Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Chính sách kinh tế của Chính phủ Malaysia ( đối với sự phát triển xã hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (893.77 KB, 111 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục tiêu của luận văn
4. Nhiệm vụ
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Bố cục của luận văn
CHƯƠNG 1 Tổng quan về Malaysia và các tộc người chính
ở Malaysia
1.1 Đôi nét về đất nước, con người và lịch sử Malaysia
1.1.1 Đất nước
1.1.2 Con người và lịch sử Malaysia
1.2 Các tộc người chính ở Malaysia
1.2.1 Tộc người Malay
1.2.2 Tộc người Hoa
1.2.3 Tộc người Ấn
1.2.4 Các tộc người khác
CHƯƠNG 2 Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia
đối với sự phát triển xã hội
2.1 Cơ sở hoạch định các chính sách kinh tế
2.2 Chính sách kinh tế mới
2.2.1 Nguyên nhân ra đời và mục tiêu của Chính sách
kinh tế mới
2.2.2 Nội dung của Chính sách kinh tế mới
2.3 Chính sách phát triển Quốc gia
2.3.1 Nguyên nhân ra đời của Chính sách phát triển Quốc gia
2.3.2 Nội dung và mục tiêu của Chính sách phát triển Quốc gia
2.4 Các chính sách kinh tế đối với sự phát triển xã hội ở Malaysia
2.4.1 Tình hình Malaysia sau khi giành độc lập


2.4.2 Malaysia sau khi thực hiện Chính sách kinh tế mới
và Chính sách phát triển Quốc gia
CHƯƠNG 3 Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia
đối với việc giải quyết mâu thuẫn tộc người
3.1 Khái quát về mâu thuẫn tộc người ở Malaysia
3.2 Tình hình kinh tế của ba tộc người chính ở Malaysia
3.2.1 Kinh tế của tộc người Malay
3.2.2 Kinh tế của tộc người Hoa
3.3.3 Kinh tế của tộc người Ấn
3.3 Những mâu thuẫn giữa các tộc người về vấn đề kinh tế
3.3.1 Những mâu thuẫn từ trước khi độc lập
3.3.2 Những mâu thuẫn từ sau ngày độc lập
3.4 Một số chủ trương, đường lối, biện pháp và thành tựu
giải quyết vấn đề mâu thuẫn tộc người
3.4.1 Chủ trương, đường lối, biện pháp
3.4.2 Thành tựu
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCIC Cộng đồng công nghiệp và thương mại bản địa
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
DAP Đảng hành động dân chủ
FELCRA Cơ quan thâm canh và phục hoá đất đai liên bang
FELDA Cơ quan phát triển đất liên bang
FIDA Uỷ ban phát triển nông nghiệp liên bang
GDP Tổng sản phẩm quốc gia

GNP Tổng sản phẩm quốc dân
HICOM Công ty công nghiệp nặng
HQLI Chỉ số đo chất lượng cuộc sống
MARA Tổ chức phát triển công nghiệp ngoài khu vực nông thôn
MCA Hiệp hội người Hoa Malaysia
MIC Đại hội ngưới Ấn Malaysia
MIDA Uỷ ban phát triển công nghiệp Malaysia
NAP Chính sách nông nghiệp quốc gia
NDP Chính sách phát triển quốc gia
NEP Chính sách kinh tế mới
OPP1 Kế hoạch triển vọng lần thứ nhất
OPP2 Kế hoạch triển vọng lần thứ hai
OPP3 Kế hoạch triển vọng lần thứ ba
PIM Đảng Islam toàn Malaysia
UMNO Tổ chức dân tộc thống nhất Melayu



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1 Số người Hoa nhập cư vào Malaysia qua một số năm
Bảng 1.2 Tỷ lệ người Hoa trong cơ cấu dân cư của từng nước
Đông Nam Á năm 2000
Bảng 2.1 Mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở Malaysia
Bảng 2.2 Mục tiêu phân phối lại lao động theo các ngành kinh tế
Bảng 2.3 Chỉ tiêu phân bố lại lao động theo nghề nghiệp
Bảng 2.4 Cơ cấu lại tỷ lệ vốn cổ phần
Bảng 2.5 Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP
Bảng 2.6 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Malaysia



















1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Chính sách phát triển quốc gia, chủ nghĩa dân tộc, vấn đề tộc người và
tôn giáo luôn là những đề tài nóng hổi trong mọi thời đại. Hiện nay, song
song với sự gia tăng của khu vực hóa, toàn cầu hoá, thế giới tiến tới một
ngôi nhà chung, thì xu hướng địa phương hoá, ly khai dân tộc, mâu thuẫn
sắc tộc do những đặc điểm khác nhau về lịch sử, văn hoá, tôn giáo, tín
ngưỡng, trình độ phát triển kinh tế cũng có chiều hướng phát triển mạnh ở
nhiều nơi, trong đó có khu vực Đông Nam Á. Các quá trình và xu hướng
trên đã và đang làm tổn thương đến chủ quyền quốc gia – dân tộc, đến sự ổn
định chính trị, phát triển kinh tế, hài hoà dân tộc và xã hội ở mỗi nước, khu

vực và trên thế giới. Chính vì vậy, việc nhận thức đúng đắn và đưa ra những
chính sách hợp lý để giải quyết những vấn đề trên là điều thật cần thiết và
cấp bách đối với mỗi quốc gia.
Malaysia cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Là một quốc gia đa
dân tộc, đa tôn giáo, bị chia cắt thành nhiều vùng miền lãnh thổ, sau khi
giành được độc lập dân tộc vẫn là một đất nước nghèo nàn với nền nông
nghiệp lạc hậu, phụ thuộc khá sâu sắc vào tư bản nước ngoài trước khi tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thì việc xoá đói giảm nghèo, tăng
trưởng kinh tế, phát triển xã hội đi đôi với việc giải quyết mâu thuẫn tộc
người, đem lại sự công bằng cũng là một vấn đề trọng tâm đầy thách thức
trong chính sách của chính phủ Malaysia. Với sự khác nhau về ngôn ngữ,
văn hoá, tôn giáo, đặc biệt là sự chênh lệch về trình độ, địa vị kinh tế giữa
người bản địa và những người nhập cư (Hoa, Ấn) mà ở Malaysia đã xảy ra
cuộc xung đột sắc tộc đỉnh điểm vào năm 1969. Có thể nói, kinh tế giữ vai
trò quan trọng nhất trong sự phát triển xã hội. Và vì vậy sự khác biệt về mặt

