Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Ngoại giao kinh tế trong thực tiễn quan hệ quốc tế và Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.2 KB, 116 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
o0o




Nguyễn Thị Huyền Trang








NGOẠI GIAO KINH TẾ TRONG THỰC TIỄN
QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ VIỆT NAM








LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế












Hà Nội - 2011

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



Nguyễn Thị Huyền Trang





NGOẠI GIAO KINH TẾ TRONG THỰC TIỄN
QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ VIỆT NAM






Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 60 31 40






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THÀNH NAM









Hà Nội - 2011

3

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thày, cô giáo
trong và ngoài Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã
truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu và môi trường học tập học tập tốt
trong suốt quá trình học tập tại Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Thành Nam, Khoa Quốc tế

học, Trường ĐHKHXH&NV Hà Nội. Thầy đã dành cho tôi sự hướng dẫn tận
tình và tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi có được những định hướng quan trọng
để hoàn thành luận văn này.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Khoa Quốc tế
học, các cán bộ Thư viện trường ĐHKHXH&NV Hà Nội, Học viện Ngoại
giao, những người bạn đồng học, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè, những
người đã giúp đỡ, chia sẻ và tạo những điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá
trình nghiên cứu, học tập và thực hiện luận văn này.
Hà Nội, 25 tháng 11 năm 2011

Nguyễn Thị Huyền Trang

4

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGOẠI GIAO KINH TẾ 11
1.1. Khái niệm ngoại giao kinh tế 11
1.1.1. Quan niệm của thế giới 11
1.1.2. Quan niệm của Việt Nam 18
1.2. Ngoại giao kinh tế và các nhiệm vụ khác của ngoại giao 27
1.2.1. Mối quan hệ giữa ngoại giao và kinh tế 27
1.2.2. Mối quan hệ giữa ngoại giao kinh tế và các nhiệm vụ khác của ngoại
giao 30
1.3. Chủ thể thực hiện công tác NGKT 31
1.3.1. Chủ thể quốc gia 33
1.3.2. Chủ thể phi quốc gia 38
1.4. Các cấp độ của NGKT 40
Chương II: CÁC PHƯƠNG DIỆN CỦA NGOẠI GIAO KINH TẾ TRONG
QUAN HỆ QUỐC TẾ 43

2.1. NGKT là việc sử dụng kinh tế như công cụ để cạnh tranh và hợp tác trong
quan hệ quốc tế 43
2.1.1. Vai trò sức mạnh kinh tế 43
2.1.2. Sử dụng kinh tế như công cụ để hợp tác trong quan hệ quốc tế 47
2.1.3. Sử dụng kinh tế như công cụ để cạnh tranh trong quan hệ quốc tế 55
2.2. NGKT là ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế 58
2.2.1. Vai trò của công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế 58
2.2.2. Kinh nghiệm các quốc gia trên thế giới 62
Chương III: THỰC TIỄN CÔNG TÁC NGOẠI GIAO KINH TẾ CỦA VIỆT
NAM 70
3.1. Nhiệm vụ cơ bản của công tác NGKT 71
3.1.1. Yêu cầu thực tiễn 71
3.1.2. Những nhiệm vụ chung 74
3.2. Cơ sở pháp lý công tác NGKT 78
3.3. Thực tiễn triển khai công tác NGKT 86
3.3.1. Những thành tựu 87
3.3.2. Những hạn chế, thách thức 100
3.3.3. Một số kiến nghị 104
C. PHẦN KẾT LUẬN 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO 111

5

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADB
Asian Development Bank
Ngân hàng phát triển Châu Á
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do Asean

APEC
Asia-Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác Châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN
Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEM
Asia-Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á – Âu
BTA
Bilateral Trade Agreement
Hiệp định thương mại song phương
CQĐD
Cơ quan đại diện
EPA
Economic Partnership Agreement
Hiệp định đối tác kinh tế
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
IMF
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ Quốc tế
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA
Free Trade Agreement
Hiệp định thương mại tự do
IPAP

Investment Promotion Action Plan
Kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư
LHQ
Liên Hiệp Quốc
MNCs
Multinational Corporations
Công ty đa quốc gia

6

NAFTA
North American Free Trade Agreement
Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ
NGKT
Ngoại giao kinh tế
NGOs
Non-Governmental Organizations
Các tổ chức phi chính phủ
NIC
Newly Industrialized Country
Nước công nghiệp mới
ODA
Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD
Organisation for Economic Co-operation and
Development
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
PNTR
Permanent Normal Trade Relations

Quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn
SCO
Shanghai Cooperation Organisation
Tổ chức hợp tác Thượng Hải
TFAP
Trade Facilitation Action Plan
Kế hoạch hành động thuận lợi hóa thương mại
UNDP
United Nations Development Programme
Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới


7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI cùng với việc chiến tranh lạnh chấm dứt,
quan hệ quốc tế đã chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu
hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn
định, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia.
Cùng với đó, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát
triển sâu rộng với tốc độ chưa từng có, khoa học - công nghệ tiến bộ vượt bậc, làm
thay đổi sâu sắc kinh tế thế giới nói riêng và đời sống quốc tế nói chung. Kinh tế
được ưu tiên phát triển và trở thành một trong những chủ đề chính trong quan hệ

quốc tế hiện nay.
Trước bối cảnh đó, hầu hết các quốc gia đều sớm điều chỉnh lại chính sách đối
ngoại của nước mình để thích ứng với tình hình mới, trên cơ sở đó thì ngoại giao
kinh tế ngày càng khẳng định vai trò nổi bật của mình. Nền ngoại giao của nhiều
nước đã chuyển mạnh mẽ theo hướng này. Ở Mỹ, các mối quan tâm về kinh tế đã
trở thành ưu tiên hàng đầu trong nền ngoại giao nước này ngay từ đầu thập niên
1990. Các nhà ngoại giao của nhiều nước công khai khẳng định nhiệm vụ chủ chốt
của họ là tìm kiếm những lợi ích thương mại ở quốc gia sở tại.
Ở Việt Nam, NGKT không phải vấn đề mới. Đặc biệt trong các năm gần đây,
NGKT luôn được coi là một bộ phận quan trọng của ngoại giao nói chung và ngoại
giao Việt Nam nói riêng. Ngành ngoại giao đã xem trọng tâm phát triển kinh tế là
công tác hàng đầu của hoạt động đối ngoại. Không chỉ riêng Bộ Ngoại giao mà tất
cả bộ ngành đều phải tăng cường quan hệ kinh tế để tạo nguồn lực phát triển đất
nước. NGKT được đánh giá là một trong ba trụ cột của hoạt động ngoại giao. Năm
2007, triển khai Chương trình hành động của Bộ Ngoại thực hiện nghị quyết Đại
hội Đảng X, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao đã yêu cầu toàn thể các bộ nhân viên các
đơn vị trong nước của Bộ Ngoại Giao và các cơ quan Đại diện Việt Nam ở nước
ngoài đặt trọng tâm hoạt động của năm 2007 là “năm Ngoại giao kinh tế”, tận dụng

