Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 104 trang )

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐÀO THỊ MINH HƯỜNG




THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
MA VĂN KHÁNG TỪ 1986 TỚI NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC





HÀ NỘI - 2010
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay




2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐÀO THỊ MINH HƯỜNG




THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
MA VĂN KHÁNG TỪ 1986 TỚI NAY


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC




Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Hà Văn Đức
Hà Nội - 2010
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay




5
MỤC LỤC

Trang
A. MỞ ĐẦU 7
1. Lí do chọn đề tài. 7
2. Lịch sử vấn đề 9
3. Đối tượng nghiên cứu 16
4. Phương pháp nghiên cứu. 16
5. Cấu trúc luận văn. 16
B. NỘI DUNG 17

Chương1. Hành trình nghệ thuật của ma văn Kháng và vị trí thể loại
truyện ngắn trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn 17
1.1. Hành trình nghệ thuật của Ma Văn Kháng 18
1.2. Vị trí thể loại truyện ngắn trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn 23
1.2.1. Khái niệm truyện ngắn 24
1.2.2. Vị trí thể loại truyện ngắn trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn 27
Chương 2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng 31
2.1. Giới thuyết về nhân vật và vai trò của nhân vật trong truyện ngắn. 31
2.1.1. Giới thuyết về nhân vật 31
2.1.2. Vai trò của nhân vật trong truyện ngắn 32
2.2. Các kiểu nhân vật chính trong truyện ngắn Ma Văn Kháng 36
2.2.1. Nhân vật người yếu đuối 36
2.2.2. Nhân vật bi kịch 43
2.2.3. Nhân vật tha hóa 47
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay




6
2.2.4. Nhân vật vượt lên số phận 54
Chương 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng 63
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua yếu tố nhân tướng, nghề nghiệp 63
3.1.1. Yếu tố tướng hình. 63
3.1.2. Yếu tố nghề nghiệp 70
3.2. Nghệ thuật xây dựng qua yếu tố tâm linh. 74
3.2.1. Định mệnh, nghiệp căn 75
3.2.2. Giấc mơ 77
3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua yếu tố ngôn ngữ, giọng điệu 81
3.3.1. Yếu tố ngôn ngữ 81
3.3.2. Yếu tố giọng điệu 87
C. KẾT LUẬN 97
D. THƯ MỤC THAM KHẢO 101















Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



7
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Ma Văn Kháng là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt
Nam đương đại. Bảy mươi tư tuổi đời và trên năm mươi năm cầm bút, với tinh
thần miệt mài, cần mẫn, với niềm say mê, đau đáu với nghề, Ma Văn Kháng
thực sự “giàu có” trong khu vườn văn của mình: với 13 tiểu thuyết, trên 200
truyện ngắn, và một hồi ký văn chương đầy đặn…đã phần nào đáp ứng lòng
mong mỏi của không chỉ đồng nghiệp mà với cả đông đảo công chúng yêu văn
chương ông Có thể nói, văn Ma Văn Kháng luôn thấm đẫm chất đời và mang
hơi thở cuộc sống, nó không chỉ in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật của nhà
văn, mà ngay từ khi ra đời nó đã dự báo tính thời đại của đời sống văn học và
tinh thần nhân văn mới mẻ
Có được điều ấy chính bởi dòng chảy văn chương của nhà nghệ sỹ được
khơi từ mạch nguồn ấm áp của chính cuộc sống. Mỗi trang viết của ông không
chỉ thấm đẫm những quan niệm nhân sinh, thế sự mà dường như soi thấu tâm
can, gan ruột con người, mỗi tác phẩm vừa là tiếng nói đồng cảm, sẻ chia với
nỗi đau khổ của con người vừa đấu tranh quyết liệt cho cái đẹp, cái thiện ở cuộc
đời.
Cùng thời với các nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam
trong giai đoạn văn học sau 1975, đặc biệt là dòng văn học sau Đổi mới như
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn
Kháng không còn là cái tên xa lạ với cả người yêu văn chương cũng như giới
phê bình nghiên cứu. Bởi lẽ, “ngay từ những sáng tác đầu tay, người cầm bút đã
đến với người đọc trong tư cách một nhà văn có ý thức về chỗ đứng trong
vương quốc văn chương, nghệ thuật” (PGS. TS. Lã Nguyên). Có thể nói, với số

lượng tác phẩm ra đời đều đặn chính là cách Ma Văn Kháng đáp lại những tình
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



8
cảm yêu mến của công chúng đối với ông, cũng như minh chứng những lao
động nghệ thuật nghiêm túc, không ngừng sáng tạo và tìm tòi nhằm xác lập một
hướng đi, một lối ra cho tiểu thuyết và truyện ngắn đương đại của nhà văn.
Thành tựu của Ma Văn Kháng kết tinh ở cả hai thể loại: tiểu thuyết và
truyện ngắn. Đặc biệt là truyện ngắn, một thể loại “giống như một búp chè được
sao khô, nén chặt lại, nhưng khi dội nước vào thì tở ra, cho cả một đại dương
nước trà thơm” [27; 414] ấy đã đưa nhà văn đến với duyên văn chương và trình
trước làng văn đứa con tinh thần đầu đời của mình, đó là truyện ngắn Phố cụt
(1961). Từ dấu mốc đầu tiên này, truyện ngắn đã tiếp tục góp phần khẳng định
tên tuổi nhà văn và sau này giúp Ma Văn Kháng gặt hái được những thành công
nhất định: Với Giải nhì (không có giải nhất) – cuộc thi truyện ngắn Báo Văn
Nghệ 1988; Giải “Cây bút vàng” trong cuộc thi truyện ngắn và ký năm 1996 –
1998 do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam đồng tổ chức; giải thưởng văn
học ASEAN, 1998; giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt I, năm
2001. Những giải thưởng ấy đã ghi nhận những lao động nghệ thuật bền bỉ,
sung sức trên cánh đồng văn chương của ông đối với văn học Việt Nam hiện
đại.
Trong luận văn này, chúng tôi quan tâm tới những cống hiến và đóng góp
to lớn của Ma Văn Kháng ở mảng truyện ngắn, đặc biệt là thế giới nhân vật vô
cùng phong phú trong sáng tác của nhà văn ở thể loại này. Đó là sự chọn lựa
không chỉ xuất phát từ tình cảm cá nhân mà còn từ một nhu cầu khoa học thực
sự. Thông qua một hiện tượng tiêu biểu cũng như những đóng góp to lớn của
một cá nhân, để qua đó đánh giá được thực tiễn phát triển của thể loại này trong
giai đoạn văn học Đổi mới nói riêng và văn học Việt Nam đương đại nói chung.

