1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ NGỌC
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC
THỰC HIỆN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CẤP XÃ TẠI TỈNH NAM ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
HÀ NỘI - 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ NGỌC
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC
THỰC HIỆN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
CẤP XÃ TẠI TỈNH NAM ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 27
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lại Quốc Khánh
HÀ NỘI - 2012
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn của TS. Lại Quốc Khánh. Các số liệu, tài liệu
trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài liệu
tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 05 tháng 5 năm 2012.
Tác giả
Trần Thị Ngọc
4
Muc Luc
MỞ ĐẦU 3
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ 10
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vai trò của cán bộ trong sự
nghiệp cách mạng 10
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về cán bộ 10
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của cán bộ trong sự nghiệp
cách mạng 17
1.2. Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ 24
1.2.1. Đào tạo cán bộ là gì? 24
1.2.2. Tính tất yếu của đào tạo cán bộ 28
1.2.3. Mục tiêu đào tạo cán bộ 30
1.2.4. Nội dung đào tạo cán bộ 34
1.2.5. Hình thức đào tạo cán bộ 47
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO CÁN
BỘ VÀO VIỆC THỰC HIỆN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TẠI TỈNH NAM ĐỊNH 55
2.1.Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã ở
tỉnh Nam Định 55
2.1.1. Khái quát tình hình chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội tỉnh Nam Định 55
2.1.2. Thực trạng số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
của tỉnh Nam Định 61
2.1.3. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã của tỉnh Nam Định 80
2.2. Giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại tỉnh Nam Định theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. 94
PHẦN KẾT LUẬN 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
5
QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CB, CC: Cán bộ, công chức
UBND: Ủy Ban Nhân dân
HĐND: Hội đồng Nhân dân
QLNN: Quản lý Nhà nước
MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
BCH: Ban Chấp hành
ĐT, BD: Đào tạo, bồi dưỡng
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Sự khẳng định đó đã nói lên
vai trò quan trọng, to lớn của Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước
ta. Tư tưởng của Người còn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta, đồng thời là tài sản quý giá trong kho tàng văn hóa nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú,
trong đó vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề được Người quan tâm hàng
đầu trong sự nghiệp cách mạng. Người coi: “cán bộ là gốc của mọi công việc”,
“là dây chuyền của bộ máy” và là “tiền vốn của đoàn thể” do đó “muôn việc
thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Từ việc nhận thức sâu
sắc vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ trong xã hội nói chung cũng như trong sự
nghiệp cách mạng nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm có ý thức về việc
đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu trong
từng giai đoạn cách mạng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua
đã chứng minh vai trò của đội ngũ cán bộ - một lực lượng nòng cốt đã cùng với
nhân dân làm cuộc cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ thắng lợi, giải phóng đất nước, đem lại độc lập tự do cho dân tộc, hạnh
phúc cho nhân dân.
Sau gần ba mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã giành được nhiều thành tựu đáng kể. Song
bên cạnh những mặt tích cực do công cuộc đổi mới đem lại còn có những vấn
đề nổi cộm làm cho chúng ta phải băn khoăn lo lắng khi mà tình trạng tham
nhũng và suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương
chính sách của Đảng, gây bất bình và giảm lòng tin trong nhân dân.
7
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại
hóa, đẩy mạnh cải cách hành chính lên một bước mới, cơ bản, toàn diện và
rộng khắp, hội nhập toàn diện và sâu rộng vào khu vực và thế giới. Nhiệm vụ
rất nặng nề, khó khăn và phức tạp làm cho vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức vừa hồng, vừa chuyên, đủ sức gánh vác nhiệm vụ mà Đảng, Nhà
nước, nhân dân tin tưởng giao cho càng có ý nghĩa quan trọng.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung của đất nước, Nam
Định là một tỉnh đồng bằng ven biển, có vị trí địa chính trị quan trọng ở nam
đồng bằng sông Hồng. Theo Nghị quyết 54 - NQ/TW ngày 14 tháng 9 năm
2005 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc
phòng vùng đồng bằng sông Hồng, Nam Định đang phấn đấu trở thành một
trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa - du lịch của khu vực. Để thực hiện được
mục tiêu đó không thể không có vai trò của đội ngũ cán bộ trong đó có đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở (từ đây gọi tắt là cán bộ, công chức cấp xã). Cán
bộ, công chức (CB, CC) cấp xã đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi,
triển khai các chính sách của Đảng và Nhà nước đến với người dân; đồng thời,
nắm bắt thông tin từ thực tiễn để báo cáo, làm cơ sở quan trọng cho các quyết
định, chỉ đạo của cấp trên. Cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, là cơ quan
trực tiếp tổ chức thực hiện hầu hết các công tác ở cơ sở, do vậy, chất lượng của
đội ngũ cán bộ, công chức có ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin của nhân dân
với chính quyền, với chế độ. Thực tế cho thấy hiện nay, số lượng CB, CC xã
của tỉnh Nam Định hiện vẫn chưa đủ theo yêu cầu, trình độ chuyên môn chưa
đạt chuẩn theo quy định, chế độ đãi ngộ còn thấp. Đây là một trong những vấn
đề lớn mà Nam Định đang phải đối mặt trên con đường phát triển.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của CB, CC cấp xã, Hội nghị
lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã ban hành Nghị quyết
số 17/NQ-TW ngày 18/3/2002 về Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn. Sau khi có Nghị quyết, các cấp, các ngành
đã tổ chức quán triệt và ban hành nhiều văn bản để thực hiện như: Chính phủ
8
ban hành Nghị định 114/2003/NĐ - CP về Cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn và Nghị định 121/2003/NĐ - CP ngày 21/10/2003 về Chế độ, chính sách
đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Trên tinh thần đó, công tác đào tạo, bồi
dưỡng CB, CC cấp xã là một trong những công tác đang được hết sức quan tâm
hiện nay.
Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đào tạo cán bộ trong
Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như từ thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức các
cấp xã và công tác đào tạo đội ngũ CB, CC cấp xã tại tỉnh Nam Định, tác giả đã
chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc thực hiện công tác
đào tạo cán bộ, công chức cấp xã tại tỉnh Nam Định” với mong muốn đóng
góp một phần công sức giải quyết một trong những vấn đề quan trọng của tỉnh
nhà.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, vấn đề cán bộ đang có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng đối với
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Mảng đề tài này từ lâu đã được rất
nhiều tác giả tham gia nghiên cứu và viết bài. Có nhiều những bài viết được in
trên các báo, các tạp chí như tạp chí Lịch sử Đảng, tạp chí Cộng sản… và cũng
có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề cán bộ như:
- Võ Nguyên Giáp với công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường
cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997. Cuốn sách gồm
lời mở đầu, ba phần với mười chương, đã trình bày một cách có căn cứ khoa
học, toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản, về tư tưởng Hồ Chí Minh và con
dường cách mạng Việt Nam, làm rõ và có những đóng góp mới về quá trình
hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong chương V, tác giả có
bàn đến vấn đề Đảng cách mạng, vấn đề đảng viên, cán bộ, về phẩm chất và
tiêu chuẩn của người cán bộ, về công tác cán bộ.
- Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường
dân giàu nước mạnh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993 có đề cập đến vai
9
trò, vị trí của người cán bộ, những phẩm chất đạo đức của con người trong thời
đại mới trong đó có phẩm chất của người cán bộ.
- Đặng Xuân Kỳ với công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ,
chuyên đề khoa học cấp nhà nước KX.02. Tác giả đề cập đến vị trí, vai trò của
cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, vấn đề cán bộ, tư cách của người cán bộ,
những tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ và những vấn đề trong công tác cán bộ.
- Đức Vượng với công trình Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng
nhân tài, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010. Với 554 trang của cuốn sách,
tác giả đã trình bày một cách có hệ thống về quá trình đào tạo cán bộ của Chủ
tịch Hồ Chí Minh qua các giai đoạn cách mạng, phân tích những gương mặt
của những cán bộ lãnh đạo cách mạng đã được Người đào tạo trực tiếp hoặc
gián tiếp như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ,
Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc
Việt, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, v.v Cuốn sách cũng đã rút ra những
vấn đề then chốt nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đào tạo cán
bộ và trọng dụng nhân tài với tư tưởng lớn: "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc", "Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công
việc của chúng ta”
- Mạch Quang Thắng với công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, có đề cập đến tư
tưởng Hồ Chí Minh về tư cách cán bộ, đảng viên, hiểu và đánh giá đúng cán
bộ, đảng viên.
- Bùi Đình Phong với công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
công tác cán bộ, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2002, có đề cập đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ; vai trò, vị trí của cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp cách mạng và
sự vận dụng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm với công trình Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
10
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Tác
giả có đề cập đến vai trò của cán bộ, những yêu cầu về phẩm chất đạo đức và
năng lực của người cán bộ.
- Trịnh Gia Ban, Phạm Văn Trường, Tô Văn Gia với công trình Tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997 có đề cập đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về tiêu chuẩn cán bộ và công tác cán bộ.
- Nguyễn Thế Thắng với công trình Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện
nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010. Tác giả có đề cập đến phong cách
làm việc của cán bộ lãnh đạo quản lý, và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện
nay.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công
tác cán bộ, do Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức
gồm hàng trăm bài nghiên cứu, đề cập nhiều khía cạnh trong công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết đăng trên các
tạp chí, các đề tài đã được nghiệm thu, các luận án tiến sĩ, thạc sĩ về vấn đề này.
