Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Chính sách kinh tế của Chính phủ Malaysia ( đối với sự phát triển xã hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người tt.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.65 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN


HOÀNG THỊ GIANG



CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ
MALAYSIA
(ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
VÀ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN TỘC NGƯỜI)





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học






HÀ NỘI 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




HOÀNG THỊ GIANG




CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ MALAYSIA
(ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
VÀ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN TỘC NGƯỜI)






Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á học
Mã số: 60 31 50


Người hướng dẫn khoa học: GS.TS MAI NGỌC CHỪ







Hà Nội 2011

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục tiêu của luận văn
4. Nhiệm vụ
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Bố cục của luận văn
CHƯƠNG 1 Tổng quan về Malaysia và các tộc người chính
ở Malaysia
1.1 Đôi nét về đất nước, con người và lịch sử Malaysia
1.1.1 Đất nước
1.1.2 Con người và lịch sử Malaysia
1.2 Các tộc người chính ở Malaysia
1.2.1 Tộc người Malay
1.2.2 Tộc người Hoa
1.2.3 Tộc người Ấn
1.2.4 Các tộc người khác
CHƯƠNG 2 Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia
đối với sự phát triển xã hội
2.1 Cơ sở hoạch định các chính sách kinh tế
2.2 Chính sách kinh tế mới
2.2.1 Nguyên nhân ra đời và mục tiêu của Chính sách
kinh tế mới
2.2.2 Nội dung của Chính sách kinh tế mới
2.3 Chính sách phát triển Quốc gia
2.3.1 Nguyên nhân ra đời của Chính sách phát triển Quốc gia
2.3.2 Nội dung và mục tiêu của Chính sách phát triển Quốc gia
2.4 Các chính sách kinh tế đối với sự phát triển xã hội ở Malaysia
2.4.1 Tình hình Malaysia sau khi giành độc lập
2.4.2 Malaysia sau khi thực hiện Chính sách kinh tế mới

và Chính sách phát triển Quốc gia
CHƯƠNG 3 Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia
đối với việc giải quyết mâu thuẫn tộc người
3.1 Khái quát về mâu thuẫn tộc người ở Malaysia
3.2 Tình hình kinh tế của ba tộc người chính ở Malaysia
3.2.1 Kinh tế của tộc người Malay
3.2.2 Kinh tế của tộc người Hoa
3.3.3 Kinh tế của tộc người Ấn
3.3 Những mâu thuẫn giữa các tộc người về vấn đề kinh tế
3.3.1 Những mâu thuẫn từ trước khi độc lập
3.3.2 Những mâu thuẫn từ sau ngày độc lập
3.4 Một số chủ trương, đường lối, biện pháp và thành tựu
giải quyết vấn đề mâu thuẫn tộc người
3.4.1 Chủ trương, đường lối, biện pháp
3.4.2 Thành tựu
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO




1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Chính sách phát triển quốc gia, chủ nghĩa dân tộc, vấn đề tộc
người và tôn giáo luôn là những đề tài nóng hổi trong mọi thời đại.
Malaysia cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Là một quốc gia đa dân
tộc, đa tôn giáo, bị chia cắt thành nhiều vùng miền lãnh thổ, sau khi
giành được độc lập dân tộc vẫn là một đất nước nghèo nàn với nền

nông nghiệp lạc hậu, phụ thuộc khá sâu sắc vào tư bản nước ngoài
trước khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thì việc xoá đói giảm
nghèo, tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội đi đôi với việc giải quyết
mâu thuẫn tộc người, đem lại sự công bằng cũng là một vấn đề trọng
tâm đầy thách thức trong chính sách của chính phủ Malaysia. Với sự
khác nhau về ngôn ngữ, văn hoá, tôn giáo, đặc biệt là sự chênh lệch về
trình độ, địa vị kinh tế giữa người bản địa và những người nhập cư
(Hoa, Ấn) mà ở Malaysia đã xảy ra cuộc xung đột sắc tộc đỉnh điểm
vào năm 1969. Có thể nói, kinh tế giữ vai trò quan trọng nhất trong sự
phát triển xã hội. Và vì vậy sự khác biệt về mặt kinh tế cũng là một
nguyên nhân, nếu không nói là nguyên nhân quan trọng nhất, làm cho
những mâu thuẫn sắc tộc trở nên gay gắt và nóng bỏng hơn bao giờ hết.
Mâu thuẫn lớn thì gây ra nội chiến, mâu thuẫn nhỏ hơn thì gây ra sự
tranh chấp phân quyền về kinh tế, chính trị Dù diễn ra dưới bất kỳ
hình thức nào, mức độ nào thì mâu thuẫn sắc tộc cũng để lại những hậu
quả hết sức nặng nề.
Việc giải quyết vấn đề này quả thực không hề đơn giản bởi
không thể có một hay một số giải pháp chung để giải quyết hữu hiệu
mọi xung đột sắc tộc ở những quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, đứng
trước tình trạng đó, với nhiều khó khăn và thách thức, song Malaysia đã
nhận thức được cái gốc của vấn đề đối với dân tộc mình và đưa ra
những chính sách kinh tế hợp lý. Với sự ra đời của Chính sách kinh tế

2
mới – NEP năm 1971 và Chính sách phát triển quốc gia – NDP năm
1991, Malaysia đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Malaysia được coi
là một trong số ít nước giải quyết rất thành công bài toán gắn kết thành
tựu phát triển kinh tế với việc giải quyết ổn thoả các mâu thuẫn sắc tộc,
đem lại sự công bằng, hoà hợp dân tộc, làm nền tảng cho sự phát triển
phồn thịnh của đất nước.

