Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

640 Một số giải pháp hoàn thiện Marketing mix tại Trung tâm khai thác và sản xuất chương trình Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.94 KB, 52 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế thì quảng cáo nhất là quảng
cáo trên TV ngày càng đóng một vai trò quan trọng không chỉ riêng gì đối
với các doang nghiệp mà còn tác động đến các chính sách, chiến lược
quốc gia. Mặc dù xuất hiện ở nước ta chưa lâu nhưng nó đã nhanh chóng
phát triển và trở thành ngành kt mũi nhọn của đất nước. Mặt khác nó được
coi là công cụ cạnh tranh thí điểm mà các doanh nghiệp sử dụng để quảng
cáo cho sản phẩm của mình. Trung tâm dịch vụ khai thác và sản xuất
chương trình Hà Nội tuy mới thành lập chưa được lâu nhưng đã nhanh
chóng chiếm lĩnh được cảm tình của khách hàng thông qua dịch vụ tốt,
chất lượng cao và giá cả hợp lý.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh còn bộc lộ
một số yếu kém. Xuất phát từ tình hình quảng cáo của doanh nghiệp nói
chung và chung tâm nói riêng. Kết hợp với việc thực tập tại Trung tâm tôi
đã chọn đề tài “Một số giải pháp hoàn thiện Marketing mix tại Trung
tâm khai thác và sản xuất chương trình Hà Nội”
Nội dung bài viết được chia làm 3 phần:
Chương 1. Cơ sở lý luận về marketing mix
Chương 2. Thực trạng marketing mix tai Trung tâm khai thác và
sản xuất chương trình Hà Nội
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện Marketing mix tại Trung
tâm khai thác và sản xuất chương trình Hà Nội
Mục tiêu của luận văn là xây dựng và hoàn thiện Marketing mix tại
Trung tâm
Trong đề tài này tôi đã sử dụng phương pháp chủ yếu là khảo sát qua
lý thuyết và thưc tế từ đó tiến hành phân tích, đánh giá, so sánh tìm ra
những ưu nhược điểm nhằm đưa ra những giải pháp cho sự tồn tại đó.
1
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MARKETING MIX
I.TỔNG QUAN VỀ MARKETING MIX


1.Khái niệm marketing mix
Marketing mix là tập hợp các công cụ marketingmà công sử dụng để
theo đuổi những mục tiêu marketing của mình trên thị trường mục tiêu.
Trong marketing mix có nhiều công cụ khác nhau. Mccarthy đã đưa ra
một cách phân loại các công cụ theo bốn yếu tố gọi là 4P. Đó là: sản phẩm,
giá cả, phân phối và xúc tiến hỗn hợp. Trong mỗi biến số marketng lại có
nhiều yếu tố khác nhau cụ thể :
Biến số sản phẩm bao gồm : chủng loại , chất lượng ,mẫu mã , tính năng
công dụng, tên nhãn, bao bì, kích cỡ, dịch vụ, bảo hành trả lại…
Biến số giá cả: Giá quy định, chiết khấu, bớt giá, kỳ hạn thanh toán,
điều kiện trả trậm…
Biến số phân phối : Kênh phân phối, phạm vi, danh mục hàng hoá, địa
đi ểm, dự trữ vận chuyển…
Biến số xúc tiến hỗn hợp : Bao gồm công cụ quảng cáo , khuyến mãi ,
bán hàng cá nhân, marketing trực tiếp.
2.Vai trò của marketing mix
Marketing mix đóng một vai trò quan trọng trong việc lập kế hoặch và
xây dựng các chiến lược marketing của công ty. Bất cứ công ty nào khi
hoặch định cho mình một chiến lược cũng đều phải tiến hành phân tích,
đánh giá 4P. Xác định đúng cho phép công ty đưa ra các chiến lược hợp lý
và giảm thiểu rủi ro.
Mỗi biến số của marketing mix có thể thay đổi tuỳ thuộc và tình hình
kinh doanh của công ty. Thông thường công ty có thể thay đổi về giá, quy
mô lực lượng bán hàng và chi phí quảng cáo sau một thời gian ngắn nhưng
công ty chỉ có thể phát triển sản phẩm mới và thay đổi các kênh phân phối
2
của mình sau một thời gian dài . Vì vậy, công ty ít thay đổi marketing mix
của từng thời kỳ trong thời gian ngắn, mà chỉ thay đổi một số biến trong
marketing mix.Mặc khác nó cho phép công ty có thể phân bổ kinh phí
marketing cho sản phẩm, các kênh phân phối các phương tiện khuyến

mãivà địa bàn tiêu thụ.
II.SƠ LƯỢ C VỀ QUẢNG CÁO
1.Khái niệm quảng cáo
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quảng cáo
Theo hiệp hội Marketing Mĩ (AMA) thì quảng cáo là bất cứ loại hình
nào của sự hiện diện không trực tiếp của hàng hoá, dịch vụ hay tư tưởng
hành động mà người ta phải trả tiền để nhận biết quảng cáo.
Theo Philip Kotler, quảng cáo là mọi hình thức trình bày giám tiếp và
khuếch trương ý tưởng hàng hoá hay dịch vụ được người bảo trợ nhất định
trả tiền.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về quảng cáo song chúng có
một điểm chung là khẳng định sự giống nhau về nguyên tắc, quy trình và
nội dung cơ bản của quảng cáo.
2. Vai trò của quảng cáo
Quảng cáo đóng một vai trò tối quan trọng bởi những lý do sau:
Thứ nhất, quảng cáo tạo điều kiện cho sự tự do lựa chọn. Những
quảng cáo về sảm phẩm do nhiều người khác nhau sản xuất giúp người
tiêu dùng một sự lựa chọn, nó cho người ta những thông tin về sảm phẩm,
nếu không có quảng cáo thì làm sao người ta biết được rằng có những sảm
phẩm khác nhau, có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp cạnh tranh. Thực
tế quảng cáo giúp tạo ra một môi trường cạnh tranh rất cần thiết để nâng
cao chất lượng sảm phẩm và đặt giá vừa phải.
Thứ hai, quảng cáo tạo điều kiện để bán hàng nhiều lần, quảng cáo
không phải là sự ồn ào huyên náo. Nhiều người phê phán rằng quảng cáo
3
được thiết kế để đánh lừa công chúng tiêu dùng. Tất cả các tổ chức tham
ra vào phân phối đều phải lặp lại việc bán hàng. Trong quảng cáo một
người có thể lừa được một số người một vài lần nhưng không thể lừa được
nhiều lần. Vì vậy các doanh nhân phải quan tâm đến quảng cáo.
Thứ ba, quảng cáo góp phần giảm chi phí và cải tiến sản phẩm.

