Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Tư tưởng triết học hiện sinh cơ bản của Albert Camus qua một số tác phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 102 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ THÚY HỒNG






TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HIỆN SINH CƠ BẢN CỦA ALBERT
CAMUS QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM








LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


















Nội - năm 2008




1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN SINH 13
Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh 13
1. 1.1 Bối cảnh văn hoá tinh thần cho sự ra đời triết học hiện sinh 14
1.1.2.1 Soren Kierkegaard - bậc tiền bối của triết học hiện sinh 20
1.1.2.2 E.Husserl - người đặt nền móng lý luận cho triết học hiện sinh 26
1.2. Quan niệm chung về tồn tại người qua nhãn quan triết học hiện sinh 31
1.2.1 Tồn tại người nổi lên như một vấn đề triết học 31
1.2.2. Tồn tại người là tồn tại tự do tuyệt đối 34

1.2.3 Tồn tại người phải là tồn tại đích thực 36
1.2.4 Con quỷ lo âu làm tổ trong thân phận người ( Goeth) 38
1.2.5 Tồn tại người luôn vượt qua chính mình (siêu việt hóa) 40
1.2.6 Đối mặt với hư vô 41
Chương 2 ALBERT CAMUS – MỘT DÒNG CHẢY MỚI 46
CỦA TRIẾT HỌC HIỆN SINH 46
2.1. Albert Camus: cuộc đời và sáng tạo 46
2.2. Sự hình thành và phát triển tư tưởng triết học hiện sinh của Albert Camus 54
2.2.1. Kẻ xa lạ và Huyền thoại Sisyphus 54
2.2.2. Dịch hạch 72
KẾT LUẬN 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96









1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hiện nay, tiếp biến văn hóa toàn cầu là tất yếu, quá trình đó
diễn ra trên cả hai khía cạnh: bộc lộ văn hoá dân tộc ra với thế giới và tiếp nhận
văn hoá nhân loại. Trên lộ trình ấy, tiếp nhận văn hoá phương Tây là xu hướng
tất yếu. Chủ nghĩa hiện sinh là một phong trào văn hóa – triết học biểu hiện rất rõ
diện mạo văn hóa tinh thần của người phương Tây hiện đại. Đây là một trường

phái chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý, đặt tính độc đáo của
tồn tại người thành vấn đề triết học có vị trí hàng đầu. Chúng tôi cho rằng tìm
hiểu chủ nghĩa hiện sinh như sự phản tư triết học về tình cảnh của con người
trong điều kiện tồn tại hiện đại là nhu cầu nội tại của triết học, đồng thời góp
phần rèn luyện và phát triển năng lực tư duy lý luận.
Chủ nghĩa hiện sinh du nhập vào Việt Nam từ ngay khi phong trào này bắt
đầu thịnh hành, vào khoảng những năm 50 của thế kỷ trước, ở miền Nam Việt
Nam và tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là văn học
nghệ thuật và lối sống. Sự tiếp nhận và phát triển chủ nghĩa hiện sinh trong suốt
gần hai mươi năm ở miền Nam nhìn chung đã gây nên cái nhìn thiếu thiện cảm
đối với trào lưu này, nhắc tới nó là người ta nghĩ tới một đời sống truỵ lạc, chủ
nghĩa vô chính phủ, tuỳ tiện. Tuy vậy, chủ nghĩa hiện sinh, ở Việt Nam hay bất
cứ nơi nào nó hiện diện cũng đã đem lại những hệ quả tích cực khi nó tôn vinh
các giá trị của con người, đề cao tự do cá nhân, thức tỉnh con người phải trăn trở
trước ý nghĩa của cuộc sống. Và thực sự, chúng ta không thể phủ nhận những ảnh
hưởng của chủ nghĩa hiện sinh đối với sự hình thành các cá nhân có nội tâm, cá
tính, độc đáo và sáng tạo. Trong giai đoạn hiện nay, đời sống văn hoá - tinh thần
của con người Việt Nam, ở một mức độ nhất định, đang gặp phải những vấn đề
của chủ nghĩa tiêu thụ, chủ nghĩa duy khoa học tiềm ẩn sự khủng hoảng tinh thần
sâu sắc, nguy cơ điều mà con người phương Tây không thể tránh khỏi khi ở vào