Hầu hết các công trình nghiên cứu của các tác giả trên đều có giá trị mang tính
lý luận và có ý nghĩa thực tiễn cao, nội dung rộng, bao chứa nhiều lĩnh vực với
phạm vi khái quát cao và được đề tài tham khảo.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể và liên
quan trực tiếp đến đề tài tại cơ sở nên chưa thấy được đặc điểm, vai trò của cán
bộ công chức cấp xã tại tỉnh Nam Định cũng như chưa có sự vận dụng cụ thể
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ với trường hợp cụ thể này một cách
chuyên sâu. Vì vậy đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc thực hiện
công tác đào tạo cán bộ, công chức cấp xã tại tỉnh Nam Định” có thể và cần
thiết phải được đặt ra.
11
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ và vận dụng tư tưởng đó để
nhận diện và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại tỉnh Nam Định.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu nói trên, chúng tôi xác định những
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Hệ thống hoá và luận giải những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về đào tạo cán bộ.
- Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của tỉnh Nam Định từ góc nhìn tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại tỉnh Nam Định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đào cán bộ
- Thực trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã tại
tỉnh Nam Định trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn tập trung
nghiên cứu tư tưởng về đào tạo cán bộ thể hiện trong các tác phẩm của Hồ Chí
Minh đã được công bố trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập (12 tập), xuất bản lần
thứ 2, năm 2000.
- Việc nghiên cứu thực trạng và những vấn đề đặt ra trong công tác đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của tỉnh Nam Định được tiến
12
hành dựa trên những tài liệu chính thức được lưu trữ tại các cơ quan lưu trữ của
tỉnh Nam Định.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đề tài cũng trân trọng kế thừa những thành quả của
các nhà nghiên cứu đi trước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: lịch sử - lôgích,
phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, hệ thống - cấu trúc, so sánh, đối chiếu,
nghiên cứu văn bản
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hóa những quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về đào tạo cán bộ.
Luận văn cũng đã góp phần đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại tỉnh Nam Định; cung cấp thêm cơ sở khoa
học để xây dựng và hoàn thiện về các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Nam Định trong giai đoạn
tới, đặc biệt là giai đoạn 2010 - 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn bao gồm hai chương với sáu tiết:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ
Chương 2: Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ vào việc
thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tại tỉnh Nam
Định
13
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vai trò của cán bộ trong sự
nghiệp cách mạng
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về cán bộ
Trong suốt cuộc đời cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng vấn
đề cán bộ. Trong tư tưởng của Người, vấn đề cán bộ thực chất là một hệ vấn đề,
bao quát một cách rộng rãi nhiều vấn đề như định danh cán bộ, xác định vai trò
của cán bộ và công tác cán bộ, đào tạo và huấn luyện cán bộ, đánh giá và sử
dụng cán bộ, đãi ngộ cán bộ Các vấn đề trên có mối quan hệ với nhau, chẳng
hạn: trước khi nói đến vấn đề vì sao phải đào tạo cán bộ, nội dung đào tạo cán
bộ là gì, phương pháp đào tạo cán bộ như thế nào, thì cần phải làm rõ vai trò
của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng; và trước khi làm rõ vai trò của cán bộ
trong sự nghiệp cách mạng, thì cần phải định danh cho được cán bộ là gì. Đó là
lôgic tư tưởng và lôgic ấy thể hiện rất rõ ở Hồ Chí Minh.
Đối với vấn đề định danh cán bộ, Hồ Chí Minh đã có những quan niệm
độc đáo.
Phân tích các tác phẩm của Hồ Chí Minh, chúng tôi đã chọn lọc một số
luận điểm tiêu biểu, thể hiện rõ quan niệm của Người về cán bộ, cụ thể là:
- “Cán bộ là tướng của đoàn thể. Cán bộ làm đúng kế hoạch của đoàn thể,
có mưu trí, được quần chúng tin yêu kiên quyết, gan góc, giữ đúng kỷ luật, biết
làm cho dân chúng cùng đoàn thể sống chết mà không sợ nguy hiểm như thế
mới là tướng giỏi của đoàn thể. Như thế thì cách mạng nhất định chóng thành
công” [25, tr. 515].
“Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là
những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân
dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [28, tr.
54].
14
- “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng.
Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [28, tr. 269].
- “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể” [28, tr. 46].