Đã có không ít bài viết, công trình nghiên cứu về sáng tác của Ma Văn
Kháng, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, đầy đủ
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



9
và hệ thống về thế giới nhân vật, đặc biệt là thế giới nhân vật trong sáng tác của
ông ở mảng truyện ngắn sau năm 1986.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài luận văn là Thế giới nhân
vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay, nhằm khảo sát để thấy
được nét đặc trưng của truyện ngắn Ma Văn Kháng và khẳng định sự tìm tòi,
đổi mới đối với giá trị nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng, từ đó góp
phần khẳng định tài năng, tâm huyết và đóng góp to lớn của nhà văn đối với
nền văn học Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề:
Nhìn lại sự nghiệp sáng tác của nhà văn chúng ta có thể nhận thấy Ma
Văn Kháng không chỉ thành công ở mảng tiểu thuyết mà cả ở thể loại truyện
ngắn. Song hành cùng với chặng đường sáng tác của ông, đặc biệt từ sau khi
văn học phất lá cờ đổi mới, các tác phẩm của nhà văn càng thu hút sự quan tâm
của giới nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học.
Điểm lược các công trình nghiên cứu, các bài báo, từ báo viết đến báo
mạng viết về Ma Văn Kháng, có thể kể đến như: Lã Nguyên – Khi nhà văn đào
bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn, 1999; Nguyễn Đăng Điệp - Cảm nhận về Đầm
Sen của Ma Văn Kháng, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 5, 1998;
Nguyễn Thị Huệ - Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng
những năm 80, Tạp chí Văn học, số 2, 1998; Xuân Tùng, Nhà văn Ma Văn
Kháng trả lời phỏng vấn: “Nhà văn cần có cái tâm”, Giáo dục Thời đại, ngày
24/4/1999; Hoàng Yến, Truyện ngắn San Cha Chải – bài ca của Thuyết tính
thiện, Tạp chí Văn hóa văn nghệ Công an, số 11, 1998; Võ Văn Trực- Nhà văn

Ma Văn Kháng: Chi chút như con ong làm mật, ;
Nguyễn Ngọc Thiện - (2000), Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội; Nguyễn Ngọc Thiện, Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng, Báo Văn
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



10
nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 45, 1998; Đặng Hiển, Một chiều giông gió-
một bài ca lao động, một niềm tin ở con người và sự sống, Báo Giáo dục và thời
đại, số 20, 2003; Bùi Hiển, Vẻ đẹp thuần khiết trong Trăng soi sân nhỏ, Văn
nghệ, số 12, 1995; Trần Bảo Hưng, Đọc Heo may gió lộng của Ma Văn Kháng,
báo văn nghệ, số 47,1993; Nguyễn Thị Bích - Nhân vật người phụ nữ trong
"Trốn nợ" của Ma Văn Kháng; Đỗ Phương Thảo (2008), Nghệ thuật tự sự trong
sáng tác của Ma Văn Kháng, Nxb Văn học, Nguyễn Tiến Lịch (2007)- Thi
pháp truyện ngắn Ma Văn Kháng, Luận văn thạc sỹ - ĐH KHXH &NV, ĐHQG
HN, Trần Thị Thanh Huyền (2007), Tiểu thuyết về đề tài miền núi của Ma Văn
Kháng, Luận văn thạc sỹ - ĐH KHXH &NV, ĐHQG HN, Nguyễn Thị Hoa
(2008)- Tiểu thuyết thế sự đời tư của Ma Văn Kháng, Luận văn thạc sỹ - ĐH
KHXH &NV, ĐHQG HN; Dương Thị Thanh Hương (2009) Phong cách tiểu
thuyết Ma Văn Kháng, Luận văn tiến sỹ - ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN…Các
bài báo, công trình nghiên cứu này đều tập trung khai thác các khía cạnh, các
mảng đề tài, đa diện, đa chiều, nhằm tìm ra những cái đẹp của văn chương Ma
Văn Kháng, cũng như sự nỗ lực, cống hiến hết mình cho văn chương, nghệ
thuật của ông. Điều này cho thấy Ma Văn Kháng và sáng tác của ông được dư
luận chú ý quan tâm và ít nhiều cũng là một hiện tượng nổi bật của văn học
đương đại.
Trên cơ sở tìm hiểu các công trình nghiên cứu, phê bình và các bài báo
viết về Ma Văn Kháng, chúng tôi xin điểm lại một số khuynh hướng đề cập đến
đặc điểm truyện ngắn, sự thể hiện phong cách văn chương, quan niệm nghệ

thuật về con người cũng như thế giới nhân vật trong sáng tác của Ma Văn
Kháng, ở cả hai giai đoạn trước và sau Đổi mới
Với những sáng tác những năm 1986 trở về trước, thực tế cách phân
mốc này ít nhiều dựa trên những thay đổi về giá trị văn chương của nhà văn sau
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



11
này, tuy nhiên chỉ mang tính tương đối và chứa đựng mục đích nghiên cứu của
người viết. Vì thực chất dòng chảy văn chương của Ma Văn Kháng là một mạch
nguồn xuôi chiều, tiếp nối và phát triển. Nói tới những sáng tác của ông ở giai
đoạn này, đặc biệt, khi quan tâm tới thế giới nhân vật của Ma Văn Kháng, nhà
nghiên cứu Lã Nguyên cho rằng: “Đời sống con người và xã hội vùng biên ải
gắn chặt với trình độ văn hóa, một giới hạn văn minh. Thế giới ở thời mới khai
thiên là nơi ngự trị của cái hoang sơ, rừng rú. Vô khối con người ở đây không ý
thức được hành vi của mình. Cho nên, không phải ai có dính líu với địch đều là
kẻ thù của nhân dân. Có lẽ Ma Văn Kháng đã viết Giàng Tả để nói lời minh oan
cho những con người như thế”[23;12]. Trước Đổi mới, Ma Văn Kháng tập
trung viết về đề tài miền núi, giai đoạn này cũng là sự thử nghiệm của ngòi bút
nên các tác phẩm của ông chưa thực sự nổi bật, các bài viết về nhà văn cũng
thưa thớt.
Xa Phủ là tập truyện ngắn đầu tay của Ma Văn Kháng. Sự xuất hiện của
tập truyện đã gây chú ý và có một số bài viết đánh giá. Có thể kể đến bài viết
đầu tiên của tác giả B.V.N đăng trên Báo Nhân dân ngày 5/7/1970. Theo B.V.N
thì Xa Phủ nhắc đến cái cũ để thấy được bản chất tốt đẹp của xã hội ta, phản
ánh một cách tập trung sự đổi mới của các dân tộc ít người vùng Tây Bắc”.
Khi khái quát những sáng tác của Ma Văn Kháng về miền biên ải Lã
Nguyên nhận định: “Mọi sự chú ý của nhà văn đều hướng về vùng biên ải.
Vùng biên ải là nhan đề một cuốn tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Các truyện

ngắn Giàng Tả, kẻ lang thang, Vệ sỹ của quan châu, Ông lão gác vườn và con
chó Phúm, Mã Đại Câu – người quét chợ Mường Cang, Móng vuốt thời gian,
Thím Hoóng… đều là những truyện ngắn đặc sắc viết về vùng biên ải. Đây mới
đúng là mảnh đất cung cấp nhiều chất liệu giúp Ma Văn Kháng đưa ra những
khái quát nghệ thuật mới mẻ”; “Sáng tác của Ma Văn Kháng gợi dậy ở người
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