2
những hoàn cảnh kinh tế, văn hoá - xã hội tương đồng. Chúng tôi cho việc nghiên
cứu chủ nghĩa hiện sinh là con đường có triển vọng để hội nhập văn hóa thế giới
và bảo vệ, tạo dựng diện mạo văn hóa Việt.
Albert Camus là triết gia tiêu biểu cuối cùng trong trào lưu hiện sinh thế kỷ
XX. Tinh thần chung của chủ nghĩa hiện sinh được triển khai trong một tâm hồn
nhân bản, cá tính mạnh mẽ và đầy sáng tạo, một con người của hành động với sự
quan tâm thực sự đầy trách nhiệm đến thời cuộc. Tư tưởng triết học hiện sinh của

Camus chính là những diễn đạt về tồn tại người - một trong những đề tài cơ bản
của triết học và nhận được sự hưởng ứng xã hội rộng rãi. Trong đó, quan niệm
của Camus về nổi loạn là rất đáng tìm hiểu để hiểu thấu hiểu sâu sắc hơn và tìm
thấy giải pháp cho đời sống nội tâm, tinh thần con người thời hiện đại - đang
dường không đủ sức chịu đựng những áp lực của cuộc sống, đang ngày càng có
thiên hướng muốn nổi loạn, phá huỷ đời sống. Tìm hiểu, nghiên cứu về A. Camus
đã được tiến hành rộng rãi trên khắp thế giới nhưng, ở Việt Nam, vẫn còn ít công
trình nghiên cứu sâu sắc về chủ nghĩa hiện sinh nói chung và về A.Camus ở góc
độ triết học nói riêng. Vì vậy, chúng tôi muốn bước đầu tìm hiểu những tư tưởng
triết học hiện sinh căn bản của Camus để góp phần làm phong phú và sâu sắc hơn
các nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh, đóng góp một phần tư liệu cho những
người quan tâm đến lĩnh vực này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, sáng tạo văn học và triết học, đạo đức học hiện sinh của
Camus đã được nghiên cứu sâu rộng. Tuy vậy, do sự hạn chế về ngoại ngữ của
bản thân và nguồn tài liệu ít ỏi ở Việt Nam nên, ở đây, chúng tôi chỉ xin trình bày
khái quát những tư liệu cơ bản về tư tưởng triết học của Camus.
Herbert Lottnan. Albert Camus: A Biography (Cortr Madera: Ginko,
1997). Đây là tác phẩm cung cấp nhiều chi tiết về cuộc đời của Camus nhưng
Lottman lại không đưa ra những vấn đề mà Camus đã gặp phải khi cố gắng lưu
giữ những giá trị trong một thế giới loạn lạc. Ông đưa ra các ảnh hưởng khác


3
nhau tới Camus thời trẻ, ví dụ như cái chết của người cha và sự căm ghét án tử
hình. Oliver Todd. Albert Camus, a life (New York: Carol & Graf Publishers,
2000). Đây là công trình nghiên cứu rất công phu về cuộc đời của Camus. Todd
nói đến những thách thức mà Camus phải đối mặt nhằm xác định và phát triển
những giá trị siêu việt trong thế giới đã hoàn toàn bị thế tục hóa. Về quá trình
phát triển tư tưởng Camus, Todd viết: "Camus không vướng bận niềm tin vào

Chúa, nhưng ông vẫn muốn thiết lập nên những tiêu chí hành xử" [67, 45]
*
. Sự tự
giải phóng khỏi niềm tin vào Chúa này là điểm xuất phát để phát triển quan niệm
về cái phi duy lý, nhưng Todd cho rằng thái độ của Camus đối với cái phi duy lý
vẫn tiếp tục thay đổi một cách đáng kể trong tiểu thuyết Dịch hạch. Tác giả cho
rằng, trong suốt thời gian này, Camus đã bắt đầu bản thân mình từ cái phi duy
lý và nhận ra sự cần thiết của những phán quyết về giá trị trong quan niệm về nổi
loạn [67, 167]. Mặc dù Camus có thể nhận thấy những hệ quả của cái phi duy lý ở
thời điểm sớm hơn là thời điểm mà Todd đưa ra, nhưng ông nhận thấy những hệ
quả đó đã tạo nên một thế tiến thoái lưỡng nan cho Camus. "Giống như những
nhân vật Rieux, Peneloux, Rambert, Camus tìm kiếm nền tảng cho các giá trị của
ông" [67, 215]. Theo ông, Camus cho rằng Kitô giáo có những giá trị có ích,
nhưng chúng không thể cứu rỗi được thế giới. David Sprintzen, Camus: A
critical Examination. Philadenphia: Temple University Press, 1988. Tác giả này
bàn về vấn đề nguồn gốc của các giá trị theo quan điểm của Camus. Tác giả cho
rằng, tuy Camus cho rằng giá trị chỉ có thể bắt nguồn từ lĩnh vực kinh nghiệm,
nhưng ông không làm rõ phương pháp mà Camus rút các giá trị từ kinh nghiệm,
mà chỉ khẳng định rằng nó nhất quyết dựa trên việc từ chối các giá trị nằm ngoài
kinh nghiệm hay bị áp đặt, được rút ra từ những nguyên lý, mà bản chất của các
khái niệm là tính tiền phản tư. Ông là một trong số ít người nhận ra nổi loạn