Phân tích các luận điểm nói trên, có thể thấy rằng, trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, cán bộ được quan niệm là:
Thứ nhất, “cán bộ là tướng của đoàn thể”. Cán bộ là những người giữ
trọng trách nhất định trong một tổ chức, chẳng hạn trong hệ thống cơ quan
Đảng, cơ quan Nhà nước. Họ được trao quyền và có trách nhiệm xử lý công
việc trong phạm vi chức trách được giao. Họ phải là những người có ý thức tổ
chức kỷ luật, có trí tuệ và năng lực, có bản lĩnh và quyết tâm, có năng lực vận
động và tổ chức quần chúng, được quần chúng tín nhiệm và và một lòng đi
theo. Cán bộ giỏi là điều kiện có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của
sự nghiệp cách mạng.
Thứ hai, “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dùng quan điểm hệ thống cấu trúc chức năng để xem xét tổ chức và xã hội.
Với quan điểm như thế, cán bộ được coi là một khâu có vai trò rất quan trọng -
khâu liên kết các bộ phận của hệ thống. Các bộ phận có tốt đến mấy, động cơ
có khỏe đến mấy, nhưng nếu không có dây chuyền tốt thì cỗ máy vẫn không
thể vận hành được. Tính chất “dây chuyền” của cán bộ thể hiện trên hai phương
diện: Một mặt, cán bộ là những người đưa đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước vào trong quần chúng, trong xã hội, tổ chức quần chúng, tổ
chức xã hội thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật ấy; Mặt khác, cán bộ là
những người đem “tình hình của dân chúng” báo cáo cho Đảng và Nhà nước,
tức là nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nắm bắt tình hình đời sống
chính trị - xã hội, phản hồi trở lại Đảng và Nhà nước, trên cơ sở đó Đảng và
Nhà nước điều chỉnh đường lối, chính sách, pháp luật.
15
Thứ ba, “cán bộ là tiền vốn của đoàn thể”. Trong lý thuyết phát triển xã
hội hiện đại, con người được coi là một loại vốn, một loại “tư bản”. Có cả một
trường phái lý thuyết với nhiều đại biểu là các nhà kinh tế từng đoạt giải Nobel
nhờ đề xuất và luận giải một cách sâu sắc về “vốn con người”, “tư bản con
người”, về vai trò của nguồn lực đặc biệt này trong tổ chức doanh nghiệp cũng
như trong xã hội. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những
người sớm nhất sử dụng khái niệm “vốn con người”. Ngay từ những ngày đầu
của công cuộc kiến thiết đất nước sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công,
Hồ Chí Minh đã nêu lên quan niệm coi con người là một nguồn “vốn” bên cạnh
khoa học kỹ thuật và tiền bạc. Ở đây, chúng ta lại thấy Hồ Chí Minh nhấn
mạnh một loại vốn đặc biệt quan trọng của tổ chức, của Đảng và Nhà nước, và
của chính nhân dân: “vốn cán bộ”. Đã coi cán bộ là tiền vốn thì phải làm sao
cho tiền vốn ngày càng nhiều, ngày càng có giá trị - tức là phải coi trọng công
tác phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ; lại còn phải tính toán, sử dụng tiền
vốn một các hợp lý và có hiệu quả - tức là phải coi trọng công tác sử dụng cán
bộ. Với quan niệm như thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh vai trò
của cán bộ, mà còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của tổ chức trong công tác cán
bộ.
Thứ tư, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Một cách hợp logic, từ ba
quan niệm trên, chúng ta hoàn toàn hiểu được vì sao Hồ Chí Minh lại coi “cán
bộ là cái gốc của mọi công việc” và “công tác cán bộ là công tác gốc” của Đảng
và Nhà nước.
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh không đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh
vể cán bộ, song qua những luận điểm của Người về cán bộ, trong đó có mấy
luận điểm tiêu biểu mà chúng tôi đã dẫn ra ở trên, có thể thấy rằng, quan niệm
của Hồ Chí Minh về cán bộ có giá trị lý luận lý luận và thực tiễn to lớn trong
phân tích hiện thực, định hướng hoạt động nhận thức và thực tiễn về cán bộ.
Người không những chỉ ra cán bộ là ai (xét trên phương diện chức năng của họ
trong tổ chức và trong xã hội), mà còn chỉ ra họ cần có những năng lực gì
16
(thực) để xứng với tên gọi cán bộ (danh), và tổ chức cũng như xã hội cần phải
có thái độ, chính sách như thế nào đối với cán bộ.
Nếu so sánh với một số quan niệm về cán bộ đang được sử dụng hiện
nay, chúng ta sẽ càng thấy rõ hơn giá trị trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Theo từ điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là:
1. Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước
(như cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị).
2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người thường không có chức vụ [5, tr. 16].
Theo gốc trong tiếng Pháp và tiếng Anh từ cán bộ (Cadre) có hai nghĩa.