8

những cơ hội lớn của dân tộc hiện nay, vượt qua mọi thách thức, đẩy mạnh các hoạt
động ngoại giao phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Với tầm quan trọng như vậy, NGKT đã và đang là vấn đề được rất nhiều cơ
quan chức năng và học giả quan tâm. Tuy nhiên, quan niệm, hình thức và phương
thức thực hiện NGKT lại không giống nhau ở các quốc gia cũng như ở các thời kỳ
khác nhau. Việt Nam thường quan niệm về NGKT là ngoại giao phục vụ phát triển
kinh tế. Còn với một số nước phát triển lại quan niệm NGKT là việc sử dụng kinh tế
như công cụ để đạt những mục tiêu chính trị và quân sự, bên cạnh việc coi kinh tế
như đối tượng của hoạt động ngoại giao. Chính vì vậy, luận văn mong muốn đưa ra

một cái nhìn đầy đủ hơn về nội hàm cũng như thực tiễn của khái niệm NGKT, xem
xét NGKT ở cả hai phương diện “kinh tế là đối tượng” và “kinh tế là công cụ” của
chính sách đối ngoại quốc gia trong quan hệ quốc tế.
2. Mục tiêu của đề tài
Luận văn tập trung phân tích làm sáng tỏ nội hàm khái niệm NGKT.
Phân tích trọng tâm của công tác ngoại giao kinh tế tại các quốc gia phát triển
và quốc gia đang phát triển.
Làm rõ vai trò của hoạt động NGKT đối với sự phát triển kinh tế của Việt
Nam và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của NGKT phục vụ tốt
hơn cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về ngoại giao kinh tế
của các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Nga… Ví dụ sách về Economic
Diplomacy, Trade and Commercial Policy: Positive and Negative Sanctions in a
New World Order năm 2002 của hai tác giả Peter A. G. Van Bergeijk; Diplomacy:
Theory & Practice của tác giả Berridge G. R, tái bản lần thứ 3 năm 2002 tại
London… Các công trình nói trên tập trung phân tích thuần túy các hoạt động ngoại
giao trong từng lĩnh vực cụ thể, nhưng trong nhiều trường hợp, thiếu sự gắn kết với
các vấn đề chính trị.

9

Ở Việt Nam, cho đến nay có không ít sách báo, bài phát biểu, hội nghị, hội
thảo bàn về nội dung ngoại giao kinh tế. Tuy nhiên, các bài báo đăng trên các tạp
chí và các báo cáo chuyên đề chủ yếu tổng kết những thành tựu Việt Nam đạt được
trên một số lĩnh vực cụ thể chứ chưa mang tính tổng thể, khái quát về NGKT.
Về lĩnh vực ngoại giao kinh tế, cho đến nay có luận văn cao học của Đoàn Thu
Ngân: “Ngoại giao kinh tế: lý luận và thực tiễn”, tập trung nêu, phân tích hoạt động
NGKT của các nước và Việt Nam trên hai diễn đàn: song phương và đa phương.
Đồng thời luận văn cũng đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động NGKT ở nước ta. Luận văn cao học của Lê Minh Tuấn: “Ngoại giao phục vụ
phát triển kinh tế những năm đầu thế kỷ XIX ở Việt Nam” làm rõ vai trò to lớn của
Ngoại giao trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Luận văn cao
học của Phan Lộc Kim Phúc: “Vai trò của ngoại giao đối với sự phát triển kinh tế
của Việt Nam trong quá trình hội nhập” góp phần làm sáng tỏ hơn vai trò của hoạt
động ngoại giao đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam sau khi Việt Nam thực
hiện chính sách đổi mới. Sổ tay công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế - Vụ
Tổng hợp kinh tế: Tài liệu chủ yếu hướng dẫn những kỹ năng, công việc cụ thể cần
phải làm cho cán bộ khi công tác tại các cơ quan đại diện ở nước ngoài.
4. Đối tượng nghiên cứu
- Mối quan hệ giữa Ngoại giao kinh tế và các nhiệm vụ khác của Ngoại giao
- Chủ thể Ngoại giao kinh tế
- Các phương diện của Ngoại giao kinh tế
- Yêu cầu, thực tiễn triển khai công tác Ngoại giao kinh tế
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích các đặc trưng công tác NGKT tại các quốc gia
đang phát triển, phát triển và thực tiễn tại Việt Nam.
Về mặt thời gian, tại Việt Nam luận văn đặt trọng tâm phân tích vai trò của
NGKT chủ yếu giai đoạn sau khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới.

10

6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các phương
pháp so sánh, đối chiếu; phân tích định tính, định lượng; phân tích tổng hợp… để
thể hiện các đánh giá, phân tích và luận điểm.
7. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Luận văn phân tích một cách hệ thống các phương diện của ngoại giao kinh
tế, đặc biệt là tầm quan trọng của công tác ngoại giao kinh tế trong quan hệ quốc tế

và Việt Nam. Trên cơ sở lý luận, thực tiển triển khai trong quan hệ quốc tế và Việt
Nam, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao
kinh tế trong giai đoạn tới. Với những nội dung trên, hy vọng rằng luận văn khi
hoàn thành sẽ hữu ích cho công tác nghiên cứu về ngoại giao kinh tế.
Do nguồn tài liệu liên quan đến đề tài luận văn có hạn, quỹ thời gian không
nhiều và kiến thức, kinh nghiệm của người viết còn hạn chế nên luận văn chắc chắn
không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến bổ sung, đóng góp của các
thày cô và các bạn.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về Ngoại giao kinh tế
Chương 2: Các phương diện của Ngoại giao kinh tế trong quan hệ quốc tế
Chương 3: Thực tiễn công tác Ngoại giao kinh tế của Việt Nam

