Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Quy luật của tư duy dưới góc nhìn logic biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






ĐẶNG HÀ CHI




QUY LUẬT CỦA TƯ DUY
DƯỚI GÓC NHÌN LOGIC BIỆN CHỨNG







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC















HÀ NỘI – 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







ĐẶNG HÀ CHI






QUY LUẬT CỦA TƯ DUY
DƯỚI GÓC NHÌN LOGIC BIỆN CHỨNG



CHUYÊN NGÀNH : TRIẾT HỌC
MÃ SỐ : 602280




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ANH TUẤN







HÀ NỘI - 2009

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………… 1
1. Lý do chọn đề tài…………………………….…………………… 1
2. Tình hình nghiên cứu……………………… ……………………… 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 9
6. Đóng góp của luận văn 9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 9
8. Kết cấu của luận văn 9
CHƯƠNG 1 : BẢN CHẤT, CÁC LOẠI HÌNH VÀ QUY LUẬT CỦA
TƯ DUY 10
1.1. Nguồn gốc và bản chất của tư duy 10

1.1.1.Hoạt động thực tiễn - cơ sở của tư duy con người 11
1.1.2. Bản chất xã hội của tư duy con người 16
1.2. Các loại hình tư duy 23
1.2.1. Những đặc điểm của tư duy hình thức………………… ….23
1.2.2. Những đặc điểm của tư duy biện chứng……………….….27
1.2.3. Về nội dung đặc thù của tư duy…………………………… 34
1.3. Quy luật của tư duy…………… 42
3.1.1. Bản chất và quy luật của tư duy 42
3.1.2. Về quy luật cơ bản của tư duy 46
CHƯƠNG 2 : NỘI DUNG VÀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC QUY LUẬT
TƯ DUY 50
2.1. Hai hình thức thể hiện của quy luật cơ bản của tư duy 50
2.1.1. Quy luật đồng nhất - biểu hiện riêng của quy luật cơ bản 50
2.1.2. Quy luật mâu thuẫn - hình thức biểu hiện chung của quy
luật cơ bản 59
2.2. Quy luật loại trừ cái thứ ba và quy luật thêm vào cái thứ ba 72
2.2.1. Quy luật loại trừ cái thứ ba……………………………… 72
2.2.2. Quy luật thêm vào cái thứ ba với việc giải quyết một số
mâu thuẫn xác định (dạng riêng)……………………… ……….…75
2.2.3. Quy luật thêm vào cái thứ ba như là thể hiện chung của sự
thống nhất các mặt đôi lập (dạng chung)………………… ….82
2.3. Quy luật cơ sở, tương quan giữa quy luật logic và quy luật
biện chứng ……………………………………………………… 87
2.3.1. quy luật cơ sở…………………………………………………87
2.3.2. Về tính đặc thù của các quy luật biện chứng……….…… …94
KẾT LUẬN…………………………… ……………………………………98
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….….101


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi khoa học ngoài việc làm rõ vấn đề đối tượng nghiên cứu riêng thì đều
phải lấy việc nhận thức các quy luật của lĩnh vực đối tượng đó làm mục đích của
mình. Vì thế sau việc xác định được đối tượng của mình thì mọi khoa học đều cần
phải khảo sát các quy luật làm cơ sở và chi phối sự tồn tại, vận động của đối tượng
đó, lôgic học cũng không là ngoại lệ. Đối tượng của môn khoa học này đã được
thống nhất xác định từ lâu khá rõ ràng - đó là “các hình thức và quy luật của tư duy
đúng đắn dẫn đến chân lý”. Ngay ở sự xác định đối tượng của lôgíc học đã rõ một
trong những nhiệm vụ của nó là “nghiên cứu quy luật của tư duy”. Nhưng trong
việc nghiên cứu các quy luật tư duy cần phải phân biệt các quy luật của chính các
hiện tượng tác động một cách khách quan với các quy luật phản ánh chúng vào ý
thức con người nhận thức các quy luật đó.
Như vậy, lôgíc học phải nghiên cứu dường như cả hai loại quy luật, trong khi
phần lớn các khoa học khác chỉ nghiên cứu các quy luật khách quan thuộc về khách
thể. Nói khác, lôgíc học cần phải làm rõ cơ sở khách quan (nguyên mẫu) của các
quy luật lôgíc tác động trong tư duy con người. Sau khi được khám phá thì các quy
luật này, cũng như các quy luật tự nhiên đối với các khoa học chuyên ngành, trở
thành đối tượng nghiên cứu chuyên môn của lôgíc học. Chúng cần được phát biểu
chính xác, được xác định miền tác động, tính chất mối quan hệ giữa chúng với
nhau và với những tính quy luật vốn là nguyên mẫu của chúng… Xung quanh
những vấn đề này hiện vẫn còn những ý kiến khá phân tán. Một số học giả cho
rằng, chỉ có một quy luật cơ bản của tư duy nhưng biểu hiện sự tác động của mình
khác nhau trong các loại hình tư duy và quy luật của tư duy chỉ là sự phản ánh tính
quy luật nào đó của hiện thực khách quan vào đầu óc con người; số khác lại cho
rằng, số quy luật đó là khá nhiều và không như nhau trong các loại hình tư duy,
ngoài những quy luật tư duy là sự phản ánh những tính quy luật của hiện thực
khách quan, thì còn có những quy luật đặc thù chỉ riêng của tư duy; có ý kiến phủ

2

nhận tính khách quan của quy luật tư duy Có ý kiến thì hạn chế, có ý kiến lại mở
rộng thái quá địa bàn tác động của một quy luật tư duy nào đó.
Sự đa dạng của những ý kiến đó đều bắt nguồn từ những cách hiểu khác nhau
về bản chất, các loại hình và cấu trúc của tư duy. Đến lượt mình, những cách hiểu
khác nhau đó lại dẫn đến sự thiếu thống nhất khi luận bàn về vị trí, chức năng và
nhiệm vụ của từng phân môn lôgíc học nghiên cứu về tư duy nói chung, và các quy
luật của nó nói riêng. Do vậy, để soi tỏ ngọn ngành những bất đồng và phần nào đề
ra phương hướng hoá giải chúng, chúng tôi cho rằng, cần phải khảo sát lại quy luật
của tư duy ở hai môn lôgíc học hình thức và lôgíc học biện chứng cùng quan hệ
giữa chúng. Điều kiện quan trọng cho sự khảo sát đạt kết quả là phải đứng vững
trên lập trường lôgíc học biện chứng để hiểu rõ hơn về nguồn gốc, bản chất của
từng loại quy luật, về sự tác động của chúng ở những địa bàn hoạt động tư duy
khác nhau, cũng như về thực chất các quan điểm khác nhau đối với các vấn đề đó.
Kết quả của sự khảo sát mà chúng tôi dự định tiến hành trong luận văn này chỉ có ý
nghĩa làm cơ sở cho việc hiểu các quy luật tư duy và các môn lôgíc học nghiên cứu
chúng chính xác, nhất quán, toàn diện và hệ thống hơn, chứ tuyệt đối không mang
tính quy kết so sánh hơn kém giữa hai môn lôgic học này.
Nói riêng về lôgic học biện chứng, đây là môn khoa học nghiên cứu tư duy
chân thực của con người - tư duy biện chứng. Điều đó có nghĩa là tư duy biện
chứng nhất thiết phải hướng đến phản ánh chân xác hiện thực khách quan vào đầu
óc con người với nội dung tương ứng với hiện thực và hình thức chuyển tải phù
hợp nội dung. Song hiện thực sống động lại luôn luôn là sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập, do đó phản ánh đúng đắn hiện thực bao hàm cả việc phản ánh
mâu thuẫn là vấn đề không chỉ liên quan đến nội dung, mà còn rất liên quan đến
hình thức và quy luật của tư duy. Sự phản ánh đó cần phải diễn ra như thế nào,
bằng phương pháp nào, tuân theo quy luật nào đang còn là khoảng trống khá lớn
trong các nghiên cứu hiện có về tư duy. Không thể giải đáp hết tất cả những vấn đề
đó của lôgíc học biện chứng, luận văn chỉ tập trung vào vấn đề quy luật tư duy.



