể nhòe lẫn của riêng
mỗi người làm nghệ thuật.
Phong cách là một thuật ngữ không xa lạ đối với người nghiên cứu
nghệ thuật nói chung và nghiên cứu văn học nói riêng. Chúng tôi thống nhất
với quan điểm của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình

4
Sử về khái niệm phong cách trong khoa nghiên cứu văn học: “phong cách là
một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống
hình tượng, của các phương tiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong
sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học
hay văn học dân tộc…; các dấu hiệu của phong cách dường như nổi lên trên

bề mặt tác phẩm, như là một thể thống nhất hữu hình và có thể tri giác được
tất cả mọi yếu tố cơ bản của hình thức nghệ thuật” [20; 207].
Đề cập đến cái nhìn độc đáo trong sáng tác chính là sự khẳng định
mọi nhà văn, nhà thơ đều có những tác phẩm của riêng mình, song không
phải bất kỳ nhà văn, nhà thơ nào cũng tạo được cho mình một phong cách
riêng. Chỉ những người nghệ sĩ có tài năng, có bản lĩnh trong quá trình sáng
tạo nghệ thuật mới tạo được một phong cách riêng độc đáo. Tài năng của
mỗi nhà thơ sẽ phụ thuộc vào cái nhìn mang tính phát hiện của họ đối với
con người và cuộc sống. Cách nhìn độc đáo ấy lại được thể hiện trong cách
sử dụng ngôn từ, cấu tứ, nhịp điệu,… khi nhà thơ tạo ra tứ thơ, hình tượng
thơ thể hiện cảm hứng chủ đạo trong các tác phẩm của mình.
Ngôn ngữ thơ ca thể hiện đầy đủ những mặt mạnh trong phong cách
sáng tạo của từng nhà thơ. Có được một ngôn ngữ thơ ca đẹp là một vấn đề
không thuần tuý thuộc về sự rèn luyện hình thức mà trước hết là một vấn đề
thuộc về nội dung cảm nghĩ. Không thể nói đến một hệ thống từ ngữ ở trong
thơ với ý nghĩa tách biệt khỏi yêu cầu của nội dung. Ngôn ngữ thơ ca không
phải chủ yếu là công cụ mà bản thân nó là mục đích. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là
nhân tố năng động, biến hoá và nhiều màu sắc nhất.
Sự vận động của hình tượng thơ thường phải có những điểm tựa cụ
thể và xác định. Tình cảm là đơn vị cấu tạo chủ yếu của hình tượng thơ.
Nhưng nếu không có tứ thì tình cảm không được tổ chức lại một cách chặt
chẽ và không phục vụ được cho chủ đề chung của bài thơ. Tứ chính là ý
tưởng bao quát của toàn bài biểu hiện trong sự liên kết những cảm xúc, suy
nghĩ và hình ảnh, biểu hiện trong dạng cấu tạo và phát triển của hình tượng
thơ. Có những tứ thơ được xác lập một cách công phu phức tạp, có tứ thơ
giản dị. Song ở dạng nào tứ thơ cũng phải có sắc thái và dáng dấp cụ thể.
Sáng tạo được những tứ thơ hay đó là một phương diện của tài năng thi ca.
Trong bài thơ Duyệt binh, Chính Hữu không miêu tả trực tiếp cuộc duyệt
binh mà xây dựng tứ thơ qua hình ảnh và suy nghĩ của một đồng chí thương
binh đứng nhìn cuộc duyệt binh. Anh thương binh không chỉ quan sát cuộc


5
duyệt binh đẹp đẽ và hào hùng như mọi người mà anh cảm thấy trong tiếng
nhạc, trong nhịp chân đều bước của đoàn quân chiến thắng hôm nay có tiếng
bước chân mình, đôi chân đã mất sau những năm dài hành quân chiến đấu.
Với thơ, nhịp điệu giữ một vai trò quan trọng. Có những bài thơ, nhịp
điệu như ẩn vào âm hưởng bên trong lắng sâu, dào dạt. Huế, quê mẹ (Tố
Hữu) có một nhịp điệu riêng vừa đằm thắm yêu thương vừa tha thiết khơi
dậy những kỷ niệm qua một ngọn núi, một dòng sông, một điệu hò thân
thuộc. Bài ca lái xe đêm lại thể hiện cái sôi nổi, tươi vui của nhịp điệu, nhịp
thơ như chuyển động cuồn cuộn, như băng băng lao về phía trước theo
chuyến xe đi và hòa vào niềm reo vui của tâm hồn… Có ý thức về nhịp điệu
là một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với người sáng tác. Nhà thơ phải nắm
bắt được nhịp điệu của đời sống với tất cả sắc thái phong phú nhất của nó.
Quan trọng hơn, nhà thơ là đại diện của nhịp điệu. Blôc đã ghi nhật ký của
mình (7-2-1921): “Nhà thơ là người thế nào? Là người sáng tác thơ? Tất
nhiên – không phải như thế. Nhà thơ – đó là vị đại diện của nhịp điệu”.
Đặc biệt, “phong cách thơ còn là một biểu hiện đậm đặc của cái tôi trữ
tình trong thơ” [40; 135]. Bởi lẽ trong sáng tác thơ, vấn đề chủ thể - cái tôi
trữ tình – luôn có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cái tôi trữ tình bộc lộ
trong thơ dưới nhiều dạng thức. Có khi dưới dạng trực tiếp của một tình cảm
riêng tư, một câu chuyện, một cảnh ngộ, một sự việc gắn với cuộc đời riêng
của người viết mà nhà thơ thường sử dụng cách bộc lộ trực tiếp qua chữ
“tôi” hoặc chữ “ta”, có khi viết về một khách thể nhưng cũng lại nhằm bộc
lộ tư tưởng, tâm trạng của mình. Cái tôi trữ tình chính là cái tôi tác giả được
nghệ thuật hoá. Vì vậy mà cái tôi trữ tình của mỗi tác giả lại khác nhau, Tố
Hữu khác Chế Lan Viên và cũng rất khác Hoàng Trung Thông, Huy Cận,…
Chính sự khác nhau của những cái tôi trữ tình góp phần quyết định tạo nên
những tiếng nói thơ ca khác nhau.
Trong thực tế, lập trường quan điểm, giai cấp, thị hiếu thẩm mỹ và cả

phong cách sống cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến phong cách thơ của
thi sĩ. Nhà thơ để lại dáng dấp riêng trong thơ và ngược lại, nói như Hàn
Mặc Tử, đó là: “Người thơ phong vận như thơ ấy”.
Tuy nhiên, trong suốt chặng đường sáng tạo nghệ thuật của mỗi nhà
thơ, để có thể tạo cho mình một phong cách riêng và độc đáo, chính họ phải
tự phát hiện và vươn tới một giọng điệu thơ cho riêng mình và trung thành
với nó…