Một là cái khung, sườn và hai là lực lượng nòng cốt.
Theo từ điển Hành chính: “Cán bộ là người có đủ các điều kiện được
tuyển dụng vào làm việc ở các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, tổ chức lực lượng vũ
trang: trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, có trình độ
chuyên môn từ trung cấp trở lên. Từ cán bộ được sử dụng rộng rãi trong các
nước Xã hội chủ nghĩa trước đây (cán bộ, công nhân). Cán bộ công chức khi thi
hành nhiệm vụ, công vụ được pháp luật và nhân dân bảo vệ” [60, tr. 46].
Theo cách hiểu thông thường trong đời sống xã hội: Cán bộ được coi là
tất cả những người thoát ly, làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn
thể, quân đội, được hưởng lương hoặc phụ cấp.
Hiện nay, theo pháp luật hiện hành đồng thời tồn tại ba khái niệm “cán
bộ”. “công chức”, “viên chức”. Các “cán bộ”. “công chức”, “viên chức” mà
pháp luật nói chung và các văn bản luật hành chính nói riêng điều chỉnh, không
chỉ làm việc trong bộ máy nhà nước, mà cả trong các cơ quan của các tổ chức
xã hội (bao gồm cả tổ chức chính trị - Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp). Đây là một nét đặc thù xuất phát từ chế độ chính trị
của nước ta.
17
Ngày 20/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 76/SL ban
hành quy chế công chức Việt Nam. Theo Sắc lệnh này “những công dân Việt
Nam được chính quyền nhân dân tuyển, bổ nhiệm giữ một chức vụ thường
xuyên trong các cơ quan chính phủ, ở trong hay ngoài nước, đều là công chức”.
Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh, đặc biệt từ năm 1954, Nhà nước ta thực hiện
chế độ cán bộ nên Sắc lệnh này hầu như không được áp dụng, dù không bị văn
bản pháp luật nào bãi bỏ. Trong các văn bản pháp lý thời kỳ đó, thuật ngữ được
sử dụng là “cán bộ, viên chức” - những người trong biên chế, làm việc trong
các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương, trong các cơ quan Đảng,
tổ chức chính trị - xã hội, trong các doanh nghiệp nhà nước và lực lượng vũ
trang nhân dân. Cán bộ, viên chức được hình thành từ nhiều nguồn phong phú
như từ bầu cử, tuyển dụng, đề bạt, phân công khi tốt nghiệp các cấp học, bậc
học, nhưng do không làm rõ được đặc điểm nghề nghiệp, tính chất công việc,
trình độ chuyên môn nên không có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, bố trí công
tác, đánh giá và các chế độ khác cho cán bộ, viên chức.
Đến ngày 25/5/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số
169/HĐBT về công chức Nhà nước. Nghị định chỉ ra công chức nhà nước là
công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường
xuyên trong một công sở của nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở trong
nước hay ngoài nước, được xếp vào một ngạch, hưởng lương từ ngân sách nhà
nước cấp. Khái niệm này dù đã rộng hơn Sắc lệnh 76/SL, song vẫn bị đánh giá
là chưa bao hàm hết phạm vi đối tượng công chức. Văn bản điều chỉnh về cán
bộ, công chức nhà nước cần tiếp tục điều chỉnh.
Ngày 24/9/2003, Pháp lệnh Cán bộ, công chức 1998 được sửa đổi, bổ
sung. Điều 1 Pháp lệnh này không đưa ra định nghĩa riêng cho từng khái niệm
“cán bộ”, “công chức”, mà liệt kê tất cả những người là công dân Việt Nam
trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự
nghiệp, làm việc trong toàn hệ thống chính trị là cán bộ, công chức. Pháp lệnh
này lần đầu tiên quy định về cán bộ công chức cấp xã. Pháp lệnh này cũng là cơ
18
sở quan trọng tách viên chức sự nghiệp với công chức hành chính, nhưng
dường như coi công chức bao hàm cả viên chức.
Căn cứ Pháp lệnh năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều Pháp lệnh cán
bộ, công chức năm 1998, ngày 10/10/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 117/2003/NĐ - CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức
trong các cơ quan nhà nước. Nghị định chỉ rõ hơn cơ quan nơi người công chức
làm việc, nhưng các văn bản này chưa đưa ra được căn cứ để phân biệt được rõ
đâu là công chức và đâu là cán bộ.
Trước đòi hỏi của tình hình mới là đã đến lúc cần một văn bản pháp luật
cao hơn, điều chỉnh khái quát và toàn diện hơn các vấn đề liên quan đến cán bộ,
công chức. Tại kỳ họp thứ 4, ngày 13/11/2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua
Luật cán bộ, công chức. Lần đầu tiên, Luật cán bộ, công chức năm 2008, đưa ra
khái niệm rõ ràng, phân biệt cán bộ, công chức, cán bộ cấp xã, công chức cấp
xã. Điều 4, Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định như sau:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bô máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp
công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công
19
chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) gọi
chung là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ lãnh đạo theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư
Đảng uỷ, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công
dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ
thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước.