Như vậy, việc phát triển xã hội và giải quyết những mâu thuẫn,
đặc biệt là mâu thuẫn về kinh tế dẫn đến những mâu thuẫn về sắc tộc
đang tồn tại trong mỗi quốc gia là một vấn đề vô cùng khó khăn và
phức tạp. Do đó, việc nghiên cứu Chính sách kinh tế của chính phủ
Malaysia sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với các nước đang tồn tại những mâu
thuẫn hay có nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn. Nó sẽ là bài học tham khảo
cho các nước đa dân tộc, đa tôn giáo trên con đường phát triển kinh tế -
xã hội.
Đối với Việt Nam, những thành công của Malaysia trong quá
trình phát triển kinh tế, giải quyết những bất bình đẳng trong mâu thuẫn
tộc người sẽ là những bài học quý báu để chúng ta có thể tham khảo
trong quá trình Đổi mới và xây dựng đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh
của nền kinh tế khu vực hoá, toàn cầu hoá, quan hệ giữa nước ta với
các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng được mở rộng thì
việc vừa phát triển kinh tế vừa giải quyết mâu thuẫn tộc người không
chỉ nhằm vào mục tiêu đảm bảo và phát huy tình đoàn kết, thống nhất
giữa các dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước mà còn góp phần đảm
bảo an ninh khu vực và quốc tế nói chung, ASEAN nói riêng.
Vì lẽ đó, Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia (đối với
sự phát triển xã hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người) đã được chọn
làm đề tài cho luận văn này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trước hết, có thể kể đến những công trình về thông sử
Malaysia của các học giả nước ngoài, chẳng hạn: “Malaysia” (của Jonh

3
Gullick), “Malaysia” (Johannes, Harald Stephen và Annabelle
Morgan), “A History of Malaysia” (Barbarra Watson và A. Leonard),
v.v. Những công trình bàn về những vấn đề kinh tế - xã hội như:
“Managing the Malaysia Economy: Challenges & Prospect” (Ramon

V. Navaratman), “Malaysia in Stransition: Politics and Society” (Abdul
R. Baginda), “Social Transformation, the State and the Middle Classes”
(Abdul R. Embong), “The Malay – Their Problems and Future” (S.
Husin Ali), “ Malaysia - The Making of a Nation” (Cheah boon
Kheng), “Whither Malaysia ‘s New Economic Policy” (K.S. Jomo), v.v.
Ở Việt Nam, trong những thập niên gần đây đã xuất hiện khá
nhiều công trình nghiên cứu về Malaysia nói chung và kinh tế Malaysia
nói riêng. Những công trình tiêu biểu có thể kể đến là: “Malaysia –
Lịch sử, văn hóa và những vấn đề hiện đại”, “Malaysia trên đường
phát triển” (Phạm Đức Thành), “Kinh tế Malaysia” (Đào Lê Minh và
Trần Lan Hương), v.v. Ngoài ra, việc nghiên cứu về Malaysia còn được
thể hiện trong những cuốn sách bàn về ASEAN và Đông Nam Á.
Thuộc lĩnh vực này có thể nhắc đến: “Đặc điểm con đường phát triển
kinh tế - xã hội của các nước ASEAN” (Phạm Đức Thành chủ biên),
“Một số vấn đề về sự phát triển của các nước ASEAN” (Vũ Dương
Ninh), “ASEAN – những vấn đề và xu hướng” (Phạm Nguyên Long
chủ biên), “Đông Nam Á trên đường phát triển” (Phạm Nguyên Long
chủ biên), “Các con đường phát triển của ASEAN” (Phạm Nguyên
Long chủ biên), “Một số vấn đề về xung đột sắc tộc và tôn giáo ở Đông
Nam Á” (Phạm Thị Vinh chủ biên), “Xã hội dân sự ở Malaysia và Thái
Lan” (Lê Thị Thanh Hương chủ biên), v.v.
Việc nghiên cứu về Malaysia còn được đăng tải trong các bài
viết trên các tạp chí khoa học. Liên quan đến đề tài mà chúng tôi quan
tâm, có thể kể đến: “Nhà nước và hoạt động kinh tế ở Malaixia”
(Nguyễn Văn Hà, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2/2001), “Nhân tố chính
sách trong phát triển kinh tế của Malaixia” (Nguyễn Hồ, Những vấn đề

4
kinh tế thế giới, số 2/1995), “Tính cách dân tộc Malaixia trong sự phát
triển đất nước” (Đức Ninh, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2/1996), “Con

đường phát triển kinh tế của Malaixia và những kinh nghiệm” (Tất Tố,
Những vấn đề kinh tế thế giới, số 6/1994), “Một vài đặc điểm về sự
phát triển kinh tế – xã hội của Malaixia” (Nguyễn Khắc Thân, Kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương, số 2/1999, “Chiến lược phát triển kinh tế
tri thức của Malaixia” (Hoàng Giáp, Hoài Anh, Kinh tế châu Á – Thái
Bình Dương, số 5/2001), “Một vài kinh nghiệm của Malaysia trong giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và tôn giáo”, (Lý Tương Vân,
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1/2009), v.v. Gần đây một số đề tài luận
văn, khóa luận của học viên cao học và sinh viên cũng đã bắt đầu đề
cập đến những vấn đề kinh tế - xã hội của Malaysia.
Như vậy, cho đến nay, ở nước ngoài cũng như Việt Nam, đã có
khá nhiều công trình nghiên cứu về Malaysia và kinh tế Malaysia. Tuy
nhiên, vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào mang tính hệ thống
và toàn diện về chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia với vấn đề
phát triển xã hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người. Do đó, thông qua
luận văn này, người viết muốn được đóng góp công sức nhỏ bé của
mình góp phần đưa ra một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về những
thành công mà Malaysia đã đạt được trong thời gian qua.
3. Mục tiêu của luận văn
Thông qua những điều được trình bày trong luận văn, người
viết muốn làm sáng tỏ con đường phát triển kinh tế - xã hội của
Malaysia thông qua việc thực thi các chính sách kinh tế hướng đến việc
vừa tăng trưởng kinh tế bền vững vừa ổn định trật tự xã hội trong hoàn
cảnh của một quốc gia đa tộc người, đa ngôn ngữ và đa tôn giáo điển
hình.
4. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu nêu trên, những nhiệm vụ chính dưới đây
cần được đặt ra để giải quyết:

5

- Chỉ ra được tính chất phức tạp của Malaysia với tư cách là
một quốc gia mang tính melting pot điển hình,
- Nêu bật được những thành tựu của Malaysia trong việc thực
thi các chính sách kinh tế vì mục tiêu tăng trưởng bền vững,
- Làm sáng tỏ những thành tựu của Malaysia trong việc thực thi
các chính sách kinh tế vì mục tiêu giải quyết các mâu thuẫn tộc người,
- Bước đầu chỉ ra những bài học mà các quốc gia đa tộc người
có thể tham khảo (cả những bài học thành công và bài học chưa thành
công).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng phương
pháp nghiên cứu khu vực học với cách tiếp cận liên ngành. Ngoài ra,
các phương pháp truyền thống của khoa học xã hội & nhân văn như
tổng hợp, phân tích tư liệu, so sánh, đối chiếu cũng được vận dụng triệt
để trong quá trình làm việc.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn được trình bày theo một trật tự kết cấu như sau:
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan về Malaysia và các tộc người chính ở
Malaysia
Chương 2: Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia đối với
việc phát triển xã hội
Chương 3: Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia đối với
việc giải quyết mâu thuẫn tộc người
Kết luận
Tài liệu tham khảo





6
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ MALAYSIA VÀ CÁC TỘC NGƯỜI
CHÍNH Ở MALAYSIA

1.1 Đôi nét về đất nước, con người và lịch sử Malaysia
1.1.1 Đất nước
Liên bang Malaysia là một quốc gia không lớn lắm, nằm ở
trung tâm Đông Nam Á, có diện tích là 329.758 km
2
. Vị trí địa lý của
Malaysia vô cùng quan trọng, không chỉ nằm trên tuyến đường biển nối
liền các trung tâm kinh tế Âu – Á mà còn có ý nghĩa đặc biệt trong việc
hình thành quốc gia đa dân tộc, là nơi gặp gỡ và giao lưu của nhiều nền
văn minh cổ đại, nhất là nền văn minh Ấn Độ; là nơi dừng chân của các
thương gia Ấn Độ, Trung Quốc, các đế quốc ở Trung Cận Đông và đế
quốc La Mã ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên.
Về địa hình, lãnh thổ Malaysia thuộc loại hình không bằng
phẳng. Ở vùng bán đảo, núi thường không cao (khoảng 1000-2000m)
và đồng bằng duyên hải cũng không rộng. Malaysia có nhiều sông ngòi.
Khí hậu Malaysia chịu ảnh hưởng của gió mùa nóng, ẩm quanh năm,
với độ ẩm không khí khá cao. Malaysia có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và
mùa khô, bị chi phối bởi gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 4 và
gió mùa Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 9. Khí hậu nhiệt đới đã đem lại
cho Malaysia một thế giới động thực vật vô cùng phong phú. Mặt khác,
có thể nói, thiên nhiên cũng ưu đãi cho đất nước này nhiều tài nguyên
quý giá.
1.1.2 Con người và lịch sử Malaysia
Malaysia là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và nhiều nền
văn hóa. Thành phần dân tộc của Malaysia tương đối phức tạp. Về cơ
bản, Malaysia gồm ba cộng đồng dân tộc chính: cộng đồng người

Malay (gồm bản thân người Malay và các tộc người bản địa khác),
cộng đồng người Hoa và cộng đồng người Ấn. Giữa các tộc người này
có sự khác biệt trong sinh hoạt cũng như trong hoạt động kinh tế.

7
Người Malay đa số làm nghề nông, sống tập trung ở các bang
nông nghiệp lạc hậu về kinh tế như Kedah, Kalantan, Trenganu, Perlis
cũng như ở Sarawak và Sabah, nằm dải theo thung lũng các con sông
và vùng duyên hải ở phía bắc và đông bắc bán đảo Melaka, trong khi
người Hoa lại tập trung ở các thành phố lớn, các trung tâm khai thác
thiếc. Họ có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế quốc gia. Còn người Ấn ở
Malaysia thì sinh sống cả ở vùng nông thôn lẫn thành thị, nơi có nhiều
đồn điền cao su. Họ chủ yếu là công nhân, phu đồn điền, nông
dân Vai trò của họ không lớn so với người Malay và người Hoa.
Về tôn giáo, ở Malaysia có nhiều tôn giáo khác nhau. Nếu như
hầu hết người Malay theo Islam thì đa phần người Hoa theo Phật giáo
hay Đạo giáo, người Ấn theo Hindu giáo, một số khác theo Phật giáo và
đạo Sikh. Sau này, Thiên chúa giáo cũng có mặt ở đây và nó có ảnh
hưởng chủ yếu ở một bộ phận người Châu Âu, người dân địa phương ở
Sarawak và Sabah cũng như ở một bộ phận người Hoa và người Ấn. Ở
Malaysia, Islam được coi là quốc giáo và tiếng Melayu (Bahasa
Melayu) được coi là ngôn ngữ chính thức của quốc gia. Tuy nhiên,
trong cuộc sống hàng ngày, các ngôn ngữ khác như tiếng Hoa, tiếng
Tamil, tiếng Anh cũng được sử dụng khá phổ biến.
Mặc dù là liên bang nhưng Malaysia không theo chế độ cộng
hòa mà theo mô hình quân chủ lập hiến, nghĩa là nước có vua cai trị
nhưng quyền lực tối cao không nằm trong tay vua mà là Hiến pháp. Ở
Malaysia, Tổ chức tộc người Malay thống nhất (gọi tắt là UMNO) là
đảng phái chính trị mạnh nhất, có uy tín nhất và là hạt nhân chính trong
mặt trận quốc gia (một liên minh chính trị giữa UMNO, Hiệp hội người