6
Trên tinh thần tiếp thu những quan niệm về phong cách thơ, chúng tôi
đi sâu tìm hiểu về phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu - một gương mặt thơ
tiêu biểu của thơ ca chống Mỹ và thơ Việt Nam hiện đại. Đó là một nhà thơ
có phong cách và có tâm hồn thi sĩ nhạy cảm. Thơ Nguyễn Đức Mậu không
chỉ thành công khi viết về chiến tranh với những đề tài mang tầm vóc thời
đại lớn lao mà còn đạt đến độ chín trong suy tư cảm xúc giữa bề bộn đời
thường nơi cuộc sống hoà bình.
Thơ Nguyễn Đức Mậu dù ra đời trong thời gian nào cũng được người
đọc chú ý và có những tiếng vang trong dư luận phê bình. Số lượng những
bài phê bình thơ Nguyễn Đức Mậu chưa nhiều nhưng đã phác hoạ được chân
dung nhà thơ và đánh giá chính xác những thành công đáng khích lệ trong
tác phẩm của ông.
Vũ Quần Phương đã có nhận xét về thơ, về đóng góp của thơ Nguyễn
Đức Mậu ở cả hai thời kỳ trước và sau chiến tranh: “Cuộc sống ở chiến
trường vô cùng phong phú, Nguyễn Đức Mậu kiên trì tạo ra những bức tranh
miêu tả, với nhiều chi tiết cụ thể độc đáo, chỉ có những cây bút sống ở chiến
trường mới dễ có các chi tiết ấy” [73; 3]. “Nguyễn Đức Mậu vốn mạnh về
tình cảm, xúc cảm. Ông đã phát huy đúng sở trường của mình. Tình cảm ông
thấm thía hơn, sâu sắc hơn theo năm tháng từng trải của đời ông. Phần đóng
góp của ông chính là ở phía này” [111; 3]. Vũ Quần Phương đã khẳng định
rằng: dù là ở thời điểm nào, phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu vẫn sáng lên

nét đặc sắc của một nhà thơ mặc áo lính giàu tình cảm, đôn hậu.
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cũng đã “bắt” được hồn cốt thơ Nguyễn
Đức Mậu và nhấn mạnh bản chất thơ ông là thơ của một tấm lòng sâu sắc
đầy rung cảm và những xúc động nội tâm. Đó là một tiếng thơ hết sức chân
thành.
Tác giả Trần Đăng Suyền lại có nhận xét về một khía cạnh khác trong
thơ Nguyễn Đức Mậu, đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và trữ tình,
đan xen nhiều thể thơ trong trường ca nhằm mở rộng hiện thực, tăng cường
tính chính luận, triết lý trong thơ.
Một số tác giả lại đi sâu phân tích những hình tượng nghệ thuật độc
đáo của thơ Nguyễn Đức Mậu như: tác giả Nguyễn Văn Long, nhà thơ Phạm
Hổ cùng chung sự yêu mến với hình tượng Người lính, tác giả Nguyễn
Thanh Tú với hình tượng Đất,… hay như trong quá trình tìm hiểu về thơ giai
đoạn kháng chiến chống Mỹ, các nhà nghiên cứu như Giáo sư Mã Giang

7
Lân, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ,… đều nhắc đến Nguyễn Đức Mậu như là
một trong những hiện tượng tiêu biểu của thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
và phân tích một số phương diện trong đặc điểm thơ Nguyễn Đức Mậu.
Các nhà thơ Trần Mạnh Hảo, Võ Văn Trực lại chú ý đến sự trở về của
quá khứ, đến nỗi ám ảnh về chiến tranh trong thơ Nguyễn Đức Mậu, họ
khẳng định: “Chiến tranh đã qua rất lâu nhưng thơ ca của Nguyễn Đức Mậu
chưa có được một ngày bình yên. Hầu như trái tim ông đã biến thành quả
bom của ký ức đêm đêm ném xuống trang bản thảo tất cả nỗi đau chưa nguôi
ngoai của chiến tranh, khiến các con chữ bị thương nghiêng ngả. Những cái
chết của đồng đội chính là vết thương không biết cách cầm máu trong tâm
hồn nhà thơ” [21; 69]. Nói cách khác như Trịnh Thanh Sơn, sự dằn vặt với
quá khứ của Nguyễn Đức Mậu dai dẳng và ăn sâu như “những ám ảnh hoá
thạch” – “hoá thạch máu và nước mắt của cả một dân tộc đã vùng lên, giữ
vững nền độc lập, tự do cho đất nước mình” [76; 34].

Bản thân nhà thơ cũng đã từng bộc bạch: “Kỷ niệm về cuộc sống
chiến đấu nơi chiến trường đã để lại dấu ấn sâu sắc không thể nhạt phai
trong tôi. Nghĩ đến cái chết của đồng đội thật thương cảm và mến phục, cho
nên tôi viết về chiến tranh, về đồng đội như là sự thôi thúc của lương tâm”.
Chiến tranh đã trở thành những nét khắc chạm rất sâu trong cảm xúc và tư
duy nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, trở thành một đặc điểm riêng của hồn thơ
ông. Các nhà nghiên cứu đã viết về ông bằng những dòng chữ đầy trân
trọng: “Anh đã biết sống, biết trân trọng quá khứ của mình và đồng đội.
Điều đó thật đáng quý khi chiến tranh đã lùi xa”. [23; 17].
Nhìn chung, qua việc khảo sát các bài viết tìm hiểu, nghiên cứu thơ
Nguyễn Đức Mậu, chúng tôi nhận thấy thơ Nguyễn Đức Mậu đã nhận được
sự quan tâm của độc giả và của giới nghiên cứu. Những bài nghiên cứu tiếp
cận thơ Nguyễn Đức Mậu bằng nhiều hướng khác nhau và đưa ra những kết
luận ở nhiều phương diện, nhiều khía cạnh trong đặc điểm thơ Nguyễn Đức
Mậu. Tuy vậy, những bài viết này mới chỉ dừng lại ở việc khám phá những
bộ phận của thơ ông, chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu thơ
Nguyễn Đức Mậu với tư cách là một phong cách nghệ thuật hoàn chỉnh từ
những yếu tố cấu thành đến phương thức biểu hiện của nó. Đặc biệt là mảng
thơ ông sáng tác sau 1975 đến nay chưa nhận được sự quan tâm thoả đáng.
Đó chính là gợi ý để chúng tôi tiến hành nghiên cứu Phong cách thơ
Nguyễn Đức Mậu một cách có hệ thống.

8
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm phong cách ở góc độ lý luận văn học,
luận văn đi sâu nghiên cứu phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu với những
biểu hiện trên sự thống nhất giữa nội dung và hình thức.
Với yêu cầu của nội dung đề tài, chúng tôi tập trung vào khảo sát toàn
bộ sáng tác của Nguyễn Đức Mậu đã được xuất bản, một số bài thơ lẻ,
những bài giới thiệu thơ, bài viết đăng trên các báo, tạp chí gần đây của tác