Quảng cáo góp phần giảm chi phí với người tiêu dùng đối với số lượng lớn
các sảm phẩm và dịch vụ.
Thứ tư, quảng cáo có vai trò to lớn đối với người sản xuất, người bán
buôn bán lẻ và người tiêu dùng. Đối với nhà sản xuất quảng cáo là một
công cụ có hiệu lực để tạo ra nhu cầu cho sản phẩm của họ, để tăng bán
hàng và cải thiện thị phần trên thị trường đối với người bán buôn bán lẻ
quảng cáo giúp cho việc phân phối và bán hàng thuận lợi hơn, tạo uy tín
cho nhà bán buôn. Đối với người tiêu dùng, nó cung cấp thông tin về sản
phẩm mới, về giá cả, nghiên cứu phát triển và bảo vệ người tiêu dùng.
3. Sự khác nhau giữa quảng cáo và các loại hình thông tin khác
3.1. Quảng cáo - xuất bản và tuyên truyền
Câu hỏi quảng cáo là gì đã được đặt ra và giải đáp ở phần trên. Ngoài
điều đó ra chúng ta cũng cần biết cái gì không phải là quảng cáo. Trong
thực tế một thông điệp nào đó trên các phương tiện thông tin muốn trở
thành quảng cáo thì phải có điều kiện là nó phải được trả tiền, phải là một
thông tin truyền cảm không có sự hiện diện trực tiếp của đối tượng cần
được quảng cáo như hàng hoá, dịch vụ, con người.
3.2. Quảng cáo và xuất bản
Quảng cáo và xuất bản đều là thông tin truyền cảm và có thể cùng
xuất hiện trên một phương tịên truyền thông. Nhưng chỉ có cái được chủ
trả tiền mới là quảng cáo, trong khi đó xuất bản không được trả tiền.
Những vật tư được thông báo bán tự do không phải trả tiền. Thực tế có
một số tổ chức không phải là kinh doanh có quảng cáo mà không phải mất
4
tiền, thực ra có một số người nào đó trả thay cho họ, ví dụ: bản thân cơ
quan xuất bản.
3.3. Quảng cáo và tuyên truyền
Tuyên truyền là thông tin truyền cảm nhưng không dễ dàng nhận ra
nguồn gốc hay chủ. Vì việc chấp nhận một thông điệp phụ thuộc vào uy
tín của nguồn tin nên việc nhận ra chủ hãy còn rất quan trọng. Tuy vậy

tuyên truyền vẫn có tác dụng và được các nhà chính trị và chính phủ sử
dụng để gây ảnh hưởng đến công chúng bằng cách nhắc lại nhiều lần
những thông điệp truyền đi qua các phương tiện có kiểm soát
4.Sơ lược các phương tiện quảng cáo
4.1.Báo chí
Báo chí có rất nhiều thể loại như báo hàng ngày,hàng tuần ,báo chủ
nhật, các chuyên san..báo cũng có thể được phân theo tiêu thức địa lý: báo
toàn quốc,báo khu vực, báo địa phương…ở nhiều quốc gia còn có các báo
của cộng đồng mang tính chất địa phương và cung cấp các thông tin cho
các thành viên của cộng đồng. Mỗi một đầu báo đều nhằm vào một đối
tượng cụ thể, chẳng hạn báo toàn quốc do tính chất chọn lọc của nó:
Chúng nhằm vào các nhóm độc giả thuộc các nhóm nghề nghiệp khác
nhau như các cán bộ lãnh đạo đều có quan tâm chung về tài chính,thể
thao,nhưng các báo toàn toàn quốc phải cạnh tranh mạnh mẽ trong nội bộ
hay từ các phương tiện thông tin đại chúng khác . Do đó trong một vài
năm đã có một số ấn phẩm phải giảm số lượng phát hành do khó khăn về
tài chính. Trong khi đó các báo khu vực lại làm ăn phát đạt, cảm thấy
tuyệt vời bởi vì sự tập trung tại địa phương cho phép chúng nắm vững sâu
hơn nữa thị trường, chiếm được và duy trì tốt với độc giả.
Báo “tạp chí” ngày càng nhiều tạp chí mới ra đời nhưng phương tiện
quảng cáo này chịu sự cạnh tranh của TV, các tạp chí có giới độc giả rộng
rãi và ổn định.Trước khi bùng nổ quảng cáo truyền hình vào thập niên 60
5
các tạp chí là phương tiện phổ biến thông tin ưa chuộng với các nhà quảng
cáo lớn nhất,điều quan trọng đối với họ là các thông tin về hàng hoá cũng
đến tai các bà nội trợ bộ phận chủ yếu của khách hàng tiềm năng.
Các ấn phẩm kỹ thuật và nghề nghiệp. Các ấn phẩm kỹ thuật có
phương hướng chung và các ấn phẩm chuyên nghành là các phương tiện
thông tin tốt cho các xí nghiệp công nghiệp.Các ấn phẩm kỹ thuật chung
được sử dụng dể bán hàng dành cho đông đảo các hãng và các nghành

nghề khác nhau. Các ấn phẩm kỹ thuật chuyên nghành với sự lựa chọn rất
cao hướng vào cử toạ này hay khác ,sử dụng hai cách tiếp cận: Theo
nghành,khu vực(Nghành xây dựng,vận tải ) theo nghề nghiệp theo chức
năng (Thao tác xếp dỡ, kỹ thuật lạnh..)
Các ấn phẩm không phải trả tiền;Vào những năm 70 bắt đầu xuất
hiện và phát triển nhanh ,rất nhiều báo địa phương không phải trả tiền với
những thông báo ngắn mang tính quảng cáo.
Quảng cáo tác động rõ rệt đến báo chí mà nhiều nhà quan sát đã phát
hiện từ lâu. Họ thường nói rằng báo chí là hàng hoá được bán hai lần , họ
bán đồng thời cho độc giả và cho nhà quảng cáo hay nói cách khác các nhà
xuất bản báo chí bán báo của mình cho độc giả,còn các độc giả chí ít là
sức mua của họ cái mà chuyên gia quảng cáo gọi “vốn độc”thì họ bán cho
nhà quảng cáo.
Ưu điểm của quảng cáo trên báo chí là đảm bảo đưa thông tin quảng
cáo tới khu vực thị trường đã chọn theo vị trí địa lý. Điều đó là do các báo
đều đăng quảng cáo mang tích chất địa phương là chủ yếu.Thực tế quảng
cáo địa phương thường thực hiện trên báo. Quảng cáo quốc gia ít khi đựơc
thực hiện trên báo. Do vậy quảng cáo có tác dụng nhất khi được đăng trên
các bài địa phương hoặc các báo cộng đồng. Hơn nữa quảng cáo trên báo
dễ chuẩn bị và tương đối ít tốn kém .
6
Ngoài ra quảng cáo trên báo có tính năng động về thời gian. Một bài
quảng cáo dược chuẩn bị trước có thể dựa vào báo lúc sau chót hoặc có thể
sửa đổi tin tức quảng cáo phù hợp,kịp thời với tình hình thị trường.
Hạn chế lớn nhất của quảng cáo trên báo là thời gian sống của quảng
cáo quá ngắn và tính chất địa phương rõ nét của nó, thông thường các báo
được đọc và bỏ đi sau đó. Hơn nữa chất lượng hình ảnh quảng cáo trên
báo thường kém hơn nhiều so với tạp chí.
4.2.Quảng cáo trên truyền hình
Quảng cáo trên truyền hình được biết đến là một phương tiên quảng