2
kinh tế cũng là một nguyên nhân, nếu không nói là nguyên nhân quan trọng
nhất, làm cho những mâu thuẫn sắc tộc trở nên gay gắt và nóng bỏng hơn
bao giờ hết. Mâu thuẫn lớn thì gây ra nội chiến, mâu thuẫn nhỏ hơn thì gây
ra sự tranh chấp phân quyền về kinh tế, chính trị Dù diễn ra dưới bất kỳ
hình thức nào, mức độ nào thì mâu thuẫn sắc tộc cũng để lại những hậu quả
hết sức nặng nề.
Việc giải quyết vấn đề này quả thực không hề đơn giản bởi không thể
có một hay một số giải pháp chung để giải quyết hữu hiệu mọi xung đột sắc
tộc ở những quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, đứng trước tình trạng đó, với
nhiều khó khăn và thách thức, song Malaysia đã nhận thức được cái gốc của
vấn đề đối với dân tộc mình và đưa ra những chính sách kinh tế hợp lý. Với
sự ra đời của Chính sách kinh tế mới – NEP năm 1971 và Chính sách phát
triển quốc gia – NDP năm 1991, Malaysia đã thu được nhiều thành tựu to

lớn. Malaysia được coi là một trong số ít nước giải quyết rất thành công bài
toán gắn kết thành tựu phát triển kinh tế với việc giải quyết ổn thoả các mâu
thuẫn sắc tộc, đem lại sự công bằng, hoà hợp dân tộc, làm nền tảng cho sự
phát triển phồn thịnh của đất nước.
Như vậy, việc phát triển xã hội và giải quyết những mâu thuẫn, đặc
biệt là mâu thuẫn về kinh tế dẫn đến những mâu thuẫn về sắc tộc đang tồn
tại trong mỗi quốc gia là một vấn đề vô cùng khó khăn và phức tạp. Do đó,
việc nghiên cứu Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia sẽ có ý nghĩa rất
lớn đối với các nước đang tồn tại những mâu thuẫn hay có nguy cơ nảy sinh
mâu thuẫn. Nó sẽ là bài học tham khảo cho các nước đa dân tộc, đa tôn giáo
trên con đường phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với Việt Nam, những thành công của Malaysia trong quá trình
phát triển kinh tế, giải quyết những bất bình đẳng trong mâu thuẫn tộc người
sẽ là những bài học quý báu để chúng ta có thể tham khảo trong quá trình

3
Đổi mới và xây dựng đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh của nền kinh tế khu
vực hoá, toàn cầu hoá, quan hệ giữa nước ta với các nước trong khu vực và
trên thế giới ngày càng được mở rộng thì việc vừa phát triển kinh tế vừa giải
quyết mâu thuẫn tộc người không chỉ nhằm vào mục tiêu đảm bảo và phát
huy tình đoàn kết, thống nhất giữa các dân tộc, xây dựng và phát triển đất
nước mà còn góp phần đảm bảo an ninh khu vực và quốc tế nói chung,
ASEAN nói riêng.
Vì lẽ đó, Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia (đối với sự phát
triển xã hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người) đã được chọn làm đề tài cho
luận văn này.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong cuốn “Nghiên cứu về lịch sử - một cách thức diễn giải”, tác giả
Arnold Toynbee đã từng viết: “Tại sao chúng ta phải nghiên cứu lịch sử?

Chắc chắn loài người sẽ đi đến chỗ tự diệt vong, nếu chúng ta không tạo
được một cộng đồng giống như một đại gia đình. Vì thế nên chúng ta phải
học cách hiểu lẫn nhau. Có nghĩa là học để hiểu lịch sử của những dân tộc
khác, bởi vì con người không chỉ sống với hiện tại, mà còn sống trong một
thứ dòng chảy thời gian của tinh thần, nhớ lại quá khứ và nhìn về tương lai
ở phía trước với niềm hy vọng hoặc nỗi lo âu”. Đó là tầm quan trọng của
việc nghiên cứu lịch sử mà Arnold Toynbee muốn gửi gắm đến chúng ta. Do
đó, việc nghiên cứu về đất nước Malaysia nói chung, về chính sách kinh tế
của chính phủ Malaysia nói riêng đã được rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới và Việt Nam quan tâm.
Trước hết, có thể kể đến những công trình về thông sử Malaysia của
các học giả nước ngoài, chẳng hạn: “Malaysia” (của Jonh Gullick),
“Malaysia” (Johannes, Harald Stephen và Annabelle Morgan), “A History of

4
Malaysia” (Barbarra Watson và A. Leonard), v.v. Những công trình bàn về
những vấn đề kinh tế - xã hội như: “Managing the Malaysia Economy:
Challenges & Prospect” (Ramon V. Navaratman), “Malaysia in Stransition:
Politics and Society” (Abdul R. Baginda), “Social Transformation, the State
and the Middle Classes” (Abdul R. Embong), “The Malay – Their Problems
and Future” (S. Husin Ali), “ Malaysia - The Making of a Nation” (Cheah
boon Kheng), “Whither Malaysia ‘s New Economic Policy” (K.S. Jomo),
v.v.
Ở Việt Nam, trong những thập niên gần đây đã xuất hiện khá nhiều
công trình nghiên cứu về Malaysia nói chung và kinh tế Malaysia nói riêng.
Những công trình tiêu biểu có thể kể đến là: “Malaysia – Lịch sử, văn hóa
và những vấn đề hiện đại”, “Malaysia trên đường phát triển” (Phạm Đức
Thành), “Kinh tế Malaysia” (Đào Lê Minh và Trần Lan Hương), v.v. Ngoài
ra, việc nghiên cứu về Malaysia còn được thể hiện trong những cuốn sách
bàn về ASEAN và Đông Nam Á. Thuộc lĩnh vực này có thể nhắc đến: “Đặc

điểm con đường phát triển kinh tế - xã hội của các nước ASEAN” (Phạm
Đức Thành chủ biên), “Một số vấn đề về sự phát triển của các nước
ASEAN” (Vũ Dương Ninh), “ASEAN – những vấn đề và xu hướng” (Phạm
Nguyên Long chủ biên), “Đông Nam Á trên đường phát triển” (Phạm
Nguyên Long chủ biên), “Các con đường phát triển của ASEAN” (Phạm
Nguyên Long chủ biên), “Một số vấn đề về xung đột sắc tộc và tôn giáo ở
Đông Nam Á” (Phạm Thị Vinh chủ biên), “Xã hội dân sự ở Malaysia và
Thái Lan” (Lê Thị Thanh Hương chủ biên), v.v.
Việc nghiên cứu về Malaysia còn được đăng tải trong các bài viết trên
các tạp chí khoa học. Liên quan đến đề tài mà chúng tôi quan tâm, có thể kể
đến: “Nhà nước và hoạt động kinh tế ở Malaixia” (Nguyễn Văn Hà, Nghiên
cứu Đông Nam Á, số 2/2001), “Nhân tố chính sách trong phát triển kinh tế