3
Mặt khác, quá trình hiện thực sống động đang diễn ra hết sức phức tạp và đầy
mâu thuẫn, khả năng điều chỉnh, chế ngự chúng phụ thuộc rất lớn vào việc con
người nhận thức hiện thực đó bằng tư duy của mình xác thực đến đâu. Đây cũng là
lý do buộc chúng ta phải đẩy mạnh nghiên cứu các vấn đề của tư duy. Ngoài ra,
còn một thực tế nghề nghiệp nữa là, đâu đó vẫn có những người phản đối lôgíc biện
chứng. Họ khẳng định, dường như không có thứ lôgíc nào như thế và rằng đó chỉ là
tên gọi khác của phép biện chứng. Nếu có nó như là khoa học lôgíc bên cạnh lôgíc
hình thức, thì cũng phải rõ các quy luật đặc thù của tư duy mà nó nghiên cứu. Tuy
nhiên, lôgíc biện chứng, theo lời họ, dường như không đưa ra bất kỳ quy luật đặc
thù nào của tư duy. Những quy luật mà nó vận dụng, cả về thực chất lẫn hình thức
đều là những quy luật chung của phép biện chứng (lượng đổi thành chất, thống nhất
và đấu tranh các mặt đối lập, phủ định của phủ định). Tương tự như vậy đối với các
nguyên lý của phép biện chứng (mối liên hệ phổ biến và phát triển).
Vì thế nếu phân tích các quy luật tư duy, mà chỉ dừng lại ở việc chỉ ra chuyện,
quá trình tư duy tuân thủ các quy luật chung của phép biện chứng, mà không vạch
ra tính đặc thù của sự tác động của chúng trong lĩnh vực tư duy, thì ta không thể
đáp trả đòn đánh chủ yếu mà những kẻ phản đối lôgíc biện chứng tung ra chống lại
nó như là khoa học lôgíc đặc thù. Nói tóm lại, những đòi hỏi trong quá trình học
tập, và cả về lý luận lẫn thực tiễn đã thôi thúc chúng tôi lựa chọn vấn đề Quy luật
của tư duy dưới góc nhìn lôgíc biện chứng làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề tư duy con người và quy luật của nó luôn thu hút sự quan tâm nghiên
cứu của các nhà triết học. Đối với các nhà nghiên cứu mácxít “tư duy” thường nổi
lên là vấn đề có tính thời sự, hiện đại mà việc triển khai nó quyết định tới việc phát
triển lôgíc học biện chứng mácxít, tới sự hội nhập của dòng tư tưởng mácxít vào
thế giới đương đại. Bởi liên quan đến nó không chỉ là cách hiểu về thực chất đối
tượng của lôgíc học, mà còn là cách hiểu thực đúng về bản chất của các quy luật tư
duy.


4
Tuy nhiên, sự nghiên cứu với tư cách là những công trình chuyên về tư duy
thường rất ít và chủ yếu là do các nhà lôgic học tiến hành. Có thể kể ra đây các tác
phẩm của các nhà triết học Liên xô đã được dịch sang tiếng Việt như hai tác phẩm
của M.M. Rôdentan: Nguyên lý của lôgíc học biện chứng [51]
1
; Những vấn đề về
phép biện chứng trong bộ Tư bản của C. Mác [50] xuất bản từ đầu những năm 60
thế kỷ trước đã khảo sát bản chất của quá trình tư duy và các quy luật của nó, một
số chương trong các cuốn sách nêu trên đã được dành riêng để nghiên cứu khá chi
tiết các quy luật biện chứng tác động trong tư duy và vấn đề mâu thuẫn biện chứng
trong Tư bản của C. Mác. A.P. Septulin trong cuốn Phương pháp nhận thức biện
chứng [52] đều đã đề cập đến các nguyên tắc của tư duy biện chứng, các quy luật
biện chứng của tư duy và việc áp dụng phương pháp được khái quát từ lịch sử các
khoa học vào nghiên cứu tư duy.
E.V. Ilencov là tác giả đã dành sự quan tâm đặc biệt và có công lớn trong việc
triển khai khái niệm “tư duy”. Trong cuốn Lôgíc học biện chứng [39], ông đã trình
bày hệ vấn đề lôgíc biện chứng, khảo sát lịch sử phát triển các quan niệm về đối
tượng của khoa học lôgíc trong suốt tiến trình tư tưởng thông qua những nhà triết
học tiêu biểu. Vấn đề “tư duy” được ông khảo sát kỹ trong Bút kí 8: “Cách hiểu
duy vật về tư duy” như là đối tượng của khoa học lôgíc, như là cơ sở để tiếp cận
các vấn đề khác của lôgíc học. Theo Ilencov: “chính trên con đường phát triển của
lôgíc học nổi lên vấn đề bản chất của tư duy con người” [39; 324 - 325]. Tác giả đã
đưa ra những nhận định chung, có tính gợi mở vấn đề nhưng vô cùng sâu sắc về
bản chất, nguồn gốc, sự vận động và phát triển của “tư duy” trong đời sống người
trên cơ sở tiếp thu có phê phán quan niệm của Hêghen về tư duy, trên cơ sở nghiên
cứu, ứng dụng “Lôgíc học” viết hoa - “Tư bản” của C. Mác, và do đó, đã đề xuất
những quan niệm mang tính cách mạng về “tư duy”. Về bản chất “Tư duy trực tiếp
tồn tại chỉ như hình thức - phương thức hoạt động của con người xã hội ( ) hướng


1
Từ đây và tiếp sau này: số thứ nhất chỉ tên tài liệu trong danh mục tài liệu tham khảo, số in nghiêng - tập của tài liệu,
số cuối cùng chỉ trang của tài liệu. Đôi khi sau số in nghiêng, còn một số La mã nữa chỉ phần của tập
(ví dụ: [43, 46, I; 379] là C. Mác, Ph. Ănghen: Toàn tập, t. 46, phần I, tr. 379)