giả. Trong đó, chúng tôi đặc biệt chú ý tới những tập thơ tiêu biểu được ghi
nhận bằng giải thưởng cao quý. Những tập thơ được khảo sát cụ thể gồm: áo
trận (1976), Bão và sau bão (1998), Cây xanh đất lửa (1973), Hoa đỏ nguồn
sông (1987), Khi bé Hoa ra đời (1984), Mƣa trong rừng cháy (1976), Ngƣời
đi tìm chân trời (1982), ở phía rừng Lào (1984), Thơ ngƣời ra trận (1971),
Thơ với tuổi thơ (2003), Từ hạ vào thu (1992), Cánh rừng nhiều đom đóm
bay (1998), Trƣờng ca Sƣ đoàn (1980), Bầy chim lá màu vàng (2004), Thơ
lục bát (2007). Ngoài ra, ở một số tỏc phẩm văn xuôi, chúng tôi không đề
cập sâu nhưng sử dụng làm tư liệu để đối chiếu và so sánh khi cần thiết để
làm rõ hơn nét độc đáo của thơ Nguyễn Đức Mậu. Chúng tôi cũng sử dụng
những sáng tác của các nhà văn, nhà thơ cùng thời và lệch thời với tác giả
Nguyễn Đức Mậu. Những sáng tác này được sử dụng làm tài liệu tham khảo
quan trọng để soi sáng, nổi bật vấn đề trong quá trình nghiên cứu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nhìn nhận vấn đề trên cơ sở lý luận văn học và văn học sử, bám sát
đặc trưng thể loại, luận văn tập trung phác họa một diện mạo, một phong
cách thơ của riêng Nguyễn Đức Mậu. Một số phương pháp được sử dụng
đồng thời gồm:
- Phương pháp tổng hợp tư liệu nhằm có được một cái nhìn khái quát.
- Phương pháp hệ thống: Sử dụng phương pháp này trong việc thực
hiện đề tài nghiên cứu phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu như là một thể
thống nhất của các yếu tố cấu thành nội dung, hình thức và mối quan hệ giữa
các yếu tố ấy. Vận dụng phương pháp này, người viết có thể hệ thống được
về sự hình thành, vận động, phát triển của các yếu tố cấu thành phong cách
thơ Nguyễn Đức Mậu: cảm hứng đề tài, hệ thống hình tượng, hình thức biểu
hiện,

9
- Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh: Luận văn tiến
hành phân tích những sáng tác thơ cụ thể của Nguyễn Đức Mậu trên nhiều

chiều kích, trong một hệ thống chung của cá nhân nhà thơ và của thời đại.
Bước nghiên cứu đó đồng thời dựa trên kết quả của sự so sánh thơ Nguyễn
Đức Mậu với thế hệ các nhà thơ cùng thời, giữa thơ Nguyễn Đức Mậu ở các
chặng đường sáng tác.
- Phương pháp lịch sử: Vận dụng phương pháp này để tìm hiểu ảnh
hưởng của hoàn cảnh lịch sử, xã hội và các yếu tố con người, quê hương,
đối với việc góp phần làm nên một hồn thơ Nguyễn Đức Mậu riêng biệt.
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu về Phong cách thơ Nguyễn
Đức Mậu. Kết quả nghiên cứu trong luận văn này hy vọng sẽ đem đến một
cái nhìn khái quát, sâu sắc về diện mạo thơ Nguyễn Đức Mậu. Từ đó thấy
được sự vận động của thơ ông trong tiến trình thơ đồng thời khẳng định
những đóng góp của tiếng thơ Nguyễn Đức Mậu đối với nền thơ Việt Nam
hiện đại.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn gồm ba
chương:
Chương 1: Những chặng đường thơ Nguyễn Đức Mậu
Chương 2: Những cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Đức Mậu
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Nguyễn Đức Mậu
















10
PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1:
NHỮNG CHẶNG ĐƢỜNG THƠ NGUYỄN ĐỨC MẬU

1. Nguyễn Đức Mậu - từ ngƣời chiến sĩ đến nhà thơ mặc áo lính
1.1. Con người – Quê hương – Gia đình
Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu lấy tên khai sinh làm bút danh, sinh ngày
14 tháng 1 năm 1948 tại làng Vị Khê – xã Nam Điền - huyện Nam Trực -
tỉnh Nam Định.
Quê hương Nguyễn Đức Mậu – làng quê đồng bằng Bắc bộ nghèo
như bao làng quê chiêm trũng khác – đã hứng chịu biết bao biến động của
lịch sử, bao khắc nghiệt của thiên nhiên và bao tấn bom đạn của kẻ thù trong
chiến tranh. Mảnh đất ấy cũng là nơi quy tụ và sinh thành những ngôi sao
sáng chói trong lịch sử văn học nước nhà: Trần Tế Xương, Á Nam Trần
Tuấn Khải, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Bính, Mảnh đất Nam Định bên
dưới lớp sỏi cằn khô là mạch nước nguồn trong mát nuôi dưỡng bao thế hệ
sáng tác suốt cả thời kỳ lịch sử dài. Sức sống dồi dào, sự trỗi dậy kiên
cường, bất diệt của quê hương Nam Định khắc khổ mà anh dũng đã ảnh
hưởng không nhỏ đến phẩm chất con người và phẩm chất thơ Nguyễn Đức
Mậu.
Nguyễn Đức Mậu sinh ra trong một gia đình trung nông lớp dưới
nhưng cha lại là người rất ham học và say mê văn chương. Ngay từ nhỏ,
cuộc sống gia đình vốn gắn bó với đồng ruộng đã đào luyện nên ở Nguyễn

Đức Mậu một niềm say mê với đất đai và sự nhạy cảm với thiên nhiên tạo
vật. Ông còn được thừa hưởng truyền thống văn hoá, tinh thần yêu nước
cách mạng của gia đình.
Say mê sống và say mê sáng tạo, Nguyễn Đức Mậu là người đam mê
thơ ca từ thủa ấu thơ. Ngay từ nhỏ, ông đã làm thơ và có tác phẩm đăng báo.
Mười bảy tuổi lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi của tổ quốc, Nguyễn Đức
Mậu đã phải sống những tháng ngày gian khổ, đã giáp mặt với chiến tranh,
cận kề với bom đạn và cái chết những thử thách đó, như lửa thử vàng càng
làm sáng tỏ lý tưởng cách mạng kiên định trong tâm hồn nhà thơ. Cuộc đời

11
chiến sĩ cùng với năng khiếu thơ bẩm sinh, Nguyễn Đức Mậu đã biết chắt
lọc từ trong khói lửa, trong hy sinh mất mát những vần thơ mang âm hưởng
sử thi hào hùng. Nói đến duyên thơ của Nguyễn Đức Mậu không thể không
nhắc đến sự song song và thống nhất của con đường văn nghiệp và con
đường binh nghiệp. Đến nay, với trên hai chục đầu sách gồm cả thơ, văn, tác
phẩm viết cho thiếu nhi, tất cả đã cho thấy Nguyễn Đức Mậu có một sức
sáng tạo thật dồi dào.
Với công việc biên tập thơ cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhà thơ
Nguyễn Đức Mậu càng được góp sức nhiều hơn cho sự nghiệp thơ ca. Bằng
kinh nghiệm sáng tác của mình, Nguyễn Đức Mậu góp phần phát hiện và
vun đắp những tài năng thơ đương đại. Hiện nay, ông đã nghỉ hưu nhưng
ông vẫn tiếp tục bền bỉ trên con đường sáng tác, như ngày nào ông viết
những vần thơ trong nỗi đam mê không thể dứt:
Với nhà thơ, thơ là nỗi đam mê
Họ theo đuổi, suốt đời chƣa dứt đƣợc
Khi kết thúc tập thơ mới nhất
Lại bắt đầu vỡ đất tập thơ sau
(Ghi chép về thơ)
1.2. Người chiến sĩ – Nhà thơ mặc áo lính Nguyễn Đức Mậu trong

phong trào thơ ca chống Mỹ
Ngay sau khi chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp, cả dân tộc ta lại
bước vào một cuộc kháng chiến đối mặt với một kẻ thù rất tàn bạo và hùng
mạnh là đế quốc Mỹ. Suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, đất nước và
con người Việt Nam đã phải chịu nhiều đau thương mất mát. Nhưng chính
trong sự đau thương và mất mát ấy, lòng yêu nước và truyền thống đấu tranh
anh dũng, bất khuất của nhân dân ta một lần nữa được khẳng định. Nhà thơ
Cuba Phêlích Pita Rôđighết đã viết nhiều về Việt Nam với cảm hứng thơ sâu
sắc:
Nếu thế giới này tạo đƣợc nhiều Việt Nam
Nỗi tủi thẹn làm ngƣời không còn nữa
Và vị bánh mỳ mà chúng ta ăn đắng cổ sẽ không còn
Nếu thế giới này tạo đƣợc nhiều Việt Nam