5
của Malaixia” (Nguyễn Hồ, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 2/1995), “Tính
cách dân tộc Malaixia trong sự phát triển đất nước” (Đức Ninh, Nghiên cứu
Đông Nam Á, số 2/1996), “Con đường phát triển kinh tế của Malaixia và
những kinh nghiệm” (Tất Tố, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 6/1994),
“Một vài đặc điểm về sự phát triển kinh tế – xã hội của Malaixia” (Nguyễn
Khắc Thân, Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, số 2/1999, “Chiến lược
phát triển kinh tế tri thức của Malaixia” (Hoàng Giáp, Hoài Anh, Kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương, số 5/2001), “Một vài kinh nghiệm của Malaysia
trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và tôn giáo”, (Lý Tương
Vân, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1/2009), v.v.
Gần đây một số đề tài luận văn, khóa luận của học viên cao học và
sinh viên cũng đã bắt đầu đề cập đến những vấn đề kinh tế - xã hội của
Malaysia. Có thể nêu tên một số đề tài được thực hiện tại Trường Đại học
Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội: “Chính sách kinh
tế mới với vấn đề hòa hợp dân tộc ở Malaysia, giai đoạn 1971 – 1990” (Lý
Tường Vân, 2002), “Tiến trình phát triển kinh tế - xã hội ở Malaysia, giai

đoạn 1957 – 2000” (Lê Thị Thu Hồng, 2003), “Mahathir Mohamad với vấn
đề dân tộc và tôn giáo của Malaysia” (Lê Thị Huyền, 2005), “Một vài khía
cạnh của vấn đề dân tộc ở Malaysia” (Nguyễn Thị Hoa, 2009).
Như vậy, cho đến nay, ở nước ngoài cũng như Việt Nam, đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu về Malaysia và kinh tế Malaysia. Tuy nhiên,
vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào mang tính hệ thống và toàn
diện về chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia với vấn đề phát triển xã
hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người. Do đó, thông qua luận văn này,
người viết muốn được đóng góp công sức nhỏ bé của mình góp phần đưa ra
một cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về những thành công mà Malaysia đã
đạt được trong thời gian qua.

6

3. Mục tiêu của luận văn
Thông qua những điều được trình bày trong luận văn, người viết
muốn làm sáng tỏ con đường phát triển kinh tế - xã hội của Malaysia thông
qua việc thực thi các chính sách kinh tế hướng đến việc vừa tăng trưởng
kinh tế bền vững vừa ổn định trật tự xã hội trong hoàn cảnh của một quốc
gia đa tộc người, đa ngôn ngữ và đa tôn giáo điển hình.

4. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu nêu trên, những nhiệm vụ chính dưới đây cần
được đặt ra để giải quyết:
- Chỉ ra được tính chất phức tạp của Malaysia với tư cách là một quốc
gia mang tính melting pot điển hình,
- Nêu bật được những thành tựu của Malaysia trong việc thực thi các
chính sách kinh tế vì mục tiêu tăng trưởng bền vững,
- Làm sáng tỏ những thành tựu của Malaysia trong việc thực thi các
chính sách kinh tế vì mục tiêu giải quyết các mâu thuẫn tộc người,

- Bước đầu chỉ ra những bài học mà các quốc gia đa tộc người có thể
tham khảo (cả những bài học thành công và bài học chưa thành công).

5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng phương pháp
nghiên cứu khu vực học với cách tiếp cận liên ngành. Ngoài ra, các phương
pháp truyền thống của khoa học xã hội & nhân văn như tổng hợp, phân tích
tư liệu, so sánh, đối chiếu cũng được vận dụng triệt để trong quá trình làm
việc.


7
6. Bố cục của luận văn
Luận văn được trình bày theo một trật tự kết cấu như sau:
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan về Malaysia và các tộc người chính ở Malaysia
Chương 2: Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia đối với việc
phát triển xã hội
Chương 3: Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia đối với việc
giải quyết mâu thuẫn tộc người
Kết luận
Tài liệu tham khảo

Chính sách kinh tế của chính phủ Malaysia (đối với sự phát triển xã
hội và giải quyết mâu thuẫn tộc người) là một đề tài thú vị nhưng không dễ
thực hiện đối với một học viên cao học mà kiến thức còn hạn chế và kinh
nghiệm nghiên cứu chưa nhiều. Luận văn, vì vậy, chắc chắn sẽ không tránh
khỏi nhiều thiếu sót. Người viết mong nhận được sự quan tâm, chỉ dẫn và
góp ý của các thày cô và đồng nghiệp.








Chương 1: TỔNG QUAN VỀ MALAYSIA VÀ CÁC
TỘC NGƯỜI CHÍNH Ở MALAYSIA


8
1.1 Đôi nét về đất nước, con người và lịch sử Malaysia
1.1.1 Đất nước
Liên bang Malaysia là một quốc gia không lớn lắm, nằm ở trung tâm
Đông Nam Á, có diện tích tương đương với Việt Nam là 329.758 km
2
. Đây
là quốc gia có hình dạng lưỡi liềm nằm gần đường xích đạo – giữa tọa độ
1
o
– 7
o
vĩ Bắc và trải dài từ 100
o
đến 119
o
kinh đông. Lãnh thổ Malaysia
được chia làm hai phần: miền Tây và miền Đông Malaysia. Miền Tây (còn
được gọi là phần bán đảo) nằm trên bán đảo Melaka có diện tích 131.794
km

2
(chiếm 40% diện tích cả nước), bao gồm 11 bang: Perlis, Kedah,
Penang, Perak, Selangor, Melaka, Johor, Negeri Sembilan, Pahang,
Trengganu và Kelantan. Hiện nay, ở các bang miền Tây có trên 50% dân số
là cư dân bản địa nói tiếng Melayu (Malay), hay các ngôn ngữ cùng họ
Melayu khác. Trong số cư dân bản địa đó, người Melayu chiếm tới trên
90%. Do đó, các bang miền Tây thường được gọi là các bang Melayu và từ
năm 1963 trở về trước Malaysia được gọi là Malaya. Vùng lãnh thổ phía
Đông của Malaysia bao gồm 2 bang là Sabah và Sarawak nằm ở phía Bắc
đảo Kalimantan (hay còn gọi là đảo Borneo) với diện tích 201.600 km
2