Hoa Malaysia và Đại hội người Ấn) đang cầm quyền tại quốc gia này
hơn một thập kỷ qua.
Về lịch sử, trước khi thực dân phương Tây xâm chiếm và cai
trị, tại đất nước này đã từng tồn tại và chứng kiến sự thịnh vượng của
các tiểu vương quốc Islam. Đến cuối thế kỷ XIX, toàn bộ Malaysia

8
ngày nay đã trở thành thuộc địa của Anh. Trong chiến tranh thế giới lần
thứ II, Malaysia bị Nhật chiếm đóng.
Chiến tranh kết thúc, tháng 9 năm 1945, dưới danh nghĩa giải
giáp quân đội Nhật, quân đội Anh đã chiếm lại Malaya.
Năm 1957, Liên bang Malaya trở thành quốc gia độc lập, là
thành viên của Khối thịnh vượng chung thuộc Anh (British
Commonwealth of Nation).
Năm 1963, Liên Bang Malaysia ra đời, bao gồm Liên bang
Malaya, Singapore, Sabah và Sarawak với thủ đô là Kuala Lumpur
(thuộc bang Selangor). Đến năm 1965, Singapore tách khỏi Liên bang,
trở thành quốc gia độc lập. Hiện nay Liên bang Malaysia bao gồm 13
bang (Johor, Kedah, Kelantan, Melaka, Negeri Sembilan, Pahang,
Perlis, Perak, Pulau Pinang, Sabah, Sarawak, Selangor, Trengganu) và
phần lãnh thổ Liên bang (Kuala Lumpur và Labuan).
1.2 Các tộc người chính ở Malaysia
1.2.1 Tộc người Malay
Đây là tộc người lớn nhất, chiếm 57% dân số, được mệnh danh
là “ đứa con của đất” – bumiputera. Người Malay ở đây là những người
theo Islam, nói tiếng Malay, tuân thủ các truyền thống Malay và có tổ
tiên là người Malay. Hiện nay, họ là lực lượng chính nắm chính quyền
tại Malaysia.
1.2.2 Tộc người Hoa
Đây là nhóm người đứng thứ hai về số lượng ở Malaysia, tuy

chỉ chiếm khoảng 26% dân số cả nước nhưng hàng năm đóng góp tới ½
GDP của quốc gia. Có nhiều ý kiến về nguồn gốc của người Hoa tại
Malaysia. Tuy nhiên, giả thiết thuyết phục nhất là người Hoa ở
Malaysia có hai loại. Đó là người Hoa lục địa và người Hoa Baba.
Về cơ bản, người Hoa là những người có tính cộng đồng cao,
chăm chỉ, hiếu học, chịu thương chịu khó, cần kiệm, biết chịu đựng
gian khổ. Họ là lực lượng chính trong công nghiệp khai thác mỏ và

9
cũng rất giỏi giang trong kinh doanh. Họ sống tập trung chủ yếu ở
thành thị, các thành phố ven biển và làm thương mại. Hiện nay họ đóng
góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của Malaysia.
Về kinh tế, ngày nay, người Hoa được biết đến với khả năng
kinh doanh và đóng một vai trò chủ đạo trong cộng đồng thương mại.
Tôn giáo chính của người Hoa là Đạo Phật và Đạo Lão, có một số ít
người Hoa theo đạo Thiên Chúa. Không hiếm người Hoa ở Malaysia
biết nói tiếng Malay, tiếng Anh và một hoặc hai phương ngữ Trung
Quốc.
1.2.3 Tộc người Ấn
Đây là nhóm tộc người đông thứ ba, chiếm khoảng 8% dân số ở
Malaysia. Họ sinh sống cả ở cùng nông thôn lẫn thành thị, nhưng vùng
tập trung chính là ở vùng bờ biển phía tây bán đảo Malacca. Phần lớn
họ theo Hindu giáo. Một số ít người Ấn cũng có tài trong kinh doanh,
nhưng đa số tham gia vào các công việc hoặc nghề nghiệp cần đến sức
khỏe như cảnh sát, lái xe, lao động ở đồn điền hay ở một số dịch vụ
khác.
Người Ấn ở Malaysia, khác với người Hoa, không tạo ra được
sự thống nhất cao mang tính dân tộc. Giữa họ luôn có sự phân biệt nhau
về đẳng cấp, học vấn, tôn giáo, kinh tế, ngôn ngữ, văn hóa, v.v. Có lẽ
chính “điểm yếu” này của người Ấn cũng là một trong những nguyên

nhân làm cho họ không có được địa vị cao về chính trị và kinh tế ở
Malaysia. Nói chung, người Ấn không có vai trò lớn trong đời sống
kinh tế và chính trị ở Malaysia. Họ sống yên phận, đôi khi, họ cũng
đứng lên đòi quyền lợi nhưng chỉ là các cuộc biểu tình nhỏ và không
gây được tiếng vang lớn.
1.2.4 Một số tộc người khác
Ngoài ba tộc người chính nêu trên, Malaysia còn có các tộc
người bản địa nhỏ hơn (ngoài người Malay) và những người nước
ngoài đến từ khắp nơi trên thế giới. Tuy họ chỉ chiếm một phần không

10
đáng kể, chỉ là thiểu số trong cộng đồng Malaysia nhưng họ cũng góp
phần tạo nên sự đa dân tộc, đa văn hóa và đa tôn giáo của đất nước này.
TIỂU KẾT
Malaysia là một Meiting pot điển hình của Đông Nam Á. Đây
là quốc gia được ví như là “Châu Á thu nhỏ” với ý nghĩa: đó là một đất
nước tươi đẹp, đa dạng về điều kiện tự nhiên và hệ sinh thái, đa dạng về
tộc người, văn hóa và tôn giáo.
Sau khi giành độc lập vào năm 1957, cũng như các quốc gia
Đông Nam Á khác, Malaysia là một nước nông nghiệp nghèo nàn và
lạc hậu. Tình hình kinh tế như trên cộng với những khác biệt về mặt
kinh tế, tôn giáo và ngôn ngữ giữa cộng đồng bản địa Malay với các
cộng đồng nhập cư (Hoa, Ấn) đã buộc chính phủ Malaysia phải xem
xét, đưa ra những chính sách kinh tế phù hợp để vừa phát triển kinh tế
theo hướng tăng trưởng cao và bền vững vừa giải quyết được các mâu
thuẫn xã hội, đưa đất nước đi vào ổn định và phát triển phồn vinh.