5
lên thế giới bên ngoài” [39; 330] nhưng về mặt tồn tại “trong trực quan nó thể hiện
chính như hình thức của các sự vật được tạo nên bởi con người như hình thức của
ý chí hướng đích bị tha hoá vào chất liệu bên ngoài” [39; 329]. Trong cuốn sách
của Ilencov còn có các bút ký 10 “Lôgic của “Tư bản”” và 13 “Mâu thuẫn như là
phạm trù của lôgic học biện chứng” đề cập trực tiếp đến những quy luật lôgíc, nhất
là quy luật mâu thuẫn, sự phê phán cách hiểu hình thức, siêu hình về nguồn gốc và
sự tác động của các quy luật này trong tư duy.
V.V. Đavưđôv, nhà nghiên cứu những vấn đề lôgíc - tâm lý học cấu trúc các
môn học trong cuốn sách Các dạng khái quát hoá trong dạy học [15], cũng góp
tiếng nói đồng thuận với Ilencov trong cách hiểu duy vật biện chứng về bản chất
của tư duy. Trong quá trình nghiên cứu về tư duy theo quan điểm duy vật biện
chứng ông đã dựa trên những tác phẩm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, và
những kết quả nghiên cứu của các nhà mácxít hiện đại, trong đó có Ilencov. Trong
chương VII “Những luận đề cơ bản của lí luận duy vật biện chứng về tư duy”, tác
giả đã đưa ra những đánh giá quan trọng khi hiểu tư duy không như quá trình tâm
lý chủ quan diễn ra trong đầu từng cá thể mà như “sự vận động của nền văn hoá
loài người”, coi chủ thể đích thực của tư duy là con người xã hội, đồng thời luận
chứng cho sự chuyển hoá các hình thức và tính quy luật của tự nhiên thành các
hình thức hoạt động của con người, sự di truyền các hình thức hoạt động thông qua
“tư duy tập thể” làm chức năng lưu giữ, tái tạo chúng. Cuốn sách của V.V.
Đavưđôv góp thêm nguồn tài liệu cho sự tiếp tục nghiên cứu “tư duy”.
Bộ sách Lịch sử phép biện chứng [75] của Viện Hàn lâm khoa học Liên xô
gồm 6 tập do tập thể các cán bộ Viện triết học dịch và xuất bản những năm cuối
thế kỷ XX cũng là nguồn tài liệu quan trọng nghiên cứu hệ vấn đề “tư duy”. Nói

riêng, Bachisev trong cuốn Lịch sử phép biện chứng mác-xít ở chương 5 “Vấn đề
mâu thuẫn biện chứng” [74; 217-245], đã tiến hành phân biệt antinomie với mâu
thuẫn, mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng, coi đó là dấu hiệu quan trọng để
phân biệt các loại hình tư duy với nhau.

6
Nhưng vấn đề “tư duy” là vấn đề không chỉ được các nhà nghiên cứu thuộc
dòng tư tưởng mácxít quan tâm, mà cả những nhà nghiên cứu khác cũng dày công
khám phá. Edgar Morin [44] là ví dụ điển hình với bộ Phương pháp (Quyển 3, 4)
đã được dịch ra tiếng Việt. Edgar Morin nghiên cứu tư duy theo quan điểm phức
hợp, trong đó đáng chú ý là quan niệm của ông về sự tồn tại của văn hoá (“kí ức
tập thể” hay “biểu tượng tập thể”) và được tái sinh thông qua hoạt động sống của
cá nhân. Như vậy, quan niệm của Edgar Morin về tư tưởng có những nét tương
đồng với quan niệm của hai nhà triết học Liên Xô nêu trên, tất cả đều khẳng định
sự tồn tại độc lập, khách quan của những sản phẩm trí tuệ, về mặt tồn tại là vật
chất nhưng bản chất lại thuộc về tinh thần. Tuy nhiên, họ khá khác nhau trong việc
triển khai khám phá bản chất vấn đề.
Ở Việt Nam cũng có một số tác giả bàn khá sâu vào những vấn đề về tư duy,
đối tượng của lôgíc học. Trước hết phải kể đến các nhà lôgíc học lớp trước như Tô
Duy Hợp [xem: 28 – 33], Bùi Thanh Quất [xem: 21 và 49], Vũ Văn Viên [xem: 70
– 73], rồi đến các cán bộ đang nghiên cứu và giảng dạy hiện nay Nguyễn Ngọc Hà
[xem: 21], Phạm Thái Việt [xem: 76], Nguyễn Anh Tuấn [xem: 60 - 65], Nguyễn
Thuý Vân [xem: 65 và 68], Nguyễn Gia Thơ [xem: 58]. Trong các công trình, bài
viết đã nêu các tác giả đều đã cụ thể hoá, chính xác hoá cách hiểu mácxít về tư duy,
phân biệt các loại hình tư duy và chỉ ra đặc thù của các khoa học về chúng. Tuy đây
đó còn có những bất đồng nhỏ, nhưng các tác giả đều đã thống nhất ý kiến về sự
tồn tại, hoặc quyền được tồn tại của lôgíc học biện chứng. Phần lớn trong số các tác
giả nêu trên còn tập trung tâm huyết, sức lực vào giảng dạy, tuyên truyền và phát
triển nó. Chúng tôi coi đây là điểm tựa về mặt lý luận và phương pháp luận để triển
khai nghiên cứu của mình.

Hơn thế nữa trong các bài viết đã nêu nhiều tác giả đã chỉ ra sự khác biệt giữa
các quy luật của hai loại lôgíc học xuất phát từ sự khác nhau về đối tượng trong hai
khoa học lôgíc đó. Mỗi sự vật và hiện tượng có vô số các thuộc tính, các mối quan
hệ, nhưng tư duy hình thức chỉ nắm lấy một mặt, một mối liên hệ trong vô số

7
những thuộc tính hay những mối liên hệ đó và “trừu tượng hoá” những mặt những
thuộc tính còn lại. Do đó tư duy lôgíc hình thức chỉ thể hiện được những điểm
không bản chất của đối tượng. Đó là sự “đồng nhất trừu tượng” giữa tư duy và tồn
tại. Còn lôgíc biện chứng xem xét đến tính “đồng nhất cụ thể”, do đó tư duy ở đây
không những phản ánh những cái chung nhất mà còn phản ánh cả những cái đặc
thù và cái cá biệt. Sự chuyển hóa giữa cái phổ biến, cái đặc thù và cái đơn nhất làm
cho nội dung tư duy phát triển. Từ sự khác biệt về đối tượng như đã nói thì quy
định sự khác biệt về quy luật của tư duy trong mỗi loại lôgíc. Có thể nêu ra đây tên
một số tác giả tiêu biểu đã có các nghiên cứu về quy luật nói chung và quy luật của
tư duy nói riêng là Phạm Văn Chúc: Góp phần tìm hiểu vấn đề quy luật và nhận
thức quy luật [9]; Vũ Văn Viên: Chính xác hoá các quy luật của lôgíc học hình
thức [72]; Nguyễn Cảnh Hồ: Mấy ý kiến trao đổi xung quanh các quy luật của
lôgic học [27] . Các tác giả đều đã đưa ra ý kiến của mình về nhận thức quy luật và
phân biệt quy luật của hiện thực và quy luật của tư duy.
Xuất phát từ việc coi quy luật mâu thuẫn là quy luật cơ bản của phép biện
chứng, một số tác giả đã đi sâu tìm hiểu sự tác động của quy luật này trong tư duy,
cơ chế phản ánh các mâu thuẫn của hiện thực khách quan vào ý thức con người.
Nguyễn Ngọc Hà: Một số suy nghĩ về đặc trưng cơ bản của mâu thuẫn xã hội [17];
Mấy ý kiến về sự thống nhất và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập [18];
Mấy suy nghĩ xung quanh phạm trù mâu thuẫn đối kháng [19]; Một số vấn đề nhận
thức quy luật và mâu thuẫn [20] ; Nguyễn Tấn Hùng: Sự phân biệt giữa mâu
thuẫn biện chứng và mâu thuẫn lôgíc hình thức [35]; Lê Đức Quảng: Biện chứng
của mâu thuẫn [48] Những nghiên cứu này phần nào đề cập đến việc giải quyết
những mâu thuẫn trong tư duy, sự khác biệt giữa sai lầm về nội dung và không