(chiếm 60% diện tích cả nước). Hai vùng lãnh thổ này của Malaysia được
chia cắt bởi vùng biển thuộc Thái Bình Dương. Malaysia có chung biên giới
với các quốc gia khác trong cùng khu vực: Phía Bắc là Thái Lan, phía Nam
là Singapore, còn ở phía Đông thì có chung biên giới với Indonesia và
Brunei. Là quốc gia hải đảo nên Malaysia có đường bờ biển khá dài, khoảng
5.000 km.
Vị trí địa lý của Malaysia vô cùng quan trọng, không chỉ nằm trên
tuyến đường biển nối liền các trung tâm kinh tế Âu – Á mà còn có ý nghĩa
đặc biệt trong việc hình thành quốc gia đa dân tộc, là nơi gặp gỡ và giao lưu
của nhiều nền văn minh cổ đại, nhất là nền văn minh Ấn Độ; là nơi dừng

9
chân của các thương gia Ấn Độ, Trung Quốc, các đế quốc ở Trung Cận
Đông và đế quốc La Mã ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên.
Về địa hình, lãnh thổ Malaysia thuộc loại hình không bằng phẳng. Ở
vùng bán đảo, núi thường không cao (khoảng 1000-2000m) và đồng bằng
duyên hải cũng không rộng. Các dãy núi thường bị đứt đoạn và tập trung chủ
yếu ở miền Bắc và miền Trung. Về phía Nam, địa hình có phần thấp hơn. Ở

đây có dãy núi Kerbau cao 2.132m. Dãy núi này kéo dài từ phía Thái Lan và
chia lãnh thổ Malaysia thành 2 phần từ Bắc xuống Nam. Phần phía Đông
rộng hơn phần phía Tây.
Ở vùng phía Đông, địa hình được kiến tạo nhiều đồi núi. Các dãy núi
ở đây thường trải dài từ phía Tây Bắc hướng xuống phía Đông Nam. Ở phía
Đông Bắc (thuộc lãnh thổ bang Sabah) có đỉnh núi Kinabalu cao 4.175m, là
đỉnh núi cao nhất ở Malaysia. Đồng bằng duyên hải ở đây thấp, nhiều nơi
sình lầy.
Malaysia có nhiều sông ngòi. Do đặc điểm của lãnh thổ và địa hình
nên sông ngòi ở đây đều ngắn. Ở vùng phía Tây có các con sông chính là
Pahang (dài 320 km), Perak (270 km), Kelantan, Johor. Vùng phía Đông
Malaysia, ở Sarawak có các sông Rajing (560 km), Baram (500 km), Lupar
(227 km) và nhiều con sông khác. Còn ở Sabah có con sông lớn nhất là
Kinabatangan (560 km) chảy ra biển Sulu.
Nằm gần đường xích đạo nên khí hậu Malaysia chịu ảnh hưởng của
gió mùa nóng, ẩm quanh năm, với độ ẩm không khí khá cao. Nhiệt độ trung
bình từ 25
0
C đến 28
0
C với mức dao động hàng tháng không đáng kể (1,4
0
C),
độ ẩm trung bình là 80%. Lượng mưa hàng năm ở vùng duyên hải bán đảo
Melaka từ 2.000 – 2.500 mm, còn ở vùng núi là 3.500 – 5.000 mm; Ở vùng
Bắc Kalimantan, lượng mưa trung bình hàng năm có ít hơn. Malaysia có 2

10
mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô, bị chi phối bởi gió mùa Đông Bắc từ
tháng 10 đến tháng 4 và gió mùa Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 9.

Khí hậu nhiệt đới đã đem lại cho Malaysia một thế giới thực vật vô
cùng phong phú. Có đến 70% diện tích lãnh thổ của Malaysia là rừng nhiệt
đới xanh tốt quanh năm. Giới thực vật có đến 15.000 loài, trong đó có 6.000
loài thân cây cứng cho nhiều loại gỗ có giá trị công nghiệp cao.
Bên cạnh hệ thực vật phong phú, động vật ở Malaysia cũng hết sức đa
dạng. Ngoài những giống tiêu biểu như gấu Malay, tê giác hai sừng, ở đây
còn có nhiều loài thú khác như: voi, các loại hổ, báo, trăn, rắn và gần 500
loại chim muông.
Về mặt thổ nhưỡng, Malaysia chủ yếu là đất đỏ và laterit, thích hợp
cho nhiều loại cây trồng có giá trị cao, đặc biệt là cao su. Đã từ lâu, hình ảnh
về những dãy đồn điền cao su xanh bạt ngàn là những cảnh sắc quen thuộc
và đặc trưng của Malaysia. Bên cạnh cây cao su, Malaysia còn có nhiều loại
cây công nghiệp quan trọng khác như: dầu cọ, dừa Những năm gần đây,
chúng đóng vai trò không nhỏ trong quá trình chuyển dịch kinh tế.
Mặt khác, có thể nói, thiên nhiên cũng ưu đãi cho đất nước này nhiều
tài nguyên quý giá. Bên cạnh dầu mỏ, hơi đốt, ở đây còn có sắt, boxit,
manggan, vàng và đặc biệt là thiếc. Trữ lượng thiếc lớn (khoảng 12.000 tấn),
đứng thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á và luôn đứng ở hàng chủ đạo trong khu
vực về sản lượng khai thác.



1.1.2 Con người và lịch sử Malaysia
Malaysia là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và nhiều nền văn
hóa. Thành phần dân tộc của Malaysia tương đối phức tạp. Người Malay bao

11
gồm người bản xứ với tên gọi theo tiếng Melayu là Bumiputera và những cư
dân lâu đời ở đây như các tộc người Semang, Senoi, Jakun (ở bán đảo
Melaka), Dusue, Marut, Iban, Katasan (ở Bắc Kalimantan). Về cơ bản,