12
Đất nước Việt Nam diệu kỳ với tiềm lực và sức mạnh có tính chất
thần thoại ấy là đối tượng ngợi ca của bạn bè năm châu trong những ngày
chống Mỹ.
Cùng với các loại hình nghệ thuật khác, thơ ca trở thành một phương
tiện hữu hiệu để phản ánh cuộc chiến đấu anh dũng, sự kiên cường bất khuất
của cả dân tộc Việt Nam. Và chính cuộc kháng chiến với những gian khổ,
với những tấm gương anh dũng, những chiến tích hào hùng lại là chất liệu và
nguồn cảm hứng dồi dào và phong phú, giàu sức sống đối với các nhà thơ.
Có thể nói, đây là thời kỳ rực rỡ của thơ ca Việt Nam “Một không khí
sáng tác và sinh hoạt thơ ca rầm rộ, hào hứng chưa từng thấy” [37; 277].
Không chỉ phản ánh cuộc kháng chiến, thơ ca giai đoạn này còn trở thành vũ
khí đánh giặc sắc bén: “Khi tiếng súng chống Mỹ cứu nước bùng nổ thì lời
ca ngợi và cháy bỏng căm thù cũng vang lên một nhịp, thơ vẫn phát huy
được tính chiến đấu kịp thời và tính thời sự nhạy bén. Trên tuyến lửa của
lòng căm thù và trong chiều sâu của mỗi trái tim yêu nước, thơ ca có mặt ở

khắp mọi nơi” [120; 1].
Cuộc sống phong phú, sôi nổi chứa đựng những tư tưởng tình cảm và
hành động lớn của dân tộc đã tập hợp được xung quanh rất nhiều nhà thơ.
Các nhà thơ đã ý thức được trách nhiệm của mình đối với dân tộc. Nhiều thế
hệ nhà thơ đã có mặt trong cuộc chiến đấu với những đóng góp xứng đáng.
Tố Hữu viết Ra trận và Máu và hoa; Chế Lan Viên viết Hoa ngày thƣờng,
Chim báo bão, Những bài thơ đánh giặc; Xuân Diệu có Hai đợt sóng, Tôi
giàu đôi mắt; Huy Cận với Những năm sáu mƣơi và Chiến trƣờng gần đến
chiến trƣờng xa; Nguyễn Đình Thi với Dòng sông trong xanh; Hoàng Trung
Thông với Đầu sóng và Trong gió lửa; Chính Hữu viết Đầu súng trăng
treo, Thế hệ các nhà thơ lớn lên trong thời kỳ chống Mỹ có đóng góp quan
trọng. Giang Nam viết Quê hƣơng; Thanh Hải với Những đồng chí trung
kiên; Lê Anh Xuân với Hoa dừa và trường ca Nguyễn Văn Trỗi; Phạm Tiến
Duật viết Vầng trăng và quầng lửa; Xuân Quỳnh với Hoa dọc chiến hào và
Gió Lào cát trắng; Nguyễn Khoa Điềm với Đất ngoại ô và trường ca Mặt
đƣờng khát vọng; Nguyễn Đức Mậu viết Mƣa trong rừng cháy và Cây xanh
đất lửa; Dương Hương Ly với Mảnh đất nuôi ta thành chiến sĩ; Sự điêu
luyện của các nhà thơ lớn tuổi và cái tươi mát của các cây bút trẻ đã tạo nên
sự phong phú, đa dạng, giàu màu sắc của thơ ca chống Mỹ. Các nhà thơ có
một cái nhìn mới đối với chiến tranh, đối với những mất mát hy sinh và sự

13
bất tử, lòng căm thù giặc, tình bạn chiến đấu, tình yêu và lòng tin, ước mơ
chiến thắng, suy nghĩ về số phận của nhân dân, của Tổ quốc. “Thơ chống
Mỹ mang nhiều phẩm chất đẹp, vừa giàu lý tưởng, vừa giàu chất hiện thực,
có bề rộng của cuộc đời lẫn chiều sâu của tâm trạng ” [18; 111].
Sự phong phú và sôi nổi của thơ Việt Nam những năm chống Mỹ đã
tạo nên hình ảnh đẹp và độc đáo của một dân tộc vừa đánh giặc vừa làm thơ.
Tính thời sự nhạy bén bao giờ cũng là yêu cầu trước hết đối với nền thơ
chiến đấu. Với một lực lượng sáng tác đông đảo bám chắc mọi vị trí, mọi

lĩnh vực của cuộc sống sản xuất và chiến đấu, nhất là những điểm nóng bỏng
của hiện thực chống Mỹ nên thơ có sức phản ánh nhạy bén, mang tính thời
sự cao. Thực tế chống Mỹ đã gắn bó máu thịt với tâm hồn nhà thơ, vì thế,
thơ nói chính trị, nói sự kiện mà sức lay động sâu xa. Các nhà thơ đã tự hào
về sự gắn bó của mình với đồng bào, đồng chí trong cuộc ra trận lớn lao:
Tôi cùng xƣơng thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu
(Xuân Diệu)
Sung sƣớng bao nhiêu tôi là đồng đội
Của những ngƣời đi vô tận hôm nay
(Chính Hữu)
Có thể nói, những năm chống Mỹ, không một mảnh đất nào, một
chiến công lớn nào, một anh hùng tiêu biểu, một sự kiện có tầm quan trọng
nào lại không có mặt trong thơ, và có ngay trong cái dáng dấp sống động và
không khí nóng hổi chất thời sự. Để có được những thành tựu đáng kể của
nền thơ chống Mỹ, các nhà thơ đã có một quá trình tu dưỡng, rèn luyện và
bám sát đời sống với ý thức chính trị nhạy bén, tạo được cảm hứng kịp thời
trước một sự kiện mới mẻ. Sự nhạy bén, tính thời sự kịp thời của nền thơ
chống Mỹ đã thực sự tạo nên một nét mới rất đáng tự hào trong truyền thống
chiến đấu của thơ ca cách mạng.
Trong ngọn lửa của cuộc chiến đấu vĩ đại, đội ngũ các nhà thơ được
tôi luyện và luôn được bổ sung. Ở một số nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời
kỳ chống Mỹ, giai đoạn này chính là giai đoạn giúp họ tìm cho mình hướng
đi riêng trong cách nhìn, cách cảm, cách biểu hiện để tạo cho mình một
phong cách thơ độc đáo, mới lạ cho bản thân.