11
Chương 2: CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ
MALAYSIA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI

2.1 Sau khi trình bày các cơ sở của việc hoạch định chính sách,
lụân văn hướng vào Chính sách kinh tế mới và Chính sách phát triển
quốc gia.
2.2 Chính sách kinh tế mới
2.2.1 Nguyên nhân ra đời và mục tiêu của Chính sách kinh tế
mới
Đích chiến lược của NEP là đạt được sự thống nhất quốc gia và
thực hiện xây dựng đất nước giàu mạnh thông qua hai mục tiêu chính:
Mục tiêu thứ nhất: xóa đói giảm nghèo bằng cách nâng cao thu
nhập và tăng cơ hội có công ăn việc làm cho tất cả mọi công dân,
không phân biệt sắc tộc, tôn giáo.
Mục tiêu thứ hai: Cơ cấu lại xã hội Malaysia nhằm xóa bỏ tình
trạng mất cân bằng kinh tế để giảm và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn sự
phân biệt sắc tộc.
Để thực hiện mục tiêu này, chính phủ phải tập trung vào 3
hướng chính:
Một là, phân phối lại lực lượng lao động vào các khu vực kinh
tế tương ứng với cơ cấu sắc tộc.
Hai là, phân bố lại tỷ lệ lao động theo nghề nghiệp phù hợp với
cơ cấu các cộng đồng sắc tộc.

Ba là, cơ cấu lại tỷ lệ vốn cổ phần và tạo ra một Cộng đồng
công nghiệp và thương mại (BCIC) cho nhóm người bản địa.
Ngoài ra, bên cạnh các mục tiêu xóa đói giảm nghèo, chuyển
dịch cơ cấu… Chính sách kinh tế mới (NEP) còn hướng đến sự hòa
nhập lớn hơn giữa các bang và các vùng của đất nước. Điều này nhằm
làm giảm những mất cân đối giữa các vùng và đem lại một sự phân
phối công bằng hơn.

12
2.2.2 Nội dung của chính sách kinh tế mới
Để đạt được những mục tiêu trên, chính phủ Malaysia đã tiến
hành hàng loạt các biện pháp thông qua cơ chế hoạt động của NEP như
sau:
- Xóa đói giảm nghèo. Chính phủ đã đưa ra các biện pháp cần
thực hiện:
+“…làm dịu đi áp lực dân số hiện tại trong các khu vực đông
đúc nhất của nông nghiệp bằng cách khuyến khích các nông dân và ngư
dân nghèo tích cực trong các ngành sản xuất nông nghiệp và phi nông
nghiệp, các cơ hội được mở rộng cho các thanh niên ở nông thôn để có
được chuyên môn mà được mở rộng cho các ngành nông nghiệp và
công nghiệp hiện đại;
+“…điều khoản về những dịch vụ tốt hơn và hiệu quả hơn
trong các lĩnh vực nhà cửa, giao thông, cung cấp nước, điện, giáo dục ,
y tế, dinh dưỡng và kế hoạch hóa gia đình;
+“…sáng tạo, tăng thêm các cơ hội việc làm phong phú xúc
tiến và phân tán phát triển công nghiệp, nhấn mạnh nhu cầu chuyển vốn
hơn vào các ngành lao động phổ thông và có quy mô nhỏ.” [61, 87]
Bên cạnh đó, các biện pháp khác cũng đang được thực hiện để
tăng các nguồn thu nhập thực sự bằng cách cung cấp nhà cửa ở mức giá
thấp và các dịch vụ công cộng khác.

- Tái tổ chức lại xã hội để giảm sự mất cân đối trong nền kinh
tế :
+“ tăng phần trăm số lượng người Malay và người bản xứ lên
trong các công việc khai khoáng hầm mỏ, sản xuất chế tạo và xây dựng;
+“ tăng tỷ lệ số người Malay và những người bản xứ khác
trong việc sở hữu của cải sản xuất, bao gồm: đất đai, tài sản cố định và
vốn cổ phần. Mục tiêu là đến năm 1990, họ sẽ làm chủ ít nhất 30% vốn
cổ phần và 40% là của những người phi Malay;

13
+“ khuyến khích sự phát triển các doanh nghiệp của người
Malay và người bản xứ để họ sẽ trở thành một cộng đồng công nghiệp
và thương mại đa dạng, mạnh mẽ vào năm 1990”; [61, 88-89]
+ Đồng thời khuyến khích và hỗ trợ đầu tư tư nhân ở cả trong
nước và nước ngoài. NEP xác định: đầu tư nước ngoài có vai trò hết
sức quan trọng trong việc tạo ra nguồn vốn và kỹ thuật để phát triển lực
lượng sản xuất, hiện đại hóa và đa dạng hóa nền kinh tế.
2.3 Chính sách phát triển Quốc gia
2.3.1 Nguyên nhân ra đời và mục tiêu
Để thích ứng với điều kiện mới trong nước và quốc tế, đưa đất
nước tiếp tục phát triển nhanh và vững chắc theo hướng đã định, Chính
phủ Malaysia đã đưa ra các mục tiêu của NDP như sau:
 Thực hiện sự cân bằng giữa tăng trưởng và công bằng xã hội;
 Đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các khu vực trọng yếu của
nền kinh tế nhằm tăng những khả năng bổ sung lẫn nhau giữa
chúng để tối ưu hóa tăng trưởng;
 Giảm bớt và tiến tới loại bỏ những bất bình đẳng và mất cân
đối về kinh tế nhằm tăng cường sự chia sẻ công bằng và thỏa
đáng hơn cho mọi người dân Malaysia;
 Thúc đẩy và tăng cường sự hòa hợp dân tộc bằng cách giảm sự

phát triển chênh lệch giữa các bang và giữa khu vực nông thôn
với khu vực thành thị;
 Tăng cường ý thức dân tộc lành mạnh trong sự phát triển kinh
tế xã hội;
 Phát triển nguồn nhân lực với lực lượng lao động có tay nghề
cao, có kỷ luật lao động tốt, coi đây là yêu cầu căn bản trong
việc đạt được các mục tiêu tăng trưởng và phân phối;