Malaysia gồm ba cộng đồng dân tộc chính: cộng đồng người Malay (gồm
bản thân người Malay và các tộc người bản địa khác), cộng đồng người Hoa
và cộng đồng người Ấn. Giữa các tộc người này có sự khác biệt trong sinh
hoạt cũng như trong hoạt động kinh tế.
Trong lúc đa phần người bản địa làm nghề nông, sống tập trung ở các
bang nông nghiệp lạc hậu về kinh tế như Kedah, Kalantan, Trenganu, Perlis
cũng như ở các vùng nông nghiệp lạc hậu khác ở Sarawak và Sabah, nằm
dải theo thung lũng các con sông và vùng duyên hải ở phía bắc và đông bắc
bán đảo Melaka thì đa phần cư dân người Hoa lại sinh sống ở phía tây và
phía nam bán đảo Melaka và ở các thành phố lớn, các trung tâm khai thác
thiếc. Người Hoa không những chỉ là những nhà tư sản cỡ lớn và vừa nắm
giữ nhiều xí nghiệp, hầm mỏ, công ty vận tải, ngân hàng, các đồn điền cao
su mà còn chiếm số đông trong giai cấp vô sản công nghiệp và khai
khoáng. Họ có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế quốc gia. Cộng đồng người
Ấn ở Malaysia thì sinh sống cả ở vùng nông thôn lẫn thành thị, nhưng vùng
tập trung chính là ở bờ biển phía tây – nơi có nhiều đồn điền cao su. Người
Ấn có đại diện trong tầng lớp đại, trung và tiểu tư sản, nhiều người trong số
họ là công nhân, phu đồn điền, nông dân Tuy vậy, vai trò của họ không
lớn so với người Malay và người Hoa. Hơn nữa, so với người Hoa, người
Ấn có phần hòa nhập với cư dân bản địa mạnh hơn nhờ một phần người
Islam trong cư dân người Ấn đồng hóa với người Malay.
Về tôn giáo, ở Malaysia có nhiều tôn giáo khác nhau. Nếu như hầu hết
người Malay theo Islam thì đa phần người Hoa theo Phật giáo hay Đạo giáo,
người Ấn theo Hindu giáo, một số khác theo Phật giáo và đạo Sikh. Trong

12
cộng đồng người Hoa và người Ấn cũng có một bộ phận rất nhỏ theo Islam.
Sau này, Thiên chúa giáo cũng có mặt ở đây và nó có ảnh hưởng chủ yếu ở
một bộ phận người Châu Âu, người dân địa phương ở Sarawak và Sabah
cũng như ở một bộ phận người Hoa và người Ấn. Ở Malaysia, Islam được

coi là quốc giáo và tiếng Melayu (Bahasa Melayu) được coi là ngôn ngữ
chính thức của quốc gia. Tuy nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, các ngôn
ngữ khác như tiếng Hoa, tiếng Tamil, tiếng Anh cũng được sử dụng khá phổ
biến.
Hiện nay, ở đất nước này, ngoài những thành phần dân tộc chính hợp
thành cư dân Malaysia như đã trình bày ở trên, còn có nhiều người nước
ngoài đang sinh sống và làm việc tại đây trong các lĩnh vực khác nhau.
Chính điều này đã góp phần tạo nên một bức tranh đa dạng về tộc người, về
văn hóa, về tôn giáo và ngôn ngữ ở Malaysia.
Ở Malaysia, số người giàu chiếm khoảng 19% dân cư toàn lên bang.
Số dân có mức sống trung bình, đủ sức tự lo cho mình đầy đủ các nhu cầu
thiết yếu của cuộc sống chiếm tỷ lệ 60% dân số, còn lại khoảng 21% là dân
nghèo, thu nhập thấp, không đủ trang trải mọi nhu cầu tối thiểu về ăn, ở, học
hành, thuốc men khi đau ốm. Do đó, trong chiến lược phát triển quốc gia đến
năm 2020, chính phủ Malaysia buộc phải có những biện pháp thích hợp để
giải quyết vấn đề này, có nghĩa là làm sao để giảm thiểu tỷ lệ dân nghèo
xuống mức thấp nhất và tăng tỷ lệ người khá giả. Và chính phủ Malaysia đã
chọn biện pháp đẩy nhanh quá trình đô thị, xây dựng các khu dân cư mới,
phát triển các hệ thống giao thông, giải tỏa các khu xóm lao động sống chật
chội, nghèo khổ. Chính phủ đã yêu cầu các công ty kinh doanh muốn đầu tư
địa ốc, kinh doanh hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông phải xây dựng
những khu nhà ở mới, đầy đủ tiện nghi cho dân nghèo về ở, đồng thời phải
có được dự án tốt đảm bảo cho các hộ đến chỗ ở mới có được nguồn thu

13
nhập ổn định cao hơn ở nơi cư trú cũ. Các công ty khi đảm bảo hội đủ các
điều kiện đó thì mới được chính phủ phê duyệt, đồng ý cho giải tỏa nhà dân
để xây dựng các đô thị hay khu công nghiệp mới.
Ngoài ra, chính phủ còn yêu cầu các công ty, nhà máy chuyên sản
xuất các thiết bị điện tử, đồ chơi hàng ngày, phải sản xuất đủ máy lạnh, tủ

lạnh, truyền hình màu, điện thoại với tiêu chuẩn chất lượng tương đối tốt và
quan trọng là giá rẻ chỉ bằng 50% giá thị trường để trang bị cho các căn hộ
mới xây. Chính phủ trích từ ngân sách để trả tiền cho các công ty, nhà máy
về số hàng hóa và miễn thuế về lô hàng này cho họ. Chính phủ còn áp dụng
hình thức cho các hộ mua vay trả góp toàn bộ căn hộ và các tiện ích bên
trong. Do vậy, khi đến thăm Malaysia, chúng ta rất khó nhận thấy sự chênh
lệch về mức sống giữa người giàu và người nghèo.
Mặc dù là liên bang nhưng Malaysia không theo chế độ cộng hòa mà
theo mô hình quân chủ lập hiến, nghĩa là nước có vua cai trị nhưng quyền
lực tối cao không nằm trong tay vua mà là Hiến pháp. Hiến pháp đầu tiên
của nhà nước Malaysia độc lập (Hiến pháp năm 1957) quy định: Vua (Yang
di – Pertuan Agong) là người đứng đầu Liên bang, hay đứng đầu Nhà nước
được bầu lên từ những người đứng đầu các tiểu vương quốc (Sultan) theo
nhiệm kỳ 5 năm. Trước đây, nhà Vua có quyền bác bỏ các dự luật, có thể
giải tán nghị viện, nhưng theo Hiến pháp sửa đổi năm 1994 thì quyền hạn
của Vua bị hạn chế và chỉ đóng vai trò cố vấn cho Thủ tướng. Nhà Vua lập
ra Hội đồng cai trị gồm những người đứng đầu các bang. Hội đồng làm tham
mưu trong việc bầu Hội đồng thẩm phán, Hội đồng bầu cử, Ủy ban công
vụ Nghị viện của Malaysia tổ chức theo lưỡng viện, gồm có thượng viện
và hạ viện. Thượng viện có 69 thành viên, trong đó có 40 người là những
người đứng đầu các đơn vị hành chính (bang) thường do Vua chỉ định và 29
người được bầu từ các bang. Mỗi bang được chọn ra 2 nghị sĩ làm thành