14
Các nhà thơ trẻ - ở mỗi người - vốn văn hoá cùng lý tưởng sống, lý
tưởng thẩm mỹ đã được bồi dưỡng và hình thành từ trong nhà trường xã hội
chủ nghĩa. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ đã lên đường ra trận,

có mặt bên những chiến hào chống Mỹ. Cuộc sống chiến trường đã tôi
luyện, bồi đắp cho thơ họ những phẩm chất mới.
Thơ Phạm Tiến Duật vừa hiện thực, vừa phóng túng, tươi trẻ. Đó là
hiện thực của tình cảm giữa nhà thơ và đồng đội hòa vào cách nói của quần
chúng, của ngôn ngữ đời sống, dân gian. Có thể thấy rõ điều đó qua các bài
thơ: Lửa đèn, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em cô thanh niên xung
phong, Giọng thơ Phạm Tiến Duật thường xen vào cái hồn nhiên tinh
nghịch của tuổi trẻ. Ông đã sử dụng linh hoạt câu thơ văn xuôi trong nhiều
bài:
Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là Thạch nhọn
(Gửi em cô thanh niên xung phong)
Đặc biệt, các bài thơ của Phạm Tiến Duật thường được xây dựng chủ
yếu theo tứ và dồn sức nặng vào đoạn kết, câu kết:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trƣớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
Phạm Tiến Duật đã kết hợp được nhuần nhị giữa lý tưởng và sự kiện,
giữa năng lực quan sát và tấm lòng của một người lính trẻ. Chất hiện thực
ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng của các chiến sĩ lái
xe trên đường Trường Sơn thời đánh Mỹ kết hợp một cách hài hoà với cảm
hứng sử thi tạo nên những vần thơ góc cạnh đầy ấn tượng.
Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ của chiến trường Trị Thiên cũng gây
được sự chú ý, quan tâm đặc biệt của bạn đọc. Trong thơ ông, nhất là thể
loại trường ca, sức hấp dẫn được biểu hiện cụ thể ở sức vang của nội tâm
trước hiện thực phong phú. Mặt đƣờng khát vọng đã truyền đến người đọc
bao xúc động, tự hào về Đất nước và Nhân dân. “Những suy nghĩ về đất
nước, về dân tộc được nhà thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và
cảm xúc mãnh liệt”. Nhà thơ đã nhận diện, phát hiện về Đất nước - chương
V trong trường ca Mặt đƣờng khát vọng - trên bình diện về địa lý, lịch sử,
văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tinh thần dân tộc - nền văn hiến Việt Nam.

Ông đã có những khám phá giản dị mà bất ngờ về vẻ đẹp của đất nước từ

15
ngàn xưa và ý nghĩa của truyền thống đối với cuộc sống hiện đại. Mảnh đất
nghèo nhưng là chiếc nôi nuôi dưỡng hoa trái ngọt lành, tình yêu và hạnh
phúc Tác giả đã vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân gian, tục ngữ,
ca dao, truyện cổ, phong tục, cùng với cách diễn đạt bình dị gây ấn tượng
vừa gần gũi, vừa mới mẻ cho người đọc. Sự dồi dào trong xúc cảm và chiều
sâu trí tuệ đã khiến cho thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa mang tính chính luận,
vừa hàm ẩn chất trữ tình. Mặc dù trong kháng chiến chống Mỹ là một nhà
thơ trẻ, nhưng qua thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được trách nhiệm
của mình, của lớp người mình trước cuộc sống và hoàn cảnh của đất nước
trong chiến tranh:
Trong chiến tranh này có ai nói giùm ta
Những kì diệu nhƣ một mùa nƣớc lớn
Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Khoa Điềm là ở giọng nói mới mẻ, trẻ
trung nhưng cũng nặng những kỷ niệm ưu tư, trằn trọc. Những bài thơ anh
viết về quê hương, với những cuộc đời thân thuộc đã thể hiện rõ điều đó. Ở
Đất ngoại ô, Thơ ơi, Tiễn bạn cuối mùa đông ta gặp giọng thơ tha thiết, sâu
lắng. Ở Mặt đƣờng khát vọng lại giục giã, hào hùng. “Cảm xúc trong thơ anh
không dễ dãi mà là một khả năng của lớp trẻ đã thấy nhiều, nghĩ nhiều, từng
trải nhiều” [37; 320]. Khúc hát ru những em bé lớn trên lƣng mẹ được hình
thành trên cảm hứng về sự sống âm thầm nhưng bất diệt của dân tộc. Tình
yêu con của bà mẹ Tà Ôi luôn gắn liền với tình thương yêu bộ đội, bản làng,
đất nước, lòng kính yêu Bác Hồ. Nhà thơ trẻ ấy đã mang đến cho người đọc
những suy nghĩ sâu sắc. Mọi tình cảm cá nhân đều hoà chung trong những
tình cảm, ý chí của đất nước, dân tộc.
Với nhà thơ Hữu Thỉnh cũng “từ cái nôi nghệ thuật dữ dội, khốc liệt
và thơ mộng là Trường Sơn, anh đã tìm đến những nguồn cảm hứng lớn về
Tổ quốc, nhân dân, về thế hệ những người cầm súng thời chống Mỹ” [89;

32]. Ta nhận ra ở Hữu Thỉnh hồn thơ khoẻ khoắn, giàu nội tâm, “yêu người
mến cảnh và nồng nàn một tấm lòng tri kỷ, tri âm” [89; 34].
Bao trùm lên sáng tác của Hữu Thỉnh là nguồn cảm hứng về Tổ quốc.
Nhà thơ thấm thía nỗi đau khi một mảnh đất nhỏ của Tổ quốc rơi vào tay
giặc, dù đó chỉ là một “gốc sim cằn”. Tổ quốc luôn là điều thiêng liêng,
không thể mất trong trái tim mỗi người dân đất Việt. Vì vậy, mỗi thế hệ, mỗi
con người đều sẵn sàng hiến dâng cả cuộc đời, cả dòng máu đang cuộn chảy
để thắp sáng lên ngọn lửa nồng cháy cho Tổ quốc hôm nay và mai sau:

16
Nổi chìm bao kiếp ngƣời qua
Qua tháng năm sứt mẻ
Việt Nam
Hai tiếng mẹ
(Trường ca biển)
Hình ảnh người mẹ cụ thể đã trở thành biểu tượng cao đẹp về Tổ quốc
thiêng liêng. Sự trong sáng, chân thành ẩn chứa bên trong mỗi câu chữ.
Giọng thơ Hữu Thỉnh giản dị như những lời trò chuyện đời thường mà gieo
vào lòng người đọc nỗi nghẹn ngào sâu lắng và niềm xúc động khôn nguôi:
Mẹ nén đau
Giấu tờ báo tử
Sáng mai lại tiễn con nhập ngũ
Bốn nghìn năm đất nƣớc mấy khi yên
(Đường tới thành phố)
Hữu Thỉnh đã viết thật xúc động về chiến tranh, về lòng quả cảm và
đức hy sinh của con người, của dân tộc. Trong mỗi trang thơ anh viết, ta
thấy cả trí tuệ và trái tim, tài năng và nghị lực cùng những khát khao, mơ
ước cháy bỏng của anh. Ta ghi nhận ở Hữu Thỉnh một hồn thơ giàu xúc
cảm, chân thành, đằm thắm mà cũng rất khoẻ khoắn, rắn rỏi
Có thể thấy, mỗi nhà thơ, mỗi người cầm bút đều có những sáng tạo

nghệ thuật riêng, thể hiện “cái tôi” độc đáo của mình.
Những rung động tha thiết, những điệp khúc ngân vang trong hành
trình sáng tạo nghệ thuật của lớp nhà thơ trẻ đã làm nên những hương ngọt,
trái thơm trong vườn thơ nhiều màu sắc của thơ ca chống Mỹ. Thơ của Phạm
Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh và một số nhà thơ khác đã in
đậm dấu ấn của mọi thời đại, mang hơi thở và tinh thần của cả một thế hệ.
Mỗi người trong số họ đã tạo được một phong cách riêng trên con đường
sáng tạo nghệ thuật của mình. Và trong vườn hoa muôn màu, muôn sắc của
các phong cách thơ ấy, nhà thơ trẻ Nguyễn Đức Mậu cũng đã tạo được cho
mình một phong cách riêng. Điều đó được thể hiện trong cả hành trình thơ
dài của ông từ núi rừng Trường Sơn khốc liệt đến những năm tháng hoà bình
yên ả, từ những cảm hứng nghệ thuật đến các phương thức biểu hiện trong
thơ. Nguyễn Đức Mậu đã khẳng định được tên tuổi, tài năng, phong cách
của mình.