12
đọc tình cảm xót xa, vừa giận vừa thương: xót xa những kiếp người không được
làm người, thương cho sự hoang sơ, mông muội và giận thay cho sự bạo tàn,
man rợ mang “hình sắc của thời mới khai thiên” [23; 14]. Nhìn chung, khi bàn
về tác phẩm của Ma Văn Kháng trong giai đoạn trước Đổi mới, giới nghiên cứu
phê bình đều thống nhất khẳng định sáng tác của nhà văn hầu như tập trung vào
đề tài miền núi, những con người miền núi, những vùng đất, những cảnh đời
ông đã chứng kiến và đi qua trên miền biên ải còn nhiều hoang sơ của “thời mới
khai thiên” này.
Sáng tác của Ma Văn Kháng thành công hơn ở những năm sau Đổi mới,
thế nên số lượng, chất lượng của các bài nghiên cứu ở hai thời kỳ này cũng có
sự khác biệt. Sau năm 1986, vẫn tiếp tục mảng đề tài về miền núi Tây Bắc, tuy
nhiên, giai đoạn này, ngòi bút của Ma Văn Kháng không chỉ hướng tới những
vấn đề xã hội, con người của miền núi mà văn chương ông đã dành phần lớn
“mối quan hoài” về con người, tình đời trong đời sống xã hội vùng thành thị và
nông thôn đang thay đổi từng ngày cùng công cuộc đổi mới của đất nước nhìn
dưới góc độ đạo đức, nhân sinh. Với nhãn quan tinh tế, thái độ bao dung và tấm
lòng nhân ái, Ma Văn Kháng đã bóc dần những lớp lang của đời sống xã hội thể
hiện trong từng cảnh sinh hoạt đời thường, những quan hệ, những cách ứng xử
phô bày sự lựa chọn theo lợi ích cá nhân của con người trước trục xoay biến ảo
của nền kinh tế thị trường; “sự đốn mạt, ma quái, tà ngụy của cuộc đời từ góc

độ nhân tính” [23; 18]; “sự thiếu hụt nhân tính, thói vụ lợi tầm thường, thói đạo
đức giả, thói đố kỵ ghen ghét, tính ích kỷ thâm căn, khả năng không thể thương
yêu người khác ngoài mình, ngoài huyết thống, căn bệnh lãnh cảm… là những
nguyên nhân đang từng ngày, từng giờ giết chết con người. Các truyện ngắn
Người đánh trống trường, Trăng soi sân nhỏ, Bồ nông ở biển, Chọn chồng, Cô
giáo chủ nhiệm, Mảnh đạn, Quê nội, Đợi chờ, Xóm giềng, Mất điện…đều ít hay
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



13
nhiều toát lên tinh thần ấy. Về phương diện này, truyện Mảnh đạn có nhiều hàm
ý. Thiên truyện để lại trong lòng ta một niềm day dứt khôn nguôi, người ta hóa
điên vì vết thương chiến tranh để lại hay vì xú khí của thói ích kỷ và căn bệnh
lãnh cảm đang vây bọc quanh mình?” [23; 18].
Có thể nói, “mảng truyện ngắn viết về thành thị của Ma Văn Kháng
không phải là những tiếng reo hân hoan trước sự thăng hoa của tình đời, tình
người. Đằng sau câu chữ của những tác phẩm ấy, người đọc nhận ra tiếng nói
ngậm ngùi, cảm khái chứa đựng tình thương và nỗi buồn mênh mông trước một
nhân thế đang phai lạt nhân tình” [23; 19].
Có thể khẳng định rằng, sau năm 1986, sự nghiệp sáng tác của Ma Văn
Kháng thực sự nở rộ với hàng loạt những tập truyện Ngày đẹp trời (1986), Heo
may, gió lộng (1992), Vòng quay cổ điển (1997), Cỏ dại (2002), Truyện ngắn
chọn lọc Ma Văn Kháng (2002), Trốn nợ (2009)…. Và ngay lập tức gây xôn
xao dư luận. Nhiều bài báo, bài viết, bài phê bình nghiên cứu về truyện ngắn
của Ma Văn Kháng tập trung khám phá.
Theo tác giả Bùi Việt Thắng, Ngày đẹp trời (1986) là tập truyện mà
“Ma Văn Kháng đã khéo léo khai thác những truyện đời thường mà không rơi
vào tầm thường vô vị…mỗi truyện ngắn viết ra như một “nhát cắt ngang” sắc
gọn làm nổi rõ hình hài đời sống trong những hình thái phong phú phức tạp của

nó” [35; 3]. Là một chuyên gia về truyện ngắn, tác giả bài viết có những nhận
xét sâu sắc: “Truyện ngắn của Ma Văn Kháng thuộc loại truyện có cốt truyện,
dễ kể lại, dễ nhớ, nhưng không lấy cốt truyện làm mục đích, dù nó là điển hình,
mà có nới rộng kích tấc của truyện ngắn tạo nên sức liên tưởng lớn ở người đọc
đến những vấn đề thiết thân trong đời sống xã hội và mỗi con người” [35; 3].
Tuy nhiên, để xây dựng chân dung nhân vật, bên cạnh những yếu tố khác, “Ma
Văn Kháng cũng rất coi trọng yếu tố ngoài cốt truyện, thường sử dụng ở đầu
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