14
 Tăng cường sử dụng khoa học kỹ thuật trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền công nghiệp hiện đại;
 Bảo vệ môi trường và hệ sinh thái để đảm bảo sự tồn tại lâu dài
chiến lược phát triển của đất nước.
Điểm qua những nội dung trên, về cơ bản, NDP vẫn theo đuổi
các mục tiêu chính mà NEP đề ra năm 1971 nhưng có sự điều chỉnh
theo các hướng sau đây:
Một là, tập trung cải thiện mức sống cho những người có thu
nhập thấp hay sát với mức nghèo trong cả nước;
Hai là, tập trung phát triển những ngành nghề có công nghệ và
chất xám cao, tiếp tục thúc đẩy hơn nữa Cộng đồng công nghiệp và
thương mại Bumiputra ( BCIC) phát triển;
Ba là, nhấn mạnh đến phát triển thành phần kinh tế tư nhân để
đạt được tái cấu trúc.
Bốn là, tăng cường hơn nữa phát triển nguồn nhân lực để đạt
được mục tiêu tăng trưởng và tái phân phối.
2.3.2 Nội dung của Chính sách phát triển Quốc gia
Dựa trên đường lối và mục tiêu của Chính sách kinh tế mới,
Chính sách phát triển Quốc gia sẽ tiếp tục nỗ lực nhằm điều chỉnh
những mất cân đối để xây dựng nên một Bangsa Malaysia thống nhất,
thịnh vượng và phát triển.

- Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chiến lược xóa đói giảm nghèo:
- Thứ hai, phát triển Cộng đồng thương mại và công nghiệp
bản địa (BCIC).
- Thứ ba, phát triển kinh tế tư nhân, kết hợp với khu vực nhà
nước sẽ tạo một cơ cấu thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững.
- Cuối cùng, phát triển nguồn nhân lực là một yếu tố hết sức
quan trọng để thực hiện hóa mục tiêu đã đề ra. Như vậy, tiếp nối mục
tiêu của NEP, NDP đã đưa ra những mục tiêu cụ thể hơn, tiếp tục nỗ

15
lực nhằm điều chỉnh những mất cân đối kinh tế để tạo ra một xã hội
công bằng, thống nhất, hòa bình và thịnh vượng.
2.4 Các chính sách kinh tế đối với sự phát triển xã hội ở
Malaysia
2.4.1 Tình hình Malaysia sau khi giành độc lập
2.4.2 Malaysia sau khi thực hiện NEP và NDP
a) Thập kỷ 70 được đánh giá là thập kỷ tăng trưởng kinh tế cao.
Trong vòng 10 năm (1971 – 1980), GNP tăng gấp 2,15 lần, tốc độ tăng
trưởng GDP mỗi năm trung bình ở mức 7,5% [43,73].
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế Malaysia trong suốt thập kỷ
80 là sự thay đổi cơ cấu kinh tế dẫn đến sự phát triển cân đối hơn giữa
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Sang năm 1990, tất cả các ngành của nền kinh tế đều đạt tốc độ
tăng trưởng khá cao: ngành dịch vụ đạt tốc độ tăng 10,5% so với 8,6%
của năm 1989; ngành chế tạo đạt tốc độ tăng 15,7% so với 14,2% của
năm 1989; ngành xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất 19% so với
11,6% của năm 1989…Cũng trong năm 1990, các nguồn lực trong
nước, đặc biệt là đầu tư và tiêu dùng tư nhân tăng mạnh đã giúp nền
kinh tế khắc phục được những yếu kém của ngành xuất khẩu.
Không chỉ dừng ở đây, bước sang kế hoạch triển vọng lần hai,

với những mục tiêu và biện pháp cụ thể, nền kinh tế Malaysia có sự
chuyển biến mạnh mẽ và rõ nét. Nền kinh tế Malaysia tiếp tục tăng
trưởng cao với tốc độ bình quân giai đoạn 1991 – 1995 là 8,4%.
Bảng 2.5 Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP
Ngành
1985
1990
1995
Nông nghiệp
20,76
18,01
13,49
Công nghiệp
36,67
42,17
47,37
Dịch vụ
42,57
39,82
39,14
Nguồn: Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN, Tổng cục
thống kê, Hà Nội, 1998.

16
Bảng 2.6: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Malaysia

Năm
Tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu
Xuất khẩu

Nhập khẩu
1990
1995
158.765
379.800
79.646
185.403
79.119
194.496

Nguồn: Tổng cục thống kê, Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN
Nhà xuất bản thống kê, 1998.

b) Kinh tế phát triển là nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển. Điều
đó được thể hiện rất rõ trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống cũng
như về phân phối thu nhập đối với tất cả người dân ở Malaysia sau khi
thực hiện các chính sách kinh tế.
Xét về chất lượng cuộc sống, các nhu cầu cơ bản của cuộc sống
đã được giải quyết: ở khu vực nông thôn, nhà nước đã trợ cấp tài chính
để nông dân cải tiến việc cung cấp điện nước. Đến cuối năm 1989, 64%
hộ nông dân được cung cấp nước sạch và 77% được cung cấp điện. Tỷ
lệ bác sĩ/ số dân tăng từ 1/ 4302 (1970) lên 1/ 2656 (1993). Tuổi thọ
bình quân của người Malaysia là 72 tuổi vào năm 1990 so với 63 tuổi
của năm 1970. Thu nhập bình quân đầu người năm 1990 là 2.031 USD,
đến năm 1995 tăng lên 3.980 USD [26,115].
Mặt khác, tăng trưởng kinh tế cao còn kéo theo việc giảm đáng
kể những mất cân đối về thu nhập giữa các tộc người, giữa thành thị và
nông thôn. Những hộ gia đình có thu nhập bình quân hàng tháng thấp
nhất ở bán đảo Malacca đã tăng từ 76 đôla năm 1970 lên 421 đôla năm
1990.