17
Năm 1965, Nguyễn Đức Mậu lên đường nhập ngũ, bắt đầu cuộc đời
của một người lính – người chiến sĩ chiến đấu cho sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc. Ông cùng biết bao con người trẻ tuổi gắn bó với cuộc kháng
chiến chống Mỹ cùng tâm niệm sắt son:
Ngƣời ta không thể chọn để đƣợc sinh ra
Nhƣng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy
Vào những năm 60, khi ngọn lửa chiến tranh lan ra cả nước, thơ
Nguyễn Đức Mậu bắt đầu xuất hiện đều đặn trên báo Nhân dân. Chính sự
trải nghiệm cuộc sống ở chiến trường, được chia sẻ với nhân dân những gian
nan vất vả, đau thương mất mát lại mở ra trước mắt người làm thơ một hiện
thực phong phú, vô tận. Những vần thơ của Nguyễn Đức Mậu là những câu
chuyện được kể lại một cách thành thực cuộc sống của chính ông ở chiến
trường lửa đạn: “Thơ mang lượng thông tin đủ giúp các bậc cha mẹ hình
dung con em mình nơi trận mạc. Và lượng tình cảm mang tính phổ cập góp

phần yên lòng người ra trận, an ủi người hậu phương” [73; 23]. Sự nghiệp
thơ ca của Nguyễn Đức Mậu không bắt đầu từ “phòng văn” mà nảy mầm,
kết trái ở chính nơi đầu sóng ngọn gió của cuộc chiến đấu. Ông đã từng đêm
tâm sự một cách trung thực và chân thành:
Tôi yêu những câu thơ mặc áo lính sờn vai
Những câu thơ nằm chiến hào đợi giặc
Những câu thơ trộn mồ hôi, bùn đất
Những câu thơ từ thực chất cuộc đời
Nhƣ cây lá không cần trang điểm
Chùm quả chín rung rinh chùm ánh sáng
Sức xanh tƣơi không kể chi mùa
(Trường ca sư đoàn)
Chiến tranh đã cuốn cả dân tộc vào guồng xoáy khốc liệt của nó. Phản
ánh cuộc chiến tranh trở thành niềm đam mê và cũng là nơi thử sức lâu dài
của người cầm bút. Các nhà văn, nhà thơ đều phải xác định “Sống đã rồi hãy
viết” (Nam Cao). Những vấn đề cá nhân với những khát vọng riêng tư trong
hoàn cảnh ấy dường như tự lắng xuống nhường chỗ cho những gì lớn lao
hơn, chung hơn như vận mệnh của đất nước, của dân tộc. Thơ Nguyễn Đức
Mậu là tiếng nói sống động và đầy tự tin của người trong cuộc. Sống hết
mình với hiện thực, rung động tận đáy lòng với cuộc sống và phát huy khả

18
năng của mình, Nguyễn Đức Mậu đã lưu lại tên tuổi của mình trong thế hệ
các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ với một cái tên giản dị và cao đẹp: “Nhà thơ
mặc áo lính”:
Thuở cây bút lớn lên cùng khẩu súng
Nhà thơ và ngƣời lính liền nhau
(Trường ca sư đoàn)
Trong quá trình sáng tạo, Nguyễn Đức Mậu có ý thức rất cao về
những tìm tòi đổi mới, cách tân trong văn học. Ông nhiều lần trăn trở, tự đối

thoại với chính mình:
Lối cũ nhiều ngƣời đi
Thôi rẽ sang đƣờng khác

Cũ nhƣ câu thơ không còn cảm xúc
Mình muốn phá tung mọi khô cứng chai lỳ
Hay luôn tâm niệm:
Tôi trân trọng sự tìm tòi năng động
Của nhà thơ trên chặng đƣờng thơ
Những thể nghiệm nhƣ luống cày vỡ vạc
Từ trong ý thức sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Đức Mậu đã cố gắng tạo
cho mình một phong cách riêng, một con đường đi riêng tới tâm hồn bạn
đọc.
Nguyễn Đức Mậu là nhà thơ có phong cách rõ nét và có đóng góp
quan trọng cho sự thành công của thơ ca chống Mỹ. Thơ ông là những phác
hoạ về chiến trường khói lửa và là bức tranh về hiện thực chiến tranh khốc
liệt được vẽ lại qua con mắt của người trong cuộc đã chứng kiến và nếm trải.
Cùng với đó là những cung bậc cảm xúc của những người lính trẻ: lòng yêu
nước, ý chí chiến đấu, những cảm xúc của tình yêu, nỗi đau thương mất mát
trước sự hy sinh của đồng đội, Những mảng nội dung quan trọng này được
thể hiện thông qua một tâm hồn thi sĩ với một ngòi bút tài năng. Thơ
Nguyễn Đức Mậu là sự kết tinh của trí tuệ và cảm xúc - một trí tuệ giàu có,
tư duy sắc sảo và một tấm lòng, một trái tim có sức lay động tâm hồn người
đọc. Thơ ông đã để lại ấn tượng sâu sắc về tiếng nói thơ đầy trách nhiệm

19
trước đất nước và cuộc sống đồng thời cũng phản ánh rõ những chuyển biến
của tư duy thơ thời đại.
2. Những chặng đƣờng sáng tác
Chúng tôi đưa ra mốc thời gian phân chia chặng đường sáng tác của

thơ Nguyễn Đức Mậu là năm 1976 – 1 năm sau hơn 30 năm đấu tranh gian
khổ của dân tộc. Sự phân định này nhằm mục đích phân biệt, so sánh sự
khác nhau về đề tài, cảm hứng nghệ thuật, các hình tượng thơ, cảm xúc trữ
tình, trong thơ Nguyễn Đức Mậu giữa các chặng đường sáng tác.
2.1. Những vần thơ ra trận
Ở phần này, chúng tôi tiến hành khảo sát các tập thơ ra đời thời kỳ
trước năm 1976. Giai đoạn này, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu cho xuất bản bốn
tập thơ: Thơ ngƣời ra trận (In chung với Vương Trọng năm 1971), Cây xanh
đất lửa (1973), Áo trận (1976), Mƣa trong rừng cháy (1976). Do sự xuất
hiện trùng lặp của một số bài thơ, chúng tôi chỉ khảo sát những tập: Thơ
ngƣời ra trận, Cây xanh đất lửa, Mƣa trong rừng cháy.
Sinh ra từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, được trau dồi tri thức văn
hoá trong nhà trường của chế độ mới, Nguyễn Đức Mậu thuộc thế hệ các
nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã từ cánh cửa nhà trường đi thẳng tới chiến
trường cầm súng chiến đấu.
Hiện thực đời sống những năm chống Mỹ và ngọn lửa chiến tranh
cách mạng đã tôi luyện Nguyễn Đức Mậu thành con người vững vàng trong
cuộc sống, có bản lĩnh trong nghệ thuật. Giáp mặt với thực tế chiến tranh,
Nguyễn Đức Mậu đã ý thức sâu sắc về vị trí, vai trò của thế hệ mình, sự xuất
hiện đúng lúc của thế hệ mình.
Cùng với giải nhất cuộc thi Thơ do Báo Văn nghệ tổ chức năm 1972 -
1973 cho bốn bài thơ chân thật và cảm động về người lính (Đất, Đôi mắt,
Nằm hầm, Ghi ở chiến trƣờng), Nguyễn Đức Mậu đã khẳng định tài năng, vị
trí và trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời chống Mỹ.
2.1.1. Thơ ngƣời ra trận (NXB Quân đội nhân dân – 1971)
Đây là tập thơ đầu tay được in chung với nhà thơ Vương Trọng của
anh lính trẻ - nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Lúc này Nguyễn Đức Mậu vừa tròn
23 tuổi và đã đứng trong quân ngũ 6 năm. Phần thơ của Nguyễn Đức Mậu có
19 bài trong đó có những bài rất nổi tiếng: Ngủ rừng theo đội hình đánh
giặc, Âm điệu đồng bằng, Hầm vây lấn, Công sự trên điểm cao,