14
tác phẩm trong phần giới thiệu vùng đất và chân dung nhân vật một cách trang
trọng (như Đồng bạc trắng hoa xoè, San Cha Chải)”[67].
Nhận xét về tập truyện Đầm sen (1997), tác giả Nguyễn Đăng Điệp
nhận định: “Trong cái thế giới biến dạng và quay đảo này, con người rất dễ bị
tha hóa biến chất”. Tác giả bài viết nhấn mạnh “thứ văn đầy chất đời, đầy ắp
hơi thở của sự sống, sắc sảo biến hóa và tài hoa”[7]
Trong lời giới thiệu về tuyển tập Truyện ngắn chọn lọc Ma Văn Kháng
Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2002, Lã Nguyên lại đề cập đến đặc điểm truyện
ngắn Ma Văn Kháng, đó là “một triết luận hết sức nhất quán. Triết luận ấy lấy
tình người, tính người và sự hồn nhiên làm mẫu số để nhà văn trò truyện về con
người và cuộc đời”, “Những truyện hay nhất của Ma Văn Kháng là những
truyện nói về “dòng đời”, “mạch sống”, “Đó là cảm hứng trước vẻ đẹp nhân
bản, vừa mang tinh thần thuần khiết phương Đông, vừa phồn thực, cường tráng
thấm đẫm cảm quan hiện đại” [23; 9].
Và trong thế giới nhân vật ấy, nhà văn thực sự thành công ở việc xây
dựng nhân vật nữ, họ “đời” nhất trong thế giới nhân vật của ông.
Trốn nợ, tập truyện ngắn gần đây nhất của Ma Văn Kháng (Nxb, Phụ
nữ, 2008), mở ra trước mắt người đọc một không gian rộng lớn: từ miền rừng

núi hoang sơ đến nơi thành thị phồn hoa; từ miền sông nước Nam Bộ đến
những vùng rẻo cao. Trong không gian đó hiện hữu một thế giới nhân vật
phong phú thuộc nhiều tầng lớp và thế hệ từ những người quý phái, sang trọng
đến người “dưới đáy” xã hội; “nương theo cốt truyện nhẹ nhàng là những dòng
suy tư thầm lặng của nhân vật. Mỗi truyện chỉ là lát cắt của đời sống nhưng
những dòng tâm tưởng của nhân vật lại có sức khái quát về con người và đời
sống xã hội. Ma Văn Kháng thường đặt nhân vật vào những tình huống thử
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



15
thách” [65]. Tác giả Nguyễn Thị Bích nhấn mạnh: đó là một bức tranh thu nhỏ
về cõi nhân gian thời hiện đại.
Chính nhà văn đã tự bộc bạch: “Thôi thúc tôi viết bao giờ cũng là cái đẹp
xúc động, thật cao cả, thật khiêm nhường và thật lớn lao trong những hoàn cảnh
đau buồn nhất. Tôi gửi gắm tin yêu của tôi vào tất cả những cay đắng xót xa của
các thân phận. Bằng cách đó tôi biểu lộ tình yêu với cái đẹp của cuộc sống”
[52].
Có thể khái quát rằng, từ sau 1986, thể loại truyện ngắn của Ma Văn
Kháng được các cây bút nghiên cứu quan tâm ở hai vấn đề chính: khát vọng
hoàn thiện con người và lòng cảm thương, ưu ái đối với thân phận con người.
Nhìn chung, những đánh giá, ghi nhận của các học giả, nhà nghiên cứu
và công chúng về tác phẩm cũng như chặng đường sáng tác của Ma Văn Kháng
là đồng thuận và thống nhất. Ông được cả bạn đọc chuyên nghiệp và không
chuyên đón nhận nhiệt thành cũng như dõi theo từng bước cống hiến cho nghệ
thuật của nhà văn. Tuy nhiên, chưa thực sự có một công trình mang tính hệ
thống hoặc khảo sát một cách kĩ lưỡng về mảng truyện ngắn, đặc biệt là thế giới
nhân vật trong truyện ngắn của nhà văn từ Đổi mới đến nay. Phần nhiều các nhà
nghiên cứu mới đi vào một khía cạnh hoặc nghiêng về đào sâu tiểu thuyết. Vì

vậy, luận văn này hi vọng sẽ góp phần truy tìm căn cội bản thể con người, nghệ
thuật xây dựng nhân vật, thế giới nhân vật phong phú cùng những quan điểm
nghệ thuật về con người qua việc đi sâu tìm hiểu về thế giới nhân vật trong
truyện ngắn của Ma Văn Kháng, nhằm hướng tới một cái nhìn toàn diện và
khách quan hơn. Thông qua những nghiên cứu này sẽ đánh giá được vai trò và
đóng góp của Ma Văn Kháng trong quá trình cách tân hiện đại hoá nghệ thuật
xây dựng nhân vật trong thể loại truyện ngắn Việt Nam đương đại.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



16
Điểm lại lịch sử vấn đề, có thể thấy thế giới nhân vật trong sáng tác của
Ma Văn Kháng được giới nghiên cứu phê bình đề cập tới một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp ở những mức độ nhất định. Tất cả những bài viết, công trình
nghiên cứu trên đây ít nhiều đều đem lại những gợi ý cần thiết cho chúng tôi
trong quá trình triển khai và thực hiện đề tài luận văn.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn
Ma Văn Kháng từ năm 1986 tới nay: đối tượng nghiên cứu chính
- Nhân vật trong truyện ngắn của một số nhà văn khác (cùng thời hoặc
khác): đối tượng để đối chiếu so sánh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Mục đích khoa học của luận văn là khảo sát, khám phá thế giới nhân vật
đầy phong phú, được bao chứa bởi một cái vỏ khổng lồ là cuộc sống xã hội với
nhiều tầng vỉa, đa đoan đa sự, qua đó góp phần khẳng định chiều sâu tư tưởng,
giá trị nhân văn và những đóng góp to lớn trong sáng tác của Ma Văn Kháng
đối với nền văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới.
Để làm nổi rõ những vấn đề liên quan đến đề tài Luận văn, chúng tôi
thực hiện một số phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp so sánh, phương

pháp hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp đặc trưng thể loại, phương
pháp thống kê … để có cái nhìn tổng quan hơn về đối tượng nghiên cứu.
5. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm ba phần, ngoài phần mở đầu và kết luận thì phần nội
dung chính gồm 3 chương.
Chương 1: Hành trình nghệ thuật của Ma Văn Kháng và vị trí thể loại
truyện ngắn trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
Chương 2: Các kiểu nhân vật chính trong truyện ngắn Ma Văn Kháng.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn
Kháng.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



17
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Hành trình nghệ thuật của Ma Văn Kháng và vị trí thể
loại truyện ngắn trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn
Từ lúc khởi nghiệp cho tới khi trở thành một nhà văn có tên tuổi trên văn
đàn, với mỗi nhà nghệ sỹ là khác nhau. Có thể với người này được bắt đầu từ
một thành công nho nhỏ, một đứa con tinh thần đầu đời, để rồi sau đó đánh dấu
một bước ngoặt cuộc đời – đi theo nghiệp viết; có thể với người khác, ước
nguyện và tâm hồn ngay từ buổi đầu đã ươm mầm với văn chương nghệ thuật;
nhưng cũng có người luôn tâm niệm “sống rồi mới viết, quan trọng là sự trải
nghiệm của bản thân, của suy ngẫm trước cuộc sống” (Ma Văn Kháng), toàn
tâm toàn ý dành cho lý tưởng, thực hiện lý tưởng lớn lao của cuộc đời mình và
hoàn toàn nghe theo tiếng gọi của con tim: cống hiến trí lực của mình cho tổ
quốc. Đinh Trọng Đoàn – Ma Văn Kháng là một trường hợp như vậy. Ở ông,
khởi thủy là lý tưởng cháy bỏng của thời thanh niên sôi nổi: “Đây là thời kỳ
mỗi lần miệng cất lên câu hát Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian là một lần con