cáo hiệu quả nhất và cũng là một trong những phương tiện được các cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng nhất . Bởi lẽ nó là sự kết hợp của âm
thanh,ánh sáng lẫn hình ảnh.Hơn nữa quảng cáo trên truyền hình có khả
năng đưa thông tin đến tất cả các thị trường khác nhau (Thành phố,nông
thôn…) Chúng có thể gây chú ý tới tất cả mọi người không kể giới tính,
tuổi tác,trình độ văn hoá,mức thu nhập và các nền văn hoá. ở Mĩ gần như
nhà nào cũng có TV và thời gian xem TV trung bình trong một ngày là 7
tiếng.Chính vì thế mà chi phí quảng cáo trên TVđược coi là thấp.Quảng
cáo trên TV có những ưu đ ểm nổi bật sau:
Thứ nhất, quảng cáo trên truyền hình dễ khiến người xem nhớ về đặc
đ
ểm của hàng hoá cũng như có thể chứng minh cho khách hàng
những lợi ích của việc tiêu dùng sảm phẩm đó một cách thuyết phục hơn.
Thứ hai,quảng cáo trên truyền hình có thể phác hoạ một cách ấn
tượng hình ảnh người tiêu dùng sảm phẩm đó cách sử dụng sảm phẩm
cũng như chất lượng tuỵệt hảo của sảm phẩm đó.
Thứ ba,phạm vi bao phủ của phương tiện cao, có khả nảng tấn công
vào các thị trường mục tiêu theo lãnh thổ, mặc khác chi phí phần ngàn cho
công chúng nhận tin mục tiêu thấp.
7
Hạn chế của quảng cáo trên TV: Chi phí quảng cáo khá cao cho vịêc
sản xuất và thuê chỗ cho đoạn quảng cáo. Mặc khác chi phí dành cho
quảng cáo trên TV ngày càng cao nhưng thời lượng người tiêu dùng xem
quảng cáo lại giảm dần từ khoảng 90% ở khoảng giữa những năm 70
xuống chỉ còn dưới 60% vào giửa thập niên 90. Mặc khác do tính chất tạm
thời của thông tin và những yếu tố có thể khiến người tiêu dùng dễ sao
lãng trong quá trình xem đoạn quảng cáo mặt hàng đó trong khi đó các
thông tin liên quan đến sảm phẩm không được chú ý tới. Bên cạnh đó thời
gian sống của thông điệp ngắn.
4.3.Quảng cáo trên Radio

Lựa chọn phương tiện quảng cáo phụ thuộc rất lớn vào tính chất của
sảm phẩm cần quảng cáo, vào khách hàng mục tiêu, thời gian và khả năng
tài chính, sự so sánh tương quan giữa các phương tiện trong đó yếu tố chi
phí giữ vai trò quan trọng.
Phí quảng cáo của radio thay đổi theo loại thông tin quảng cáo có thể
theo từng trạm phát. Mặc dù có mức phí cao song Radio vẫn có nhiều ưu
thế làm cho nó rẻ hơn các phương tiện khác . Quảng cáo qua Radio có các
loại hình như bài hội thoại quảng cáo, quảng cáo đơn thuần và xác nhận
của khách hàng . ở Mĩ có 96% người dân từ 12 tuổi trở lên nghe Radio
hàng ngày và trung bình 24h một tuần .
Ưu điểm của quảng cáo qua Radio là có nhiều thính giả , có thể nhắc
đi nhắc lại nhiều lần, tạo khả năng lựa chọn đài phát ở nơi có khách
hàng mục tiêu , thông tin quảng cáo được chuyển tới từng người nghe ,
mặc khác chi phí quảng cáo không cao , thời gian quảng cáo ngắn nhưng
cho phép thu được phản hồi nhanh . Radio là phương tiện đặc biệt hiệu
quả cho việc quảng cáo vào buổi sáng và đóng vai trò bổ trợ và tăng cường
tính hiệu quả của quảng cáo trên truyền hình. Một ưu thế khác của máy thu
thanh so với truyền hình là phát thanh không đòi hỏi “bắt buộc có mặt” sự
8
hoàn toàn chú ý của người nghe , có thể đồng thời nghe đài và làm việc
riêng của mình.
Nhược điểm của quảng cáo qua Radio : Tính lâu bền của thông điệp
thấp, thông tin quảng cáo dễ bị người nghe bỏ qua và không phù hợp với
tất cả các sảm phẩm. Do đó cần có sự hỗ trợ của các phương tiện khác.
Hơn nữa việc thử nghiệm tính hữu ích của quảng cáo qua Radio tương đối
khó thực hiện. Hiện nay trong sự cạnh tranh giữa các phương tiện, Radio
đang mất dần khả năng cạnh tranh và nhiều nhà quảng cáo không muốn
sử dụng phương tiện này vì :Một là các thích giả có liên quan tới mụch
đích quảng cáo là rất ít. Thứ hai, việc phân chia các đài gặp nhiều khó
khăn. Đối với quảng cáo qua Radio thông tin quảng cáo cần phải được lặp