Hơn nữa, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội ở Malaysia là
những thành tựu đạt được trong việc xóa đói giảm nghèo. Có thể nói,

17
nhờ có Chính sách kinh tế mới và Chính sách phát triển Quốc gia mà tỷ
lệ đói nghèo đã giảm một cách mạnh mẽ.
Theo báo cáo của chính phủ Malaysia, trong giai đoạn 1970 –
1990, tỷ lệ nghèo đói đã giảm từ 49,3% xuống còn 15% tính đến cuối
năm 1990 (vượt mục tiêu ban đầu đề ra – 16,7%).
Bên cạnh đó, trong chuyển dịch cơ cấu việc làm, các chính
sách kinh tế cũng đã đem lại một sự pha trộn hài hòa hơn về sắc tộc
trong tất cả các ngành của nền kinh tế đất nước. Nếu như trước đây,
người Malay chỉ tập trung ở nông thôn và làm nông nghiệp thì nay, một
số lượng lớn người Malay đã có mặt ở những khu vực kinh tế trọng
điểm (như: sản xuất, xây dựng và dịch vụ…).
Trong chuyển dịch cơ cấu vốn cổ phần: Trên thực tế, tỷ lệ sở
hữu vốn cổ phần của người bản địa đã tăng từ 2,4% vào năm 1970 lên
20,6% vào năm 1995.
Ngoài ra, để tiến tới sự bình đẳng, NEP và NDP còn đem lại sự
phát triển cân đối hơn giữa các vùng địa lý. Các bang nghèo của
Malaysia như Kelantan, Kedah, Perlis và Terengganu đã có sự cải thiện
về thu nhập đầu người.
Tóm lại, sau nhiều năm thực hiện, NEP và NDP đã thành công
trong việc tăng trưởng kinh tế gắn liền với mục tiêu phát triển xã hội.
Nhờ những chính sách khôn khéo và hợp lý mà hiện nay, Malaysia
được biết đến là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển
năng động trong khu vực.






18
Chương 3: CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ MALAYSIA
ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN TỘC NGƯỜI
3.1 Khái quát về mâu thuẫn tộc người ở Malaysia
Một điều cần nhấn mạnh là mâu thuẫn tộc người ở Malaysia có
đặc điểm riêng so với nhiều nước Đông Nam Á. Đó không phải là mâu
thuẫn giữa những cộng đồng dân tộc người thiểu số với tộc người đa số
vốn đã cùng chung sống với nhau hàng nghìn năm lịch sử, cho dù ở
Malaysia hiện nay không phải không có những tộc người đã tồn tại
cùng nhau từ lâu trên mảnh đất này - Những tộc người được gọi chung
bằng một cái tên rất chuẩn xác, đó là “những người con của đất”
(Bumiputera). Tất nhiên điều đó không có nghĩa là tuyệt nhiên không
có một mâu thuẫn nào giữa những tộc người cùng mang tên chung
Bumiputera. Điều đáng nói ở đây là mâu thuẫn tộc người ở Malaysia
chủ yếu là mâu thuẫn giữa người bản địa Malay (hay, nói rộng ra, cả
Bumiputera) với những người nhập cư từ hai quốc gia Ấn Độ và Trung
Quốc. Do số lượng người Hoa và người Ấn ở Malaysia quá đông, họ
trở thành hai cộng đồng lớn, vì vậy, từ xưa đến nay, để chỉ hai cộng
đồng này, các nhà nghiên cứu về Malaysia thường không dùng thuật
ngữ Minority hay Ethnic (với nghĩa tộc người) mà dùng Nation (dân
tộc) hoặc Peoples (cộng đồng). Như vậy cũng có thể nói, ở Malaysia,
cái gọi là mâu thuẫn tộc người đã được đẩy lên thành một vấn đề có
phần cao hơn, trầm trọng hơn, đó là mâu thuẫn dân tộc [1, 38]. Cách
nhìn nhận vấn đề như vậy vừa phản ánh đúng bản chất vấn đề mâu
thuẫn tộc người ở Malaysia vừa xác định được tầm quan trọng đặc biệt
của việc phải giải quyết mâu thuẫn dân tộc vốn có phần trầm trọng và
khá nan giải ở đất nước này. Chính cách đặt vấn đề như thế đã giúp
chính phủ Malaysia có những quyết sách đúng hướng trong việc phát

triển đất nước trong thời gian qua [1, 38]. Và điều này được thể hiện rõ
nhất ở các chính sách kinh tế.