14
viên của Hội đồng lập pháp với nhiệm kỳ 3 năm. Hạ viện hay Viện dân biểu
(gồm 192 thành viên) được lựa chọn từ các khu vực bầu cử trong nước với
nhiệm kỳ 5 năm. Nhà Vua có thể giải tán Hạ viện sớm hơn nếu như có yêu
cầu của Thủ tướng chính phủ. Người đứng đầu chính phủ là Thủ tướng được
nhà Vua bổ nhiệm người của đảng nào có nhiều ghế nhất trong Hạ viện. Thủ
tướng lập ra Hội đồng bộ trưởng. Hiện nay, Malaysia có 25 bộ trưởng trong

Nội các chính phủ. Người đứng đầu 9 tiểu vương quốc miền Tây Malaysia
theo chế độ cha truyền con nối được tham gia lựa chọn Vua cho toàn nước
Malaysia. Còn 4 thống đốc bang gồm Sarawak, Sabah, thành phố Melaka và
đảo Penang, do nhà Vua chỉ định, không được bầu làm vua.
Ở Malaysia, Tổ chức tộc người Malay thống nhất (gọi tắt là UMNO)
là đảng phái chính trị mạnh nhất, có uy tín nhất và là hạt nhân chính trong
mặt trận quốc gia (một liên minh chính trị giữa UMNO, Hiệp hội người Hoa
Malaysia và Đại hội người Ấn) đang cầm quyền tại quốc gia này hơn một
thập kỷ qua. Hạt nhân chính của Mặt trận quốc gia nói chung, của UMNO
nói riêng là tầng lớp trí thức và các nhà doanh nghiệp. Dưới thời cầm quyền
của Thủ tướng Mahathir, Mặt trận quốc gia – liên minh cầm quyền giữa trí
thức người Malay bản địa với các thương gia người Hoa trở nên chặt chẽ và
có hiệu quả hơn. Đây là một đặc điểm chính trị hết sức nổi bật, có tác động
sâu sắc đến sự phát triển kinh tế và liên kết dân tộc ở Malaysia trong 2 thập
kỷ qua. Đối lập với Mặt trận quốc gia là Đảng Islam toàn Malaysia (PIM) và
Đảng Dân chủ hành động Malaysia (DAP). PIM đấu tranh vì một xã hội
Malaysia Islam, bào trừ các sắc tộc không phải là Islam và cư dân bản địa.
DAP thì lại đấu tranh vì một xã hội dân chủ theo mô hình các nước Bắc Âu.
Những năm gần đây, hai đảng phái đối lập này phát triển khá mạnh, đặc biệt
là DAP. Tuy nhiên, nhìn chung, chế độ chính trị của Liên bang Malaysia
trong mấy chục năm qua là tương đối ổn định. Sự liên kết ngày càng gia tăng

15
giữa các đảng phái chính trị, giữa các tộc người trên nền tảng cùng có lợi và
cùng phát triển là xu hướng chủ đạo trong đời sống kinh tế, chính trị của
Malaysia. Đây là một trong những yếu tố then chốt giúp Malaysia hòa hợp
và phát triển, đi đến chủ nghĩa tư bản hiện đại ở nước này.
Về lịch sử, trước khi thực dân phương Tây xâm chiếm và cai trị, tại
đất nước này đã từng tồn tại và chứng kiến sự thịnh vượng của các tiểu
vương quốc Islam. Islam đã chiếm được địa vị độc tôn, trở thành quốc đạo

từ thế kỷ XV và nơi đây cũng trở thành trung tâm truyền bá Islam lớn nhất ở
Đông Nam Á. Sang đầu thế kỷ XVI (1511) thực dân Bồ Đào Nha đánh
chiếm thành phố Melaka và cai trị ở đây hơn một thế kỷ. Đến năm 1641, Hà
Lan liên minh với tiểu vương quốc Johor cướp lại thành phố Melaka từ tay
Bồ Đào Nha. Nhưng đến những năm 80 của thế kỷ XVII, thực dân Anh đã
chiếm lại thành phố Melaka và đảo Penang. Cùng với đảo Penang và
Singapore, Melaka trở thành Cụm cư dân vùng eo biển thuộc Anh. Đến cuối
thế kỷ XIX, toàn bộ Malaysia ngày nay đã trở thành thuộc địa của Anh.
Chính sách khai thác tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu mà thực dân Anh
thi hành đã không làm cho nước này trở thành một nước có nền kinh tế phát
triển. Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp chiếm tới
40% tổng thu nhập nội địa (GDP), khu vực chế biến, chế tạo chỉ chiếm hơn
10%. Hầu hết những ngành kinh tế chủ đạo có khả năng xuất khẩu như
ngành xuất khẩu thiếc, cao su, dầu cọ, dừa, chè đều do tư bản Anh kiểm
soát.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ II, Malaysia bị Nhật chiếm đóng.
Lúc đầu, sự xuất hiện của quân đội Nhật đã gặp phải sự phản kháng mạnh
mẽ của nhân dân Malaya. Tuy nhiên, do chính sách “chia để trị” của quân
phiệt Nhật mà các cộng đồng cư dân của Malaya đã không thống nhất được
lực lượng để kháng Nhật, thậm chí còn nhen nhóm lòng hận thù và đố kị lẫn

16
nhau, đặc biệt là giữa người Melayu và người Hoa. Vì vậy, họ đã không đưa
cuộc kháng chiến của mình đến thắng lợi hoàn toàn.
Chiến tranh kết thúc, tháng 9 năm 1945, dưới danh nghĩa giải giáp
quân đội Nhật, quân đội Anh đã chiếm lại Malaya. Họ đã mau chóng tiến
hành các biện pháp nhằm ổn định tình hình và lập kế hoạch thành lập một
thể chế chính trị mới ở Malaya, gọi là Liên hiệp Malaya. Cuối tháng 1 năm
1946, bất chấp mọi sự phản đối của mọi tầng lớp nhân dân Malaya, chính
phủ Anh đã tuyên bố “ Sách trắng”, trong đó có đề cập đến Hiến pháp của

