Tải bản đầy đủ (.pdf) (196 trang)

Phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 (qua Tam Lang, Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 196 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM THỊ MỴ







PHÓNG SỰ VIỆT NAM 1930 - 1945
(QUA TAM LANG, VŨ TRỌNG PHỤNG
VÀ NGÔ TẤT TỐ)






LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC







Hà Nội - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






PHẠM THỊ MỴ



PHÓNG SỰ VIỆT NAM 1930 - 1945
(QUA TAM LANG, VŨ TRỌNG PHỤNG VÀ NGÔ TẤT TỐ)




Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 62.22.34.01




LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC






Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. Lê Văn Lân





Hà Nội - 2009


3
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
5
1. Lý do, mục đích nghiên cứu
5
2. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu
6
3. Lịch sử vấn đề
7
3.1. Những công trình nghiên cứu chung về phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945

7
3.2. Những công trình, bài viết riêng về từng cây bút

10
3.2.1. Tam Lang
10
3.2.2. Vũ Trọng Phụng
12
3.2.3. Ngô Tất Tố
18
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
21
5. Đóng góp của luận án
22
6. Cấu trúc của luận án
22
PHẦN NỘI DUNG
23
CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM PHÓNG SỰ - KHÁI LƢỢC VỀ
PHÓNG SỰ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945

23
1.1. Khái niệm về thể loại phóng sự
23
1.1.1. Sự hình thành của thể loại phóng sự
23
1.1.2. Xung quanh khái niệm thể loại phóng sự
27
1.2. Khái lƣợc về phóng sự Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
42
1.2.1. Những tiền đề văn hóa xã hội dẫn đến sự bùng nổ và phát
triển của thể loại phóng sự


48
1.2.2. Thành tựu của phóng sự Việt Nam 1930 - 1945
67
Tiểu kết chƣơng 1
69
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG THẨM MỸ CỦA PHÓNG SỰ
TAM LANG, VŨ TRỌNG PHỤNG, NGÔ TẤT TỐ

69

4
2.1. Phóng sự trong quan niệm của ba cây bút Vũ Trọng Phụng,
Tam Lang, Ngô Tất Tố

69
2.2. Phóng sự phanh phui những “ung nhọt” của xã hội
72
2.2.1. Phơi bày những tệ nạn xã hội
72
2.2.2. Tình trạng bần cùng hóa, tha hóa con người và văn hóa
80
2.3. Khách quan chân thực, phóng sự khơi gạn đến tận cùng sự thật
93
2.3.1. Khách quan, chân thực
93
2.3.2. Truy tìm nguyên nhân, đề xuất giải pháp
104
Tiểu kết chƣơng 2
115
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÓNG SỰ TAM LANG,

VŨ TRỌNG PHỤNG, NGÔ TẤT TỐ

117
3.1. Cái tôi - chủ thể sáng tạo
117
3.1.1. Cái tôi bản lĩnh, giàu tâm huyết
118
3.1.2. Cái tôi hiểu biết sâu rộng
125
3.2. Thủ pháp nghệ thuật đa dạng, độc đáo
136
3.2.1. Dựng cảnh
137
3.2.2. Dựng chân dung nhân vật
142
3.2.3. Nghệ thuật tổ chức tình huống dẫn dắt câu chuyện
151
3.2.4. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
158
3.3. Sự dung hợp các thể loại
168
3.3.1. Phóng sự và ký sự
170
3.3.2. Phóng sự và truyện ngắn
172
3.3.3. Phóng sự và tiểu thuyết phóng sự
175
Tiểu kết chƣơng 3
179
PHẦN KẾT LUẬN

181
NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
184
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
185
A. Tác phẩm khảo sát
185
B. Tài liệu tham khảo
186


- 5 -
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do, mục đích nghiên cứu:

- Từ những năm 30 của thế kỷ XX, văn học Việt Nam từng bước đi
vào quỹ đạo của văn học thế giới. Nhiều thể loại mới ra đời và có những
thành công đáng kể, đóng góp cho lịch sử văn học những tác giả và tác phẩm
tiêu biểu, trong nhiều thể loại đó không thể không kể đến phóng sự. Nhờ
những ưu thế riêng về thể loại: tính xác thực, tính thời sự, tính xã hội - chính
trị , cùng với sự “chắp cánh” của báo chí, phóng sự đã nhanh chóng đến với
công chúng, tạo môi trường công luận rộng rãi, kịp thời và phát huy được
hiệu quả nghệ thuật tích cực trong đời sống. Ngay từ đương thời và càng
ngày phóng sự càng được khẳng định là một trong những thể loại quan trọng
của văn học và báo chí nước ta trong những thập niên đầu thế kỷ XX.
Với đội ngũ đông đảo hàng trăm cây bút tài năng, có tên tuổi trong
làng văn, làng báo Việt Nam; với di sản phóng sự đồ sộ từng được công bố
trên các báo đương thời và được ấn bản thành sách; với nội dung và ý nghĩa
xã hội, lịch sử, văn học, khoa học…phong phú và giá trị nghệ thuật đặc sắc,

phóng sự Việt Nam 1930 - 1945 thực sự là một thành tựu, một bộ phận quan
trọng tạo nên diện mạo, thành tựu chung của cả một giai đoạn văn học.
- Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố được đánh giá là ba cây
bút phóng sự xuất sắc của giai đoạn này. Tam Lang được vinh danh người
mở đầu cho thể loại phóng sự; Vũ Trọng Phụng được mệnh danh là “ông
vua phóng sự đất Bắc”, người đưa phóng sự Việt Nam phát triển đến đỉnh
cao và Ngô Tất Tố được tôn vinh là “nhà báo có biệt tài”, người tạo nên độ
sâu cho thể phóng sự. Sáng tác của các nhà văn này có vị trí và đóng góp lớn
cho sự phát triển của thể loại phóng sự và thành tựu của phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945.

- 6 -
- Việc nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống, rút ra những đánh giá về thành
tựu và hạn chế của phóng sự trong cả giai đoạn 1930-1945 (qua di sản phóng
sự của ba tác giả tiêu biểu Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố), do vậy
là việc làm cần thiết, có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn, đặc biệt trong
nhu cầu tổng kết, đánh giá văn học thế kỷ XX, rút ra những bài học kinh
nghiệm thẩm mỹ quý giá cho sự phát triển của thể loại phóng sự nói riêng và
văn học Việt Nam đương đại nói chung.
- Bằng cách nhìn tổng quát, đặt trên nền phóng sự giai đoạn này, luận
án tập trung khảo sát phóng sự của ba tác giả Tam Lang, Vũ Trọng Phụng và
Ngô Tất Tố nhằm hướng tới khẳng định những thành tựu phóng sự của ba
cây bút trên cả hai phương diện nội dung phản ánh và hình thức nghệ thuật.
Từ đó có cơ sở chắc chắn để khẳng định vị trí, đóng góp của ba cây bút
phóng sự này và phóng sự giai đoạn 1930 - 1945 với sự phát triển của văn
học Việt Nam đầu thế kỷ XX theo xu hướng hiện đại hóa.

2. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu:

- Luận án khảo sát phóng sự của ba tác giả Tam Lang, Vũ Trọng

Phụng, Ngô Tất Tố, đặc biệt tập trung vào các tập phóng sự dài:
. Tam Lang: Tôi kéo xe (1932), Đêm sông Hương (1938), Lọng
cụt cán (1939), Người…ngợm (1940).
. Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây
(1934), Cơm thầy cơm cô (1936), Lục xì (1937), Một huyện ăn Tết (1938).
. Ngô Tất Tố: Dao cầu thuyền tán (1935), Tập án cái đình
(1939), Việc làng (1940), Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập…
- Luận án cũng khảo sát một số tác phẩm phóng sự tiêu biểu giai đoạn
1930 - 1945 (chủ yếu là các tác phẩm được tập hợp trong bộ Phóng sự Việt
Nam 1932 -1945, 3 tập, do nhóm tác giả Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ,
Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, biên soạn, Nxb Văn học, 2000).

- 7 -
3. Lịch sử vấn đề:
Tôi kéo xe (viết xong 6/1932 đăng trên Hà Thành ngọ báo, 1932 và in
thành sách 1935) được coi là tác phẩm phóng sự đầu tiên trong làng báo Việt
Nam. Ngay khi ra đời Tôi kéo xe đã được dư luận hoan nghênh và từ đó
phóng sự cũng là thể loại được công luận chú ý. Từ đó đến nay, đã trên bảy
thập niên, trải qua nhiều biến động xã hội, nhiều bước thăng trầm của đời
sống văn học dân tộc, cùng với các thể loại khác, phóng sự giai đoạn này
vẫn tiếp tục được nghiên cứu, đánh giá và dường như giá trị của nó ngày
càng được khẳng định vững vàng hơn. Đến nay, đã có hàng trăm công trình
lớn nhỏ (từ chuyên khảo đến các bài viết riêng về các tác giả, tác phẩm…)
dành nghiên cứu về phóng sự giai đoạn này. Ở đây chúng tôi tạm chia làm
hai khu vực: Những công trình, bài viết chung về phóng sự Việt Nam 1930 -
1945 và những công trình, bài viết riêng về từng cây bút phóng sự Tam
Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố.
3.1. Những công trình nghiên cứu chung về phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945:
Ở giai đoạn đầu, những công trình đề cập đến phóng sự 1930 - 1945

chủ yếu tập trung vào những tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Sau Cách mạng
tháng Tám (1945), đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, những
vấn đề của văn học quá khứ trong đó có phóng sự 1930 - 1945 hầu như
không được quan tâm, nghiên cứu. Đáng quan tâm là năm 1950, trong bài
giảng về thể phóng sự cho các khóa đào tạo đội ngũ văn nghệ kháng chiến,
Nguyễn Đình Lạp - một trong những cây bút phóng sự đặc sắc giai đoạn
1930-1945 đã đề cao thành công và đóng góp của ba cây bút phóng sự họ Vũ
(Vũ Trọng Phụng, Vũ Đình Chí - Tam Lang và Vũ Bằng). Trong đó, ông
khẳng định “Vũ Trọng Phụng là nhà phóng sự phong phú nhất, sâu sắc nhất.
Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì đã làm cho độc
giả say mê, sôi nổi” [115, 792].

- 8 -
Sau hòa bình (1954), đất nước chia cắt làm hai miền, ở miền Bắc, tuy
không xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu chung về phóng sự 1930 -
1945, nhưng giới nghiên cứu cũng đã quan tâm tới những hiện tượng, những
cây bút phóng sự nổi trội, đặc biệt là Vũ Trọng Phụng. Cùng với đó, một số
công trình nghiên cứu văn học sử và giáo trình giảng dạy trong các trường
đại học, đã đề cập đến phóng sự 1930 - 1945. Trong bộ: Sơ thảo lịch sử văn
học Việt Nam 1930 -1945 (NXB Văn học, H., 1964) nhóm tác giả đã dành
gần 3 trang cho phóng sự giai đoạn này. Tuy nhiên việc đánh giá lại có phần
khe khắt, chưa thỏa đáng: “Phóng sự 1930 - 1945, xét về cơ bản không thuộc
trào lưu hiện thực. Nó có nhiều yếu tố tự nhiên chủ nghĩa…đối tượng miêu
tả…thường là sinh hoạt của bọn lưu manh…các nhà viết phóng sự không
chú ý đến những vấn đề lớn do mâu thuẫn trong xã hội làm nảy sinh
ra…nhiều tập phóng sự thực ra chỉ là những chuyện nghe lỏm” [tr.104,105].
Tách riêng ra, nhóm tác giả này chỉ đề cao Việc làng của Ngô Tất Tố, Ngục
Kon Tum của Lê Văn Hiến và Vượt ngục của Cựu Kim Sơn, trong khi đó
kịch liệt bài bác phóng sự của các cây bút Tam Lang, Trọng Lang và Vũ
Trọng Phụng. Trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (tập 5,

NXB Giáo dục, H.1978), Nguyễn Trác đã có cách nhìn nhận khách quan,
công bằng hơn về phóng sự giai đoạn 1930 - 1945. Ông đề cao ý thức nhập
cuộc của các nhà phóng sự và nội dung xã hội của phóng sự “Họ đã đi vào
bóng tối của những thành phố lớn đến các nhà chứa, nhà lục xì, tiệm hút…để
tâm theo dõi quá trình trụy lạc của thanh niên, cuộc sống khốn khổ của
những gái đĩ me Tây, cảnh sát phạt lừa bịp nhau của những người sống bằng
nghề đỏ đen” [tr.137]. Sau khi phân tích, giới thiệu bốn thiên phóng sự đặc
sắc của Vũ Trọng Phụng, tác giả khẳng định: những tác phẩm trên đã đưa
Vũ Trọng Phụng lên hàng “Ông Vua phóng sự đất Bắc”. Có thể nói trong bài
khái quát về văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 đó Nguyễn Trác đã
phác họa tương đối cụ thể, chuẩn xác diện mạo cùng một số cây bút tiêu biểu

- 9 -
của phóng sự giai đoạn này. Trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 29A
[NXB Khoa học xã hội, H.1988], sau khi liệt kê một số tập phóng sự của
Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam…viết về những mặt trái của hiện
thực đời sống thị thành, tác giả Phan Cự Đệ nhận xét: “Tiếc rằng những
phóng sự này mới dừng lại ở những hiện tượng bề mặt mà chưa đi sâu được
vào bản chất, chưa phân tích được những nguyên nhân gây ra những ung
nhọt của xã hội. Bút pháp tự nhiên chủ nghĩa đã miêu tả một cách chi tiết
những câu chuyện dâm ô trụy lạc, gây một ảnh hưởng xấu đến người đọc”
[62, 20].
Nhìn chung trong nhiều thập kỷ, ở miền Bắc, việc nghiên cứu thể loại
phóng sự giai đoạn 1930 - 1945 đã được chú ý, tuy nhiên cách nhìn nhận,
đánh giá chưa thật khách quan, toàn diện, một số ý kiến còn có phần chủ
quan, chưa thấy hết được thành tựu cùng những đóng góp quan trọng của
phóng sự giai đoạn này đối với văn học sử nói chung và sự phát triển thể loại
phóng sự nói riêng.
Cùng trong khoảng thời gian này, ở miền Nam, cũng có những công
trình nghiên cứu: Lược sử văn học Việt Nam (Nhà văn tiền chiến 1930 -