đúng đắn về hình thức là hai vấn đề thường hay gặp phải trong tư duy. Tuy nhiên
cần phân biệt rõ nó để tránh những giải quyết chưa triệt để hoặc không đúng vấn
đề. Không thể có tư duy đúng đắn mà lại không thừa nhận những mâu thuẫn của
hiện thực, càng không thể chấp nhận tư duy dưới hình thức sai lầm sơ đẳng về lỗi
lôgíc. Do đó mới có chuyện vẫn cần phải phản ánh được các mâu thuẫn của hiện

8
thực khách quan vào trong tư duy và vẫn cần phải phi mâu thuẫn trong cách trình
bày các tư tưởng đó. Đó hoàn toàn là hai nhiệm vụ khác nhau. Trong các bài viết
tác giả của chúng cũng nói đến sự khác biệt giữa vai trò của quy luật phi mâu thuẫn
trong tư duy hình thức và quy luật mâu thuẫn như là “hạt nhân” trong lôgíc biện
chứng. Chúng tôi coi đó là những gợi ý khi tiến hành phân tích và chỉ ra miền tác
động và ứng dụng của các quy luật này.
Những nghiên cứu nêu trên đều đã ít nhiều, ở khía cạnh này hay khác đề cập
đến vấn đề chúng tôi quan tâm, và do vậy sẽ là những gợi ý quan trọng cho chúng
tôi đi sâu triển khai đề tài đã chọn một cách hệ thống hơn. Bên cạnh đó những kết
quả đã đạt của những người đi trước sẽ được chúng tôi chọn lọc thu lượm để trình
bày khái quát hơn vấn đề quy luật của tư duy trong lôgic hình thức và lôgic biện
chứng, từ đó chỉ ra quy luật cơ bản chi phối quá trình nhận thức của con người.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Phân tích bản chất, đặc điểm và các loại hình tư duy, từ đó chỉ ra
quy luật cơ bản của tư duy con người cùng các biểu hiện khác nhau của nó trong
từng loại hình tư duy và sự tương quan của chúng với nhau.
- Nhiệm vụ:
+ Nêu và phân tích bản chất của tư duy, phân chia khái niệm tư duy.
+ Phân tích những nội dung chủ yếu, những yêu cầu đối với tư duy rút ra từ
việc nghiên cứu sự tác động của quy luật lôgíc cơ bản.
+ Bước đầu chỉ ra mối liên hệ giữa quy luật cơ bản với các quy luật khác của
tư duy và tương quan giữa các quy luật tư duy trong hai môn lôgíc học.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu là quy luật lôgic hình thức, quy luật lôgic biện chứng
và mối quan hệ của chúng.
- Phạm vi nghiên cứu: quan điểm biện chứng từ triết học cổ điển Đức đến triết
học Mácxít
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

9
- Luận văn được tiến hành dựa trên các nguyên lý phát triển và liên hệ phổ
biến của triết học Mác - Lênin, quan điểm mác-xít về sự đồng nhất tư duy và tồn
tại, sự đồng nhất phép biện chứng, lôgíc học và lý luận nhận thức, về quy luật của
tư duy trong các khoa học lôgic
- Luận văn sử dụng các phương pháp phân và tích tổng hợp, diễn dịch và quy
nạp, so sánh, khái quát hoá, thống nhất lôgic và lịch sử.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã góp phần soi tỏ thêm vấn đề bản chất và nguồn gốc xã hội của tư
duy, chỉ ra những hình thức thể hiện của nó trong sự nhận thức của con người hiện
thực; hệ thống hoá lại các quan điểm khác nhau về quy luật của tư duy, trình bày
nội dung và bản chất của quy luật tư duy theo quan niệm của lôgic học biện chứng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn xem xét những vấn đề căn bản của tri thức lôgíc học: tư duy nói
chung, các khoa học nghiên cứu nó, những quy luật của nó và của các khoa học
này, vì vậy việc hiểu rõ những vấn đề đó có thể là cơ sở và sự gợi mở cho những
nghiên cứu lý thuyết tiếp theo trong lôgíc học.
Luận văn có thể còn dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên triết
học nghiên cứu các quy luật của phép biện chứng, cho sinh viên chuyên ban lôgíc
học ở các môn học tương ứng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có nội
dung gồm hai chương chia thành 6 tiết.







10




CHƢƠNG 1. BẢN CHẤT, CÁC LOẠI HÌNH VÀ QUY LUẬT TƢ DUY
1.1. Nguồn gốc và bản chất của tƣ duy
Trong tiết này để trả lời câu hỏi “tư duy là gì?”, “tư duy có bản chất như thế
nào?” thì trước hết chúng tôi trình bày những luận điểm lôgíc biện chứng cơ bản về
tư duy. Để trình bày các luận điểm đó chúng tôi sẽ sử dụng các tác phẩm của Mác,
Ăngghen và Lênin, cũng như kết quả nghiên cứu tư tưởng xuất phát từ các ông
trong nhận thức luận Mác-lênin hiện đại. Hiện nay đã có nhiều tài liệu về các vấn
đề lôgíc học biện chứng. Chúng tôi sẽ sử dụng kết quả nghiên cứu của các tác giả
đã làm sáng tỏ được rõ nhất cách tiếp cận biện chứng về tư duy.
Để dẫn chứng và minh họa một số luận điểm của lôgíc học biện chứng thì hợp
lý hơn cả là dùng bộ “Tư bản” và những tác phẩm khác của Mác chuẩn bị cho bộ
sách đó, vì trong các tác phẩm này Mác đã nghiên cứu và vận dụng những nguyên
lý của phép biện chứng duy vật, lôgíc học và lý luận nhận thức để phát triển một
cách có hệ thống những cơ sở của một khoa học là kinh tế chính trị học. Lênin đã
viết: “Marx không để lại cho chúng ta “lôgíc học” (với chữ L viết hoa) nhưng để lại
cho chúng ta lôgíc của “Tư bản” và cần phải tận dụng đầy đủ nhất lôgíc đó để giải
quyết vấn đề mà chúng ta nghiên cứu. Trong “Tư bản”, Mác áp dụng lôgíc học,
phép biện chứng và lý luận nhận thức ( ) của chủ nghĩa duy vật vào một khoa học
duy nhất; mà chủ nghĩa duy vật đã lấy ở Hêghen tất cả những gì có giá trị và phát
triển thêm lên” [41; 359 – 360].

Trước hết cần làm sáng tỏ vấn đề sự hình thành tư duy và các loại hình khác
nhau của nó. Tư duy được lôgíc học biện chứng xem xét như là “một qúa trình hoạt
động khách quan của loài người, là sự vận động của nền văn hoá loài người, của xã
hội với tư cách là chủ thể đích thực của tư duy” [10; 153].