Liên hiệp Malaya. Liên hiệp Malaya bao gồm 9 bang Melayu, Penang và
Melaka, còn Singapore được công bố là thuộc địa riêng của Anh. Những
người đứng đầu các bang Melayu giữ nguyên địa vị của mình nhưng thực
chất chủ quyền nằm trong tay người Anh. Các công dân Liên hiệp Malaya
đều có quyền bình đẳng, không phân biệt thành phần dân tộc và tôn giáo.
Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Tổ chức dân tộc thống nhất Melayu
(UMNO), nhân dân Malaya đã đấu tranh quyết liệt, do đó kế hoạch thành lập
Liên hiệp Malaya của Anh đã không thành hiện thực. Cuối cùng, vào năm
1948, tất cả các bang Melayu và Cụm dân cư eo biển được thống nhất thành
Liên bang Malaya dưới sự bảo hộ của Anh, theo sự thỏa thuận giữa Anh và
các nhà lãnh đạo Melayu và UMNO.
Năm 1957, Liên bang Malaya trở thành quốc gia độc lập, là thành
viên của Khối thịnh vượng chung thuộc Anh (British Commonwealth of
Nation).
Năm 1963, Liên Bang Malaysia ra đời, bao gồm Liên bang Malaya,
Singapore, Sabah và Sarawak với thủ đô là Kuala Lumpur (thuộc bang
Selangor). Đến năm 1965, Singapore tách khỏi Liên bang, trở thành quốc
gia độc lập. Năm 1974, bang Sabah trao đảo Labuan cho chính phủ Liên
bang. Kuala Lumpur và Labuan trở thành một đơn vị hành chính trực thuộc

17
Liên bang, gọi là Lãnh thổ Liên bang. Như vậy, hiện nay Liên bang
Malaysia bao gồm 13 bang (Johor, Kedah, Kelantan, Melaka, Negeri
Sembilan, Pahang, Perlis, Perak, Pulau Pinang, Sabah, Sarawak, Selangor,
Trengganu) và phần lãnh thổ Liên bang (Kuala Lumpur và Labuan).

1.2 Các tộc người chính ở Malaysia
Là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo và nhiều nền văn hóa,
Malaysia thực sự là một điểm đến với tên gọi là “ Châu Á thu nhỏ”. Đến
với đất nước này, người ta sẽ thấy được sự kết hợp đa dạng của ba nền văn

hóa cổ xưa nhất Châu Á, đó là văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ với nền
văn hóa bản địa của cư dân Malay. Có rất nhiều người đến từ những quốc
gia khác đã chọn Malaysia là nơi học tập, làm việc và kinh doanh. Ở
Malaysia có sự hài hòa khi Bahasa Melayu là quốc ngữ nhưng tiếng Anh,
tiếng Quan Thoại và tiếng Tamil vẫn được sử dụng rộng rãi. Islam là quốc
giáo nhưng Hiến pháp thừa nhận sự tự do thờ bái và tín ngưỡng đối với tất
cả các tộc người. Các tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo, Ấn giáo, Phật
giáo và những tôn giáo khác cũng được người dân sùng bái tự do. Chính sự
nhấn mạnh về việc chia sẻ quyền lợi giữa những nhóm chủng tộc, đảm bảo
sự chung sống dung hòa trong xã hội đa sắc tộc, chính phủ Malaysia đã làm
mọi người biết đến đất nước mình như một quốc gia kiểu mẫu về hòa bình
và ổn định.

1.2.1 Tộc người Malay
Nhắc tới các tộc người ở Malaysia, trước tiên chúng ta phải nhắc đến
tộc người bản địa Malay. Đây là tộc người lớn nhất tại Malaysia.
Có thể nói, nhìn bề ngoài, việc nhận ra người Malay là không khó. Họ
có làn da nâu, thân hình vừa phải nhưng dẻo dai và có tính cách ôn hòa, nhẹ

18
nhàng. Với mệnh danh là “ đứa con của đất” – bumiputera, cộng đồng Malay
chiếm khoảng ½ dân số bán đảo với 57% (năm 2008) [
/r/pa/ei/bgn/2777.htm].
Tuy nhiên, trong những văn cảnh khác nhau, thuật ngữ “Malay” ở đây
có nhiều ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn, trong định nghĩa có tính chất văn
hóa và xã hội rộng khắp, thuật ngữ trên không chỉ đề cập đến những người
sống ở Peninsula (bán đảo) mà còn bao gồm cả những người sống ở khu vực
lớn hơn của quần đảo Malay, gồm Peninsula và hàng nghìn hòn đảo khác
mà ngày nay tạo nên lãnh thổ của Indonesia và Philippin. Mặc dù họ được
chia thành nhiều tộc người khác nhau nhưng các chuyên gia văn hóa và ngôn

ngữ luôn coi họ là cùng một dòng giống, đó là cộng đồng Malay hay Malayo
– Indonesians. Quả thực, thế giới Malay bao phủ cả một vùng rộng lớn và
cộng đồng người Malay đã tạo nên một trong số những nhóm chủng tộc
chính trên thế giới

[61,5]. Với sự đa dạng như vậy, ở đây người viết chỉ xin
được nói tới cộng đồng Malay sống ở Peninsula.
Người Malay ở đây là những người theo Islam, nói tiếng Malay, tuân
thủ các truyền thống Malay và có tổ tiên là người Malay. Trong quá khứ, họ
là những người có tinh thần yêu nước, gắn bó với mảnh đất của mình, họ
cũng là những người sống yên phận, dễ dàng hài lòng với những gì mình có,
yêu hòa bình và không thích giành giật, bon chen. Thêm nữa, họ có bản tính
đôn hậu, hào hiệp và biết ơn. Họ sẵn sàng đùm bọc, kết bạn và giúp đỡ
những người Hoa anh em [18, 279]. Trong lịch sử, họ cùng với những người
Hoa nhập cư đã anh dũng chống lại quân Bồ Đào Nha, Hà Lan, cũng như
chống lại ách thống trị của thực dân Anh. Tuy nhiên, sự lớn mạnh về kinh tế
của người Hoa sau này đã thực sự làm cho người Malay lo sợ. Họ sợ rằng họ
sẽ trở thành phái yếu ngay trên mảnh đất quê hương của mình, do đó, họ đã

19
nổi dậy đấu tranh để giành quyền lực. Hiện nay, họ là lực lượng chính nắm
chính quyền tại Malaysia.
Về tôn giáo, ở Malaysia hầu hết người Malay đều là Muslim (tín đồ
Islam). Mặc dù ở nhiều thế kỷ trước, Hindu giáo đã rất phổ biến, song ngày
nay chúng ta ít nghe thấy một người Malay nào theo tôn giáo này. Điều này
khá khác biệt với Indonesia, đất nước mà Hindu giáo và văn hóa Hindu còn
để lại rất nhiều môn đồ, đặc biệt là ở vùng Đông Java và Bali. Ảnh hưởng
của Islam đối với người Malay là rất sâu đậm từ khi họ rũ bỏ lòng tin vào
thuyết vật linh và theo Islam từ thời kỳ vương quốc Melaka. Người Malay
không bao giờ thay đổi tôn giáo. Khi người Anh đến, việc truyền đạo Thiên