*
Từ đây trở đi;
- Số thứ nhất chỉ số thứ tự của tài liệu trong Danh mục tài liệu tham khảo
- Số thứ hai chỉ số trang của tài liệu tham khảo đó.





4
không tạo nên các giá trị mà chỉ chứng thực sự tồn tại của các giá trị. Tuy nhiên,
Sprintzen lại đưa ra quá ít nội dung về bản chất tiền phản tư của các giá trị mà
ông coi là cái biểu hiện kinh nghiệm nội tâm của con người.
Thụy Khuê. ( cho rằng, từ lý
thuyết hiện sinh - được xác định là sự đi tìm bản thể của con người, Albert
Camus giữ lại những hướng chính, đặc biệt là: nhân bản, phi duy lý như cốt lõi
của phận người và dấn thân. Chỉ có hành động và qua hành động thì con người
mới thật sự tự do, mới có được bản chất của mình. Tác giả kết luận: có thể nói,
Albert Camus là một nhánh lạc quan của hiện sinh, tin là con người có thể có
hạnh phúc trong cuộc đời phi duy lý.
Ở Việt Nam cũng đã có các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh
xuất bản ở miền nam trước năm 1975. Đáng chú ý là các tác giả Trần Thái Đỉnh
với Triết học hiện sinh (Nxb Thời Mới, Sài Gòn, 1968), Ý nghĩa thức tỉnh của
chủ nghĩa hiện sinh ( tạp chí Văn, số 15, 16, Sài Gòn) đã trình bày một cách có
hệ thống và sâu sắc về chủ nghĩa hiện sinh và các đại diện tiêu biểu của nó, đặc
biệt là chủ nghĩa hiện sinh công giáo. Những phát biểu của Trần Thái Đỉnh có thể
coi là những tri thức giáo khoa căn bản về chủ nghĩa hiện sinh. Tuy nhiên, tác giả
này hầu như không trình bày triết hiện sinh của A.Camus mà chỉ dừng lại ở
J.P.Sartre. Nguyễn Văn Trung với tập Nhận định (I) ( Nam Sơn xuất bản, 1963)
cũng có nhiều bài viết về chủ nghĩa hiện sinh, đặc biệt nhấn mạnh tới sự vong
thân của tồn tại người dưới cái nhìn của kẻ khác. Tác giả này đã có một số bài
viết về Camus như Một vài cảm nghĩ về Con người phản kháng của Albert
Camus, Quê hương lưu đày trong “Người đàn bà ngoại tình” (Văn số 2, 1963),
nhưng đây chỉ là những bài viết ngắn để giới thiệu tác phẩm của Camus nhiều
hơn là một công trình nghiên cứu, và thiên về loại hình cảm nhận văn học.
Bùi Giáng. Tác gia này dường như đặc biệt quan tâm tới Camus, ngoài
việc dịch một số tác phẩm của Camus như Ngộ nhận, Mùa hè sa mạc, Con người