19

3.2 Tình hình kinh tế của ba tộc người chính ở Malaysia
3.2.1 Kinh tế của tộc người Malay
Người Malay trở thành tộc người nghèo so với cộng đồng
người Hoa. Mặc dù là tộc người chiếm quá nửa dân số của cả nước
(57%) nhưng người Malay chỉ chiếm 19% cơ cấu kinh tế của Malaysia.
Đây rõ ràng là một nghịch lí mà cư dân bản địa thật khó chấp nhận.
Sự yếu kém về mặt kinh tế của người Malay đã dẫn đến những
mâu thuẫn tộc người khá trầm trọng, làm cho tình hình xã hội chứa
đựng những nguy cơ bất ổn. Tình hình đó buộc chính phủ Malaysia
phải nhanh chóng đưa ra những biện pháp giải quyết kịp thời và kiên
quyết.
3.2.2 Kinh tế của tộc người Hoa
Ở Malaysia, cộng đồng người Hoa là cộng đồng giữ vị trí số
một về kinh tế. Họ tuy chỉ chiếm ¼ dân số của đất nước nhưng lại là
nhóm nắm giữ tới 40% của cải của cả nước. Có thể nói, không chỉ đối
với Malaysia mà đối với cả khu vực Đông Nam Á, người Hoa cũng đều
chiếm giữ vai trò trọng yếu về kinh tế. Người Hoa ở Malaysia giữ vai
trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực kinh tế trọng yếu.
3.2.3 Kinh tế của tộc người Ấn
So với người Malay và người Hoa, địa vị của người Ấn thấp
hơn hẳn cả về chính trị lẫn kinh tế.
Là nhóm tộc người lớn thứ ba ở Malaysia sau người Hoa và
Malay, người Ấn chiếm khoảng 8% dân số của đất nước nhưng số tài
sản mà họ sở hữu chỉ chưa đến 2%
Như vậy là ba nhóm tộc người lớn nhất tại Malaysia đều có

những cách riêng để khẳng định vị thế của mình trong xã hội. Có cộng
đồng chủ yếu dựa vào sự giúp đỡ của chính phủ, có cộng đồng tự vươn
lên bằng năng lực bản thân lại có cộng đồng không thể làm được gì
ngoài việc tự an phận với những gì mình có. Ba cộng đồng tuy cùng

20
chung sống trong một đất nước hài hòa và ổn định nhưng sự cách biệt
về kinh tế giữa họ lại khá lớn. Và chính sự cách biệt này, đến một lúc
nào đó, khi tất cả đều không thể dung hòa được với nhau thì những mâu
thuẫn giữa các cộng đồng xảy ra là điều không thể tránh khỏi.

3.3 Những mâu thuẫn giữa các tộc người về vấn đề kinh tế
3.3.1 Những mâu thuẫn từ trước khi độc lập
Đối với một đất nước đa tôn giáo, đa sắc tộc như Malaysia, sự
mâu thuẫn về kinh tế giữa các cộng đồng dân cư không chỉ mới xuất
hiện gần đây mà đã có từ trong lịch sử, từ khi thực dân Anh xuất hiện ở
nơi đây.
3.3.2 Những mâu thuẫn kể từ sau ngày độc lập
Dưới hình thức “chính trị thuộc về người Malay, kinh tế thuộc
về người Hoa”, sự phát triển kinh tế xã hội ở Malaysia dựa trên một cơ
sở không cân đối và bất bình đẳng. Mâu thuẫn dễ thấy nhất và lớn nhất
là thu nhập rất khác biệt giữa các tộc người. Thu nhập của người Hoa
luôn luôn gấp đôi so với người Malay và gấp 1,5 lần so với người Ấn.
Người Malay luôn luôn là nhóm dân nghèo nhất nước, mặc dù họ
chiếm tỉ lệ dân số cao nhất.
3.4 Một số chủ trương, đường lối, biện pháp và thành tựu
giải quyết vấn đề mâu thuẫn tộc người
3.4.1 Chủ trương, đường lối, biện pháp
a) Trong số các chủ trương, đường lối và biện pháp mà các
chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia luôn luôn coi trọng, nhất là

Chính sách kinh tế mới, thì ưu tiên cho người Malay là một hướng
trọng tâm. Chính phủ Malaysia đã đặt ra hàng loạt chính sách ưu đãi
cho người Malay, khuyến khích họ phát triển kinh tế.
Trước hết, chính phủ Malaysia đã nâng cao địa vị kinh tế của
người Malay bằng sự hỗ trợ về tài chính và thể chế trong việc hình
thành cộng đồng doanh nghiệp và phát triển nguồn nhân lực.

21
Không chỉ Chính sách kinh tế mới trước đây, việc thực thi
Chính sách phát triển Quốc gia mà điểm nhấn là Kế hoạch cho tương
lai 3 (OPP3) và Tầm nhìn Quốc gia (2000 - 2020) đang được thực hiện,
chính phủ Malaysia cũng vẫn chú ý đến địa vị kinh tế của tộc người
Malay.
b) Để giải quyết tận gốc mâu thuẫn tộc người, chính phủ
Malaysia thực hiện chủ trương đoàn kết dân tộc trên cơ sở xoá bỏ
khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, lãnh thổ và nhóm tộc
người.
c) Một chủ trương hết sức đúng đắn của chính phủ Malaysia
được thể hiện trong Chính sách phát triển Quốc gia là xây dựng khối
đoàn kết và thống nhất quốc gia – dân tộc Malaysia (Bangsa
Malaysia), tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội và hài hoà
dân tộc.
3.4.2 Thành tựu
a) Nhìn một cách tổng thể, chính sách ưu tiên cho người bản
địa Malay đã thành công.
Tỷ lệ người nghèo trong cộng đồng người Malay giảm từ 65%
xuống 23,8% [26, 36]. Chất lượng cuộc sống của người Malaysia nói
chung, của người Malay nói riêng, được nâng cao hơn hẳn sau 20 năm
thực thi Chính sách kinh tế mới. Tính theo chỉ số phát triển con người
(HDI), năm 1991 HDI của người Malay tăng lên 1,5 lần so với năm

1970 [26, 38].
b) Bước đầu xoá bỏ khoảng cách phát triển giữa các vùng
miền, lãnh thổ và nhóm tộc người cũng là một thành tựu không thể phủ
nhận. Và chính điều này đã góp phần đáng kể vào việc khắc phục mâu
thuẫn tộc người. So với khu vực thành thị thì thu nhập ở nông thôn tăng
với tỉ lệ nhanh hơn.
c) Bằng Chính sách phát triển Quốc gia, chính phủ Malaysia đã
thành công trong việc xây dựng khối đoàn kết và thống nhất quốc gia –

×