11
Tư duy của một người riêng biệt là sự vận hành của những hình thức hoạt
động xã hội trong qúa trình lịch sử mà người đó tiếp thu được. Một trong những
hạn chế cơ bản của lôgíc học hình thức truyền thống là đã không xem xét tư duy
của cá nhân như một chức năng đã phát triển trong qúa trình lịch sử của “chủ thể
loài đích thực” của tư duy mà nó lĩnh hội được. Sẽ không thể hiểu được sự phát
sinh cá thể của tư duy ở từng cá nhân, nếu không biết được những mốc cơ bản của
sự phát sinh loài của nó trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Đây là điều quan
trọng đối với luận văn bàn về quy luật tư duy.
1.1.1. Hoạt động thực tiễn - cơ sở của tư duy con người
Hoạt động thực tiễn có đối tượng, hoạt động sản xuất – tức là lao động, là cơ
sở của toàn bộ nhận thức của con người. Tất cả các hình thái tư duy đều đã sinh
thành và vận hành dưới hình thức đã được định hình trong qúa trình lịch sử hoạt
động cải tạo thiên nhiên bởi con người. Ăngghen đã viết: “Nhưng chính việc người
ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới
tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con
người đã phát triển song song với việc người ta học cải biến tự nhiên” [43, 20;
720]. Việc phân tích nguồn gốc, bản chất và sự phát triển của tư duy cần phải bắt
đầu từ việc làm sáng tỏ những đặc điểm của hoạt động lao động của con người.
Đối với con người, các đối tượng của tự nhiên thể hiện như các đối tượng tác
động và như các phương tiện chế tạo công cụ để tác động. Mác viết: “Một vật do
bản thân thiên nhiên cung cấp đã trở thành một khí quan của sự hoạt động của con
người, khí quan mà con người đem chắp thêm vào những khí quan của cơ thể mình,
và do đó mà kéo dài cái tầm thước tự nhiên của cơ thể đó, bất chấp cả Kinh thánh”
[43, 23; 268].

Qúa trình sử dụng công cụ lao động đòi hỏi việc đề ra mục đích tạo ra sản
phẩm phải tuân theo ý niệm đó. Mác đã nêu bật đặc điểm cơ bản đó của hoạt động
như sau: “Cuối qúa trình lao động, người lao động thu được cái kết quả mà họ đã
hình dung ngay từ đầu qúa trình ấy, tức là đã có trong ý niệm rồi. Con người không
chỉ làm biến đổi hình thái của những cái do tự nhiên cung cấp; trong những cái do

12
tự nhiên cung cấp, con người cũng đồng thời thực hiện cái mục đích tự giác của
mình, mục đích ấy quyết định phương thức hành động của họ giống như một quy
luật và bắt ý chí của họ phải phục tùng nó” [43, 23; 267].
Sự biến đổi tự nhiên đã cho chính là hành động khắc phục tính trực tiếp của
nó. Tự thân các đối tượng tự nhiên không mang hình thức thích hợp với các nhu
cầu của con người xã hội. Đồng thời, con người phải tính trước những thuộc tính
nào của sự vật cho phép tiến hành những sự thay đổi hình dạng phù hợp với cả mục
đích đã đặt ra, cũng như với bản chất của chính các sự vật. Để cho ý định hướng
đích của con người có thể được hiện thực hoá vào sản phẩm thực, thì các hành
động phải phù hợp với bản chất của các đối tượng, của các điều kiện và các công
cụ hoạt động. Hoạt động sáng tạo cũng chính là điều kiện và cách thức nhận thức
sâu sắc thế giới xung quanh. Chính là khi tác động vào các đối tượng và so sánh
chúng với nhau, con người nhận thức được các thuộc tính của chúng. Không có
việc tính trước như đã nêu thì sự vật có thể biến đổi không theo phương hướng mà
mục đích đòi hỏi. Thành ra trong qúa trình lao động, con người không những phải
tính đến thuộc tính bề ngoài của các đối tượng mà còn phải tính đến cả mức độ
“gắn bó” của chúng – tức là những liên kết nội tại của chúng, mà việc tính đến
chúng có thể cho phép biến đổi các thuộc tính, hình thức của chúng và đưa chúng
từ trạng thái này sang trạng thái khác. Không thể phát hiện ra mức độ gắn bó này
trước khi biến đổi thực tế các đối tượng, bởi vì chỉ trong qúa trình tác động làm cho
biến đổi này thì mức độ gắn bó đó tự nó mới biểu hiện ra mà thôi.
Trong qúa trình biến đổi một cách cưỡng ép một sự vật cho trước đã được con
người đưa vào hệ thống các đối tượng khác, thì sự tương tác với chúng khiến cho

sự vật đó có một hình thức vận động xác định. Ăngghen đã nhận xét: “Việc các vật
thể ấy đều có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn
nhau, và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động” [43, 20; 520]. Thế là tính
chất trực tiếp của sự vật được lấy đi – nó nhận được sự tồn tại gián tiếp và trong sự
vận động của mình nó biểu lộ ra “những mối liên hệ nội tại”.

13
Nhà triết học Xô viết L. K. Naumencô viết: “Cái nội tại, bản chất khác với cái
bề ngoài là chỉ tồn tại trong quan hệ. Nó có sự tồn tại không phải là trực tiếp mà là
tồn tại phản ánh gián tiếp trong chính nó” [45; 250].
Sự vật có được tính chất gián tiếp đó trong quan hệ với chính nó, nhưng chỉ
thông qua những cách thức hoạt động xác định của con người hình thức vận động
của sự vật được tái tạo trong hoạt động đó. Nhà tâm lý học Xô viết nổi tiếng A. N.
Lêônchev viết: “Lao động bằng công cụ đặt con người không phải là đứng trực tiếp
trước các đối tượng vật chất, mà là đứng trước sự tương tác của các đối tượng đó
do chính con người tạo ra và kiểm tra. Chính trong qúa trình này, con người nhận
thức được các đối tượng” [42; 50]. Ở đây có hai điều quan trọng: Một là, sự tái tạo
được thực hiện nhiều lần, trong những điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài thường
xuyên biến đổi. Thứ hai, các cách thức hoạt động đó được con người truyền lại cho
nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác, và để làm được việc đó con người phải sử
dụng những “khuôn mẫu”, những “chuẩn mực” của các cách thức đó. Cả hai điều
đã nêu đều đòi hỏi con người phải tách ra và ghi lại những điều kiện quyết định,
thực sự cần thiết của việc tái tạo hình thức vận động của sự vật. Những gì ngẫu
nhiên đều “được sàng lọc” ra, chỉ còn lại những điều kiện thực sự tất yếu và quyết
định, các cách thức hoạt động được thể hiện trong khuôn mẫu xã hội của chúng.
Như vậy, sự biến đổi các sự vật trong qúa trình lao động đã làm sáng tỏ các
thuộc tính bên trong, bản chất và các hình thức vận động tất yếu của chúng. Lênin
đã viết: “Hoạt động của con người tự tạo cho mình một bức tranh khách quan về
thế giới, nó làm biến đổi hiện thực bên ngoài, thủ tiêu tính quy định của hiện thực
này (= biến đổi mặt này hay mặt khác, tính chất này hay tính chất khác của hiện

thực), và do đó lấy mất của nó những đặc trưng bề ngoài, bên ngoài và hư không,
làm cho nó trở thành cái tồn tại tự nó và vì nó (= chân lý khách quan)” [41, 29;
235].
Đặc điểm của hoạt động lao động đã được Ăngghen phân tích qua ví dụ về
phạm trù tính nhân quả. Kết thúc sự phân tích Ông viết: “ Hoạt động của con
người là hòn đá thử vàng của tính nhân quả” [43, 20; 719]. Ở đây, trong hành động