11

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGOẠI GIAO KINH TẾ
1.1. Khái niệm ngoại giao kinh tế
1.1.1. Quan niệm của thế giới
a, Khái niệm về ngoại giao
Khái niệm ngoại giao đã xuất hiện từ rất lâu và cũng đã có rất nhiều định
nghĩa khác nhau về khái niệm này. Có nguồn gốc từ tiếng Ai Cập cổ “Diplomacy –
Ngoại giao”, ban đầu được hiểu là một dạng giấy phép đi lại do Hoàng Tử hoặc nhà
Vua cấp tương tự giấy thông hành hiện nay. Theo thời gian, với sự thay đổi cơ cấu
chính trị cùng với sự vận động của phương thức sản xuất, khái niệm ngoại giao
cũng dần phát triển và cùng với đó là yêu cầu mở rộng hơn bản chất cũng như
nhiệm vụ của ngoại giao. Trên thế giới đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau dành
cho khái niệm này. Theo từ điển Oxford 1965: “Ngoại giao là việc tiến hành những
quan hệ quốc tế bằng cách đàm phán, là phương pháp mà các đại sứ, công sứ…sử
dụng để điều chỉnh và tiến hành các quan hệ đó, là công tác hoặc nghệ thuật của

nhà ngoại giao”[34]. Còn khái niệm “ngoại giao” của từ điển bách khoa Britannica
Encyclopaedia được hiểu, không giới hạn chủ thể hoạt động ngoại giao, hình thức
ngoại giao và nhiệm vụ ngoại giao mà đó là việc gây ảnh hưởng đến quyết định và
hành vi của chính quyền nước ngoài thông qua đối thoại, đàm phán và các biện
pháp khác trừ chiến tranh hoặc bạo lực. Từ điển nổi tiếng của Pháp Le Nouveau
Petit Robert lại đưa ra định nghĩa: “Ngoại giao là hoạt động chính trị liên quan đến
các mối quan hệ giữa các quốc gia, đại diện quyền lợi của một chính phủ ở nước
ngoài, quản lý công việc quốc tế, hướng dẫn và tiến hành đàm phán giữa các quốc
gia”.
Như vậy, tuy có nhiều định nghĩa khác nhau và mỗi định nghĩa lại chú trọng
nêu bật những khía cạnh mà nó cho là chủ yếu và quan trọng nhất của khái niệm
ngoại giao, nhưng tựu chung lại có thể hiểu ngoại giao là công việc để thực hiện
nhiệm vụ chính trị đối ngoại của các quốc gia, là công cụ chính sách đối ngoại, là
nghệ thuật tiến hành đàm phán kí kết giữa các quốc gia, và là một trong những biện
pháp thực hiện lợi ích quốc gia thông qua quan hệ với các nước một cách hòa bình.

12

Cho đến nay, lịch sử ngoại giao thế giới đã diễn ra nhiều chuyển biến cách
mạng. Cục diện thế giới nói chung và những diễn biến trong quan hệ quốc tế đã có
những tác động sâu sắc, trực tiếp tới xu hướng ngoại giao của các quốc gia. Ở thời
sơ khai, bang giao giữa các nước dựa trên những thỏa thuận miệng, sự thuần phục
hay cống nạp, gửi con làm tin, vãn hồi hòa bình, duy trì giao hảo chủ yếu trên
thuyết khách. Ngoại giao sơ khai được phát hiện tại Ai Cập từ cuối thế kỷ XIV
trước công nguyên và mục đích chủ yếu ngoại giao thời kỳ này là nhằm chinh phục
và mở rộng lãnh thổ. Đến thời kỳ Trung Cổ, ngoại giao được đánh giá là đã phát
triển lên một bước cao hơn khi ngoại giao phần nào được chuyển từ ngoại giao
“chinh phạt” sang ngoại giao hòa bình. Nhiệm vụ ngoại giao trong giai đoạn này là
chú trọng thu thập thông tin nước sở tại để báo cáo về nước mình, cùng với đó, khái
niệm “đại sứ” cũng ra đời. Sang thời kỳ Cận đại, ngoại giao đã có nhiều bước phát

triển vượt bậc đặc biệt là tại Châu Âu, không đơn thuần là các cuộc thăm viếng giữa
các nhà lãnh đạo mà nó còn được thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau như
ngoại giao công chúng hay ngoại giao hội nghị. Theo quá trình chinh phục và xây
dựng hệ thống thuộc địa trên thế giới, ngoại giao Châu Âu dần được tự nhiên công
nhận và áp dụng rộng rãi trên thế giới. Khi quan hệ giữa các nước phát triển về mọi
mặt, không chỉ bó hẹp trong vấn đề hòa bình và chiến tranh thì ngoại giao mới
mang đầy đủ ý nghĩa của nó và tuân thủ theo những quy định cụ thể sau: Mang tính
thường xuyên thông qua việc đặt cơ quan đại diện thường trú; Bất khả xâm phạm về
thân thể, trụ sở, tư liệu, tài sản; Hưởng ưu đãi miễn trừ. Bước vào thời kỳ hiện đại,
hai cuộc chiến tranh thế giới nổ ra và sau đó là Chiến tranh lạnh đã tạo ra những
biến động đáng kể trong quan hệ quốc tế. Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc
cùng với sự ra đời của nền ngoại giao mới, ngoại giao xã hội chủ nghĩa và ngoại
giao tư bản chủ nghĩa. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính trị và an ninh vẫn
được coi là nội dung chủ yếu trong chương trình nghị sự quốc tế. Nhưng đến những
năm 1970, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế với tốc độ nhanh chóng đã tác
động mạnh tới các quốc gia. Không chỉ chính trị, an ninh được coi trọng mà kinh tế
cũng trở thành mục tiêu hàng đầu trong chiến lược của mỗi quốc gia và trong quan

13

hệ quốc tế. Đặc biệt sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, toàn cầu hóa dưới tác động
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ đang làm cho thế
giới ngày càng trở nên nhỏ bé, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày một
sâu sắc, giới hạn, biên độ địa lý xét từ góc độ kinh tế đang trở nên mờ nhạt do các
rào cản trong quan hệ thương mại, đầu tư, tiền tệ và tài chính đang dần được loại
bỏ. Đi cùng với đó, toàn cầu hóa cũng là một trong những nguyên nhân của rất
nhiều các vấn đề toàn cầu nóng bỏng hiện nay như: ô nhiễm, bệnh dịch, đói nghèo,
đe dọa hủy diệt nhân loại…mà không một quốc gia nào có thể đơn phương giải
quyết. Chính những thay đổi to lớn đó đã làm xuất hiện nhiều lý thuyết, quan niệm
và cách tiếp cận mới về quan hệ quốc tế và ngoại giao.