tim rộn ràng sôi sục, là như có lửa thốc ở trong lòng. Đây là thời kỳ trong môi
trường tập thể đâu đâu cũng có thể bắt gặp các câu chuyện nói đến, trước hết là
Paven Coócsaghin trong Thép đã tôi thế đấy của N. Ôxtrốpxky, rồi đến Paven
Vơlátxốp trong tiểu thuyết Người Mẹ của M. Goócky. Sau nữa là Đankô với trái
tim bốc lửa móc ra từ lồng ngực. Là Chim báo bão. Là Dôi-a, nữ anh hùng du
kích Liên Xô, là Matrôxốp chiến sĩ Xô Viết lấp lỗ châu mai. Là Mariétxép anh
hùng phi công thương binh cụt chân trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Sao tôi
yêu thế tuổi thanh niên ra chiến trường chống quân bạch vệ của N.Ôxtrốpxky
và tuổi trẻ cần lao phong trần của Mácxim Goócky! Những mẫu hình đẹp nhất
của phẩm giá con người thời ấy sao mà phong phú, và có sức thôi miên con
người đến thế!"[27; 36]. Và lý tưởng ấy đã dẫn đường cho ông đi tới mảnh đất
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



18
địa đầu tổ quốc để gieo mầm tương lai – người lái đò tri thức. Như thấu hiểu tới
tâm can đồng nghiệp của mình, sau này, chính Bùi Bình Thi khẳng định: “Tôi
dám chắc những năm chập chững đầu đời này, Ma Văn Kháng không hề nghĩ
đến mơ ước rồi sau này sẽ viết văn. Không đâu, nếu vậy đã không còn gì là
chập chững. Nhưng có điều này, ở đời, dẫu bất cứ là nghề nào khi nó thành
nghiệp, nhất là nó lại trở nên là nghiệp chướng nữa, thì người đời nghĩ đến ngay
cái nghề ấy, cái nghiệp chướng ấy nó có linh hồn”
1.1. Hành trình nghệ thuật của Ma Văn Kháng
Hành trình nghệ thuật của một nhà văn luôn song hành và gắn bó với
cuộc đời. Văn được chắt, cất và tinh lọc từ cuộc đời mà ra. Với Ma Văn Kháng
cũng không là ngoại lệ, văn ông tự nhiên, tuôn chảy từ mạch nguồn cuộc sống,
từ sự trải nghiệm và cống hiến cho cuộc đời một cách nghiêm cẩn nhất. Nói như
Gabrien Máckét, đại ý: Nhà văn phải sống với toàn bộ đời sống hiện thực, với
các biến cố và huyền thoại của nó, đồng thời phải dùng chính đời sống để giải

thích đời sống. [27; 42]. Đây có thể xem là một yếu tố cốt tử, một nguyên tắc
bất biến đối với nhà nghệ sỹ khi họ muốn kiến tạo nên đứa con tinh thần của
mình. Với Ma Văn Kháng, đó chính là sự ngầm định cho hướng đi, trên con
đường duy nhất - văn chương - thứ “nghiệp chướng” vô vàn khổ hạnh nhưng
cũng hết sức thiêng liêng, lớn lao và hạnh phúc trọn vẹn đối với ông. Nói như
Võ Văn Trực: “Ma Văn Kháng đã biến tất cả những thứ thu lượm được thành
năng lượng tâm hồn và trào chảy ra đầu ngòi bút” [51].
Nói tới thành công hôm nay của Ma Văn Kháng, bạn đọc vốn đã yêu mến
nhà văn không thể nào quên hình ảnh một thanh niên Hà Nội, trong dáng thư
sinh, trong trẻo, nhưng đầy hoài bão và lý tưởng cách mạng sục sôi cùng cây
đàn ghita - hành trang lên đường, vượt qua trên một trăm cây số đường núi đầy
gian lao, tìm về mảnh đất còn vô vàn khó khăn đang chờ bàn tay, khối óc con
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



19
người: Tây Bắc. Đến đây, người viết lại hình dung: có lẽ, chính thực tế cuộc
sống, niềm khát khao đến cháy bỏng của lớp lớp trí thức trẻ ngày ấy đã trở
thành biểu tượng đi tới trong Tiếng hát con tàu của cố thi sỹ Chế Lan Viên ở
giai đoạn lịch sử này.
Với Ma Văn Kháng, cái ấn tượng như khảm khắc vào tâm hồn con người
không thể nào nguôi quên ở cái buổi ban đầu ấy lại chính là hiện thực cuộc
sống còn khó khăn ở miền miên viễn này. Có thể nói, hoàn cảnh làm nên con
người, càng khó khăn bao nhiêu, sức mạnh tiềm tàng trong con người càng trở
nên mạnh mẽ, quyết liệt bấy nhiêu. Đinh Trọng Đoàn đã để lại sau lưng cái
vinh dự được trở về tiếp quản Thủ đô ngày ấy, vinh dự mà không phải thanh
niên ưu tú nào cũng có được, để đến mảnh đất dường như chưa bứt ra khỏi hậu
quả của chiến tranh. Ông vừa tham gia dựng trường, dựng lớp, vận động đồng
bào cho con em đến trường, vừa tham gia các hoạt động dân sinh, đến những

nơi bà con cần tới cán bộ, cần tới tri thức nhất. Với Ma Văn Kháng, những công
việc ích dụng như vậy là việc không nề hà. Sự thâm nhập cuộc sống vừa như tự
thân, vừa như riết róng ấy đã giúp Đinh Trọng Đoàn - Ma Văn Kháng nắm bắt
sâu sắc nhiều tầng vỉa của cuộc sống; thấu hiểu và thực sự trải nghiệm; đồng
cảm được với nhiều mảnh đời và số phận con người; điều đó càng khiến ông
thêm gắn bó với con người, cuộc đời này; và sau tất cả, như có một tiếng nói từ
bên trong, lớn lao, thôi thúc ông mãnh liệt: viết về cuộc sống ấy. Có thể nói,
cuộc sống là thứ kết dính giữa lý tưởng, lẽ sống và tâm hồn ông với văn chương
nghệ thuật. Nói như nhà văn trẻ Phạm Duy Nghĩa: “cuộc sống gợi những nỗi
niềm nhân văn quá nên tự nhận lòng phải viết”. Và như nhà văn Nguyễn Kiên
từng bộc bạch: “ Tôi nghĩ, những ai đã có duyên nợ với văn chương không dễ
rời hẳn mảnh đất này. Khi đã qua những trải nghiệm cuộc sống, lòng yêu văn
chương sẽ thôi thúc người viết cầm bút trở lại”. Đúng vậy, từ cuộc sống hiện
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