14
duy nhất làm mất tính trực tiếp và bề ngoài, trở thành đồng nhất với một sự kiện
khác, chuyển hoá thành một sự kiện khác, một sự kiện tìm thấy ở sự kiện khác hình
thức biểu hiện của mình. Đó cũng chính là sự thực thi mối liên hệ bên trong, bản
chất, phổ biến và tất yếu của các sự kiện đã cho.
Khi có những nhu cầu tương ứng, con người có thể phát hiện được sự vận
động, sự tương tác hoàn toàn xác định của các sự vật, nếu trong hoạt động lao động
của mình, con người tái tạo lại được những điều kiện cần thiết, bao gồm cả sự vận
động diễn ra trong tự nhiên. Hơn nữa, như Ăngghen nhận xét, con người còn có thể
tạo ra được những vận động hoàn toàn không gặp trong tự nhiên (công nghiệp) –
hay ít nhất cũng không gặp ở dạng đó và như thế. Người ta có thể gán cho các vận
động ấy phương hướng và phạm vi xác định từ trước [xem: 43, 20; 718 - 720]. Sau
một loạt ví dụ, Ăngghen kết luận: “Từ trước đến nay, khoa học tự nhiên cũng như
triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư
duy của họ” [43, 20; 720].
Hoạt động lao động mang bản chất kinh nghiệm, nó cho phép con người phát
hiện ra những mối liên hệ tất yếu, phổ biến của các sự vật. Ăngghen viết: “Hình
thức của tính phổ biến là hình thức của cái hoàn thành tự nó và do đó là hình thức
của vô hạn hình thức của tính phổ biến trong tự nhiên là quy luật” [43, 20; 724]. Ở
đây, Ăngghen nói về “sự hiểu biết” và “sự nâng trong trí óc” cái đơn nhất thành cái
đặc thù và sau đó thành cái phổ biến. Nhưng rõ ràng, chỉ có thể tìm được những
điều kiện vừa nói ở trong thực tiễn kiểu như hình thức đặc biệt của hoạt động sản
xuất. Nếu con người trong thực tiễn của mình có khả năng tìm được và tính đến

những điều kiện tái tạo lại một sự kiện này hay khác, thì những điều kiện đó là cần
và đủ, đồng thời chính trong bản thân sự kiện đó hoạt động sẽ được thực hiện một
cách hoàn toàn có quy luật, dưới dạng phổ biến, trong sự hoàn thiện nội tại của nó.
Với sự phát triển của hoạt động thực tiễn mang tính xã hội theo nguồn gốc và
cách thức thực hiện, con người bắt đầu tái tạo được trong hoạt động đó bất kỳ sự
vật nào của tự nhiên (về nguyên tắc), cũng như tạo ra được cả những sự vật mà
trong tự nhiên chỉ có dưới dạng tiềm tàng. Sở dĩ làm được như vậy, vì con người

15
quan hệ với tự nhiên bằng cả tư thế loài của mình, bằng toàn thể loài người. Chỉ
trên cơ sở các nhu cầu xã hội, một sự vật này hay khác mới bị lôi cuốn vào thực
tiễn của con người. Chỉ thông qua những nhu cầu ấy, tự nhiên mới trở thành hiện
thực cho sản xuất xã hội. Nó sẽ biến đổi các các sự vật của tự nhiên theo các quy
luật khách quan của chúng, khám phá ra những khả năng riêng của chúng và hoàn
thiện chúng từ bên trong. Mác viết về vấn đề này như sau: “Việc tạo một cách thực
tiễn ra thế giới vật thể, việc cải tạo giới tự nhiên vô cơ là sự tự khẳng định của con
người với tư cách là một sinh vật có tính loài có ý thức. Cố nhiên, con vật cũng sản
xuất. Nhưng con vật chỉ sản xuất cái mà bản thân hoặc con nó trực tiếp cần đến; nó
sản xuất một cách phiến diện, trong khi con người sản xuất một cách toàn diện, còn
con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên Con vật chỉ xây dựng theo kích
thước và nhu cầu của loài của nó, còn con người thì có thể sản xuất theo kích thước
của bất kỳ loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất của mình vào đối tượng;
do đó con người cũng xây dựng theo các quy luật của cái đẹp” [43, 42;136 - 137].
Nhà nữ triết học Xô viết G.A. Đavưđôva viết: “Con người thành thước đo của
mọi sự vật, là do tái tạo được trong cách thức hoạt động của mình với các sự vật
những hình thức tồn tại và phát triển phổ biến của chính bản thân các sự vật.
Những hình thức phổ biến đó chỉ ở con người, ở trong hoạt động của con người
mới nói lên dưới dạng thuần khiết như chúng vốn có.” [16; 303].
Nhờ tính vạn năng của thực tiễn, cũng như sự thể hiện trực tiếp của nó trong
“giới tự nhiên người hoá”, ta tìm được thước đo riêng (tính chất phổ biến) của nó,

khiến cho thực tiễn là cơ sở của tất cả các hình thái nhận thức, trong đó có cả hình
thái lý luận. Chính Lênin đã phát biểu vấn đề này như sau: “Thực tiễn cao hơn
nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của
tính phổ biến trực tiếp” [41, 29; 230].
1.1.2. Bản chất xã hội của tư duy con người
Hoạt động tinh thần gắn bó chặt chẽ với đời sống thực tiễn của xã hội, và thể
hiện dưới dạng phản ánh của đời sống thực tiễn trong cái tư tưởng. Tính tất yếu của
sự phản ánh đó nằm ở trong chính sản xuất và ở sự tiêu dùng mang tính chất xã hội.

16
Mác đã viết: “Nếu như rõ ràng là sản xuất cung cấp một đối tượng cho tiêu dùng
dưới hình thái bên ngoài của nó, thì cũng rõ ràng là tiêu dùng giả định đối tượng
của sản xuất trên ý niệm, như là một hình ảnh bên trong, như là nhu cầu, như là
động cơ và như là cứu cánh” [43, 46, I; 49].
Nét cố hữu đối với loài vật – ngay cả những loài vật cao cấp nhất – chỉ là sự
thiết kế những động tác gần gũi nhất, trên cơ sở những hình mẫu trực tiếp của sự tri
giác môi trường. Môi trường này không phụ thuộc vào loài vật và tồn tại trong tính
trực tiếp của nó. Còn ở bên trong hoạt động cải tạo – sự vật của con người, thì các
sự vật thiên nhiên thể hiện như cái mà con người cần đến và ở dạng biến đổi sao
cho thoả mãn những nhu cầu của xã hội, của con người. Những tri thức về các sự
vật ở xung quanh giờ đây được ghi lại trong các hình thức của hoạt động cảm tính –
sự vật. Cơ quan chỉ đạo của nó dĩ nhiên là bàn tay có năng lực xúc giác và có nhiều
năng lực vận động. Khi tương tác với nó, mắt và các cơ quan phân tích khác có
được sự định hướng tương ứng trong thế giới các đối tượng. Ở các giác quan đã
phát triển những hình thức hoạt động nào đảm bảo cho sự thiết kế và điều chỉnh các
biện pháp và thao tác phức tạp của con người với các đối tượng và các công cụ lao
động. Điều này, đến lượt mình, lại khiến cho các giác quan quan sát được và tách
ra được trong các đối tượng những thuộc tính và quan hệ nào là quan trọng cho
chính bản thân sự điều chỉnh đó. Chính vì vậy, các giác quan của con người không
chỉ hoàn thiện hơn so với loài vật mà tính chất của chúng cũng đã thay đổi căn bản.