1945) của Thế Phong; Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3) của
Phạm Thế Ngũ; Bảng lược đồ văn học Việt Nam của Thanh Lãng…đã quan
tâm đến phóng sự giai đoạn 1930 - 1945. Tuy nhiên, các công trình này chủ
yếu chỉ dừng lại ở một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu như Tam Lang, Vũ
Trọng Phụng…mà chưa nhận diện toàn diện sâu sắc về cả một giai đoạn
phát triển của thể loại phóng sự.
Từ sau 1975, đặc biệt từ sau đổi mới (1986), trong không khí đổi mới
chung của xã hội, của cả nền văn học, những vấn đề của văn học quá khứ
trong đó có phóng sự 1930 - 1945, đã được nhìn nhận, đánh giá chuẩn xác
hơn. Trong một số bộ giáo trình như Văn học Việt Nam thế kỷ XX, tập 2, do

- 10 -
Trần Đăng Suyền chủ biên và các chuyên đề bài viết: Phóng sự và quá trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam của Hà Văn Đức; Lời giới thiệu bộ Tổng tập:
Phóng sự Việt Nam 1932 - 1945 - Một thành tựu của tiến trình văn học Việt
Nam của Phan Trọng Thưởng; Phóng sự Việt Nam (1932 - 1945) - Những
đóng góp đặc sắc về mặt nghệ thuật của Lê Dục Tú; Thể loại phóng sự trong
văn học thế kỷ XX của Tôn Thảo Miên…các tác giả đã trở lại nhận diện,
phân tích và đánh giá, khẳng định thành tựu rực rỡ của phóng sự trên cả hai
phương diện nội dung xã hội và nghệ thuật thể hiện đặc sắc. Từ đó, khẳng
định vị trí và đóng góp của phóng sự Việt Nam 1930 -1945 trong tiến trình
hiện đại hóa văn học đầu thế kỷ XX nói riêng và văn học sử Việt Nam nói
chung. Tuy nhiên, các công trình, bài báo này mới chỉ dừng ở mức độ khái
lược. Rất cần có sự khảo sát, đánh giá toàn diện, thấu đáo về thành tựu và
đóng góp của phóng sự Việt Nam ở giai đoạn phát triển rực rỡ này.
3.2. Những công trình, bài viết riêng về từng cây bút:
3.2.1. Tam Lang
Ngay khi ra đời Tôi kéo xe đã thu hút được sự quan tâm của công
luận. Trên báo Loa (số 86, 10/10/1935), Trương Tửu đánh giá: “Ông Tam
Lang đã tỏ ra có khiếu và tài là một nhà văn tả chân hoàn toàn”. “Tôi kéo xe

là cuốn tiểu thuyết tả chân giá trị nhất trong văn học Việt Nam hiện đại”. Ở
đó, bằng “tài quan sát và trí tưởng tượng…ông đã nhìn rõ cái nhục của hạng
trung lưu không đáng quan tâm bằng cái khổ của hạng nghèo hèn, hạng vô
học bị bóc lột không biết kêu vào đâu, luật pháp không bênh vực xiết, tôn
giáo không an ủi nổi. Ông Tam Lang đã bỏ ái tình đi vào xã hội, ở đó ông
tiến từ trưởng giả đến bình dân. Về cách phục diễn, ông đi từ lãng mạn đến
tả chân thuần túy, từ hùng biện đến kịch thể. Lấy nhân sự làm tài liệu, lấy
khách quan làm phương châm…”. Về nghệ thuật “câu văn ông vẫn dễ đọc
và có tính cách An Nam. Văn Tam Lang rất điêu luyện…”. Nhìn lại “Từ

- 11 -
Giọt lệ sông Hương đến Tôi kéo xe, ông Tam Lang tiến bộ về các phương
diện, cốt truyện, cách bố cục, cách viết, cách nghĩ, ông có con mắt quan sát
của nhà xã hội, ông có trí tưởng của một nhà thi sĩ, ông có bình tĩnh của một
nhà báo. Với ba đức tính này ông có thể trở thành một nhà văn đại tài” để
“đem nghệ thuật phụng sự nhân dân”. Trên Tiểu thuyết thứ bảy (số 74,
26/10/1935), Hoài Thanh viết: “Điều cần nhất cho một người phóng viên là
biết nghe, biết nhìn, biết tìm đến cái đáng nhìn và biết gợi những câu chuyện
đáng nghe. Biết quan sát vậy. Biết quan sát rồi lại phải biết diễn những điều
quan sát được ra câu văn. Ông Tam Lang có những tư cách ấy. Người ta
thường khen ngợi ngòi bút tả chân của ông. Thực không quá đáng…Cái đặc
sắc thứ nhất của văn Tam Lang ấy là chỗ hay tả và khéo tả những điều ghê
tởm, một sự ít có trong làng văn nước ta”. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện
đại (NXB Tân Dân, 1942) khẳng định: Tôi kéo xe là tác phẩm phóng sự đầu
tiên của Việt Nam, “một quyển phóng sự giá trị”, “những đoạn tả chân có
đầy trong quyển Tôi kéo xe, làm cho người đọc cảm động và có sức cám dỗ
một cách lạ”. Cùng với việc ngợi khen Tôi kéo xe, Vũ Ngọc Phan cũng đánh
giá cao giá trị của Đêm sông Hương, thiên phóng sự đã phản ánh với “những
màu đen tối, làm cho người đọc có cái cảm tưởng những nơi âm u tịch mịch
là những nơi con quỷ dâm dục dễ hiện hành” và Lọng cụt cán “là một quyển

ghi tất cả những cái dởm đời, những cái ích kỷ, những tính kiêu căng, những
thói khoe khoang và những cái bất công trong xã hội Việt Nam. Những tật
xấu ấy đã phô bày dưới một ngòi bút châm biếm chân chính, một ngòi bút
chỉ biết phụng sự lẽ phải và sự công bình”. Tựu chung lại tác giả Nhà văn
hiện đại đánh giá cao sáng tác của Tam Lang “cây bút tả chân và châm
biếm”: “Trong những tập phóng sự và những tập châm biếm, trào
phúng…những tư tưởng thật là luân lý, những tư tưởng thật là bác ái, bao
giờ cũng có cái khuynh hướng bênh vực hạng người nghèo khổ, kém hèn,
mà bênh vực vì lẽ phải, vì nhân đạo…”.