Ngày nay, hoạt động ngoại giao vô cùng phong phú và đa dạng với nhiều hình
thức khác nhau tùy theo góc độ tiếp cận. Bao gồm các hình thức như: ngoại giao
song phương, ngoại giao đa phương, ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân,
ngoại giao chính thức, ngoại giao không chính thức…Xét về hình thức và công cụ
thực hiện chính sách của ngoại giao còn có nhiều hình thức cụ thể như: ngoại giao
chiến hạm, ngoại giao bóng bàn, ngoại giao con thoi, ngoại giao đô la…Ngoài ra,
căn cứ vào nội dung hoạt động của ngoại giao thì có ngoại giao kinh tế, ngoại giao
văn hóa, ngoại giao phòng ngừa…
b, Khái niệm ngoại giao kinh tế
Ngoại giao kinh tế không phải là khái niệm mới. Ngoại giao với những mục
tiêu kinh tế ra đời từ khá sớm. Kể từ thời Phục hưng của Italy, kinh tế đã trở thành
một trong hai nhiệm vụ song hành của ngành ngoại giao, bên cạnh chính trị và an
ninh. Vào những năm 50 đến 70 của thế kỷ trước, ngoại giao kinh tế còn được biết
đến dưới cái tên Ngoại giao thương mại, ra đời cùng với quá trình quốc hữu hóa các
ngành công nghiệp ở nhiều quốc gia. Nó bắt nguồn từ sự tham gia từ từ của các nhà
ngoại giao trong các vấn đề thương mại, đó là việc giúp các quốc gia có thể phân
phối hàng hóa, sản phẩm sang các quốc gia khác. Mặc dù, sau chiến tranh thế giới
thứ hai, bối cảnh chiến tranh lạnh, xung đột quân sự và sự chia cắt thế giới thành hai
phe đã khiến cho vai trò của ngoại giao kinh tế mờ nhạt hơn. Nhưng khi Chiến tranh

14

Lạnh kết thúc và một trào lưu mới của quá trình toàn cầu hóa xuất hiện, kinh tế một
lần nữa khẳng định vai trò nổi bật của mình và trong quan hệ quốc tế nổi lên vấn đề
ngoại giao kinh tế. Vào cuối những năm 1980, đầu 1990, một số nhà nghiên cứu nổi
tiếng như Paul Kennedy, Jeffrey Garten, Edward Luttwalk và Lester Thurow đã
khẳng định quan hệ quốc tế chắc chắn sẽ trở thành cuộc đối đầu của những khối
kinh tế [47]. Trong công trình cuối cùng của đời mình, cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ
Thạch (1923 – 1998) đã đưa ra những dự báo: “Trong 25 năm tới từ 1996 đến 2020,
có nhiều khả năng không có chiến tranh thế giới, và chạy đua kinh tế toàn cầu sẽ

thay thế cho chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang” [26]. Thực tế, ngoại giao kinh
tế đã trở thành một phần không thể tách rời của hoạt động đối ngoại kể từ khi ngoại
giao ra đời. Tuy nhiên không chỉ dừng lại ở việc quốc gia đàm phán các hiệp định
thương mại hay các nhà lãnh đạo tổ chức hội nghị thượng đỉnh, ngoại giao kinh tế
còn bao hàm nhiều khía cạnh khác.
Đứng trước những thách thức của toàn cầu hóa và phụ thuộc mạnh mẽ về mặt
kinh tế giữa các quốc gia, Bộ Ngoại giao các nước đã có những điều chỉnh phù hợp
để bảo đảm vai trò quan trọng hàng đầu trong lĩnh vực đối ngoại. Thay vì nắm giữ
gần như "độc quyền" trong đối ngoại như trước đây, ngoại giao hướng tới việc phát
huy vai trò là cơ quan điều phối trong việc xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại.
Chuyển từ mô hình "đóng" sang "cởi mở hơn", Ngoại giao tập trung mạnh hơn cho
yêu cầu phát triển kinh tế đất nước. Cùng với đó, công tác Ngoại giao kinh tế của
các Bộ Ngoại giao cũng có sự thay đổi về chất.
Cùng với thời gian, thuật ngữ Ngoại giao kinh tế đang dần trở thành quen
thuộc với nhiều người trên thế giới. Đó là đứa con đẻ trí tuệ của Mike Hodges, Giáo
sư về quan hệ quốc tế của Trường Kinh tế Luân Đôn (LSE). Thuật ngữ ra đời vào
năm 1997 từ ý tưởng của ông là kết hợp kỹ năng phân tích của các nhà học thuật
với kinh nghiệm chính sách của các nhà thực hành xem xét Nhà nước tổ chức các
quan hệ kinh tế quốc tế như thế nào [28, tr.356]. Ngày nay, hoạt động ngoại giao
kinh tế ngày càng đa dạng với những nội dung, hình thức mới, được đánh giá là một
trong những trọng tâm của hoạt động ngoại giao của các quốc gia trên thế giới. Do

15

tính chất mở của các nền kinh tế quốc gia, sự phân công lao động quốc tế, sự phát
triển như vũ bão của quá trình toàn cầu hóa dưới tác động của cách mạng khoa học
– công nghệ, ngoại giao kinh tế có bước phát triển nhanh và mạnh. Sức mạnh kinh
tế trở thành nhân tố quyết định sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia do phương
pháp giải quyết các mâu thuẫn, bảo vệ lợi ích quốc gia bằng sức mạnh quân sự phần
nào đã bị đẩy lùi vào quá khứ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, sự đối đầu giữa hai

phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa không còn nữa.
Vậy Ngoại giao kinh tế là gì?
Trên thực tế, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này. Đề cập trong
công trình khoa học được công bố năm 2008 “Ngoại giao kinh tế những năm đầu
thế kỷ 21, những thách thức và xu hướng phát triển”, tiến sỹ Ibrahim R.Mavlanov
đã đề cập đến ngoại giao kinh tế như là một khía cạnh đặc biệt của ngoại giao hiện
đại, liên quan đến việc sử dụng các vấn đề kinh tế như là đối tượng và phương tiện
đấu tranh và hợp tác trong quan hệ quốc tế. Ngoại giao kinh tế cũng như các hoạt
động ngoại giao nói chung là một thành phần của chính sách đối ngoại, các hoạt
động quốc tế của đất nước.
Định nghĩa về ngoại giao kinh tế của Berrudges và James xác định rằng “ngoại
giao kinh tế liên quan tới các vấn đề chính sách kinh tế, bao gồm cả công việc của
các phái bộ ở các hội nghị do các cơ quan chủ trì ví dụ như WTO”; cũng như là một
phần của định nghĩa, nó còn bao hàm cả “ngoại giao sử dụng các nguồn lực kinh tế,
hơn là phần thưởng hay trừng phạt, trong quá trình theo đuổi một mục tiêu chính
sách đối ngoại cụ thể”. Rana [50] định nghĩa ngoại giao kinh tế như là “quá trình
các nước liên hệ với thế giới bên ngoài để tối đa hóa lợi ích quốc gia trong tất cả các
lĩnh vực hoạt động, bao gồm thương mại, đầu tư và các hình thức khác của trao đổi
đem lại lợi ích về kinh tế, trong đó các nước tận dụng được lợi thế tương đối của
mình”[31, pg. 272].