lại nhiều lần để đạt được sự chú ý và sức thuyết phục nhưng lại gặp trở
ngại về vấn đề chi phí. Vì vậy việc dùng Radio có xu hướng giảm.
4.4 Quảng cáo cho phản hồi trực tiếp
Trái với việc quảng cáo trên các phương tiện khác vốn tác động tới
người tiêu dùng một cách không cụ thể và trực tiếp, quảng cáo bằng sử
dụng thư từ, qua điện thoại và các công cụ giao tiếp khác cho phép liên hệ
và có được phản hồi trực tiếp từ những khách hàng cụ thể. Hình thức
quảng cáo cho phản hồi trực tiếp này có nhiều dạng và không chỉ giới hạn
trong thư tín và điện thoại hay thậm chí các phương tiện in ấn và phát
thanh truyền hình truyền thống.
Một phương tiện đang trở nên phổ biến trong Marketing trực tiếp là
phim quảng cáo. Theo quan điểm của Marketing, một đoạn phim quảng
cáo phải cố gắng kết hợp mụch đích bán hàng thương mại cùng với việc
giáo dục và giải trí. Như vậy nó đóng vai trò là cầu nối giữa bán hàng và
quảng cáo qua truyền hình. Các đoạn phim quảng cáo có thể dài ngắn
khác nhau nhưng thường kéo dài 30’. Các phim quảng cáo có thể chiếu ở
rạp hay trên TV. ở nhiều quốc gia việc sản xuất và giới thiệu phim quảng
9
cáo do các đại lý quảng cáo chịu trách nhiệm với sự hợp tác của các hãng
phim quảng cáo. Hãng phim sẽ phải tổ chức thực hiện sản xuất và giao án
bản cho các đại lý. Thông thường tổng chi tính đến khi giao ấn bản đều
được thoả thuận trước. Tuy nhiên chi phí làm phim chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ
trong tổng chi phí quảng cáo qua làm phim . Việc giới thiệu phim đòi hỏi
chi phí tốn kẻm nhất và chiếm phần lớn trong tổng chi phí quảng cáo.
4.5.Quảng cáo ngoài trời
Cũng như truyền hình , biểu ngữ thâm nhập vào mọi nơi nhưng khác
với truyền hình là ở chỗ có giới hạn không gian, điều đó làm cho biểu ngữ
trở thành phương tiện có phần chọn lọc. Các hàng hoá và dịch dụ cũng
được giới thiệu rất chọn lọc và không đồng đều, đối với việc quảng cáo
một số loại hàng hoá các biểu ngữ được dùng rất nhiều. Về quảng cáo

ngoài trời người ta chia thành các loại sau :
Thứ nhất, biểu ngữ trên tường. Đối với biểu ngữ này tất cả các bức
tường, các diện tích có ích cho điều đó đều là những địa điểm tiềm năng
để dán biểu ngữ .
Thứ hai, các bảng chắn đường. Được bố trí ở các trục chính của các
thành phố và các đường vành đai.
Thứ ba, các biểu ngữ quảng cáo trong vận tải. Như xe điện ngầm, ôtô
bus…Ưu điểm của quảng cáo này là chi phí thấp, có sự hiện diện chắc
chắn và bảo đảm nhắc lại thường xuyên, phạm vi hoạt động lớn, thời gian
hiện diện lâu, có khả năng giới thiệu nội dung dài. Tuy nhiên loại quảng
cáo này chỉ có tác động lớn đối với những người thường sử dụng các
phương tiện giao thông công cộng và ít hiệu quả đối với những người
giàu, có phương tiện riêng mà họ thường là các nhà lãnh đạo, các doanh
nhân thành đạt…Mặc dù vậy phương tiện này có nhiều tiềm năng về hệ
thống vận tải công cộng mở rộng và tập trung vào những thành phố đông
10
dân, hơn nữa ở các nước mà phương tiện mẫu và truyền tin mới chỉ tập
trung ở các vùng đô thị.
4.6. Quảng cáo khác
4.6.1. Quảng cáo tại điểm mua hàng
Trong những năm gần đây, quảng cáo tại điểm mua hàng rất hay
được các cửa hàng, siêu thị, nhà hàng sử dụng. Quảng cáo trong các của
hàng bao gồm quảng cáo trên xe đẩy, trên lối đi , trên giá cũng như cách
thức trình bày trong cửa hàng, mẫu hàng sống hay máy bán phiếu tự động.
Tính hẫp dẫn của quảng cáo tại điểm mua hàng là ở chỗ người tiêu dùng
phần lớn có quyết định cuối cùng cho việc lựa chọn sảm phẩm ngay tại
cửa hàng. Ví dụ, theo một nghiên cứu do công ty actmedia, công ty đã
thực hiện quảng cáo cho 7000 siêu thị khắp đất nước thì 70% quyết định
mua hàng được tạo ra ngay trong cửa hàng. Vậy các biện pháp quảng cáo
trong cửa hàng được thực hiện nhằm tăng cường số lượng kích thích bản

chất bột phát hay có kế hoặch trước của các quyết định mua hàng.
4.6.2.Quảng cáo qua bao bì sảm phẩm
Bao bì là một bộ phận của sảm phẩm, đồng thời cũng là một hình
thức quảng cáo và nó đóng một vai trò quan trọng trong việc xúc tiến bàn
hàng. Đây là một nhân tố không thể thiếu được để nâng cao khả năng tiêu
thụ . Bao bì đựng là một phương tiện quảng cáo , vì hình ảnh của sảm
phẩm trong mắt người tiêu thụ, trên mức độ nhất định do sự hấp dẫn của
bao bì. Các nhà quảng cáo sử dụng bao bì sảm phẩm như là một phương
tiên truyền tải những thông tin về nhà sản xuất , nhãn hiệu thương mại ,
về các yếu tố cấu thành và giá trị sử dụng của chính sảm phẩm.
Bao bì là một công cụ để thực hiện chính sách đa dạng hoá sảm
phẩm. Bao bì đẹp và tốt có thể giúp cho sảm phẩm có được không gian
trên giá để trưng bày, xếp đặt hơn là những sảm phẩm có bao bì không
11
thích hợp và hấp dẫn. Chính vì vậy làm cho sảm phẩm mở rộng diện tiếp
xúc với khách hàng và tăng cơ hội bán sảm phẩm.
5.Vài nét về hoạt động quảng cáo tại Việt Nam
5.1 Sơ bộ về quảng cáo tại Việt Nam
Qua hơn một thập niên hình thành và phát triển, quảng cáo Việt Nam
đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp một phần không nhỏ và
sự phát triển chung của đất nước, góp phần vào ngân sách quốc gia tuy
không nhiều khoảng 0.05%/GDP hỗ trợ mạnh mẽ cho các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh quảng cáo các sản phẩm của mình đến khách hàng,
đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ , đồng thời giải quyết việc làm cho
lực lượng lao động trong xã hội. Đặt biệt hình thành một nền công nghiệp
quảng cáo theo xu hướng phát triển chung của toàn cầu.
Tuy lĩnh vực quảng cáo mới chỉ trong giai đoạn manh nha, so với tuổi
đời của các nước còn quá non trẻ. Nhưng bằng chính sự nỗ lực vươn lên
với khẩu “ hiệu đi tắt đón dầu” quảng cáo Việt Nam đã nhanh chóng theo
kịp công nghiệp quảng cáo của các nước trong khu vực (như Thái Lan,