- 12 -
Ở miền Nam sau 1954, một số công trình nghiên cứu cũng đã đánh giá
về phóng sự của Tam Lang. Tôi kéo xe đã được đưa vào dạy trong chương
trình quốc văn lớp 8, do vậy đã có một số bài viết về tác phẩm này. Tiêu
biểu là bài viết của Tam Ích Nhân đọc Tôi kéo xe của Tam Lang. Ở đó ông
đánh giá cao lối viết tả chân “có sao nói vậy” của nhà văn.
Trong Tổng tập văn học Việt Nam tập 29 do NXB Khoa học xã hội ấn
hành năm 2000, Tam Lang đã được dành vị trí xứng đáng: “Là cây bút “tả
chân” và châm biếm sắc sảo…có đóng góp đáng kể vào sự hình thành của
trào lưu văn học hiện thực phê phán và sự phát triển của văn học báo chí
Việt Nam”…Tôi kéo xe được tôn vinh “là tập phóng sự ra đời sớm nhất…có
ý nghĩa mở đầu cho sự phát triển thể loại phóng sự trong văn xuôi Việt Nam
hiện đại và là một trong những tác phẩm đánh dấu sự phát triển của trào lưu
văn học hiện thực Việt Nam những năm 1930 - 1945”.
3.2.2. Vũ Trọng Phụng
Sau Tôi kéo xe, sự xuất hiện hàng loạt phóng sự của Vũ Trọng Phụng:
Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Một huyện ăn
Tết…đã thực sự tạo được sự quan tâm của công luận, khiến “cái tên Vũ
Trọng Phụng đã ra đời lừng lẫy trong chớp mắt” và nhanh chóng được vinh
danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Trong Lời tựa Kỹ nghệ lấy Tây, Phùng

Tất Đắc ngợi ca “ngòi bút phóng sự của ông Vũ Trọng Phụng đã nói tới một
độ rất cao trong nghệ thuật. Cuốn sách này…vào hàng những công trình ảnh
hưởng xa rộng hơn, những công trình có thể vạch phương hướng cho văn
nghệ, những công trình rút được tài liệu cho đời sau khảo xét về buổi này”.
Sau khi Vũ Trọng Phụng qua đời, trên Tao đàn số đặc biệt tháng 12/1939,
bạn bè, đồng nghiệp đánh giá cao văn tài của nhà văn. Tam Lang chân thành
đề cao tài năng Vũ Trọng Phụng: “Đọc những thiên phóng sự ấy, tôi nhận
thấy rằng Vũ Trọng Phụng, về mặt phóng sự - một lối văn do tôi khởi xướng

- 13 -
ra đầu tiên - đã bỏ xa tôi lắm”. Trên báo Tràng An, Mai Xuân Nhân đánh giá
cao Kỹ nghệ lấy Tây, coi đó là một kiệt tác và chính “kiệt tác ấy đã đưa ông
Vũ Trọng Phụng đến con đường bổn phận của một nhà cầm bút sống trong
cái tình thế trầm trọng của một thời đại khó khăn, rối rít và đã xô lối phóng
sự xứ này bước được một bước dài rất vẻ vang”. Chính trong bài viết này,
Mai Xuân Nhân đã tôn vinh Vũ Trọng Phụng là “ông vua phóng sự đất
Bắc”. Lê Thanh trên Hà Nội báo số 34 ra ngày 26/8/1936 cũng nhận xét:
“Bằng một thể văn tả thực, mới mẻ, chua chát, viết thiên phóng sự Kỹ nghệ
lấy Tây, ông Vũ Trọng Phụng đã lột hẳn tinh thần đối tượng…Ông đứng biệt
ra một nơi, ghi lấy từng mảnh một tấn kịch vĩ đại hơn, hiện đang diễn ra ở
xứ ta, do sự gặp gỡ của hai làn sóng, của hai thế giới gây nên”. Trên cơ sở
khảo sát kỹ lưỡng phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Vũ Ngọc Phan trong Nhà
văn hiện đại đã đánh giá một cách chân xác về Cơm thầy cơm cô, cho đó “là
tập hay nhất của Vũ Trọng Phụng. Ngòi bút tả chân của ông thật là tuyệt xảo
khi ông tả những cảnh nghèo khổ” [137, 577] . Vũ Ngọc Phan cũng đã phát
hiện nhân vật tôi và nghệ thuật trần thuật đặc sắc trong phóng sự của Vũ
Trọng Phụng. Tuy nhiên, đương thời cũng có những ý kiến công kích gay
gắt văn chương của Vũ Trọng Phụng. Tiêu biểu cho những ý kiến này là
Thái Phỉ và Nhất Chi Mai. Trên tờ Tin văn (tháng 5/1936), trong bài viết
“văn chương dâm uế”, Thái Phỉ lên án loại văn sĩ “viện cái chủ nghĩa tả

chân” để tả cảnh dâm uế một cách táo bạo, quá đà khiến người đọc hoặc ghê
sợ hoặc “rung động” một cách lệch lạc, kích thích mặt thú tính của con
người. Nhất Chi Mai viết bài Ý kiến của một người đọc: Dâm hay không dâm
đăng trên báo Ngày nay, số 51, ngày 14/3/1937, đả kích nhà văn Vũ Trọng
Phụng, tác giả thiên phóng sự Lục xì là “một nhà văn nhìn thế giới qua cặp
kính đen, có một bộ óc cũng đen và một nguồn văn càng đen nữa”. Ông tức
tối lên án lối văn chương “đen tối”, “dơ dáy, bẩn thỉu, nhơ nhớp” của Vũ

- 14 -
Trọng Phụng. Với bài bút chiến Thư ngỏ cho ông Thái Phỉ, chủ bút báo Tân
văn về bài “Văn chương dâm uế”, đăng trên Hà Nội báo số 38 ngày
23/9/1936 và bài “Để đáp lại báo Ngày nay: Dâm hay là không dâm?” đăng
trên báo Tương lai số 37, ngày 25/3/1937, Vũ Trọng Phụng đã thẳng thắn
bác lại ý kiến của Thái Phỉ và Nhất Chi Mai, đồng thời khẳng định quan
niệm văn chương tiến bộ của mình: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu
thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự
thực ở đời…các ông muốn theo thuyết tùy thời, chỉ nói cái gì thiên hạ thích
nghe nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thật…”.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, trong Hội nghị tranh luận văn nghệ
Việt Bắc (1949), nhà thơ Tố Hữu đã trân trọng ghi nhận công lao của Vũ
Trọng Phụng: “…Cách mạng cám ơn Vũ Trọng Phụng đã vạch rõ cái thực
xấu xa thối nát của xã hội ấy”. Trong bài giảng cho các khóa đào tạo văn
nghệ kháng chiến năm 1950 Nguyễn Đình Lạp cũng đã đề cao đóng góp của
Vũ Trọng Phụng về thể phóng sự.
Sau hòa bình (1954), phóng sự của Vũ Trọng Phụng một lần nữa thu
hút được sự quan tâm của công luận. Nhà văn Nguyên Hồng đánh giá: Cạm
bẫy người là tác phẩm mở đầu của khuynh hướng văn học hiện thực và “với
hai thiên phóng sự đặc biệt Cơm thầy cơm cô và Lục xì và hai tiểu thuyết Số
đỏ và Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã làm chuyển động cả dư luận văn học
bấy giờ, giơ cao thêm ngọn cờ hiện thực, góp thêm một phần đấu tranh quyết

liệt cho một nền văn học tiến bộ”. Trong cuốn Vũ Trọng Phụng với chúng ta
(do Minh Đức xuất bản) cùng với việc đánh giá cao tiểu thuyết, các tác giả
cũng đánh giá rất cao phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Theo Phan Khôi, Cơm
thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy Tây, Cạm bẫy người đều là những tác phẩm thông
cảm và tố khổ cho hạng người cùng khổ ở Việt Nam. Trong tiểu luận Vũ
Trọng Phụng - nhà văn hiện thực, Văn Tâm đánh giá cao chủ nghĩa hiện