20
thực ngày ấy đã bắt rễ cho một khát khao mới, lớn dần và đang cựa mình trong
tâm hồn nhà giáo trẻ, tạo nên bước ngoặt lớn lao, quyết định tới sự hình thành
nhen nhóm nên một nhà văn lớn trong tương lai, điều mà trong sự lựa chọn của
mình, Đinh Trọng Đoàn – Ma Văn Kháng không bao giờ hình dung tới. Cuộc
sống và viết đã khiến Ma Văn Kháng luôn thức nhận: “Một khi kiến văn được
mở rộng, vốn sống trực tiếp được bổ sung bằng vốn sống gián tiếp và lí luận
dẫn dắt, những con chữ sẽ trở nên cứng cáp, sức lực dồi dào, vóc dáng mạnh mẽ
như con người” [46; 339]. Ông luôn ý thức rằng “Để có những trang viết sâu
sắc, cảm động, phải nỗ lực rất nhiều, phải có hiểu biết mang tính chất học thuật
sâu sắc” [8]. Cùng với những ý thức về nghiệp viết hết sức nghiêm túc ấy là
một nguyên tắc dường như không thay đổi của Ma Văn Kháng: “Ngày nào cũng
viết. Không viết cái dài thì viết cái ngắn. Không viết cái ngắn thì viết đề cương.

Không viết đề cương thì viết ý nghĩ chợt đến ” [49].
Đúng như nhận định của nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện: “Con đường mà
Đinh Trọng Đoàn từ một chàng trai đầy nhiệt huyết, nuôi dưỡng hoài bão lớn
trong lập thân, lập nghiệp, qua cương vị nhà giáo trẻ tận tâm, tận lực với nghề
dạy văn ở bậc phổ thông và có đôi chút năng khiếu văn chương đến sự khẳng
định tài năng của cây bút trẻ Ma Văn Kháng vào những năm 60, 70 – thật
không dễ dàng chút nào! Được khích lệ, anh vững tâm cầm bút, quyết chí đeo
đuổi nghiệp văn, trở thành một cây bút vững vàng, có nghề trong khi vẫn đảm
nhiệm công việc của một viên chức nhà nước (nhà giáo, trợ lý – thư ký của Bí
thư Tỉnh ủy, nhà báo và sau này nhà quản lý trong cơ quan xuất bản)” [48].
Có thể khẳng định rằng, hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng được
đánh dấu từ truyện ngắn Phố cụt in trên Báo Văn nghệ năm 1961. Tuy nhiên,
truyện ngắn có tính chất ghi dấu ấn sâu sắc đối với Ma Văn Kháng, theo đó, đã
ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định đi theo văn nghiệp của ông sau này lại là Xa
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



21
Phủ (1969). Chính nhà văn từng bộc bạch: “Xa Phủ, cái mốc son trên con
đường đi với văn chương của tôi! Cảm hứng từ truyện ngắn này được nuôi
dưỡng, trở thành xung lực mãnh mẽ khiến tôi viết được cả loạt truyện ngắn tiếp
theo với nhân vật, cuộc sống là vùng đồng bào các dân tộc, để năm 1969 tôi
được Nhà xuất bản Văn học in cho tập truyện ngắn đầu tay cũng mang tên Xa
Phủ” [27; 184]; và liền ngay sau đó, ông tiếp tục cho ra đời 4 tập truyện ngắn:
Mùa mận hậu (1972); Người con trai họ Hạng (1972); Bài ca trăng sáng
(1972); Cái móng ngựa (1974). Năm 1974 Ma Văn Kháng trở thành hội viên
Hội Nhà văn Việt Nam. Một năm sau khi đất nước thống nhất, năm 1976, Ma
Văn Kháng tạm biệt mảnh đất Lào Cai - miền đất Tây Bắc của tổ quốc, để về
chính nơi ông được sinh ra: Hà Nội. Có thể nói, 22 năm ấy “biết bao là tình”

nhưng cũng còn đó không ít “nhọc nhằn”, “nhớ thương”. Có lẽ, khi đã tạm biệt
mảnh đất Tây Bắc rồi, nhìn lại chặng đường đã qua, để bắt đầu đi tới, Ma Văn
Kháng đã không thể dự cảm hết được những khó khăn đang chờ ông trước mắt.
Về Hà Nội, có thể là cơ hội to lớn mở ra với bao người, song cuộc đời vốn vẫn
muốn thách thức ông, một con người luôn cháy ngời lý tưởng đẹp đẽ và tình
yêu cuộc sống đến không cùng, ông đã phải đối mặt với bao nỗi nhọc nhằn mưu
sinh, thế sự dường như là quá sức đối với con người. Nhưng có lẽ, chính những
giai đoạn đan kết bao khó khăn khắc nghiệt và đáng nhớ nhất này cộng với
khoảng thời gian trên hai mươi năm sống tại Lào Cai đã thôi thúc mạnh mẽ
ngòi bút ông ghi lại: đó là những câu chuyện thấm đẫm chất đời, tình người và
dư vang của một thời kỳ lịch sử xã hội còn chưa thoát ra khỏi những nỗi đau, sự
nhọc nhằn. Chính nhà văn thừa nhận, đại ý: thời kỳ này dù có quá nhiều khó
khăn trong cuộc sống đối với tôi, song nhìn lại, tôi thấy đó là một may mắn.
May mắn là ở chỗ, tôi được tôi luyện trong một thời kỳ lịch sử quan trọng – đất
nước tiến hành đổi mới - giai đoạn mở ra nhiều vấn đề lớn lao cho người sáng
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



22
tác khơi dòng, cộng với sự trải nghiệm của hai mươi năm cầm bút và sự thay
đổi mang tính bước ngoặt trong mĩ cảm của nhà nghệ sỹ (so với những quan
niệm học thuật còn ấu trĩ của giai đoạn trước Đổi mới, như nhà văn từng thừa
nhận), hơn thế, khi ấy cộng với độ chín của tuổi nghề đã giúp tôi có sức bật lớn.
Vì vậy, có thể khẳng định rằng: đây là thời kỳ nở rộ của truyện ngắn Ma Văn
Kháng. Hàng loạt tác phẩm đã ra đời trong giai đoạn này và để lại nhiều dư
vang trong lòng người đọc, như: Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986), Vệ sĩ của
Quan Châu (truyện ngắn 1988), Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988), Côi cút
giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989), Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết,
1989), Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992), Heo may gió lộng (truyện ngắn