5
nổi loạn, các truyện ngắn in trong tập Sương Tỳ Hải, các nhận định về Camus của
ông chủ yếu nằm trong tập khảo luận và phê bình Martin Heidegger và tư tưởng
hiện đại. Ở đây, ông nhấn mạnh rằng,“chúng tôi không dám làm cái việc tổng
hợp vô lý những tâm tình của máu và nước mắt hòa nhau, khi con người tài hoa
gục đầu trên cuộc đời "xa lạ, dày đặc" mà là muốn "mượn lời linh động uyển
chuyển của tâm tình để giới thiệu tấm lòng của ông"[3, 165]. Bên cạnh đó, ông
cũng lưu ý rằng, ở châu Âu, những nhà phê bình khen, chê Camus là nhiều như
nhau, vì vậy, khi tìm hiểu tư tưởng Camus phải tỉnh táo cảm nhận tác phẩm của
Camus để tránh những ngộ nhận từ căn bản. Ông cho rằng, với câu trả lời cho
những câu hỏi không mới: Vũ trụ này, thế giới này là phi lý hay hữu lý? Cuộc đời
chúng ta giữa thế giới này có ý nghĩa gì không? Camus đã "vừa đi sát với thời
đại, vừa bắt tay với những triết gia của nhân loại đã xao xuyến đi tìm ý nghĩa của
vũ trụ và đời người. Không một trang văn nào của Camus không mang nặng
những ưu tư xao xuyến của một đời người, trải qua những kinh nghiệm gì thì viết
văn và bàn chuyện tư tưởng theo những kinh nghiệm xương máu đó. "Camus là
một triết gia chân chính và cũng chính vì thế mà giữa ông và những triết gia nhà
nghề có một hố thẳm. Một bên sử dụng ngôn từ tài tình du dương trong một hệ
thống rành rẽ, logic, phân minh. Một bên vừa ngập ngừng, vừa mâu thuẫn, cầu
mong tìm ra giữa đau thương một niềm vui "[3, 205].
Tác giả nhận định, Dịch hạch nằm trọn vẹn trong cái nhân sinh quan bi đát
của Camus, là “tiếng khóc đoạn trường" của con người trong cõi đời phi lý. Ngộ
nhận là một tác phẩm kết tụ những tư tưởng u trầm nhất của Camus “trong một
thể thức rắn rỏi dị thường”. Tác phẩm này chung đúc tâm tình, hoài vọng của
châu Âu hiện đại chịu vò xé trong bao nhiêu mâu thuẫn giữa cuồng loạn. "Ngộ
nhận của Camus đúng là âm thanh của tiếng đời bi thương dằng dặc. Và, nói
riêng ra, nó còn mang sắc thái đặc biệt của xã hội châu Âu trong vòng nửa thế kỷ
nay. Bên thảm kịch Ngộ nhận, ta thấy rõ một xã hội tan rã. Văn minh vật chất đã
ăn ruỗng tâm tư hoài vọng thơ ngây. Con người chết ngột, không thể tìm ra nẻo



6
tiếp xúc với Nguồn sống thiên thu "[19, 422]; Caligula tượng trưng cho một tình
trạng tinh thần điên đảo của thời hiện đại, một tấm thảm kịch đày đọa tâm thức
con người thời nay bị tàn phá bởi hư vô chủ nghĩa. Tác giả cho rằng, nhiều nhà
phê bình đã nhận đinh sai lầm một cách tai hại tư tưởng của Camus. Sở dĩ Camus
thường nói đến cuộc đời phi lý, đến nghĩa sa mạc của tồn tại, không phải để tán
dương hành động điên cuồng của những anh hùng phi lý như Caligula, Martha,
v.v., mà "trước sau, Camus chỉ có một mối ưu tư đau đớn: đẩy tư tưởng hư vô
đến cùng độ, đẩy chủ nghĩa hư vô đến cuối đường để chúng ta nhìn rõ những hậu
quả gớm guốc của nó. Có thế, thì sau đó ta mới đủ sáng suốt đưa tinh thần phản
kháng của mình ra để lựa chọn, vượt qua hư vô chủ nghĩa, chinh phục tự do chân
chính của con người "[19, 455]. Theo tôi, những nhận định về Camus của Bùi
Giáng rất có ích cho những ai quan tâm đến giá trị thực sự của chủ nghĩa hiện
sinh: chiến đấu cho địa vị con người trong thế giới, con người cùng với những
tâm tình ưu tư của nó chứ không phải hệ thống lý luận, cơ giới mới là cứu cánh
của mọi triết lý. Tuy vậy, văn phong Bùi Giáng rất đặc biệt nên cũng khá khó
khăn khi muốn sử dụng những bài viết này làm tư liệu tìm hiểu chủ nghĩa hiện
sinh dựa trên những chủ đề của nó.
Nguyễn Nam Châu. Tập Sứ mệnh văn nghệ (Đại học xuất bản), bình luận
tư tưởng của một số triết gia, nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến thời đại. Trong
đó bài viết về Camus có tựa "Albert Camus, con người công phẫn". Tác giả nhấn
mạnh, thế hệ của Camus đã tuyệt đối từ chối hết mọi thứ giá trị luân lý, tôn giáo,
chính trị, xã hội, họ công phẫn với cái châu Âu đó, như lời Camus nói: "Ác thần
của châu Âu ngày nay mang danh các triết gia, họ là Hegel, Marx, Nietzsche, v.v.,
chúng ta đang sống trong châu Âu của họ"[47, 190]. Ông cho rằng, "Công phẫn
trước thời cuộc nhưng chính Camus cũng đi vào ngõ bí: một đằng nói rằng cuộc
đời vô nghĩa và người ta được phép làm mọi sự; một đằng bảo rằng con người
đừng làm hại kẻ khác, phải thương hại nó, tức kìm hãm tự do của mình. Nhưng ta
sẽ nhân danh cái gì để thương xót con người trong khi mà chính con người cũng