Malaixia …) ngoài ra quảng cáo Việt Nam có được như ngày hôn nay là
kể đến sự hỗ trợ hợp tác nhiệt tình của đội ngũ chuyên gia quảng cáo đặt
biệt là được sự quan tâm của các cơ quan chức năng có liên quan (Bộ
thương mại , Bộ kế hoặch và đầu tư, Bộ văn hoá thông tin…).
Có thể khẳng định rằng trong những năn qua quảng cáo việt Nam đã
không ngừng lớn mạnh cả về mặt lượng và chất. Số lương các công ty hoạt
động trong lĩnh vực này ngày càng nhiều. Nếu như vào đầu thập niên 90
số lượng các công ty quảng cáo chỉ chiếm con số nhỏ khoảng ngần 100
công ty thì nay đã nên đến con số gần 1000 công ty. Qua kết qủa này cho
thấy quảng cáo không chỉ là một nghề đơn thuần mà nó đã trở thành một
nghành quảng cáo, một nghành mà đảng mà nhà nước ta xác định là mũi
nhọn của nền kinh tế . Mặc khác , chúng ta thấy được nhu cầu cũng như sự
12
cấp thiết quảng cáo của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh . Theo sở
kế hoặch và đầu tư thì trung bình mỗi năm có khoảng hơn 20000 doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh.
Đại đa phần các công ty quảng cáo của Việt Nam là những công ty
vừa và nhỏ, vốn ít, chỉ kinh doanh một phần, hoặc một số công đoạn của
quảng cáo . Ví dụ, quảng cáo ngoài trời (pano, apphich, tờ phướm …)
quảng cáo trên truyền hình …Còn các công ty quảng cáo chuyên nghiệp
chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ , công ty này có khả năng đảm nhiệm toàn bộ các
mảng có liên quan tới hoạt động quảng cáo .Những công ty này thông
thương được sự giúp đỡ , cộng tác của các chuyên gia nước ngoài , được
trang bị máy móc hiện đại.
Về mặt chất, các công ty quảng cáo Việt Nam phần lớn là do các nhà
doanh nghiệp trẻ làm chủ, họ là những người năng động nhiệt tình say mê
công việc, có khả năng nắm bắt và phản ứng nhanh trước những thay đổi
của thị trường ,nhanh chóng đưa ra những chiến lược hợp lý nhằm chiếm
lĩnh thị phần . Với đội ngũ quảng cáo trẻ hoá đã tiếp sức một phần cho
nghành quảng cáo Việt Nam ngày càng đi lên. Trong những năn ngần đây

chất lượng của chương trình quảng cáo ngày được nâng lên rõ rệt , từ chỗ
các chương trình cần đến sự giúp đỡ của các chuyên gia nước ngoài nay
các công ty có thể tự làm các chương trình quảng cáo với chất lượng cao
theo kết quả điều tra cho thấy khi được hỏi người tiêu dùng về chất lượng
quảng cáo thì họ cho rằng chất lượng chương trình quảng cáo ngày càng
nâng lên tuy nhiên còn có một số vấn đề chưa được như không đúng văn
hoá, gây phản cảm . Sự phát triển cả về mặt lượng lẫn mặt chất đã tạo cho
bộ mặt quảng cáo Việt nam không ngừng lớn mạnh.
Cùng với các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam là sự xuất hiên của
các công ty quảng cáo nước ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau như
liên doanh liên kết , thành lập các văn phòng đại diện với mụch đích khai
13
thác các hợp đồng ở trong nước rồi chuyển sang nước sở tại để làm phim.
Do vậy, chất lượng chương trình tốt hơn. Đây thực sự là một thách thức
lớn cho các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam.
Như vậy sự phát triển của quảng cáo là tất yếu khách quan, nó đóng
một vai trò quan trọng, không có nó chẳng khác nào “có mặt trăng mà
không có mặt trời”. Nhưng cũng cần phải nhìn nhận rẳng trong quá trình
hoạt động của mình nghành quảng cáo Việt nam có nhiều thuật lợi để phát
triển.
5.1.1.Những mặt thuật lợi của quảng cáo Việt nam
Thứ nhất, môi trường kinh tế có nhiều thuật lợi cho sự phát triển của
nghành quảng cáo . Nền kinh tế Việt nam đang trong đà phát triển , mặt dù
mức sống còn thấp nhưng với nhiều chủ trương và chính sách tích cực
đúng đắn của nhà nước đã thu hút nhiều đầu tư , tạo động lực cho sự phát
triển của nền sản xuất, mức sống người dân không ngừng được cải thiện
và nâng lên , nhu cầu ngày càng đa dạng và cao cấp hơn. Đây là điều kiện
để phát triển sức sản xuất và nhu cầu quảng cáo của các doanh nghiệp, hứa
hẹn một thị trường đầy tiềm năng cho nghành quảng cáo.
Thứ hai, nghành quảng cáo Việt Nam tuy ra đời muộng màng nhưng

đã kịp thời tiếp cận với kỹ thuật và kinh nghiệm quảng cáo tiên tiến của
thế giới. Theo chân các đại gia trong làng quảng cáo thế giới vào Việt
Nam những phương tiện tiên tiến cũng theo vào , nghành quảng cáo Việt
Nam có cơ hội học hỏi kinh nghiệm trong kỹ thuật sản xuất quảng cáo trên
mọi phương tiện, được tiếp cận với các phương tiện cực kỳ hiện đại. Điều
quan trọng là thông qua việc học hỏi ,trao đổi thực tế đã đào tạo và hình
thanh một đội ngũ những người làm quảng cáo , một nghề còn rất mới
mẻ nhưng đầy sức hấp dẫn và sự sáng tạo .
Thứ ba, nghành quảng cáo Việt nam được sự hỗ trợ của nhà nước.
Các công ty quảng cáo nươc ngoài chưa được phép quảng cáo chính thức
14
tại Việt Nam. Có thể nói đây là sự bảo hộ cho nghành quảng cáo ở trong
nước. Các doanh nghiệp sản xuất củng được hưởng chế độ về giá quảng
cáo trên các phương tiện nhằm khuyến khích họ quảng cáo cho sảm phẩm
của Việt Nam . Một số doanh nghiệp đã tận dụng ưu đãi này và đầu tư rất
tốt cho chương trình quảng cáo. Đây là điểm thuận lợi cho các công ty
quảng cáo Việt nam.
Thứ tư, quảng cáo Việt Nam được thực hiện với chi phí thấp , so với
các nước ở trong khu vực như Thái Lan, Singapore, chi phí sản xuất và
thuê phương tiện ở Việt Nam rẻ hơn nhiều , do tiền lương và các khoản
chi phí khác thấp.
Thứ năm, cơ sở hạ tầng và các phương tiện truyền thông khác đang
phát triển. Sự phát triển về lượng và chất các phương tiện truyền thông tại
Việt Nam đang gia tăng, sẽ tạo sự lựa chọn phong phú hơn cho các doanh
nghiệp khi tiến hành quảng cáo và đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh
hơn cho các công ty quảng cáo.
5.1.2.Những mặt hạn chế của quảng cáo Việt Nam
Thứ nhất, quảng cáo Việt Nam phát triển mạnh nhưng là sự sự
phát triển không cân đối, thiếu quy hoặch thị trường còn nhỏ bé. Do sự
thay đổi trong nhận thức về vai trò của quảng cáo , các doanh nghiệp đều