Còn trong bài viết “Ngoại giao kinh tế và an ninh kinh tế” Peter A. G. Van
Bergeijk (Viện khoa học xã hội, Hà Lan) và Selwyn Moons (Bộ các vấn đề kinh tế,
nông nghiệp và đổi mới, Hà Lan) xác định ngoại giao kinh tế là một tập hợp các

16

hoạt động (bao gồm cả phương pháp và quy trình ra các quyết định quốc tế) liên
quan đến các hoạt động kinh tế xuyên biên giới (xuất khẩu, nhập khẩu, đầu tư, cho
vay, hỗ trợ di dân) thực hiện bởi các chủ thể nhà nước và phi nhà nước. Theo đó,

ngoại giao kinh tế bao gồm ba yếu tố chủ yếu sau: Việc sử dụng ảnh hưởng chính trị
và các mối quan hệ để thúc đẩy hoặc ảnh hưởng đến quan hệ thương mại và đầu tư
quốc tế, qua đó cải thiện chức năng của thị trường và giảm thiểu tối đa chi phí và rủi
ro của các giao dịch xuyên biên giới (bao gồm cả quyền sở hữu). Yếu tố thứ hai là
việc sử dụng các tài sản và các mối quan hệ kinh tế nhằm mục đích vượt qua xung
đột và tăng cường hợp tác cùng có lợi, củng cố quan hệ chính trị ổn định giữa các
quốc gia. Yếu tố thứ ba của ngoại giao kinh tế là phương thức để củng cố môi
trường kinh tế và chính trị quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi thực hiện các mục
tiêu đó.
Cũng đề cập đến “ngoại giao kinh tế”, một số học giả Ucraina đã đưa ra cách
hiểu tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh. Theo đó, ngoại giao kinh tế là thành phần cấu
tạo của chủ thể kinh tế quốc tế. Các quốc gia, trước hết là hoạt động của cơ quan
nhà nước trong chính sách kinh tế đối ngoại, đóng vai trò chính hình thành ngoại
giao kinh tế. Bên cạnh đó, còn có hàng loạt các chủ thể ở cấp độ khác nhau với các
tính toán khác nhau nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong các hoạt động của mình. Về
mặt thực tiễn, ngoại giao kinh tế là tổng thể những quy phạm luật pháp quốc tế,
những nguyên tắc, phương pháp, hình thức, những thiết chế mang tính thể chế, tạo
ra những đòn bẩy được các chủ thể sử dụng trong việc thực hiện quan hệ kinh tế
quốc tế. Ngoại giao kinh tế là hoạt động nhiều phương diện, trong điều kiện hiện
nay phát triển trên cơ sở song phương, đa phương và vận hành ở các cấp độ khác
nhau (đại vĩ mô, vĩ mô, vi mô), phù hợp với các cấp độ trên là lợi ích vật chất của
các tổ chức kinh tế, tiền tệ, tài chính quốc tế, lợi ích của các khu vực, các quốc gia,
dân tộc, các ngành nghề, các nền kinh tế và các công ty. Từ góc độ chủ thể, ngoại
giao kinh tế hướng tới thực hiện quan hệ ngoại thương, quan hệ tài chính – tiền tệ,
và sản xuất quốc tế, quan hệ kinh tế trong lĩnh vực thực hiện tiềm năng kinh tế,
khoa học công nghệ của các quốc gia trên thế giới và giải quyết vấn đề toàn cầu.

17

Ngoài ra, trên thế giới còn có rất nhiều cách hiểu khác nhau liên quan đến

thuật ngữ này. Theo các nhà nghiên cứu của Liên Bang Nga, ngoại giao kinh tế là
lĩnh vực đặc biệt của hoạt động ngoại giao, liên quan đến việc sử dụng kinh tế như
đối tượng và phương tiện để cạnh tranh và hợp tác trong quan hệ quốc tế. Còn Bồ
Đào Nha lại quan niệm: Ngoại giao kinh tế được hiểu là hoạt động của nhà nước và
các định chế công triển khai bên ngoài lãnh thổ Bồ Đào Nha nhằm mục đích đóng
góp thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế đất nước, tạo dựng môi trường thuận lợi
cho đổi mới và phát triển công nghệ, cũng như tạo thị trường mới và tạo ra nhiều
việc làm có chất lượng tại Bồ Đào Nha [59].
Ngoại giao kinh tế cũng được hiểu là ngoại giao thúc đẩy lợi ích kinh tế quốc
gia và kinh doanh ở các nước khác. Nó có liên quan việc thúc đẩy hoạt động thương
mại, thị trường, kinh doanh và đầu tư thông qua ngoại giao chính trị. Ngoại giao
kinh tế mô tả cách các quốc gia tiến hành các quan hệ kinh tế với các nước khác
bằng cách sử dụng ảnh hưởng chính trị và thúc đẩy thương mại và đầu tư để mở
rộng thị trường cho các sản phẩm và dịch vụ của quốc gia.
Thuật ngữ ngoại giao kinh tế ngày nay đã trở nên thông dụng trên toàn thế giới
và cũng gây ra sự nhầm lẫn rất nhiều về ý nghĩa chính xác của nó. Quả thật, không
có một định nghĩa chính xác về ngoại giao kinh tế, nhưng nó có thể được mô tả là
sự hình thành và thúc đẩy các chính sách liên quan đến sản xuất, di chuyển và trao
đổi hàng hóa, dịch vụ, lao động và đầu tư với các nước / khu vực khác. Ngoại giao
kinh tế, cũng như ngoại giao nói chung, là một thành phần của chính sách đối ngoại,
hoạt động quốc tế của đất nước, xác định các mục tiêu và mục đích của ngoại giao
kinh tế đại diện cho toàn bộ các hoạt động, hình thức, phương tiện và phương pháp
được sử dụng để thực hiện chính sách đối ngoại.
Ngoại giao kinh tế là phân tích, xây dựng liên minh, ra quyết định, giải quyết
vấn đề, xây dựng chính sách và biện hộ cho lợi ích của các quốc gia, đàm phán và
giải quyết tranh chấp. Ngoại giao kinh tế yêu cầu phải có sự tinh thông kỹ thuật,
biết phân tích các hệ quả tác động của tình hình kinh tế của một nước lên bầu không
khí chính trị nước đó và các lợi ích kinh tế của quốc gia. Các quốc gia, các lãnh đạo