- 15 -
thực và tinh thần nhân đạo trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên,
chính trong giai đoạn này, một số bài viết lại phê phán văn chương Vũ
Trọng Phụng. Trong Một vài ý kiến về tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong Văn
học Việt Nam, Hoàng Văn Hoan cho rằng, Lục xì và một vài tác phẩm khác
của Vũ Trọng Phụng là “cả một ý thức thừa nhận thú tính, cổ lệ nhục dục”.
Còn Vũ Đức Phúc thì nhận định: “Sáng tác của Vũ Trọng Phụng có một số
yếu tố hiện thực tốt…nhưng những yếu tố ấy lại xen lẫn với nhiều yếu tố độc
hại làm cho khá nhiều sáng tác bị hỏng đi một cách đáng tiếc”. Và “phần
lớn phóng sự của Vũ Trọng Phụng xưa kia chỉ là những tiểu thuyết được “hư
cấu” bằng cách lượm lặt những mẩu chuyện bên cạnh bàn đèn thuốc phiện”.
Đồng thời gian này ở miền Nam một số công trình nghiên cứu văn
học sử cũng khảo sát và đánh giá cao phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Thế
Phong trong Lược sử văn nghệ miền Nam khẳng định: “…Vũ Trọng Phụng
có nghệ thuật chọn lọc xếp đặt, xây dựng thành hệ thống điển hình…Vũ
Trọng Phụng đã thành văn hào vượt hẳn những bạn văn chương thời đó”.
Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, sau
khi giới thiệu tóm tắt bốn phóng sự của Vũ Trọng Phụng: Cạm bẫy người,
Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì đã đánh giá cao phóng sự của Vũ
Trọng Phụng: “Ta thấy tất cả những gì gọi là hài hước, bi đát, rùng rợn trong
những vết thương xã hội lúc bấy giờ. Ta cũng thấy công phu điều tra, khiếu
quan sát lịch duyệt của tác giả…Cây bút tả chân già dặn linh hoạt như chụp
được sự thật…ông moi móc những vết thương xã hội ấy…và nói ra với một

giọng mỉa mai chua chát, đôi khi đượm vẻ căm hờn”. Trong Bảng lược đồ
văn học Việt Nam, Thanh Lãng nhận xét: “Vũ Trọng Phụng trong Cạm bẫy
người cho chúng ta thấy cái xã hội mà Phạm Quỳnh đã cùng ca ngợi chỉ là
một xã hội giả dối, tội lỗi, xấu xa…còn gì sống động và cũng sượng sùng
cho bằng những thiên điều tra của Vũ Trọng Phụng trong Cơm thầy cơm cô
hay Lục xì! Truyện như trốn tránh kết cấu, chỉ còn là một sự diễn hành”.

- 16 -
Từ sau 1986, trong không khí đổi mới, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng
trong đó có các tập phóng sự được tái bản nhiều lần, cùng với đó là những
công trình nghiên cứu về văn nghiệp của Vũ Trọng Phụng. Trong đó nhiều
công trình bài viết trở lại đánh giá cao di sản phóng sự của Vũ Trọng Phụng.
Trong bài giới thiệu Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đăng Mạnh cho
rằng: “Vũ Trọng Phụng thành công hơn cả ở thể tài phóng sự với Cạm bẫy
người (1933) và Kỹ nghệ lấy Tây (1934). Hai tác phẩm này đã phát huy ở
ông một sở trường quan sát sắc sảo, khả năng ký họa mau lẹ, linh hoạt và lối
văn biến hóa hấp dẫn…”. Sau khi đánh giá xác đáng về sự nghiệp của “ông
vua phóng sự” qua hai tập phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây và Cơm thầy cơm cô
do Nhà xuất bản Hà Nội tái bản năm 1989, Nguyễn Đăng Mạnh đã phân tích
cách tiếp cận của Vũ Trọng Phụng: “Cái gốc của tài năng Vũ Trọng Phụng
xét đến cùng là ở tấm lòng đau đớn và đầy căm phẫn của một trí thức nghèo
bị giày xéo và bị lăng nhục bởi cái xã hội xây dựng trên nguyên tắc của
quyền lực bất công và đồng tiền phi nghĩa”. Trần Hữu Tá khi giới thiệu
Tuyển tập Vũ Trọng Phụng đã nhấn mạnh: “Đằng sau những nhân vật Cạm
bẫy người…người đọc phần nào thấy được hình ảnh của xã hội thành thị trụy
lạc hóa hồi những năm 30 và tình trạng bần cùng, bế tắc, lưu manh hóa của
loại tiểu tư sản lớp dưới và dân nghèo thành thị lúc bấy giờ”. Về nghệ thuật,
tác giả cho rằng: “Khuynh hướng tiểu thuyết hóa ở một mức độ nào đấy là
một đặc điểm của ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng”. Vũ Ngọc Phan trong
hồi ký Những năm tháng ấy, một lần nữa khẳng định vị trí và phần đóng góp

rất lớn của Vũ Trọng Phụng đối với dòng văn học hiện thực phê phán Việt
Nam: “Thời gian 30 - 40, anh là tay viết phóng sự cứng nhất trong số những
nhà văn hiện thực nổi tiếng thời bấy giờ, anh là một kiện tướng”.
Từ năm 1988, Vũ Trọng Phụng được dành một vị trí xứng đáng trong
giáo trình bậc đại học. Tham gia biên soạn bộ giáo trình của trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Hoành Khung nhận thấy, nổi bật trong phóng sự

- 17 -
của Vũ Trọng Phụng là “lối viết chính luận nghệ thuật đanh sắc”. Ông đặc
biệt nhấn mạnh phần đóng góp to lớn của Vũ Trọng Phụng đối với thể phóng
sự, coi Vũ Trọng Phụng là “một trong số những người mở đầu và là người
có công lớn nhất trong việc đưa thể loại phóng sự đến thành thục”. Từ góc
độ thể loại, Vương Trí Nhàn qua tiểu luận Nơi gặp gỡ của báo chí và văn
học ghi nhận phóng sự của Vũ Trọng Phụng “rất chín, rất thành thực, không
chê vào đâu được”. Đặc biệt trong Tổng tập văn học Việt Nam tập 29 do
NXB Khoa học xã hội ấn hành, Nguyễn Hoành Khung một lần nữa khẳng
định: “Cho đến nay, có thể nói, vị trí hàng đầu của Vũ Trọng Phụng trong
nền văn xuôi quốc ngữ nước ta trước cách mạng đã được khẳng định chắc
chắn hơn bao giờ hết”. Viết về Phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Hà Minh
Đức nhận xét: “Phóng sự của Vũ Trọng Phụng không đi vào miêu tả tràn lan
những chất liệu phức tạp của đời sống mà tập trung vào những hiện tượng
đặc biệt và làm nổi lên chủ đề và nội dung xã hội rõ rệt”…”Phóng sự của Vũ
Trọng Phụng có giá trị văn học…Vũ Trọng Phụng là bậc thầy của nghệ thuật
trần thuật và miêu tả…táo bạo, mạnh mẽ, chân thực, thuyết phục, hài hước,
cảm thương là những cảm hứng dễ thấy của phóng sự Vũ Trọng Phụng”.
Các tác phẩm phóng sự của Vũ Trọng Phụng đã được đưa vào nhiều
bộ Từ điển văn học như: Từ điển văn học, 2 tập (NXB Khoa học Xã hội,
1984), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (từ cuối thế kỷ XIX đến 1945),
(NXB Văn học, 2001)…. Các công trình nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng đã
được tập hợp trong nhiều cuốn sách: Vũ Trọng Phụng, con người và tác