Ăngghen viết: “Mắt chim đại bàng nhìn thấy xa hơn mắt người rất nhiều, nhưng
mắt người nhận thấy trong sự vật được nhiều hơn mắt đại bàng rất nhiều. Con chó
thính mũi hơn loài người rất nhiều, nhưng nó không có mảy may khả năng phân
biệt được những mùi đã giúp cho con người đoán chắc được nhiều sự vật khác
nhau” [43, 20; 546 - 547].
Dĩ nhiên, những dấu hiệu đó có ý nghĩa đối với con người chỉ do thực tiễn sử
dụng các sự vật ngày càng mở rộng và thực tiễn định hướng trong các sự vật đó.
Do thực tiễn đó mà sự vận động của các giác quan dường như “thấm hút” vào
chúng – trong hình thức nhận thức độc đáo – mục đích và cách thức hoạt động thực

17
tiễn – sự vật của con người và các thuộc tính tương ứng với hoạt động đó của các
sự vật.
Dần dần, thế giới các đối tượng do loài người tạo ra và sự định hướng trong
thế giới đó, trở thành cơ sở hoạt động của bản thân các cơ quan phân tích. Điều này
đã được Mác miêu tả rành mạch trong luận điểm sau: “Chỉ có nhờ sự phong phú đã
được phát triển về mặt vật chất, của bản chất con người, thì sự phong phú của tính
cảm giác chủ quan của con người mới phát triển và một phần thậm chí lần đầu tiên
được sản sinh ra… Sự hình thành năm giác quan là công việc của toàn bộ lịch sử
thế giới đã diễn ra từ trước đến nay” [43, 42; 175 - 176].
Hoạt động lao động – về bản chất là mang tính xã hội – gắn liền với việc con
người tách ra và truyền thụ cho nhau các quy tắc hành động, kiến thức tương ứng
với các quy tắc đó về đối tượng. Tất cả những cái đó đều được hình thành trong
ngôn ngữ và nhờ ngôn ngữ mà trở thành tài sản tập thể.
Lúc đầu con người định hướng vào những đối tượng này hay khác cho trước
một cách cảm tính, giống nhau và lặp lại, thoả mãn những nhu cầu của họ, hoặc có
thể dùng làm cơ sở cho các thao tác lao động và phân phối sản phẩm. Ăngghen
nhận xét: “Ở giai đoạn phát triển rất sớm của xã hội, nảy sinh nhu cầu nắm lấy quy
tắc chung của các động tác lặp đi lặp hàng ngày của sản xuất, phân phối, trao đổi
sản phẩm.” [43, 18; 272].

Các sự vật được lôi cuốn vào hoạt động lao động và các quan hệ của chúng
lúc đầu được tách ra khỏi tập hợp những đối tượng khác “một cách thực tiễn”, rồi
sau đó mới được tách ra “một cách lý thuyết” dưới hình thức từ, tên gọi. Mác viết:
“Sau khi những nhu cầu của con người và những hình thức hoạt động mà họ đưa
vào để được thoả mãn đã tăng lên, và phát triển thêm nữa, con người đã đặt tên gọi
riêng cho từng loại hoàn chỉnh các vật ấy mà qua kinh nghiệm họ đã phân biệt
được với những vật còn lại của thế giới bên ngoài. Những tên gọi bằng ngôn ngữ
chỉ biểu hiện cái đã được hoạt động lặp đi lặp lại biến thành kinh nghiệm dưới hình
thức quan niệm. Con người chỉ đặt cho những vật ấy tên gọi riêng (loại), vì họ đã

18
biết những vật ấy có thể dùng để thoả mãn những nhu cầu của họ” [43, 19; 538 -
539].
Như vậy, cơ sở và tiêu chuẩn của việc tách ra các lớp đối tượng là những dạng
hoạt động khác nhau nhằm thoả mãn những nhu cầu xã hội này hay khác – và hình
tượng cảm tính của các đối tượng, của những nhu cầu đó dường như là “cái chuẩn
cụ thể” để đưa những đối tượng riêng rẽ vào các lớp tương ứng đã được đặt cho
một tên gọi. Nếu chú ý rằng khi sản xuất và phân phối phức tạp lên làm cho phạm
vi các nhu cầu mở rộng ra, phức tạp hơn, thì ta cũng hiểu ngay rằng những tên gọi
ngày càng mới đã được đem đặt cho các đối tượng và phương tiện lao động, cho
các bộ phận riêng của nó, cho các mặt khác nhau của sản xuất và của đời sống xã
hội. Trong tất cả các trường hợp, tiêu chuẩn để tách ra các đối tượng cùng loại luôn
hoặc là một thao tác lặp đi lặp lại thực hiện trên những đối tượng giống nhau với
những phương tiện giống nhau, hoặc là các mẫu đối tượng thoả mãn một quy tắc
chung nào đó.
Những tiêu chuẩn đó không thể là “ý muốn lập dị” của những cá thể riêng rẽ.
Chúng phải được toàn bộ tập thể chấp nhận và hiểu được, thoả mãn được việc gọi
tên và định hướng trên cơ sở những biểu tượng gắn liền với chúng. Nói khác, các
tiêu chuẩn và nội dung của các biểu tượng, của các từ phải có giá trị tổng quát,
nhưng tính có giá trị tổng quát đó dường như tự bản thân nó vẫn còn chưa có ý

nghĩa là các biểu tượng có tính chất khách quan, bởi vì các tiêu chuẩn đó đã được
xây dựng trên nhu cầu chủ quan của con người. Nhưng đó chỉ là kết quả của việc
nhìn qua một lần mà thấy như thế thôi, bởi vì đó là các nhu cầu của cả loài, gắn liền
với những nhu cầu của cả nền sản xuất phổ biến. E. V. Ilencôv viết: “ Xuất hiện
một hình thức suy tưởng đặc thù của con người – năng lực nhìn thấy tất cả những
cái riêng đối với tôi mà không đem lại chút lợi lộc gì riêng cho cá nhân, nhưng rất
quan trọng và đáng quan tâm theo quan điểm quyền lợi của tất cả những người
khác, của sự phát triển chung của họ xét theo quyền lợi của loài” [38; 241]. Nền
sản xuất xã hội đòi hỏi con người phải định hướng vào các thuộc tính của các đối
tượng, đảm bảo cho sự thay đổi theo quy luật khách quan của chúng phù hợp với