1992), Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994), Ngoại thành (truyện ngắn 1996),
Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996)…Mỗi con chữ như mặn xót mồ
hôi, nước mắt, chắt ra qua nghiền ngẫm và trải nghiệm từ chính dòng đời, mạch
sống của nhà văn và được chuyển vào tác phẩm ở cả hai thể loại truyện ngắn và
tiểu thuyết, đặc biệt là sự thể hiện hình ảnh và bức tranh cuộc đời tác giả một
cách trung thực trong hồi ký văn chương Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ
thương ở những năm cuối của thập kỷ đầu tiên trong thế kỷ 21 này.
Tựu trung, nhìn lại những chặng đường lớn trong đời viết văn quá nửa
thế kỷ của Ma Văn Kháng, với 22 năm ở Lào Cai (Tây Bắc), trải qua các cương
vị công tác như: hiệu trưởng trường cấp 2, 3 Lào Cai; Thư ký Bí thư Tỉnh ủy
Lào Cai; phóng viên, Phó Tổng biên tập Báo Lào Cai; từ năm 1976 đến nay ở
Thủ đô Hà Nội; lần lượt trải qua các cương vị công tác như: Phó Tổng biên tập
Nhà xuất bản Lao động, Uỷ viên Ban chấp hành, Uỷ viên Đảng đoàn Hội Nhà
văn khoá V, Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài…thì điều sau chót, có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi nhà văn nói chung, Ma Văn Kháng nói
riêng, chính là những đứa con tinh thần của họ, thứ sẽ gắn kết nhà nghệ sỹ với
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



23
con người, cuộc đời cũng như sức sống của chúng trong lòng độc giả. Thành
quả trong hành trình nghệ thuật trên nửa thế kỷ của nhà văn Ma Văn Kháng, có
thể xem là đồ sộ: trên 200 truyện ngắn, tạp văn, 13 tiểu thuyết (tiểu thuyết mới
nhất xuất bản năm 2009, do Nhà xuất bản Phụ Nữ ấn hành và đã đạt giải thưởng
lớn của Hội Nhà văn Hà Nội), và một hồi ký văn chương (2009). Đó có lẽ là
những cống hiến lớn lao nhất ông dành cho nghệ thuật và cũng là những món
quà quý nhất nhà văn đáp lại một cách chân thành đối với lòng yêu mến của
công chúng đã đón nhận văn chương Ma Văn Kháng trong mấy chục năm qua.
1.2. Vị trí thể loại truyện ngắn trong sự nghiệp sáng tác của

Ma Văn Kháng
Như đã khẳng định, bên cạnh những thành công từ mảng sáng tác ở thể
loại tiểu thuyết, Ma Văn Kháng còn tham gia viết tạp văn, phê bình văn học, hồi
ký và đặc biệt là truyện ngắn. Có thể nói, truyện ngắn là lĩnh vực đầy sức thu
hút đối với Ma Văn Kháng. Thực tế là, truyện ngắn đã trở nên gắn bó và là một
thể loại mà Ma Văn Kháng viết rất khoái hoạt, thường xuyên và cũng dành
được nhiều sự quan tâm của độc giả. Chính nhà văn từng bộc bạch: “Từ thủa
mới vào nghề tôi đã mê truyện ngắn, thể loại tự sự cỡ nhỏ mà chứa đựng một
năng lượng rất ghê gớm này” [27; 414]. Truyện ngắn đã đưa nhà văn đến với
duyên văn chương, và cũng là thể loại đầu tiên Ma Văn Kháng có được những
thành tựu nhất định trong suốt hành trình cầm bút của mình. Với Ma Văn
Kháng viết truyện ngắn tự nhiên như việc con người hít thở để sinh tồn. Mỗi
cảnh đời ông từng đi qua và chứng kiến đều có thể trở thành một đối tượng để
nhà văn chắt gạn nên hình hài nghệ thuật; và truyện ngắn chính là thể loại giúp
nhà nghệ sỹ thỏa sức sáng tạo nên tác phẩm của mình từ muôn vàn mảnh hiện
thực như vậy. Nói tới truyện ngắn nói chung, chúng tôi không tham vọng trình
bày những thành tựu mà nhà văn đạt được ở thể loại này, mà với giới hạn của
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



24
luận văn, chúng tôi cố gắng giới thuyết sơ lược về truyện ngắn và vị trí thể loại
truyện ngắn trong sáng tác của Ma Văn Kháng, trong đó luận văn đề cập đến
vấn đề trung tâm mà nhà văn xây dựng trong truyện ngắn là nhân vật và vai trò
của nhân vật, đặc biệt là nhân vật truyện ngắn sau Đổi mới, để từ đó làm nổi rõ
mối quan tâm hàng đầu của nhà văn trong mảng sáng tác này.
1.2.1. Khái niệm truyện ngắn
Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy
đặn và rộng lớn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hình

tượng nghệ thuật cụ thể, hoặc phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân
sinh, hay khám phá cái bí ẩn trong đời sống tâm hồn con người… Vì thế trong
truyện ngắn thường có ít nhân vật và ít sự kiện phức tạp. Vậy, truyện ngắn là
gì? Theo Truman Capote cho rằng truyện ngắn “là một tác phẩm nghệ thuật có
bề sâu nhưng lại không được dài” [31; 52]. Còn K.Pautốpxki lại định nghĩa về
truyện ngắn như sau: “thực chất truyện ngắn là gì? Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là
một truyện viết ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái
bình thường và cái bình thường hiện ra như một cái không bình thường” (tuyển
tập Phan Cự Đệ, Nhà xuất bản Giáo dục, tr 742). Nhà văn Nguyễn Minh Châu
hình dung truyện ngắn một cách hình ảnh: “Truyện ngắn như một mặt cắt giữa
một thân cây cổ thụ, chỉ liếc qua những đường vân trên các khoanh gỗ tròn kia,
dù trăm năm cũng thấy cả cuộc đời thảo mộc” (Trang giấy trước đèn, tr 267).
Nhà phê bình Bùi Việt Thắng lại khái niệm: “Truyện ngắn là thể loại năng động
ít bị những quy tắc có tính quy phạm gò bó, chi phối. Hình thức truyện ngắn
luôn vỡ ra, đổi thay lại, luôn tự xác định tính bền vững của mình” [46; 132].
Theo Từ điển văn học Việt Nam: “Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung
lượng nhỏ hơn, tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống: một biến cố hay một
vài biến cố xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, biểu hiện
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



25
một mặt nào đó của tính cách nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn
đề xã hội” [46; 30]. Tuy nhỏ hẹp về quy mô phản ánh thực tại, truyện ngắn vẫn
có khả năng đề cập được những vấn đề xã hội có tính khái quát rộng lớn, sâu
sắc. Tựu trung, có thể khẳng định rằng, truyện ngắn dù viết về thời đại nào, viết
về cái gì, hay được viết bằng thi pháp gì; dù bị phân định, hay chế ước bởi một
thứ lí thuyết nào, hoặc “dù bị hạn chế về qui mô, bị quy tắc bởi độ nén cao,
song chúng vẫn có khả năng khai thác sâu những bước ngoặt của số phận”[50].