phẩm do Nguyễn Hoành Khung và Lại Nguyên Ân biên soạn; Vũ Trọng
Phụng - về tác gia và tác phẩm do Nguyễn Ngọc Thiện và Hà Công Tài
biên soạn; Vũ Trọng Phụng - Một tài năng độc đáo do Mai Hương biên
soạn; Bản sắc hiện đại trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng do Viện Văn học
biên soạn…Trong đó đều có những bài viết, đánh giá cao đóng góp của

- 18 -
phóng sự Vũ Trọng Phụng trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật
thể hiện. Phóng sự của Vũ Trọng Phụng cũng đã được chọn làm đề tài
nghiên cứu của một số luận án, luận văn khoa học các cấp.
3.2.3. Ngô Tất Tố
So với Vũ Trọng Phụng, việc nghiên cứu đánh giá về Ngô Tất Tố nói
chung và di sản phóng sự của ông nói riêng ít thăng trầm và phức tạp. Năm
1942, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã dành giới thiệu về sáng tác
của Ngô Tất Tố, trong đó có tập phóng sự đặc sắc Việc làng. Cùng với nội
dung: “làm cho người ta thấy những cảnh khổ não, nhục nhằn, những tai nạn
khủng khiếp, những việc thương tâm gây nên bởi miếng ăn, phơi bày ra như
ở trước mắt ”, Vũ Ngọc Phan đánh giá cao vốn hiểu biết thực tế, đặc biệt
nghệ thuật “tả …thật như vẽ ra trước mắt”, “lời văn bình dị”, nhờ vậy, “tập
phóng sự về dân quê này thật là một tập phóng sự rất đầy đủ về lệ làng”.
Năm 1958, nhân Đọc lại việc làng của Ngô Tất Tố, Bùi Huy Phồn nhận xét:
“Bằng những tài liệu phong phú, một lối nhìn sâu sắc tinh vi và lời văn đanh
thép như một lời cáo trạng, nhiều khi châm biếm quá đến chua cay”, nhà văn
lão thành Ngô Tất Tố đã viết thiên phóng sự Việc làng, với “mười bảy bản
cáo trạng lên án cái bản chất mọt ruỗng và đen tối của tổ chức xã hội cũ một
cách rất hùng hồn”. Bùi Huy Phồn đánh giá cao quan điểm và cách nhìn
nhận của Ngô Tất Tố về hiện thực đời sống. Ông cho rằng: “Trong lúc mà
một số nhà văn khác đang đua nhau ca ngợi những lớp người và cuộc sống
lãng mạn suy tàn, thì Ngô Tất Tố là một trong số những nhà văn đã nhìn
thấy cái bản chất của xã hội đương thời”. Trong chuyên luận Ngô Tất Tố

(NXB Văn hóa, 1962), hai tác giả Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ cũng
khẳng định: “Sự am hiểu đời sống ở nông thôn và tâm lý của người nông
dân khá sâu sắc của Ngô Tất Tố, nhờ thế ông đã làm nổi bật được những tai
hại của tục lệ xã hội, của lệ làng”. Và nhấn mạnh: “Thành công của Ngô Tất
Tố và cũng là biểu hiện cái nhìn đúng đắn của ông chính là ở chỗ thông qua

- 19 -
việc miêu tả các hủ tục, nhà văn đã vẽ lên được cuộc sống khổ cực của nông
dân và âm mưu của bọn cường hào địa chủ lợi dụng hủ tục để áp bức, bóc lột
quần chúng”. Các tác giả cũng nhấn mạnh: “Giá trị của tập phóng sự Việc
làng chính là ở chỗ …đã miêu tả thực tại một cách chân thực và đã biểu thị
thái độ không đồng tình với thực tại ấy; phê phán nghiêm khắc thực tại ấy”.
Về nghệ thuật, Ngô Tất Tố vốn xuất thân từ nho học, nhưng “đối với một thể
loại mới mẻ như thể loại phóng sự, Ngô Tất Tố đã không tỏ vẻ bỡ ngỡ chút
nào. Trái lại, ngòi bút của ông khi nào cũng vững vàng, chắc chắn, lời văn
bao giờ cũng bình dị, sáng sủa và cô đúc”. Trong một số giáo trình, công
trình văn học sử, phóng sự của Ngô Tất Tố đặc biệt hai tập Việc làng và Tập
án cái đình đã được đánh giá cao. Nguyễn Đăng Mạnh trong Lịch sử văn
học Việt Nam, tập 5 (NXB Giáo dục, 1973) khẳng định: “Ngô Tất Tố là nhà
văn xuất sắc của nông thôn Việt Nam. Tập phóng sự có giá trị nhất của ông
là tập Việc làng”… “một tập án đanh thép về hủ tục và nạn cường hào ở
nông thôn Việt Nam trước cách mạng”. Nghệ thuật phóng sự của Ngô Tất
Tố trong Việc làng “có khuynh hướng đi gần với lối viết truyện ngắn…lối kể
chuyện của tác giả khá linh hoạt…con mắt quan sát và ngòi bút miêu tả của
Ngô Tất Tố khá sắc sảo…ngôn ngữ của Việc làng nói chung chính xác, giàu
hình ảnh. Tác giả tỏ ra khá thông thạo ngôn ngữ nông thôn”. Trong bài viết
Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố, Hà Minh Đức khẳng định:
“Chính Ngô Tất Tố, ở thể loại phóng sự cũng đã tạo được thành công xuất
sắc. Tập án cái đình và phóng sự Việc làng là những trang viết phô bày sự
thực của làng quê bị trói buộc trong những hủ tục bao đời và cũng bộc lộ

thái độ phê phán thẳng thắn của nhà nho tiến bộ muốn giải thoát nông thôn
khỏi những ràng buộc lâu đời. Nhiều nhà xã hội học trong và ngoài nước
đánh giá và xem các tác phẩm trên như những tín hiệu tin cậy và chứng tích
của một thời của nông dân Việt Nam trước cách mạng”. Trong Hội thảo do
Trường Đại học Havard (Mỹ) tổ chức 1982, Ngô Tất Tố và di sản văn học
của ông được đặc biệt quan tâm, được đánh giá cao và khơi gợi được không