có sự đầu tư cho hoạt động quảng cáo dẫn tới nhu cầu quảng cáo của các
doanh nghiệp tăng mạnh , lợi nhuận từ hoạt động quảng cáo khá hấp dẫn ,
dẫn tới việc bùng nổ trong kinh doanh quảng cáo nhiều đơn vị, tổ chức
tham ra vào thị trường này với quy mô khác nhau và tính chất chuyên
nghiệp ngày càng khác nhau. Các chủ phương tiện truyền thông quảng cáo
cũng thưc hiện các chức năng quảng cáo , làm cho nghành quảng cáo Việt
Nam có thể phát triển theo hướng chuyên nghiệp . Hiện tượng trên đã làm
mất cân đối nhiều mặt trong quảng cáo , Mất cân đối giữa các loại hình
quảng cáo ,quảng cáo biểu bảng dễ làm , xuất hiện hiện tượng phát triển tự
15
phát, bung ra tràn nan, giành giật lấy khách hàng, hạ thấp giá gây tình
trạng hỗn loạn. lĩnh vực quảng cáo truyền hình có thể nói do công ty nứơc
ngoài thao túng . Nhưng việc sản xuất các chương trình quảng cáo lại
được thực hiện ở nước ngoài . Do đó một nguồn lợi khá lớn đã chảy ra
khỏi nước từ hoạt động yếu kém này. Sự mất cân đối còn thể hiện ở nhóm
sảm phẩm quảng cáo chủ yiếu là sảm phẩm tiêu dùng , thực phẩm mà đại
đa số là của công ty liên doanh hoặc nước ngoài. Điều này cho thấy quy
mô, sức mua của thị trường còn quá nhỏ , trong khi đó ở nước ngoài tập
trung vào sảm phẩm cao cấp (dịch vụ,giải trí, ngân hàng…)
Sự mất cân đối trong các nghành quảng cáo thẻ hiện khá rõ
trong mỗi tương quan lực lượng giữa công ty Việt Nam với công ty nước
ngoài. Chênh lệch khá lớn về số lượng và doanh số quảng cáo của công ty
quảng cáo trong nước và nước ngoài , chênh lệch về thế lực và tài lực,
kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực quảng cáo. Việt Nam thực tế đảm
nhận 20% công việc trong nghành, 80% còn lại rơi vào công ty quảng cáo
nước ngoài , đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Có thể nói rằng nghành
quảng cáo Việt Nam đang bị các công ty nước ngoài thao túng.
Mặc khác tuy có phát triển nhưng so với các nước ở trong khu
vực có doanh số hàng tỉ USD mỗi năm (Thái Lan, Trung Quốc…) thị
trường quảng cáo Việt Nam còn rất nhỏ bé , còn một khoảng cách khá xa,

chỉ mới trong giai đoạn đầu hình thành.
Thứ hai. Nguồn nhân lực trong nghành quảng cáo còn rất yếu.
Quảng cáo thu hút lực lượng tham ra rất nhiều. Nhưng đội ngũ quảng cáo
chuyên nghiệp hiện thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Việt Nam chưa
có một trường nào đào tạo nghành quảng cáo . Đội ngũ hiện tại chỉ học hỏi
qua kinh nghiệm và qua làm việc với các chuyên gia nước ngoài ,tự tìn tòi
là chính, điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến tính sáng tạo của công việc, một
yếu tố cơ bản của nghề quảng cáo. Do tính chuyên nghiệp chưa cao nên
16
các công ty quảng cáo của việt Nam chấp nhận làm việc từng phần hoặc
gia công cho công ty quảng cáo nước ngoài để nhận % khoản hoa hồng ít
ỏi.
Hiện nay hiện tượng thu hút chất xám về phía các công ty
quảng cáo nước ngoài trở thành khó khăn lớn cho công ty quảng cáo trong
nước. Để thực hiện các mẫu có tính việt hoá cao cho thị trường Việt Nam
các công ty nước ngoài thường đưa ra mức lương hậu hĩ cao hơn rất nhiều
so với các công ty quảng cáo Việt Nam để thu hút quảng cáo của nhân
viên người Việt. đã có kinh nghiệm trong nghề điều này làm cho các công
ty quảng cáo Việt Nam đã khó khăn lại càng khó khăn hơn .
Thứ ba, cơ sở vật chất kỷ thuật Việt Nam còn lạc hậu so với các
nước. Đa số các công ty quảng cáo Việt Nam đều hạn ché về vốn và cơ sở
vật chất, họ khó có thể đầu tư cho các phương tiện kỹ thuật chuyên nghiệp,
đầu tư dài hạn cho đào tạo nhân lực, đa số chỉ quảng cáo ngoài trời,
quảng cáo phim có giá trị thấp. Nguồn vốn có hạn nên các công ty quảng
cáo Việt Nam không thể đảm nhận hợp đồng có giá trị cao từ khách hàng
lớn. Chính vì điều này này đã kéo các chủ quảng cáo sang công ty quảng
cáo nước ngoài dù giá cao nhưng chất lượng tốt.
Thứ tư, công tác quản lý nhà nước về quảng cáo còn những bất
cập. Việt Nam có một số văn bản quản lý quảng cáo nhưng những quy
định còn cụ thể, chồng chéo, gây lúng túng cho các công ty quảng cáo.

Việc quản lý quảng cáo không đồng bộ thiếu thống nhất trong cả nước.
Tạo sự bất nghiêm trong thực thi phát luật quảng cáo. Ngoài ra trình độ
của cán bộ quản lý quảng cáo còn nhiều hạn chế vì đây là lĩnh vực quản lý
vĩ mô khá mới mẻ trong hệ thống nhà nước.
5.1.2.Nguyên nhân
Tình trạng tồn tại những mặt hạn chế trên là xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, sau đây là một số nguyên nhân chính.
17
Một là, về phía các đơn vị kinh doanh quảng cáo :dù chiếm số
lượng lớn nhưng hầu như thiếu sự gắn kết, hợp tác giỡa các đơn vị quảng
cáo trong nước để cùng tồn tại và phát triển , vì lợi ích riêng của mình
mạnh ai lấy làm , cạnh tranh giành giật khách hàng, giành hợp đồng quảng
cáo đẩy giá hoa hồng liên tục giảm.Trong bối cảnh cạnh tranh không cân
sức với các công ty quảng cáo đầy kinh nghiêm nước ngoài. Các công ty
quảng cáo Việt Nam chưa tập trung đầu tư cho con người. Yếu tố con
người giữ vai trò quyết định trong quảng cáo ,bởi lẽ khoa học kỹ thuật và
vốn đầu tư trong nghành quảng cáo không phải là vấn đề nan giải , vấn
đề là cần những con người thực sự giỏi về kỹ thuật quảng cáo , am hiểu thị
trường và tâm lý người Việt Nam.
Hai là, về phía cơ quan quản lý. Cơ quan quản lý nhà nước chưa
nhận thức hết vai trò của quảng cáo trong nền KTTT, chưa tạo điều kiện
và định hướng cho quảng cáo phát triển. Xem hoạt động quảng cáo như là
thông tin văn hoá hơn là hoạt động kinh tế có yếu tố văn hoá .Do đó chưa
có hỗ trợ cho nghành quảng cáo phát triển. Bô máy quản lý nhà nước về
quảng cáo chưa đủ mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng để có thể quản lý
tốt nghành.Việc soạn thảo và ban hành các văn bản mang tính chất hướng
dẫn còn chậm, không rõ ràng. Mặt khác chưa thành lập các tổ chức chuyên
nghiệp, hiệp hội để đưa ra tiêu chuẩn về quảng cáo và thẩm định nội dung
quảng cáo.
Ba là, về phía các chủ quảng cáo. nhận thức và đầu tư cho quảng