Theo các quy định trên thì cán bộ, công chức có đặc điểm chung: là công
dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, mỗi cán
bộ, công chức có phương thức riêng để được vào làm việc trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp trung
ương, tỉnh, huyện, xã, trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của các đơn vị sự nghiệp
công lập.
Như vậy, mặc dù đến nay đã có nhiều cách định danh mới, song quan
niệm của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị, đơn giản, dễ hiểu, chỉ rõ chức
năng của con người trong hệ thống.
Từ quan niệm của HCM, tiếp thu các quan niệm mới về cán bộ, công
chức, có thể định nghĩa cán bộ công chức nhà nước được hiểu như sau: Cán bộ
Nhà nước là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước ở các cấp, trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Công chức nhà nước là công dân Việt
Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,chức danh trong cơ quan
nhà nước ở các cấp, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn,
vị trí công tác trong các cơ quan Nhà nước, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.
20
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của cán bộ trong sự
nghiệp cách mạng
1.1.2.1. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về vai trò của cán bộ
- Tiếp cận từ vai trò của quần chúng nhân dân đối với cách mạng
Quần chúng nhân dân có sức mạnh vô địch, quyết định thành công của
cách mạng. Nhưng sức mạnh ấy chỉ được phát huy đầy đủ khi có người tổ
chức, có người lãnh đạo. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Hồ
Chí Minh khẳng định đó là sự nghiệp của “dân chúng số đông, chứ không phải
là công việc của một hai người” [21, tr. 261-262]. Vì vậy, cách mạng muốn
thắng lợi thì phải phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Sức mạnh của nhân dân chỉ mang tính vật chất khi đó là một khối cộng
đồng đoàn kết thành một khối, với tính cách là một cộng đồng chung một ý chí,
một quyết tâm. Hồ Chí Minh đã nói: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy,
khó khăn mấy cũng làm được, không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân
chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản mau chóng, đầy đủ mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra. Như vậy, “mọi
việc đều do lực lượng nhân dân thực hiện. Nếu nhân dân không ra tay, không
có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy cũng không làm xong” [29, tr.
292]. Nhà nước muốn làm bất cứ việc gì đều phải dựa vào sức dân thông qua
việc huy động nhân tài, vật lực của dân. Không ai có thể làm thay quần chúng,
dù đó là Đảng hay Nhà nước. Nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước là: ra sức tổ
chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phóng nhân dân.
Song, Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò, sức mạnh của quần chúng
nhân dân chỉ được phát huy khi có sự lãnh đạo của Đảng. Năm 1932 trước khi
rời Pháp sang Nga, Hồ Chí Minh nói rõ: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở
về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện
họ, đưa họ ra đấu tranh giành độc lập tự do” [25, tr. 192].
Sau này Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Lực lượng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy
21
cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi” [32, tr. 290]. Như vậy, qua việc
khẳng định sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ được phát huy đầy đủ khi có
người tổ chức, lãnh đạo và cũng chính là người trực tiếp làm công tác ấy, Hồ
CHí Minh đã khẳng định vai trò cực kỳ to lớn của cán bộ. Cách tiếp cận của Hồ
Chí Minh là rất độc đáo, nhấn mạnh vai trò đánh giá nhân dân để nhấn mạnh
vai trò của cán bộ, giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách
mạng được.
- Tiếp cận từ vai trò của Đảng và Nhà nước đối với cách mạng.
Đảng và Nhà nước là những đại diện của nhân dân, có nhiệm vụ giác
ngộ và tổ chức nhân dân. Trong cuốn Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh viết:
“Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” [26, tr. 267- 268]. Hồ Chí
Minh cho rằng: “Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng
lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương trâm cho đúng Vì
vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật
mạnh, đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền. Cách mạng thắng lợi rồi, quần
chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo” [30, tr. 228-229].