Chính yêu cầu về độ nén cao và khả năng khai thác sâu những bước
ngoặt của số phận trong truyện ngắn, khiến nhân vật của truyện ngắn cũng nằm
trong guồng quay chi phối căn cốt mang tính thể loại. Nhân vật của truyện ngắn
thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội, hoặc trạng
thái tồn tại của con người, từ đó đưa đến một cách hoặc trực tiếp hay gián tiếp
để chúng ta hiểu hơn mặt nào đó của thế thái nhân tình. Có thể qua nhân vật Hộ
(Đời thừa – Nam Cao) độc giả phần nào hình dung được cái bi kịch đời sống
thế sự của một lớp văn sỹ thành thị ở những thập niên 50 của thế kỷ 20; có thể
qua Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu), người đọc như được
tiếp thêm một niềm tin vào cuộc kháng chiến, cho dù còn khốc liệt nhưng nhất
định sẽ thắng lợi, và đặc biệt, đằng sau cái nền đầy bão lửa của hoàn cảnh đất
nước có chiến tranh, vẫn lấp lánh vẻ đẹp tâm hồn con người và niềm tin son sắt
vào một tình yêu đẹp đẽ đầy nhân bản. Hoặc qua cuộc đời của những nhân vật
như thầy Khiển (Thầy Khiển), ông Hoàn (Cái Tý Ngọ), ông Thại (Tóc huyền
màu bạc trắng),… của Ma Văn Kháng, lại đem tới cho độc giả những hình dung
và sự sẻ chia đồng cảm với những thân phận nhỏ bé, hữu hạn của con người
trước sự giăng bủa của lưới số phận vô hình.
Trong bài viết “Tôi viết truyện ngắn” nhà văn Ma Văn Kháng cho rằng:
“Số phận bất kỳ một nhân vật nào, dù có rắc rối đến đâu, cũng được thu vào và
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



26
chói sáng ở một giây phút nhất định: ở giây phút ấy nhân vật phát hiện ra mình
là ai; và tôi cố gắng diễn tả thật kỹ lưỡng cái giây phút hệ trọng ấy của mỗi
nhân vật trong truyện…tôi cho rằng, ở mỗi truyện ngắn, bao giờ cũng có một
điểm rơi ở trọng lực, người viết cần có ý thức (và cả tự do vô thức) về điểm rơi
đó để viết cho hay, để ngòi bút phải thăng hoa xuất thần”[45; 327].
Có thể nói, chỗ khác biệt tương đối rõ nét của truyện ngắn và tiểu thuyết

chính là nhân vật. Nếu nhân vật của tiểu thuyết thường là một thế giới thì nhân
vật chính của truyện ngắn chỉ là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn là
thể loại gần gũi với cuộc sống hàng ngày vì nó rất năng động khi xoáy sâu vào
những vấn đề nóng bỏng, bức xúc đang được độc giả quan tâm. Trong quá trình
phát triển, truyện ngắn sẽ thâu nạp thêm những đặc điểm mới phù hợp với thể
loại và sự phát triển của xã hội hiện đại.
Ma Văn Kháng thừa nhận: “Tôi, tựu trung vẫn là một người thích viết
truyện ngắn theo lối cổ điển, vẫn thủy chung một cách rất khó hiểu với những
câu chuyện được viết theo cách truyền thống xưa cũ, tất nhiên là có những yếu
tố biến đổi ở trong đó rồi” [45; 328].
Văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Mỗi tác phẩm văn
học là một hiện tượng của đời sống được thể hiện qua cái nhìn, qua cách cảm
nhận đánh giá mang tính chủ quan của nhà văn. Vì vậy, tác phẩm văn học bao
giờ cũng thể hiện thái độ, quan điểm, lập trường, tư tưởng, sự sáng tạo của nhà
văn, những cảm xúc tâm trạng ý nghĩ của con người được bộc lộ trực tiếp qua
những lời lẽ bộc bạch, thổ lộ và làm thành nội dung chủ yếu thì ở trong thể loại
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng từ 1986 tới nay



27
tự sự, một thể loại giàu tính khách quan được thể hiện quá rõ trong tính cách,
trong đời sống nội tâm của nhân vật.
1.2.2. Vị trí thể loại truyện ngắn trong sáng tác của Ma Văn Kháng
Chiếm một vị trí quan trọng và có khối lượng tác phẩm đồ sộ, truyện
ngắn trở thành mảng sáng tác chủ yếu bên cạnh tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng. Đặc biệt, khi ở vào cái tuổi “xưa nay hiếm”, sức khỏe phần nào không
cho phép nhà văn lao tâm khổ tứ trên chặng đường “đi săn hổ giữ” (cách dùng
từ của Ma Văn Kháng khi nói tới công việc viết tiểu thuyết) thì hầu hết thời
gian ông dành cho truyện ngắn. Có thể nói, trên mảnh đất văn chương đầy

duyên nợ này, Ma Văn Kháng vẫn chiếm lĩnh tâm hồn người đọc bằng một lối
đi riêng, không trộn lẫn, khiến ta có cảm tưởng, dù tác phẩm của ông có bị che
đi tên tác giả, người đọc vẫn biết đó là văn Ma Văn Kháng. Ở thể loại truyện
ngắn của Ma Văn Kháng cũng vậy, dù viết về đề tài gì, viết ở không gian nào,
bằng bút pháp gì thì mối quan tâm hàng đầu của nhà văn bao giờ cũng là nhân
vật và khắc họa chân dung nhân vật. Nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn
Kháng đôi khi phảng phất cái đẹp thanh khiết, lãng mạn như nhân vật của
Pautốpxki (trong Bình minh mưa), hay Aitơmatốp (trong Giamilia núi đồi và
thảo nguyên); có lúc lại lọc lõi, tinh đời như nhân vật của Vũ Trọng Phụng (Số
đỏ), Nam Cao (Chí Phèo, Đôi mắt); có lúc lại cộc cằn, thô ráp như nhân vật
của Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu)…và nói chung đều sinh động và rất
“đời”.
Ma Văn Kháng là nhà văn thành công trên nhiều thể loại. Nếu như trước
những năm 1986, những cuốn tiểu thuyết như Đồng bạc trắng hoa xòe (1979),
Vùng biên ải (1983), Mùa lá rụng trong vườn (1985)… đã đưa tên tuổi nhà văn
đến với đông đảo công chúng, thì sau Đổi mới, với thành công nở rộ ở mảng
truyện ngắn (tập Ngày đẹp trời (1986) được xem là tập truyện ghi dấu mốc quan

×