cáo của các chủ quảng cáo chưa đúng mức. Việc thực hiện quảng cáo của
công ty Việt Nam còn hạn chế nhất định, từ việc nghiên cứu ban đầu, lên
kế hoặch, đến tổ chức thực hiệnvà đánh giá hiệu quả. Nội dung và hình
thức quảng cáo còn đơn điệu, thiếu đầu tư theo chiều sâu để thể hiện
quảng cáo qua hình ảnh, từ ngữ, biểu tượng hoặc vi phạm đạo đức trong
quảng cáo. Đầu tư thì đã có nhưng chưa hiệu quả . Đa các công ty chưa
18
quan tâm và thực hiện các cuộc nghiên cứu thị trường , nghiên cứu
phương tiện để lựa chọn quảng cáo hữu hiệu. Thực hiện quảng cáo tự làm
hoặc ưu tiên lựa chọn công ty quảng cáo rẻ tiền hoặc ký hợp đồng thẳng
với báo đài. chính những điều trên đã hạn chế rất nhiều đến nội dung và
cách thể hiện quảng cáo của doanh nghiệp Viêt Nam.
19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG MARKETING MIX TẠI TRUNG TÂM KHAI
THÁC VÀ SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH HÀ NỘI
I. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP TRUNG TÂM
Trung tâm khai thác- Sản xuất chương trình là đơn vị của công ty
dịch vụ truyền thanh- truyền hình Hà Nội thuộc loại hình doanh nghiệp nhà
nước. Trung tâm được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01
tháng 11 năm 2003.
1. Cấu trúc tổ chức của trung tâm.
Trung tâm được chia ra làm 4 phòng gồm: Phòng quảng cáo và dịch vụ
truyền hình, phòng hành chính, phòng biên tập, biên dịch, phòng kỹ thuật.
Mỗi phòng ban có chức năng nhiệm vụ riêng.
Thứ nhất, phòng quảng cáo và dịch vụ truyền hình. Chức năng tìm
hiểu giao dịch, đàm phán để trình cấp có thẩm quyền, ký hợp đồng và triển
20
Trung
tâm khai thác v à

s n xu t ả ấ
ch ng trìnhươ
Phòng qu ng cáo ả
v dich v truy n à ụ ề
hình
Phòng hành chính
Phòng biên t p, ậ
biên d ch ị
Phòng kỹ thuật
khai thực hiện các hợp đồng sản xuất kinh doanh, theo dõi, quản lý hệ
thống các văn phòng đại diện.
Thứ hai, Phòng hành chính. Chức năng quản trị, văn thư lưu trữ, kế
hoạch lao động, tiền lương, tài chính kế toán tổng hợp.
Thứ ba, Phòng biên tập, chức năng, biên tập, biên dịch đạo diễn các
phương trình truyền hình, chịu trách nhiệm về nội dung của các chương
trình.
Thứ tư, phòng kỹ thuật, chức năng, quản lý, bảo quản, vận hành hoạt
động của hệ thống các trang thiết bị sản xuất ( kỹ thuật tiêu kỳ, hậu kỳ,
thiết kế, kỹ sảo) và tư liệu truyền hình.
2. Phương thức hoạt động sản xuất kinh doanh của trung tâm:
Trung tâm hoạt động theo phương thức hoạch toán báo số theo đúng
quy định của luật pháp, chính sách nhà nước và quy chế biện hành của
công ty.
Trung tâm chủ động giao dịch, đàm phám, triển khai thực hiện các
hợp đồng sản xuất kinh doanh trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và phải
nộp nghĩa vụ với công ty, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với dự án sản xuất phim, sản xuất chương trình quảng
cáo do trung tâm thực hiện phải ký hợp đồng với đơn vị có nhu cầu (khách
hàng) và dự trữ kinh phí, quy định tạm thời về chế độ nhuận bút và thanh
toán tài chính, làm chương trình phải trình giám đốc trước khi thực hiện.

Thứ hai, dịch vụ quảng cáo phải thực hiện đúng quy chế cơ quan, tổ
chức dịch vụ hoạt động quảng cáo ( Đài phát thanh truyền hình Hà Nội, Đài
truyền hình Việt Nam, các đài địa phương).
Thứ ba, trung tâm được phép thành hợp quỹ tiền lương tiền thưởng,
dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi..... phù hợp với quy chế của công ty theo
21
hướng dẫn của phòng kế toán tài chính và được giám đốc của công ty chấp
thuận các phương án do trung tâm trình.
3. Chức năng và nhiệm vụ của trung tâm:
Trung tâm có các chức năng và nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, khai thác sản xuất các chương trình truyền hình cung ứng
theo yêu cầu trên kênh truyền hình cáp của đài phát thanh truyền hình Hà
Nội (HCTV)
Thứ hai, sản xuất chương trình truyền hình, các sản phẩm nghe nhìn
theo đơn đặt hàng của các đơn vị cá nhân trong và ngoài nước.
Thứ ba, phát hành, in sao, băng đĩa các loại.
Thứ tư, cho thuê phương tiện, thiết bị sản xuất chương trình truyền
hình.
Thứ năm, dịch vụ phát quảng cáo trên các đài phát thanh truyền hình
của nước .
Thứ sáu, tiếp nhận quảng cáo trên kênh HCTV ( truyền hình cáp Hà
Nội).
II. KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
Trung tâm mới đi vào hoạt động được gần một năm so sánh với tuổi
đời các công ty quảng cáo khác là còn non trẻ, tuy nhiên trung tâm đã
chứng tỏ cho lớp đàn anh để trước mình không thua kém gì họ. Trong thời
gian hoạt động trung tâm đã đạt được những kết quả đáng khả quan, điều
này được phản ánh qua kết quả kinh doanh.
Doanh thu trong 6 tháng đầu năm 2003 của trung tâm đạt 676.924.000đ
Doanh thu cả năm 1.545.095.000đ