Nhưng Đảng cũng như Nhà nước không phải là cỗ máy vô tri mà là tổ
chức của những con người. Đảng và Nhà nước có vững mạnh hay không, có
hoàn thành được nhiệm vụ lãnh đạo hay tổ chức hay không, điều đó bị quyết
định bởi đội ngũ cán bộ Đảng, cán bộ Nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta
không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Đối tượng
lãnh đạo của Đảng là toàn thể nhân dân, nhằm đem lại độc lập, tự do, ấm no,
hạnh phúc mà trước hết là nhân dân lao động. Nhưng muốn lãnh đạo được nhân
dân lao động, trước hết Đảng phải có tư cách, phẩm chất, năng lực cần thiết. Vì
“quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức” và “chỉ trong đấu
tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách
22
đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh
đạo” [27, tr.139]. Thực tế là, mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ
đều do cán bộ nghiên cứu, đề xuất, đồng thời cũng do cán bộ tổ chức, hướng
dẫn nhân dân thực hiện. Đường lối của Đảng đúng hay sai, tổ chức thực hiện
thành hay không đều phụ thuộc vào cán bộ. Động lực của mọi cuộc cách mạng
là quần chúng nhân dân, mà hạt nhân chủ yếu của nó là lực lượng cán bộ.
Người cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm của Đảng đối với công tác đào tạo, bồi
dưỡng, huấn luyện cán bộ: chăm sóc, nuôi dạy cán bộ là việc làm hệ trọng, phải
rất công phu, chu đáo, tỉ mỉ, cũng giống như người làm vườn chăm sóc, vun
trồng những cây cối quý báu, cần mẫn, tâm huyết mới có hoa thơm, quả ngọt.
Vì vậy, Đảng cần phải biết coi trọng, giữ gìn cán bộ cũ, và tích cực đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ mới, trọng dụng nhân tài, trọng dụng cán bộ.
Nhấn mạnh vai trò của Đảng và Nhà nước để đi đến nhấn mạnh vai trò
của cán bộ, đây cũng là cách tiếp cận độc đáo của Hồ Chí Minh.
1.1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của cán bộ
- Cán bộ là người xây dựng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Muốn cho đường lối đúng, pháp luật phù hợp với thực tiễn của cuộc sống
đòi hỏi cán bộ phải là những người có phẩm chất đạo đức trung thực, có kiến
thức khoa học phải sát với thực tiễn cuộc sống của xã hội. Việt Nam là một
nước trải qua đấu tranh giành độc lập dân tộc đi lên Chủ nghĩa xã hội, do vậy
đòi hỏi một sự sáng tạo lớn khi vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra con
đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của đất nước.
Do đó, nếu “cán bộ dở” thì một mặt chính sách không thể thực hiện
được, mặt khác việc hoạch định, xây dựng chính sách mới sẽ sai lầm hoặc
không phù hợp. Do đó đòi hỏi cán bộ phải đi sâu, đi sát quần chúng, nắm được
tâm tư nguyện vọng của họ. Hồ Chí Minh đã viết: “Mỗi công việc của Đảng
phải giữ nguyên tắc và phải liên hiệp chặt chẽ với dân chúng” [28, tr. 249] và
“khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và
kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương”
23
- Cán bộ là người đưa đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào
trong cuộc sống. Muốn để người dân tiếp nhận những đường lối của Đảng cũng
như chính sách pháp luật của Nhà nước, đòi hỏi người cán bộ phải có phẩm
chất đạo đức để sao cho dân tin, dân mến, dân làm theo. Nếu dân không tin thì
cán bộ không thể tiếp cận được với dân để tìm hiểu về dân. Muốn dân hiểu, dân
làm thì người tuyên truyền phải biết cách tuyên truyền, do đó người cán bộ
tuyên truyền phải hiểu đường lối đó một cách thấu đấu, phải có tài trong tuyên
truyền, thuyết phục quần chúng một cách có lý, có tình, làm cho họ hiểu rõ “thì
việc gì khó mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ” [28, tr.
241].
- Cán bộ là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước và là người bày cách cho dân làm. Cán bộ không chỉ là người tổ
chức thực hiện đường lối cho nhân dân trong thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền mà ngay cả trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội vì: đấu tranh
giành chính quyền đã khó nhưng xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa trên
các lĩnh vực lại càng khó khăn hơn. Quá trình xây dựng xã hội mới là một quá
trình khó khăn, phức tạp, lâu dài gian khổ, bởi: Việt Nam từ một nước sản xuất
nhỏ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa lại càng khó
khăn hơn các nước khác, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, năng suất lao
động thấp, trình độ dân trí còn hạn chế. Vì vậy, trong các lĩnh vực xây dựng
chính quyền, kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có năng lực để đảm
nhiệm được những nhiệm vụ cách mạng. Do đó, cán bộ phải thực sự “nhúng
tay” vào việc, phải cùng với nhân dân bàn bạc và tìm cách giải quyết có hiệu
quả nhất “việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng và giải thích cho dân chúng”
[28, tr. 295].