chúa được thực hiện rất tích cực nhưng người Malay vẫn duy trì tôn giáo của
mình. Bất kỳ người Malay nào thay đổi tôn giáo sẽ gặp phải những hình phạt
mạnh mẽ hoặc bị lên án thẳng thừng từ phía gia đình và xã hội [61, 60]. Là
một đất nước theo Islam nhưng ở Malaysia ít có những xung đột hay mâu
thuẫn gì xảy ra trong nội bộ đất nước có liên quan đến tôn giáo này. Có thể
nói, đây là quốc gia ổn định, hòa bình và gần như không có những phần tử
Islam cực đoan.
Về chính trị, Malaysia tồn tại rất nhiều Đảng phái, Đảng của người
Malay, người Hoa và người Ấn. Tuy nhiên, người Malay và Đảng của người
Malay (UMNO) là những người nắm chính quyền cả nước. Khi thực dân
Anh đến xâm lược, người Malay đã cùng người Hoa đánh đuổi và giành lại
độc lập cho dân tộc, nhưng kể từ khi người Hoa vươn lên nắm quyền về kinh
tế thì người Malay thực sự lo sợ và ý thức thúc giục họ phải vươn lên nắm
chính quyền bởi đa số họ là những người nghèo, chủ yếu sống ở vùng nông
thôn và làm nghề nông. Những năm gần đây, dưới sự che chở của UMNO,
người Malay đã giành được nhiều đặc lợi về chính trị hơn người Hoa và đây

20
cũng chính là một trong những nguyên nhân gây ra những mâu thuẫn giữa
hai nhóm người lớn nhất tại đất nước này.
Về nghệ thuật, người Malay có một nền nghệ thuật phong phú. Từ
thời xa xưa (văn hóa Đông Sơn), người Malay đã chế tác được rất nhiều sản
phẩm như chuông đồng, rìu đồng, trống đồng cùng những đồ gốm với các
kiểu dáng và hoa văn trang trí đặc sắc. Vào những ngày đầu công nguyên, cư
dân Đông Nam Á nói chung, người Malay nói riêng đều chịu ảnh hưởng của
văn hóa Ấn Độ. Người Ấn Độ đã mang đến cho người Malay các tập tục,
truyền thống, lễ nghi cùng các yếu tố văn hóa khác của mình. Nghệ thuật tạo
hình của Ấn Độ được tái hiện rất rõ trong các chế tác tượng Phật, tượng thần
Hindu giáo, các bức phù điêu, bia kí Tuy nhiên, rực rỡ nhất trong nền nghệ
thuật Malay là kiến trúc Islam. Những nhà thờ Islam nổi tiếng ở các làng

Terengkena, Hulu, Kling, v.v. là dấu ấn tiêu biểu cho kiến trúc này. Từ cuối
thế kỷ XVIII, kiến trúc Châu Âu cũng ảnh hưởng rất mạnh đến kiến trúc
thánh đường Malaysia. Minh chứng cho nghệ thuật này là nhà thờ Abubakar
ở bang Johor được xây dựng vào năm 1892 với những cửa sổ ra vào và cửa
sổ mang hình mái vòm kiểu Italy. Sang thế kỷ XIX, kiến trúc Islam Trung
Đông được người Malay tái tạo lại một cách sinh động. Ngày nay, người
Malaysia nói chung và người Malay nói riêng rất tự hào về những thánh
đường lộng lẫy của mình như thánh đường Jame ở Kuala Lumpur, thánh
đường Sultan Salahuddin Abdul Aziz Shah ở Selangor (Thánh đường lớn
nhất Malaysia và cũng được coi là thánh đường lớn nhất Đông Nam Á hiện
nay) hay thánh đường quốc gia Putra Jaya (thủ đô hành chính mới) Hơn
nữa, kiến trúc Islam còn được thể hiện đậm nét ở những công trình Bảo tàng
quốc gia (Muzium Negara) hay nhà ga xe lửa Kuala Lumpur
Về nghệ thuật sân khấu truyền thống, nghệ thuật sân khấu Malaysia
cũng giống với nghệ thuật sân khấu Việt Nam và các nước khác trong khu

21
vực Đông Nam Á là đều phát triển không ngừng từ thấp tới cao, từ chỗ chỉ
mang tính chất biểu diễn sân khấu đơn giản đến những hình thức trình diễn
tinh túy, có trình độ nghệ thuật cao. Các loại hình nghệ thuật nổi tiếng ở
Malaysia phải kể đến: Main – Puteri, vũ kịch Mak – Yong hay Wayangkulit
(Rối bóng) nhạc kịch Bangsawan. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là, đối với
người Melayu thì biểu diễn sân khấu không chỉ là mua vui, giải trí mà còn
gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần của họ. Tất cả các loại hình sân khấu
truyền thống Malaysia đều có phần mở đầu (Buka panggung) và phần kết
thúc (Tutup panggung) bằng các nghi lễ tôn giáo. Sau này, khi Islam ngự trị
trong xã hội Malay thì trong các tiết mục biểu diễn còn xuất hiện thêm phần
cầu nguyện đức thánh Allah và đọc Kinh Coran nữa.
Về văn học, văn học dân gian Melayu có nhiều loại như: truyện giải
buồn, truyện giáo huấn, truyện khôi hài, thần thoại và truyền thuyết Thơ

dân gian Melayu cũng rất phong phú, đặc biệt là thể thơ Patun. Patun nổi bật
bởi hình thức và nội dung đặc biệt mà chỉ người Melayu có được.
Văn học cổ điển Malay đến thế kỉ XIV phát triển trên nền tảng văn
học dân gian và sự tiếp thu văn học Ấn Độ và Jawa. Các sáng tác thời kì này
bám theo thuyết luân hồi vì vậy bố cục thường gồm hai phần: Cuộc đời
trước của các nhân vật ở trên trời và cuộc sống của nhân vật ở trần gian.
Islam vào thế giới Malay đã mang đến cho cộng đồng này nhiều yếu
tố văn hóa mới. Sự xuất hiện của chữ viết Jawi đã góp phần tích cực làm cho
văn học viết Malay ra đời và phát triển. Vào thế kỉ XV-XVI, văn học Malay
mang tư tưởng Islam đặc biệt lớn mạnh. Đối với người Malay, văn học được
hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả lịch sử, tôn giáo, đạo đức (giáo huấn), luật
tục, phong tục, truyện thơ, v.v. Các thể loại của văn học Malay vô cùng
phong phú, đa dạng, trong đó nổi bật nhất là Syair (thơ) và Hikayat. Hikayat
bắt nguồn từ Hikaya của Arập, là thể loại văn học viết đầu tiên của người

×