- 20 -
khí thảo luận sôi nổi, trong đó Việc làng đặc biệt được quan tâm, được đánh
giá cao về tính chân thực, phong phú về tư liệu và tiến bộ trong tư tưởng phê
phán. Trong tham luận của ông, Phan Cự Đệ đánh giá cao di sản của Ngô
Tất Tố trong đó có di sản phóng sự. Nhà nghiên cứu Pháp G.Buđaren, đề cập
đến “chủ nghĩa Đình – Đình chi phối, kìm hãm nông thôn Việt Nam trong
hủ tục”. Trước đó, Buđaren đã đánh giá cao tài năng của Ngô Tất Tố và giá
trị tác phẩm của nhà văn: Một nhà dân tộc học được đào tạo “bằng thực tiễn
quần chúng”. Theo G.Buđaren “Cảm hứng trong tác phẩm của ông là chống
“chủ nghĩa truyền thống” (Ở đây có nghĩa là phục cổ) một cách mạnh mẽ, rất
thực chứng và mang tính xã hội nếu không muốn nói là có màu sắc xã hội
chủ nghĩa. Sự khinh bỉ công khai của tác giả đối với những người bị bỏ sót
“trong lũy tre làng…Tác phẩm của ông (Ngô Tất Tố) ngày nay là một nơi
lưu trữ tuyệt vời, một bảo tàng mỹ lệ về những phong tục truyền thống đó”.
Với hai tập phóng sự Tập án cái đình và Việc làng, Ngô Tất Tố “đã chĩa mũi
dùi vào cơ cấu của bộ máy xã hội, các mối quan hệ giữa thân hào ở địa
phương với những người nông dân mù chữ bị chúng lừa đảo, chủ yếu trong
các dịp tế lễ, đình đám”.
Cùng với những công trình, bài viết trên, những năm gần đây trong
nhiều công trình tập hợp, biên soạn về Ngô Tất Tố và di sản văn học đồ sộ
của ông: Ngô Tất Tố với chúng ta; Ngô Tất Tố - Một tài năng đa dạng do
Mai Hương biên soạn; Ngô Tất Tố - về tác gia và tác phẩm do Mai Hương
và Tôn Phương Lan biên soạn; Di cảo báo chí Ngô Tất Tố - ý nghĩa lý luận

và thực tiễn do Phan Cự Đệ, Cao Đắc Điểm, Vũ Duy Thông và Nguyễn Gia
Quý biên soạn…đều có những bài viết tâm huyết, đánh giá cao giá trị và
đóng góp của phóng sự Ngô Tất Tố. Tác phẩm phóng sự của Ngô Tất Tố
cũng được trân trọng giới thiệu trong các bộ: Từ điển văn học, 2 tập (NXB
Khoa học Xã hội, 1984); Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (từ cuối thế
kỷ XIX đến 1945) (NXB Văn học, 2001)…Phóng sự của Ngô Tất Tố cũng

- 21 -
trở thành đối tượng khảo sát, nghiên cứu của nhiều luận án, luận văn khoa
học các cấp.
Nhìn chung, càng ngày những giá trị của phóng sự Ngô Tất Tố càng
được khám phá sâu sắc, đa diện; càng được khẳng định chắc chắn hơn.
Từ việc khảo sát lịch sử nghiên cứu về phóng sự Việt Nam 1930 -
1945 và phóng sự của ba cây bút tiêu biểu Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố,
Tam Lang, chúng tôi nhận thấy vấn đề mới dừng lại ở mức độ:
. Đề cập tới một cách khái lược khi nghiên cứu về những vấn đề
chung của lịch sử văn học giai đoạn 1930 -1945.
. Đề cập tới từng khía cạnh, từng tác phẩm hoặc sáng tác của từng tác
giả riêng biệt.
. Tách phóng sự của các tác giả này ra khỏi báo chí, vốn là cái "nôi"
của phóng sự Việt Nam 1930 - 1945.
Từ thực tế đó chúng tôi nhận thấy:
- Cần thiết khảo sát một cách toàn diện, hệ thống phóng sự 1930 -
1945, đặc biệt đóng góp của ba cây bút phóng sự tiêu biểu Vũ Trọng Phụng,
Ngô Tất Tố, Tam Lang.
- Khảo sát, nghiên cứu phóng sự của các cây bút này và phóng sự
1930 - 1945 trong mối quan hệ chặt chẽ với báo chí và tiến trình hiện đại hóa
văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX .
- Từ đó rút ra được những thành tựu đóng góp của phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945 nói chung và của ba tác giả Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất

Tố, Tam Lang nói riêng vào sự phát triển của thể loại phóng sự trong cả tiến
trình hiện đại hóa văn học Việt Nam hiện đại.
Và đó cũng là lý do chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để triển khai đề tài, luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu
cơ bản sau:

- Văn học sử nhằm khôi phục lại diện mạo và tiến trình văn học 1930 - 1945.
- Phân tích và hệ thống để làm rõ đặc sắc của tác phẩm, của từng nhà
văn và hệ thống hóa nhằm khái quát các vấn đề.

- 22 -
- So sánh để làm rõ cái chung và riêng của từng tác giả cũng như giữa
3 tác giả Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố với các tác giả phóng sự
khác cùng thời.
- Phương pháp liên ngành văn học sử - báo chí nhằm làm rõ quan hệ
văn học và báo chí trong phóng sự của 3 cây bút và phóng sự trong giai đoạn
1930 - 1945.
Ngoài ra, chúng tôi sử dụng phương pháp phụ trợ thống kê - phân loại
làm cơ sở cho nhận định và so sánh.
5. Đóng góp mới của luận án:
- Khảo sát một cách toàn diện và hệ thống các di sản phóng sự của ba
cây bút phóng sự tiêu biểu đầu thế kỷ XX Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố, từ đó có cơ sở chắc chắn để khẳng định nét riêng trong cá tính sáng
tạo của từng cây bút, phần đóng góp và vị trí của ba cây bút này trong sự
phát triển của phóng sự Việt Nam.
- Đặt và khảo sát ba tác giả tiêu biểu trên nền chung của phóng sự Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945, luận án góp phần khái quát diện mạo của phóng
sự Việt Nam 1930 - 1945 và ở một phạm vi nhất định cho thấy sự phát triển
của thể loại này trong tiến trình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

- Từ nghiên cứu ba tác giả và phóng sự 1930 - 1945 rút ra được những
bài học kinh nghiệm thẩm mỹ có ý nghĩa cho sự phát triển của phóng sự
trong giai đoạn đổi mới và hiện nay.
6. Cấu trúc của luận án:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận án gồm ba chương:
- Chương 1: Khái niệm phóng sự và khái lược về phóng sự Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945.
- Chương 2: Đối tượng thẩm mỹ của phóng sự Tam Lang, Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố.
- Chương 3: Đặc điểm của phóng sự Tam Lang, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng
Phụng (nhìn từ góc độ thể loại).