19
những mục đích đề ra. Chỉ những thuộc tính khách quan của các đối tượng mới trở
thành cần thiết cho các mục đích đó, tức là trở thành khách quan không những theo
nghĩa là độc lập với con người trong chính sự tồn tại của chúng mà còn theo nghĩa
là chúng có giá trị khách quan đối với thực tiễn xã hội con người, không phụ thuộc
gì vào ý muốn chủ quan hay sự chọn lọc ngẫu nhiên những thuộc tính này hay khác
của một người riêng rẽ nào. Mác đã diễn tả điều này như sau: “Con người sử dụng
những thuộc tính cơ học, lý học, hoá học của các vật, để tuỳ theo mục đích của
mình, dùng những vật đó với tư cách là những công cụ tác động vào các vật khác”
[43, 23; 268].
Như vậy, hoạt động cảm giác – một thành phần của các thao tác thực tiễn của
con người – có thể tái tạo được trong các hình thức cố hữu của nó cách thức tách ra
và đánh giá các đối tượng, các thuộc tính, các quan hệ của chúng. Nhờ thế, hoạt
động này có thể thực hiện được vai trò thiết kế và điều chỉnh trong qúa trình lao
động tập thể. Các lớp sự vật được các giác quan tách ra, cũng như bản thân các
cách thức hoạt động cảm giác đều có tên gọi bằng từ ổn định. Chúng trở thành
phương tiện quan trọng tổ chức bản thân hoạt động của các giác quan. Tất cả những
cái đó khiến cho cảm tính của con người có một số nét đặc thù.
Một là, bản thân phạm vi các sự vật được cảm thụ và các cách thức tách chúng

ra không phải là do các đặc điểm cá nhân của con người quyết định, mà do những
khả năng và lợi ích của sản xuất xã hội và những cách thức thực thi sản xuất quyết
định (cá thể chỉ lĩnh hội chúng mà thôi).
Hai là, hoạt động cảm giác được tổ chức nhờ ngôn ngữ và các chuẩn vật chất.
Ba là, việc vận dụng ngôn ngữ và các chuẩn cho phép dựa trên những biểu
tượng về các đối tượng không những trong qúa trình lao động mà cả trong các tình
huống giao tiếp. Nhờ đó, việc gia công lại các biểu tượng có thể trở thành một dạng
hoạt động tương đối độc lập của con người (thậm chí việc đó có thể trở thành một
công việc đặc biệt quan trọng của những người riêng biệt không còn tham gia vào
sản xuất vật chất nữa). Ăngghen đã vạch rõ, ở giai đoạn phát triển rất sớm của xã
hội (ví dụ trong một gia đình bình thường) cái đầu thiết kế công việc đã có khả

20
năng buộc không phải chỉ bàn tay của họ mà cả bàn tay của những người khác phải
thực hiện công việc do nó vạch ra.
Những đặc điểm hoạt động đó của các giác quan chứng tỏ: xét về phương diện
quan hệ với hoạt động thực tiễn của sản xuất trực tiếp thì sự hoạt động đó có tính
chất lý luận độc đáo. Mác viết: “Con mắt trở thành con mắt người cũng giống như
đối tượng của con mắt trở thành đối tượng của xã hội, của con người, do con người
tạo ra vì con người. Cho nên, các cảm giác trong thực tiễn của chúng đều trực tiếp
trở thành những nhà lý luận” [43, 42; 173 - 174]. Các đối tượng hiện thực được cho
con người xã hội không phải là thông qua trực quan thụ động, mà chỉ cho con
người trong các hình thức hoạt động thực tiễn cảm tính của nó mà thôi. Đó là
nguồn gốc của khía cạnh hoạt động của các “cảm giác – nhà lý luận” cũng như của
các hình thức nhận thức khoa học – lý luận cao hơn.
Những hiện tượng nảy sinh trong hoạt động cảm tính của con người và trong
giao tiếp của họ ngày càng trở thành phương tiện thiết kế các hành động tương lai,
thế mà việc này lại đòi hỏi phải so sánh những phương án hành động khác nhau và
lựa chọn phương án “tốt nhất”. Nhờ thế các biểu tượng về chúng mới trở thành đối
tượng của hoạt động con người, làm cho họ không cần phải đối diện trực tiếp với

chính đối tượng. Hoạt động suy tư đã xuất hiện, nó cho phép thay đổi các biểu
tượng trong ý thức, các “đồ án” về sự vật, trong khi vẫn chưa làm thay đổi chính
các sự vật đó trên thực tế.
Sự suy tư về “đồ án” của sự vật dựa trên kinh nghiệm biến đổi thực tiễn
chúng, làm nảy sinh một dạng hoạt động chủ quan của con người mà triết học gọi
là tư duy. Như vậy, thoạt đầu tư duy có nghĩa là phát minh thiết kế “trong óc” đồ án
tư tưởng (phù hợp với mục đích hoạt động tư tưởng) của sự vật hiện thực. Tiếp
theo, tư duy có nghĩa là thao tác làm biến đổi, chuyển hoá mô hình xuất phát của sự
vật phù hợp với đồ án tư tưởng và sơ đồ của hoạt động biến tư tưởng thành vật thật.
Sự “chuyển hoá” các hình mẫu đó có thể thực hiện trên bình diện các biểu tượng
cảm tính cũng như trên bình diện hoạt động suy lý – lời nói gắn liền với biểu
tượng. Nhưng trong cả hai trường hợp, ý nghĩa căn bản đều tập trung ở các phương

21
tiện biểu thị tượng trưng và dấu hiệu của các ý niệm – tức là các chuẩn lời nói và
vật chất miêu tả, biểu đạt các sự vật và các cách thức sản xuất ra chúng. Nhờ các
biểu tượng tổng quát và các phán đoán tiến hành trên cơ sở của chúng mà con
người có thể thực hiện được những suy lý khá phức tạp. Như vậy, sự hình thành
những biểu tượng cảm tính trực tiếp tổng quát gắn kết trong hoạt động thực tiễn tạo
ra những điều kiện cho hoạt động tinh thần rất phức tạp mà chúng ta gọi là tư duy.
Có lẽ, từ những phân tích nêu trên và dựa vào chỉ dẫn của E. V. Ilencôv: “tư
duy là thành tố tư tưởng của hoạt động hiện thực của con người xã hội vốn bằng
lao động của mình cải biến giới tự nhiên bên ngoài và chính mình” [39; 8] các tác
giả cuốn giáo trình Lôgíc học đại cương đã nêu một định nghĩa về tư duy như sau:
Tư duy là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực khách quan vào đầu óc con
người, được thực hiện bởi con người xã hội trong quá trình hoạt động thực tiễn cải
biến thế giới xung quanh [69; 9].
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với cách hiểu này và xin phép sử dụng nó như
một khái niệm công cụ chủ yếu trong luận văn này. Từ định nghĩa trên suy ra, một
là, tư duy sinh ra trong đầu óc con người không phải một cách tuỳ ý và tồn tại

không phải tự nó, mà phải có thế giới hiện thực làm cơ sở tất yếu, tư duy phụ thuộc
vào thế giới ấy, do nó quy định.
Hai là, định nghĩa nêu trên cho thấy tư duy là phản ánh của hiện thực, tức là
sự tái tạo cái vật chất trong cái tư tưởng. C. Mác chỉ rõ: “cái ý niệm chẳng qua chỉ
là cái vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người và được cải biến đi trong
đó” [43, 23; 35]. Và nếu tự thân hiện thực mang tính hệ thống, tức là cấu thành từ
rất nhiều các hệ thống khác nhau, thì tư duy là hệ thống phản ánh toàn diện, trong
đó những yếu tố của nó cũng liên hệ và tương tác với nhau một cách xác định. Đây
là điểm then chốt của luận văn nghiên cứu về quy luật của tư duy.
Ba là, định nghĩa đã chỉ ra phương thức phản ánh - không phải là trực tiếp nhờ
các giác quan, mà gián tiếp trên cơ sở những tri thức đã có. Đó không phải là sự
phản ánh đối tượng riêng rẽ, mà là sự phản ánh có tính chất khái quát, bao hàm hết

×