20
Ở tập thơ đầu tay này, ta bắt gặp một giọng thơ vừa trẻ trung, tươi tắn,
vừa bồng bột, sôi nổi. Chúng ta cảm nhận được một tâm hồn tươi trẻ, phơi
phới lạc quan:
Sông dồn sức trẻ căng ra biển
Tôi mặc màu xanh đến chiến trƣờng
Tháng ba trống vỡ căng trời rộng
Đƣờng đông ngƣời đi khi còn sƣơng
(Tháng ba)
Thơ của Nguyễn Đức Mậu thời kỳ này rưng rưng cảm xúc, đậm đà
chất trữ tình, chan chứa chất men say nồng của tuổi trẻ. Ông nói tới khao
khát của thế hệ trẻ được trực tiếp cầm súng chiến đấu bằng một cảm xúc
chân thành, trong sáng nhất: “Tôi mặc màu xanh đến chiến trƣờng”. “Tôi”
được là người lính, được lên đường chiến đấu:
Nghe vụ chiêm đi vào đội ngũ
Từ vƣờn ƣơm bồ hạt giống nảy mầm
Từ chiếc lƣỡi cày xe cải tiến chở phân
Từ đàn cá đớp ao mồi hợp tác
Đến đàn trâu khoác bao tải ra đồng
Cũng cùng tôi ra trận mùa đông
(Mùa đông lên đường)
Không khí của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã được gợi lên
trong thơ ca của Nguyễn Đức Mậu. Đó là tâm trạng xốn xang, háo hức của
anh lính trẻ trong Mùa đông lên đƣờng, là cảm xúc trong trẻo, tươi mát của
một người lính trước Mùa xuân Trƣờng Sơn, là cảm nhận tinh tế và con mắt
thi vị trước Mƣa Trƣờng Sơn; những gian khổ và thiếu thốn ở chiến trường
được ghi lại bằng những cảm nhận thật ngộ nghĩnh và độc đáo trong Ngủ
rừng theo đội hình đánh giặc; giữa đường hành quân bất chợt bắt gặp
Hƣơng ổi đƣa đƣờng thân quen như ở chốn quê nhà; Trong một số bài của

tập thơ này, thơ Nguyễn Đức Mậu bắt đầu giàu có thêm nhờ chất suy nghĩ
và khả năng khái quát. Đó là những suy nghĩ khá già dặn và sắc sảo:
Suối ơi: in nhịp cầu xa tắp
Rừng già bom dội suốt mùa khô
Đánh trăm trận đã quen cơn khát
Nhƣng vẫn không nguôi khát diệt thù.
(Khát)

21
Tập Thơ ngƣời ra trận đã tái hiện được phần nào không khí của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng hiện thực nóng bỏng của cuộc chiến
đấu vẫn chưa có nhiều ở tập thơ này. Hình ảnh con người và thời đại chống
Mỹ chủ yếu được nhấn mạnh ở sự thanh tao, bình dị: hương ổi, nụ cười,
tiếng hát của o du kích, nhánh lan rừng, nhịp đập bình yên ấy làm nổi bật
“cái yên trong cái động”, “sự sống át cái chết”, sự bình thản, tự tin của một
dân tộc gan góc, bất khuất, kiên cường.
Mặc dù không tránh khỏi những non nớt, nhưng đây là tập thơ đầu tay
đầy ý nghĩa, rất đáng ghi nhận, tạo tiền đề rất quan trọng cho sự phát triển
của thơ Nguyễn Đức Mậu ở những chặng đường sau, định hình một phong
cách riêng “thơ viết về người lính một cách giản dị, trung thực” [84; 21]
2.1.2. Cây xanh đất lửa (NXB Văn học – 1973)
Tiếp tục khẳng định phong cách của mình từ sau Thơ ngƣời ra trận,
Nguyễn Đức Mậu đã cho ra đời tập thơ Cây xanh đất lửa. Cây xanh đất lửa
gồm 30 bài thơ và nội dung chủ yếu của nó vẫn là những câu chuyện ở chiến
trường, những chuyện sinh hoạt đời thường của người lính. Các bài thơ
trong tập này thường là các bài thơ dài hơi. Có những bài thơ đã trở thành
tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách của Nguyễn Đức Mậu thời chiến tranh
và cả sau này như: Nằm hầm, Anh Pa-thét Lào ngủ trong chum đá, Nấm mộ
và cây trầm, Ghi ở chiến trƣờng,
Có thể nói, chưa có tập thơ nào lại tái hiện và mô tả đầy đủ công việc

của những người lính như Cây xanh đất lửa. Tập thơ có lời tâm sự của anh
lính công binh:
Đƣờng có tên và đƣờng không tên
Trăm con đƣờng xuyên vào tim giặc
Một cái tên chung mọi ngƣời tự đặt
Là con đƣờng chiến sĩ công binh
(Theo những con đường)
Có người chiến sĩ phá bom (Nơi em ở có nhiều bom đến nỗi), chiến sĩ
trinh sát (Câu chuyện về cây rau trinh sát), người coi kho (Kho chiến rừng),
chiến sĩ pháo binh (Hoa phong lan ở trận địa pháo), bộ binh (Tiểu đội bộ
binh trên chốt mùa mƣa), chiến sĩ Pa-thét Lào (Anh Pa-thét Lào ngủ trong
chum đá),