- 23 -
PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM PHÓNG SỰ - KHÁI LƢỢC VỀ
PHÓNG SỰ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945


1.1. Khái niệm về thể loại phóng sự
1.1.1. Sự hình thành của thể loại phóng sự
Phóng sự, tiếng Anh là reportage, bắt nguồn từ tiếng La tinh,
reportara có nghĩa thông báo một tin mới, về chuyến đi, giành được một cái
gì đó. Theo Karel Storkal, khoa Báo chí, trường Đại học Sác-Lơ, Cộng hòa
Séc, “phóng sự được ra đời do sự hiếu kỳ của con người, do niềm khát khao
muốn hiểu biết và muốn có những thông tin độc đáo và lý thú”. Theo ông,
người Anh là những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Phóng sự để “mô tả
một kỳ họp Quốc hội, những trận lụt, những đám cháy và những cuộc chiến
tranh” [158, 208]. Cũng theo Karel Storkal, phóng sự xuất hiện từ nửa sau

thế kỷ XIX, khi chủ báo Thời báo (……) cử phóng viên theo dõi với tư cách
một nhân chứng tại chỗ để miêu tả cuộc chiến tranh Crimê; khi một nhà báo
Pháp giàu tham vọng được viên cảnh sát trưởng Paris cho phép đi thăm và
mô tả về các nhà tù của Pháp. Việc miêu tả của các phóng viên này dựa trên
sự kể lại của các nhân chứng “mắt thấy tai nghe”. Cụ thể hơn Karel Storkal
nhận xét: thể loại phóng sự phát triển và khẳng định được vị trí của nó từ sau
chiến tranh thế giới thứ nhất với sự tham gia của những nhà văn nổi tiếng
như Giăng Cốc-tô, Gioóc-giơ Gi-ra, Ăng-đrê Mô-roa…Các tác giả cuốn
Bách khoa toàn cầu xuất bản tại Paris năm 1991 lại cho rằng: thể phóng sự
ra đời ở Mỹ trong chiến tranh Nam - Bắc (1861 - 1865) và nhanh chóng phát
triển trên mục Thời luận, trong các báo Anglo - Saxonne. Tuy nhiên, các tác
giả cũng cho biết, mặc dù xuất hiện sớm như vậy, nhưng vào thời điểm đó, ở

- 24 -
châu Âu, đặc biệt ở Pháp, các ký giả cũng còn khá dè dặt trong việc sử dụng
thể loại này. Trong bộ Từ điển khoa học văn học do Claus Träger chủ biên,
hai tác giả mục Phóng sự cho rằng: “Phóng sự là thể loại văn học phát triển
từ báo chí và dần hoàn thiện về mặt thể loại. Những thập niên đầu thế kỷ
XIX, đã có những phóng sự khá hấp dẫn: W.Ivring (Mỹ) với Sketch book
(1819) viết về ấn tượng của ông về nước Mỹ và nước Anh; Ch.Dickens
(Anh) đã mô tả cuộc sống của nước Anh trong cuốn Sketches by Boz (1835);
G. Weerth (Đức) với Englich Sketches (1843-1848); Th.Fontanes (Anh) với
Một mùa hè ở London (1854) [184; 434,435] …Từ đó, phóng sự đã trở thành
thể loại được yêu thích. Theo cuốn Từ điển văn học: Killy [185], mặc dù có
thể xuất hiện dạng tường thuật nhân chứng và mô tả du lịch có các hình thức
giống như phóng sự và nhiều khi được coi là phóng sự, nhưng thực tế, thể
loại phóng sự chỉ được hình thành trong thế kỷ XIX, song song với việc phát
triển ngày càng mạnh của thông tin đại chúng và các điều kiện phát hành.
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, Phóng sự đã trở thành thể loại văn học
phù hợp nhất thể hiện được những thay đổi có tính chất sâu sắc của xã hội và

sự tàn phá cuộc sống thường nhật của người dân. Sau đó, vào cuối thập kỷ
60-70, cùng với việc đánh giá cao các thể loại văn học có tính tài liệu - hành
động và sự phát triển, ảnh hưởng của trường phái Báo chí mới ở Mỹ, thể loại
phóng sự càng được đề cao và phát triển.
Nhìn như vậy, có thể thấy, mặc dù không xác định được một thời
điểm cụ thể cho sự ra đời của thể phóng sự, nhưng phần lớn ý kiến đều
khẳng định: sự xuất hiện và phát triển của thể loại phóng sự gắn với sự phát
triển của báo chí, “khi báo chí đã trưởng thành”; gắn với nhu cầu thưởng
thức, tiếp nhận thông tin mới, “độc đáo, lý thú” và xác thực của công chúng,
“người đọc ngày nay giàu kinh nghiệm mới, nhiều nguyện vọng, xúc động,
liên tưởng nên nhạy cảm hơn, nghiêm khắc hơn, khó tính hơn. Bất cứ cái gì

- 25 -
bằng phẳng, nhàm mòn hoặc dối trá đều làm họ bất bình” [158; 219,214] đặc
biệt sau chiến tranh “họ chán ngán sự hư cấu và khao khát muốn biết những
điều chân thực”. Bối cảnh xã hội với nhiều biến động, thăng trầm dữ dội cũng
là điều kiện kích thích sự ra đời và phát triển của một thể loại năng động này.
Mặc dù đã được manh nha sớm nhưng phóng sự chỉ thực sự “chín”, thực sự
hoàn thiện với tư cách một thể loại văn học - báo chí vào thế kỷ XIX, đặc biệt
những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Những biến động dữ dội của
thế kỷ XX đã có những tác động sâu sắc đến đời sống, văn học, báo chí tạo ra
sự phát triển có tính chất bùng nổ của thể loại phóng sự.
“Từ một loại hình phóng sự nguyên thủy thuần túy tính chất báo chí
như ngắn, gọn, cụ thể, có tính tường thuật, tính tư liệu và thông tin” [184;
434]; “Từ chỗ đưa tin và miêu tả giản đơn những cuộc bàn cãi ở các tòa án”,
[158; 209] phóng sự đã trải qua một chặng đường phát triển và trở thành một
thể loại riêng. Vượt qua giới hạn của một loại hình trình bày các thông tin
thời sự, “một sự mô tả đơn giản”, “ghi lại đơn giản và máy móc những sự
kiện” (Mác Tu-ên), phóng sự đã “truyền đạt lại một cách có tác dụng truyền
cảm và mang tính phê bình, đánh giá” [184; 435]. Nó “không còn tự giới hạn

trong việc mô tả hiện thực trên bề mặt mà đã đạt tới những dạng thức chân
xác của hiện thực trong những biến đổi của nó cả về mặt sự kiện cũng như
về mặt cảm xúc” [158; 213] “là sự trả lời một loạt câu hỏi phức tạp liên quan
đến cuộc sống của chúng ta”, đề cập đến những biến cố chấn động như cuộc
Đại cách mạng Tháng Mười, những cuộc thám hiểm táo bạo vượt núi Anpơ,
những biến cố lớn của xã hội suốt trong những năm tháng chiến
tranh…Hàng loạt phóng sự mẫu mực, hấp dẫn của các cây bút phóng sự tên
tuổi ra đời: Mười ngày rung chuyển thế giới của Giôn-Rít; Nước Trung Hoa
bí mật của E.Keat; Thượng Cam Lĩnh của Lục Trụ Quốc; Viết dưới giá treo
cổ của G.Phuxich; những phóng sự chiến tranh của Ilia Êrenbua, Borit

×