18


doanh nghiệp nước ngoài cũng như các nhà làm chính sách của Chính phủ cùng làm
việc với nhau về một số trong những vấn đề gai góc nhất của chính sách đối ngoại,
chẳng hạn như công nghệ, môi trường cũng như trong các lĩnh vực truyền thống
như thương mại và tài chính. Tính tháo vát, linh hoạt, đánh giá đúng đắn và kỹ năng
kinh doanh tốt là rất cần thiết để thực hiện ngoại giao kinh tế.
Phạm vi của ngoại giao kinh tế bao quát cả những vấn đề kinh tế đối nội và
kinh tế quốc tế. Nó bao gồm cả “nguyên tắc quan hệ kinh tế giữa các nhà nước”
được theo đuổi từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Quá trình phát triển của toàn
cầu hóa và lệ thuộc lẫn nhau nhiều hơn giữa các nước trong những năm 1990 và
2000 buộc ngoại giao kinh tế phải đi sâu hơn vào quá trình hoạch định chính sách
đối nội. Nó bao gồm cả “chính sách liên quan đến sản xuất, di chuyển và trao đổi
hàng hóa, dịch vụ, các công cụ sản xuất, thông tin tiền tệ và các quy định quản lý
chúng” [33].
Tựu chung lại, mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, có thể hiểu về Ngoại
giao kinh tế đơn giản là ngoại giao bảo vệ và thúc đẩy lợi ích kinh tế quốc gia, là
phương tiện để cạnh tranh và hợp tác trong quan hệ quốc tế. Theo đó, ngoại giao
kinh tế bao hàm hai phương diện “kinh tế là đối tượng” và “kinh tế là công cụ” của
chính sách đối ngoại quốc gia trong quan hệ quốc tế.
1.1.2. Quan niệm của Việt Nam
Ở Việt Nam, công tác “ngoại giao kinh tế” không còn là một nhiệm vụ mới.
Vấn đề ngoại giao làm kinh tế (có lúc gọi là ngoại giao phục vụ kinh tế) đã được Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh nêu lên tại hội nghị ngoại giao lần đầu tiên
sau khi nước nhà thống nhất. Đến thời kỳ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch
ngoại giao kinh tế cũng đã được triển khai mạnh mẽ nhưng mãi đến những năm gần
đây sau nhiều lần tổng kết mới đi đến khái niệm “Ngoại giao kinh tế” với nội hàm
rõ hơn, xúc tích hơn. Từ chỗ nhận thức sơ khai ban đầu trước kia, đến nay ngoại
giao kinh tế đã trở thành một trong những nhiệm vụ chính của ngành ngoại giao.
Nội dung kinh tế từ chỗ bị tách rời khỏi công tác chính trị, kể cả trong nhận thức thì
nay đã quyện chặt một cách hữu cơ với công tác chính trị. Theo Từ điển thuật ngữ


19

ngoại giao Việt – Anh – Pháp, 2002, ngoại giao kinh tế được hiểu là “hoạt động
quốc tế phục vụ mục tiêu kinh tế của quốc gia được thực hiện thông qua hình thức
ngoại giao. Ngoại giao kinh tế có thể bao gồm những công việc cụ thể sau:
(i) Tuyên truyền và thông tin về nước mình
(ii) Cung cấp thông tin kinh tế
(iii) Tìm nguồn vốn, bạn hàng, đối tác, thị trường
(iv) Làm cầu nối cho các cuộc gặp gỡ và đàm phán kinh tế.
a, Trước năm 1986
Trước thời kỳ đổi mới, nhận thức về ngoại giao kinh tế tại Việt Nam còn khá
mới mẻ. Trong bối cảnh chịu sự đô hộ của thực dân và đế quốc, việc thực hiện ý
tưởng kết hợp giữa ngoại giao và kinh tế là điều rất khó khăn.
Lịch sử Việt Nam bước vào thế kỷ XX được phác họa như một bức tranh màu
ảm đạm. Sau gần nửa thế kỷ chinh phục, thực dân Pháp đã thiết lập xong chế độ
thuộc địa trên mảnh đất này. Trong khi đó, các phong trào đấu tranh chống xâm
lược của ta đều lần lượt thất bại. Trước bối cảnh đó, các sỹ phu cấp tiến mà đại diện
là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, với khát vọng tìm đường cứu nước đã hé mở
niềm hy vọng mới hướng ra bên ngoài. Tuy nhiên, những cố gắng đầu tiên của sự
mở cửa và hội nhập đầu thế kỷ XX này đều không thành. Vượt qua cái khung hạn
hẹp của các bậc tiền bối, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hướng tầm nhìn ra thế giới rộng
lớn đầy sôi động. Dưới sự lãnh đạo của người, cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp
của cách mạng Việt Nam đã hòa nhập cùng phong trào đấu tranh chống phát xít trên
toàn thế giới và khi chế độ quân phiệt Nhật Bản đầu hàng thì cũng là thời cơ để Mặt
trận Việt Minh lãnh đạo tổng khởi nghĩa thành công. Trên cương vị Chủ tịch chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã kêu gọi nguyên
thủ các cường quốc công nhận nước Việt Nam độc lập và kết nạp Việt Nam vào
Liên Hợp Quốc. Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh có lẽ là người đầu tiên nhận
thức về sự kết hợp giữa mặt trận ngoại giao và kinh tế. Đầu tháng 12 năm 1946,

Người đã gửi thư cho lãnh đạo các nước Anh, Trung Quốc, Mỹ, Liên Xô, và Liên
Hợp Quốc nêu rõ Việt Nam thực hiện “chính sách mở cửa và hợp tác”, mời các nhà

20

đầu tư và công nghệ nước ngoài vào hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, mở cửa sân
bay, hải cảng cho hoạt động thương mại, tham gia các tổ chức hợp tác quốc tế.
Tháng 1/1950, chuyến thăm ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức
thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa khác. Đây chính là lần mở cửa hội nhập thành công đầu tiên của
nhà nước Việt Nam độc lập. Từ đó, Ngoại giao Việt Nam với mục tiêu hàng đầu là
an ninh đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ và viện trợ vật chất hết sức to lớn từ
phía các nước bạn và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đặc biệt là Liên Xô và
Trung Quốc để tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược.
Xuyên suốt mấy chục năm trường kỳ kháng chiến, mục tiêu cao nhất của cách
mạng Việt Nam chính là tiến hành chiến tranh nhân dân, cách mạng giải phóng dân
tộc, giành lại độc lập tự do, hòa bình cho đất nước. Vì vậy, giai đoạn này, mục tiêu
an ninh trong hoạt động ngoại giao được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, bên cạnh việc
tích cực, chủ động phát huy tốt thế thắng trên chiến trường để giành những thắng lợi
to lớn trên bàn đàm phán, đưa đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, ngoại giao Việt Nam cũng đã có những bước chuẩn bị tích cực cho
sự hình thành và phát triển của công tác ngoại giao kinh tế. Ngày 09/10/1961, Nghị
định 157 – CP về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ ngoại giao đã nêu
rõ: “Ngoại giao tranh thủ mọi điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc”.
Được sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên và sát sao của lãnh đạo cấp cao
Đảng, Nhà nước, các hoạt động ngoại giao kinh tế ở dưới những hình thức đơn giản
và sơ khai đã sớm được nghiên cứu và triển khai. Năm 1972, thực hiện mục tiêu
chiến lược mà Hội nghị ngoại giao lần thứ 9 đã đề ra: “Ngoại giao cần nghiên cứu

yêu cầu kinh tế của các nước, tranh thủ viện trợ quốc tế, thu thập tiến bộ khoa học
kỹ thuật ở nước ngoài, thúc đẩy quan hệ kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật với
các nước”, Tổ kinh tế tại Văn phòng Bộ ngoại giao được thành lập và năm 1974, Vụ
kinh tế ra đời. Đồng thời, Bộ Ngoại giao cũng đã quyết định tăng cường công tác