22
Bên cạnh dòng cảm hứng chủ đạo về người lính, Nguyễn Đức Mậu đã
khắc họa nên tượng đài về Tổ quốc thiêng liêng:
Ơi Tổ quốc - Mẹ hiền sao kỳ diệu thế
Từ thủa vua Hùng dựng nƣớc vẫn hành quân
(Tổ quốc)
Một Tổ quốc nhẫn nại, gian khó, hành quân không mỏi cũng là một
Tổ quốc anh dũng tuyệt vời và luôn “biết sống ngẩng cao đầu” để “đất Việt
Nam này mãi mãi Việt Nam”.
Nhà thơ cũng đã viết nên những vần thơ tha thiết, say mê về Bác - vị
lãnh tụ vĩ đại, người Cha già của cả dân tộc:
Tháng Năm, tháng Năm ở mỗi con ngƣời
Nghĩ về Bác tình yêu thêm rộng mở
Trời cao, trời cao đong đầy thƣơng nhớ
Trái đất này nhƣ xích lại gần nhau
(Tháng Năm nhớ Bác)
Cây xanh đất lửa còn cho ta biết một cái tôi trữ tình rất lãng mạn, đa

tình mà chân thành, tha thiết:
Những ngày gần anh thƣờng đến thăm em
Gần nhau thế vẫn có gì thiếu hụt
Tình nhỏ hẹp chen vào ta lén lút
Ngày không gặp nhau cảm thấy ngày dài
(Những ngày gần, những ngày xa)
một tâm hồn thật tinh tế:
Hoa này anh chƣa biết tên
Nhƣ em: khi mới làm quen thủa đầu
Nhuỵ vàng đọng nắng thơm lâu
Nhƣ em: năm tháng chờ nhau vẫn nồng.
(Hoa gửi em)
Nhìn chung, Cây xanh đất lửa là một tập thơ khá toàn diện và hoàn
chỉnh về đời sống chiến trường; nó càng khẳng định tài năng và bản lĩnh
người nghệ sĩ mặc áo lính Nguyễn Đức Mậu.
2.1.3. Mƣa trong rừng cháy (NXB Giải phóng – 1976)
Tập thơ gồm 25 bài xuất bản năm 1976. Ở tập thơ này, Nguyễn Đức
Mậu đã thực sự khẳng định tiếng nói riêng của mình qua những vần thơ giàu

23
chi tiết chân thực, sinh động như còn vương bụi đất chiến trường và mù khét
của bom đạn, mang khí thế hừng hực của cuộc chiến đấu. Nếu như ở hai tập
thơ trước, Nguyễn Đức Mậu có khuynh hướng đi tìm chất thơ trong những
mảng hiện thực đời sống có vẻ nên thơ, trong trẻo thì ở tập thơ này người
đọc cảm thấy ông đã nhìn thấy chất thơ ngay cả trong mảng hiện thực trần
trụi, thô nhám, dữ dội và đầy ác liệt của cuộc sống chiến trường. Cảm hứng
thơ vì thế càng trở nên mãnh liệt, sôi nổi và sâu sắc hơn. Chính vì vậy có
những bài thơ dài hơn, cảm xúc thơ dào dạt: Kỷ niệm về một ngƣời anh
hùng, Nói với con, Điệp khúc một con đƣờng, Bến cảng mặt trời, ý thức về
cái Tôi thế hệ cũng rõ nét hơn ở những tập thơ trước. Những bài như: Lời

tâm tình, Cánh rừng nhiễm độc, Khoảng trời mùa thu trong trận sốt, Tƣởng
nhớ số II, là những bài thơ vừa mang tâm sự riêng tư của người lính; lại
vừa là cái Tôi thế hệ tự ý thức, chiêm nghiệm về vị trí, nhiệm vụ của mình
cũng như của tất cả những người lính trong cuộc đối đầu lịch sử với kẻ thù
dân tộc. Các chi tiết đời sống mặt trận được Nguyễn Đức Mậu chăm chỉ lưu
giữ bằng phương pháp của thơ. Những bài thơ gần nhau về vóc dáng và
trùng nhau về chủ đề, nhưng bổ sung cho nhau, tạo dựng hình ảnh của đời
sống chiến đấu.
Đặc biệt, bài thơ Nấm mộ và cây trầm đã tổng hợp được nhiều ưu
điểm của bút pháp Nguyễn Đức Mậu hồi đó: hiện thực đan xen với tư tưởng,
tình cảm, kể chuyện đan xen với trữ tình và đã khái quát lên thành biểu
tượng. Mƣa trong rừng cháy đã vươn tới tầm khái quát những mảng hiện
thực lớn của cuộc chiến tranh chống Mỹ với tính chất dữ dội, ác liệt của nó
đã làm ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế hệ trẻ lúc bấy giờ.
Chưa bao giờ, hình ảnh thế hệ trẻ sống, chiến đấu giữa chiến trường lại được
thơ tập trung khắc họa đạt tới tính chân thực cao như ở tập thơ này. Đó là
những người lính xe thồ, người chiến sĩ công binh, cô gái văn công giải
phóng, anh lính thông tin, thanh niên xung phong, Đó là những con người
sẵn sàng hy sinh vì nhân dân, đất nước:
Khắp Trƣờng Sơn núi đồi vang tiếng hát
Đƣờng mới in thêm những dấu giày
(Lời tâm tình)
Đọc hai câu thơ trên, ta chợt nhớ tới tác phẩm Dấu chân ngƣời lính
của nhà văn Nguyễn Minh Châu - một bản hùng ca đầy cảm hứng lãng mạn
về không khí của chiến trường vào mùa xuân tổng tiến công năm 1968. Nhà

24
thơ đã từng tâm sự: “Con đường Trường Sơn và miền đất nóng bỏng kia có
dài rộng đến vô cùng. Hai mươi năm qua đất nước mình dồn sức lực và của
cải vào đó để làm nên giai đoạn lịch sử hào hùng. So với độ dài của con

đường, so với chiến công lớn lao của những trận đánh, chúng tôi cảm thấy
mình còn viết quá ít”. Lời tâm sự chân thành cho chúng ta thấy sự trăn trở
của nhà thơ về nhiệm vụ chân chính của người cầm bút.
Vẫn tiếp tục viết về đề tài quê hương đất nước nhưng ông đã có một ý
thức tự giác cao hơn và tình cảm sâu nặng hơn. Sự thống nhất cao độ giữa ý
thức nhà thơ với trách nhiệm công dân, tư cách người chiến sĩ cầm súng đã
tạo nên trong trang thơ Nguyễn Đức Mậu chiều sâu mới trên bình diện nhận
thức và tình cảm. Thấm thía hơn thực tế chiến tranh, ông càng nhận rõ hơn
trách nhiệm của thế hệ mình, càng thấy mình gắn bó sâu nặng hơn với nhân
dân, đất nước:
Ngƣời chiến sĩ quê chung: Tổ quốc
Súng trong tay, ngôi sao sáng trên đầu
(Thơ người đi biển gửi người đi rừng)
Mƣa trong rừng cháy chính là tiếng lòng của người lính trực tiếp cầm
súng, lấy máu mình để giữ gìn, bảo vệ non sông. Mƣa trong rừng cháy đã
đạt tới một mức độ nhất định chiều sâu của suy nghĩ và tầm cao của khái
quát. Từ những chi tiết, những hình ảnh thực của chiến tranh, của đời sống
chiến trường, Nguyễn Đức Mậu đã soi rọi vào đó luồng ánh sáng của tư
tưởng để làm nổi bật lên những ý nghĩa khái quát sâu sắc:
Bàn chân bợt da non, máu ứa
Đã mấy mùa mƣa đi khắp lối mòn
Khởi điểm từ những bàn chân ngắn
Con đƣờng dài hơn mùa mƣa Trƣờng Sơn
(Điệp khúc một con đường)
2.2. Những vần thơ đi ngược thời gian
Ở phần này, chúng tôi khảo sát những tập thơ ra đời sau năm 1976.
Mặc dù có sự trùng hợp về đề tài, hình tượng nhân vật song thơ Nguyễn Đức
Mậu đã mở rộng về các phương diện: cảm hứng nghệ thuật, giọng điệu, thể
thơ,
Sau năm 1976, Nguyễn Đức Mậu như luôn nhìn thấy những người

đồng đội ngã xuống, luôn nghe được những tiếng thì thầm tâm sự của bạn bè

×