- Cán bộ là người tổng kết thực tiễn, từ thực tiễn cuộc sống phải tiếp tục
bổ sung lý luận và phát triển lý luận, vì thực tiễn thay đổi nhanh hơn so với lý
luận cũng như thực tiễn rất phong phú và phức tạp, do đó đòi hỏi cán bộ không
chỉ có phẩm chất tốt mà còn phải có năng lực, trình độ cao để đáp ứng yêu cầu,
24
nhiệm vụ của công việc, để có thể bổ sung và hoàn thiện đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Do đó, nói đến cán bộ là nói đến “tiền vốn của Đoàn thể” [29, tr. 295].
Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì sẽ
thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì sẽ hỏng việc, tức là lỗ vốn. Vì
vậy, để thực hiện được những nhiệm vụ nặng nề của cách mạng, chúng ta cần
có một đội ngũ cán bộ biết “Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên
trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình, hết lòng, hết sức phục vụ nhân
dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công
việc” [32, tr. 285]. Như vậy, khi bàn đến vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh đã
không đề cập cán bộ một cách chung chung, mà Người đã sử dụng cán bộ “có
tính từ”. Đó là “cán bộ tốt”. “cán bộ kém”, “cán bộ dở”. Mà “muôn việc thành
công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Nói cụ thể, có cán bộ tốt thì
mọi việc mới thành công.
Khẳng định vai trò của người cán bộ cần phải hiểu rằng không phải đã là
cán bộ thì chỉ có tính tốt. Mà cán bộ cũng là người, ai cũng có tính tốt và tính
xấu. Song đã là người cán bộ cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính
tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì “tính xấu của một người thường chỉ có hại cho
người đó, còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, có
hại đến nhân dân” [28, tr. 254].
- Nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, song Người
không cho rằng “cán bộ quyết định tất cả” mà “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào.
Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng
cách mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu dưới lá cờ tất
thắng của Chủ nghĩa Mác - Lênin” [33, tr. 197]. Do đó, Người luôn đề cao vai
trò của quần chúng nhân dân và đặt người cán bộ trong mối quan hệ với nhân
dân “dân như nước. Cán bộ như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết”.
Người khẳng định “nước lấy dân làm gốc” còn “cán bộ quyết định mọi việc”
25
[29, tr. 480]. Sự “quyết định” ở đây là cán bộ phải đi trước, làm gương về tư
tưởng đạo đức, thái độ, lề lối làm việc. Muốn phát huy được đầy đủ tính sáng
tạo của hàng triệu quần chúng nhân dân xây dựng Chủ nghĩa xã hội, vì Chủ
nghĩa xã hội có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo
của hàng chục triệu người, thì cán bộ phải đi trước, tự cải tạo mình, tự nâng cao
mình. Cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản vững chắc, giác ngộ về Chủ
nghĩa xã hội cao; phải rửa sạch ảnh hưởng của những tư tưởng của giai cấp bóc
lột, rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện tinh thần và ý thức tập thể.
Không chỉ nêu ra các quan điểm về vai trò của cán bộ, trong thực tế Hồ
Chí Minh luôn coi trọng vấn đề phát hiện, đào tạo, sử dụng cán bộ, luôn thực
sự coi công tác cán bộ là công tác gốc. Nghiên cứu thực tiễn Hồ Chí Minh tiến
hành công tác cán bộ sẽ giúp hiểu rõ hơn tư tưởng của Người về vấn đề này.
Ngay từ năm 1911 trên đường từ Trung Kỳ vào Sài Gòn để chuẩn bị ra đi
tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã dừng chân tại Phan Thiết một thời
gian để dạy học, thực chất là để chuẩn bị đào tạo một lớp cán bộ tương lai. Tinh
thần dạy học của thầy giáo Nguyễn Tất Thành thật đáng quý khi thầy truyền
cảm cho học sinh những vần thơ ca yêu nước, thương nòi gợi mở tình yêu quê
hương và những con người lao động. Thầy đã bắt đầu đào tạo con người với ý
thức và lòng mong mỏi sau này những con người đó sẽ gánh vác những công
việc chung của đất nước. Chính vì vậy, thầy không chỉ truyền thụ cho học sinh
những kiến thức văn hóa, mà còn giáo dục cho lớp người kế tiếp một tinh thần
yêu nước, thương nòi.
Trong thời gian Người ở Luân Đôn, thủ đô nước Anh từ năm 1914 đến
năm 1917, Người đã gặp gỡ một số người Việt Nam tại Anh lúc đó để tuyên
truyền tinh thần yêu nước và cứu nước Việt Nam.
Từ năm 1917 đến năm 1923, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Pari, thủ đô
nước Pháp. Thời gian này, Người gặp gỡ những người lao động Việt Nam trên
đất Pháp và những người lao động của nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc lúc
ấy đang ở Pháp, tuyên truyền, giác ngộ về vấn đề giải phóng dân tộc, giành độc