Trung tâm đã sản xuất được tám phiếu quảng cáo, đăng ký mười bốn
phiếu phát sóng quảng cáo, sản xuất hai mươi phim phóng sự, một chương
trình liên hoan.
22
Để đạt được những thành công trên là nhờ vào nhiều yếu tố trong đó
có cả yếu tố khách quan lẫn chủ quan.
Yếu tố khách quan:
Thứ nhất, trên thị trường hiện nay còn khá hiếm các đơn vị sản xuất
chương trình truyền hình chuyên nghiệp có đủ tư cách pháp nhân và trung
thiết bị sản xuất chương trình theo yêu cầu, hầu hết trong số các công ty chi
chuyển làm về một máy truy lĩnh việc quảng cáo.
Thứ hai, nền kinh tế hàng hoá càng phát triển thì nhu cầu quảng cáo
của các doanh nghiệp ngày càng nhiều. Ngày nay quảng cáo đóng một vai
trò khá quan trọng và là một công cụ kinh doanh không thể thiếu được đối
với cá nhân, tổ chức, (bao gồm tổ chức chính phủ và phi chính phủ ) hoạt
động kinh doanh. Quảng cáo là một chiếc cầu nối giữa nhà sản xuất và
người tiêu dùng thông qua các thông điệp quảng cáo mà nhà sản xuất muốn
truyền đạt tới khách hàng bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tung sản phẩm
mới ra thị trường họ đều tiến hành hoạt động quảng cáo nhằm giới thiệu
sản phẩm của mình tới công chúng qua đó hứa hẹn họ sẽ đón nhận sản
phẩm của mình. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh trở lên
khốc liệt hơn do vậy nhu cầu về quảng cáo càng trở nên bức thiết hơn bao
giờ hết.
Thứ ba, mức sống chung toàn xã hội được nâng cao do vậy nhu cầu
về sản xuất các chương trình vui chơi, giải trí, chương trình phim truyền
thống đã được những cơ quan tổ chức, công ty, trường đại học đặt ra.
Những yếu tố chủ quan:
Được sự quan tâm ưu ái, tin tưởng của lãnh đạo công ty, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ nhân viên và cộng tác viên trẻ, năng động, nhiệt tình, được
đào tạo đúng chuyên nghành, đồng tâm hiệp lực, sẵn sàng chịu khó khăn để

hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
III.PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
23
1.Môi trường vĩ mô
1.1.Môi trường kinh tế
Nền kinh tế càng phát triển thu nhu cầu quảng cáo của các cá nhân,
tổ chức ngày càng nhiều ( bao gồm tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước)
điều đó có nghĩa nhu cầu quảng cáo tỷ lệ thuận với sự phát triển kinh tế
đất nước. Quảng cáo ngày càng đóng một vai trò quan trọng bởi tính hữu
ích của nó mang lại, tính hữu ích ở chỗ là vừa có lợi cho nhà sản xuất,
khách hàng và hơn thế nữa là xã hội. Như ta đã biết bất cứ một doanh
nghiệp nào khi trung tâm sản phẩm mới ra thị trường công việc đầu tiên
mà doanh nghiệp phải làm là tiến hành quảng cáo sản phẩm tới công
chúng nhận tin ( bao gồm khách hàng mục tiêu và những người ảnh
hưởng) qua đó tạo dựng niềm tin với khách hàng và thúc đẩy động cơ mua
sắm. Quảng cáo không chỉ giúp doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm mà còn
nâng cao uy tín, hình ảnh công ty trên thị trường.
Như vậy hoạt động quảng cáo là cần thiết, nó có thể được bỏ ra một
khoản kinh phí khá lớn giành cho quảng cáo. Thị trường quảng cáo đang
nóng dần lên, đây là một cơ hội tốt cho các cá nhân, tổ chức nhảy vào cuộc
chơi cùng nhau chia sẽ phần thị trường.
1.2.Môi trường chính trị - luật pháp.
Môi trường chính trị luật pháp có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản
xuất kinh doanh không chỉ riêng gì Trung tâm mà còn cả các doanh nghiệp
khác. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính trị cũng ảnh hưởng ít nhiều đến
công ty chẳng hạn sự thay đổi về nhân sự trong bộ máy lãnh đạo, nội
chiếu, sự tranh chấp giữa các đảng phái hoặc sự thay đổi chính sách,pháp
luật, buộc công ty cũng phải điều chỉnh theo để thích ghi. Để đảm bảo sự
ổn định và phát triển nhà nước phái ban hành pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ trong xã hội. Đứng trên góc độ quảng cáo với sự ra đời và phát

triển mạnh mẽ quảng cáo cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều công ty
cơ sở quảng cáo thì việc nhà nước ban hành pháp luật quy định về hoạt
24
động quảng cáo là một tất yếu. Dĩ nhiên là các văn bản này có tác động tới
các hoạt động kinh doanh của công ty.
Trong nền kinh tế thị trường đặc biệt trong xu thế hội nhập nền kinh tế
quốc tế phạm vi cạnh tranh không chỉ diễn ra giứa các ngành nghề mà
trong nội bộ ngành. Trong đó trung tâm không nằm ngoài ngoại lệ. Ngày
nay khi mà mức sống với người dân không ngừng được cải thiện và nâng
lên với hoạt động vui chơI giải trí thì nhu cầu quảng cáo của các doanh
nghiệp này ngày càng nhiều đây là điều kiện thuận lợi để trung tâm có thể
duy trì và khai thác.
1.3.Môi trường công nghệ
Công nghệ đóng một vai trò tối quan trọng, có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và là công cụ hữu hiệu
được sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Bởi lẽ một công nghệ hiện đại
tiên tiến sẽ góp phần tăng năng xuất lao động, giảm giá thành sản phẩm,
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu khách hàng cũng thay đổi.
Do đó đổi mới công nghệ là tất yếu khách quan. Để đổi mới công nghệ
doanh nghiệp có thể tự chế tạo, sản xuất, hoặc thuê ngoài theo hình thức
chuyển giao công nghệ ( Chủ yếu là công nghệ nước ngoài )
Cũng như các công ty kinh doanh trong lĩnh vực quảng cáo thì
công nghệ có ý nghĩa đặt biệt đối vơí Trung tâm. Để từng bước hoàn thiện
nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu khách hàng Trung tâm đã
không ngừng hiện đại hoá máy móc trang thiết bị sản xuất nhưng do hạn
chế về mặt tài chính nên khả năng mua sắm máy móc thiết bị có phần nào
bị hạn chế. Do không có đủ các trang thiết bị xuất nên có một số hợp
đồng quảng cáo mà trung tâm bỏ qua. Điểm hình là trong thời gian vừa
qua Trung tâm có ký được hợp đồng về quảng cáo sữa. Mọi công đoạn

trong quá trình sản xuất đều hoàn thành tốt ( Từ khâu viết kịch bản, biên
tập, biên dịch, quay phim ) nhưng đến phần xử lý hình ảnh thì lại kém do
25

×