21

ngoại giao kinh tế tại các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài thông qua đề xuất cử
các bộ biệt phái của các ngành kinh tế sang công tác tại các cơ quan đại diện đó.
Đây chính là những cơ sở ban đầu cho việc nghiên cứu, hướng dẫn, chỉ đạo công tác
ngoại giao kinh tế sau này của Việt Nam.
Sau khi giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước năm 1975, tiếp tục những
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, ngành ngoại giao đã xác định cho
mình những công việc trọng tâm mới trong Nghị quyết hội nghị Ngoại giao lần thứ
12 (1976): “Xác định chiến lược ngoại giao phục vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Góp phần xây dựng các chủ trương chính sách về kinh tế đối ngoại của Đảng và
Nhà nước. Theo dõi, góp phần xử lý các hoạt động kinh tế đối ngoại giữa ta với các
nước. Tham gia một số công tác đối ngoại cụ thể”. Những nhiệm vụ này một lần
nữa được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV: “Ra sức tranh thủ
những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh,
khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật, củng cố quốc
phòng, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thởi
tiếp tục kề vai sát cánh với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và tất cả các dân tộc
trên thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội…”
Với tinh thần đó, Việt Nam đã tranh thủ được số lượng khá lớn viện trợ của các
nước XHCN, các nước tư bản chủ nghĩa và của cả các tổ chức phi chính phủ cho
việc tái thiết đất nước. Trong thời gian này, khái niệm “ngoại giao làm kinh tế”
được sử dụng rất rộng rãi.
Tuy nhiên, sang đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Việt Nam đã rơi vào tình
trạng khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng trước chính sách bao vây cấm vận

kinh tế của các nước phương Tây do Việt Nam củ quân tình nguyện sang giúp
Campuchia. Trước tình hình đó, ngoại giao kinh tế đã tập trung hướng vào tranh thủ
viện trợ từ các nước XHCN. Mặt khác, ta cũng hết sức chú trọng hoạch định chiến
lược phát triển, xây dựng chủ trương, chính sách kinh tế đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng. Năm 1982, Tiểu ban kinh tế đối ngoại ra đời, đánh dấu bước tiến mới
về mặt nhận thức cũng như trong công tác thực hiện ngoại giao kinh tế. Năm 1985,

22

được sự chỉ đạo của các đồng chí Lãnh đạo Cấp cao, công tác ngoại giao phục vụ
kinh tế được chính thức xác định là nhiệm vụ chính của ngành ngoại giao. Cùng với
đường lối đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), công tác
ngoại giao kinh tế bước sang một giai đoạn mới, nhận thức về mục tiêu phát triển
trong hoạt động ngoại giao hay định hướng Ngoại giao vào phát triển kinh tế đã cơ
bản hình thành.
b, Từ khi đổi mới đến nay
Bối cảnh những năm đầu đổi mới, cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trong nước
phát sinh từ cuối những năm 70 thế kỷ XX lên đến đỉnh cao. Kinh tế đất nước sa sút
nghiêm trọng, thiên tai liên tiếp xảy ra, chi phí quốc phòng quá cao, ngân sách thâm
hụt trầm trọng kéo theo nạn lạm phát cao chưa từng có, đạt tới 774% năm 1986. Đời
sống nhân dân cực kỳ khó khăn, trật tự, kỷ cương, phép nước lỏng lẻo, tiêu cực xã
hôi gia tăng. Lợi dụng việc quân đội Việt Nam có mặt ở Campuchia, Mỹ và các thế
lực thù địch xiết chặt hơn nữa chính sách bao vây cấm vận nhằm làm nước ta suy
kiệt.
Bối cảnh trên đã buộc Đảng và Nhà nước ta phải tìm ra một lối đi thích hợp để
thoát khỏi khủng hoảng, yếu kém và tụt hậu. Và lối đi đó chính là công cuộc Đổi
mới toàn diện do Đảng phát động từ năm 1986. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng định: “Nhiệm vụ
bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn
định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết

cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”
[8, tr. 42]. Trên cơ sở đó, Đại hội cũng đã đề ra nhiệm vụ đối ngoại bao trùm cho
những năm đầu thời kỳ đổi mới là: “Ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại…Tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ tổ quốc” [8, tr.99]. Đại hội Đảng VI đã đánh dấu bước chuyển
mạnh mẽ trong đổi mới tư duy, cách thức tiếp cận để xem xét các vấn đề thời đại,
tình hình thế giới, giải quyết tổng thể các vấn đề trong nước nằm trong bối cảnh

23

quốc tế và thời đại để xử lý những diễn biến mau lẹ, những biến đổi bên ngoài, phục
vụ mục tiêu đổi mới và phát triển đất nước.
Từ đó đến nay, công tác ngoại giao kinh tế luôn được quan tâm thảo luận tại
các hội nghị Ngành và tập trung hướng vào việc đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ kinh tế đối ngoại, phá thế bao vây, cấm vận của Phương Tây, mở rộng thị
trường, tranh thủ viện trợ, đầu tư, công nghệ và từng bước hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới. Báo cáo kinh tế tại hội nghị Ngoại giao lần thứ 17 (tháng 2 năm 1987)
đã cơ bản xác định nhận thức về ngoại giao kinh tế, được ghi cụ thể trong mục
“ngoại giao phục vụ kinh tế”.
Tháng 8 – 1988, trước những khó khăn chồng chất do những diễn biến bất lợi
của tình hình thế giới, đặc biệt ở hàng loạt các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô,
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa VI đã thông qua nghị quyết số 13-
NQ/TW về “nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”. Đây là mốc
quan trọng trong đổi mới tư duy nhận thức về các vấn đề quốc tế và đối ngoại của
Đảng. Với chủ đề “giữ vừng hòa bình, phát triển kinh tế”, nghị quyết đã chỉ ra nguy
cơ đe dọa lớn đối với an ninh và độc lập nước ta chính do bắt nguồn từ nền kinh tế
yếu kém, từ tình trạng bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị. Do đó, Đảng ta đã
nhấn mạnh nhiệm vụ ngoại giao phục vụ ổn định chính trị, ưu tiên phát triển kinh tế
là nhiệm vụ hàng đầu. Tiếp đó, tháng 3 – 1989, Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VI tiếp tục nhấn mạnh, cần chuyển hoạt động ngoại giao từ

quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ kinh tế - chính trị, mở rộng quan hệ kinh
tế, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Quán triệt tinh thần đó, từ 1986 – 1991, Việt Nam đã chủ động thúc đẩy các
bên liên quan tìm kiếm một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, khôi phục
đối thoại và cải thiện quan hệ với Trung Quốc, các nước Asean và nhiều quốc gia
khác. Ngoại giao Việt Nam đã kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, phá thế bao vây cô lập của lực lượng thù địch, góp phần đắc lực tạo dựng môi
trường quốc tế hòa bình xung quanh nước ta, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp đổi
mới và phát triển đất nước, bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu

24

đó, Đảng và nhà nước ta vẫn chưa nhìn nhận được rõ xu thế phát triển tất yếu khách
quan của quá trình toàn cầu hóa, còn e ngại khi nói đến “kinh tế thị trường” và chưa
thực sự “mở cửa” hội nhập.
Bước sang những năm 90 thế kỷ XX, bối cảnh quốc tế và trong nước đem lại
cho Việt Nam rất nhiều cơ hội phát triển. Trên thế giới, kinh tế đang dần trở thành
một trong những nhân tố có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ quốc tế. Trong nước,
đời sống nhân dân được cải thiện rất nhiều, lòng tìn nhân dân tăng lên, nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước cũng bước đầu được hình thành. Quan hệ đối ngoại của Việt Nam ngày càng
được mở rộng và cải thiện, mở ra triển vọng bình thường hóa với các nước. Trong
bối cảnh đó, Đại hội Đảng lần thứ VII đã đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế thành ưu
tiên hàng đầu, xác định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ rộng mở, đa dạng hóa và
đa phương hóa quan hệ với tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển”. Như vậy, đến
đại hội Đảng VII, mục tiêu phát triển kinh tế trong hoạt động ngoại giao tiếp tục
được khẳng định, thực hiện và bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, với nhiệm
vụ đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ để tranh thủ tối đa mọi nguồn ngoại lực có
thể tranh thủ được, chủ động tạo môi trường bên ngoài thuận lợi cho xây dựng đất

nước và phát huy việc giữ vững an ninh, ổn định chính trị - kinh tế - xã hội trong
nước để phát triển. Nhờ những nhận thức đúng đắn và đường lối chính sách đó, hoạt
động đối ngoại Việt Nam giai đoạn này đạt được nhiều thành tựu lớn lao, đưa quan
hệ ngoại giao Việt Nam mở rộng ra tất cả các hướng, và đã có những đóng góp thiết
thực cho việc mở rộng thị trường, khắc phục được tình trạng khủng hoảng do biến
động ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu gây ra, tăng kim ngạch xuất nhập
khẩu.
Kế thừa những thành tựu to lớn đó, bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi ngoại giao không chỉ dừng lại ở việc tạo dựng,
củng cố, tăng cường đảm bảo môi trường hòa bình cho phát triển kinh tế. Ngành
ngoại giao có vai trò ngày càng lớn và trách nhiệm ngày càng nặng nề, trong đó, vai

25

trò của kinh tế đối ngoại đang trở nên vô cùng quan trọng và dần được xem là ưu
tiên hàng đầu trong toàn bộ chính sách, công tác ngoại giao của Đảng và Nhà nước
ta. Nhận thức sâu sắc về điều đó, trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII (tháng 6 – 1996), Hội nghị cán bộ Ngoại giao (tháng 8 – 1996), Nghị
quyết Trung ương I khóa VIII (tháng 11 – 1996), Nghị quyết Trung ương IV khóa
VIII (tháng 12 – 1997) đều bàn sâu ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế trong tình
hình hợp tác và cạnh tranh quốc tế ngày cảng mở rộng của ngoại giao, tăng cường
vai trò, trách nhiệm của cơ quan ngoại giao trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Điều
này được tiếp tục thể hiện trong các Đại hội IX của Đảng được tổ chức từ ngày 19
đến 22 – 04 – 2001. Đến Hội nghị Ngoại giao lần thứ 23 (tháng 11 – 2001) và Hội
nghị Ngoại giao lần thứ 24 (tháng 08 – 2003), nhận thức và quyết tâm về công tác
ngoại giao kinh tế thực sự đã có bước chuyển biến lớn. Hội nghị đã giành nhiều thời
gian để thảo luận về công tác này. Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 23, Thủ tướng
Phan Văn Khải đã nhấn mạnh: “Trong thời gian rất dài, xây dựng kinh tế luôn là
nhiệm vụ trọng tâm, do đó phục vụ kinh tế phải thực sự là trọng tâm công tác của
ngành ngoại giao”. Tại hội nghị này, Thủ tướng cũng đã giao nhiệm vụ cụ thể phục

vụ kinh tế cho ngành Ngoại giao gồm: góp phần mở rộng thị trường theo hướng đa
dạng hóa thị trường, sản phẩm, tránh phụ thuộc vào một vài thị trường, nhóm sản
phẩm; tăng cường công tác thông tin về thị trường, đối tác, những thay đổi về môi
trường chính sách các nước; tích cực vận động ODA, FDI; tích cực xúc tiến du lịch,
xuất khẩu lao động; tăng cường công tác thông tin, đặc biệt các thông tin có giá trị
cao về khoa học công nghệ; chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp, liên hệ chặt chẽ với
doanh nghiệp. Tiếp đó Hội nghị Ngoại giao lần thứ 24, Chủ tịch nước Trần Đức
Lương cũng đã nêu bật tầm quan trọng và vai trò của ngoại giao phục vụ phát triển
kinh tế: “…Đối với dinh hoạt của ngành, thấy rõ hoạt động đối ngoại rất quan
trọng tạo môi trường quan hệ đối ngoại có lợi nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế
của đất nước. Cần tổng kết nhanh kinh nghiệm đã làm vừa qua, để rút ra cách đi,
cách tổ chức, cách làm, kinh nghiệm hay điển hình tốt ở từng địa bàn. Ngành ngoại
giao đóng vai trò nòng cốt trong liên kết các ngành, doanh nghiệp, các địa phương

×