7
chẳng có ý nghĩa gì hết" [47, 203]. Mặc dù niềm công phẫn của Camus là không
lối thoát, nhưng dẫu sao "Camus cũng như Sartre đã thức tỉnh nhân loại trước một
vấn đề căn bản, bắt họ phải thoát ly ra ngoài cuộc sống hời hợt, vô tư, qua ngày
đoạn tháng của họ, buộc mình phải đi tìm một lẽ sống trước khi quyết định một
thái độ sống" [47, 204].
Đỗ Đức Hiểu. Trong Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa đã phân tích,
nhận xét văn học, triết học hiện sinh trên tinh thần chính là phê phán. Tác giả
nhận xét về chủ nghĩa hiện sinh là: quẩn quanh với một thế giới đóng kín, văn
học hiện sinh chủ nghĩa chỉ sản sinh ra được những hình tượng con người khắc
khoải, dở sống dở chết, con người mơ hồ hay bừng bừng thức dậy với những mê
sảng dữ dội, những kí ức huyễn hoặc, những ám ảnh khủng khiếp, những hình
bóng mơ hồ, mà nó gọi là thế giới thứ hai, "xao xuyến, náo động, làm chấn động
con người và vũ trụ" [24,14]. Tác giả khái lược tư tưởng Camus: khởi điểm của
học thuyết Camus là cái phi lý. Cái phi lý diễn tả mối quan hệ giữa con người và
xã hội. Nổi loạn là sắc thái đáng chú ý nhất của chủ nghĩa hiện sinh của Camus.
Và, "về cơ bản, nổi loạn Camus là nổi loạn siêu hình và vô nguyên tắc" [24, 109].
Tác giả nhận định, về một số khía cạnh, tác phẩm của Camus có những
điểm tích cực: nó đứng ở bên kia chủ nghĩa phát xít, không đồng tình với bất
công và tội ác, chiến tranh phi nghĩa, với khủng bố dã man. Nhưng tác phẩm của
Camus không phân tích, lý giải những hiện tượng và tìm cách khắc phục những
nguyên nhân mà, cùng chung như chủ nghĩa hiện sinh, Camus đã biểu hiện quan
niệm con người là một hữu thể bất lực trong một "thế giới im lặng khủng khiếp",
"giữa sa mạc mênh mông"[24, 117]. Đối với sự tán dương của giới phê bình
phương Tây về "chủ nghĩa nhân văn kiểu Địa Trung hải" của Camus, tác giả cho
rằng đây lại là điểm yếu cơ bản của ông ta, cũng như của chủ nghĩa hiện sinh nói
chung, và là tấn bi kịch của nó: vừa khước từ, vừa chấp nhận, một nghệ thuật vừa
khẳng định vừa phủ định. "Camus phản kháng bạo lực phi nghĩa mà ông gọi là

lịch sử phi lý tính, song đồng thời ông cũng cự tuyệt bạo lực chính nghĩa mà ông


8
gọi là lịch sử lý tính; và ông đánh giá ngang hàng hai thứ bạo lực ấy; sai lầm
nghiêm trọng của Camus là ở chỗ ấy. Ông tìm đến con đường ôn hòa, nhiều khi
thỏa hiệp với kẻ thù của loài người. Từ đó, Camus đi vào con đường chống cộng
đáng khinh bỉ". [24, 120]
Đối với quan điểm của Camus về sứ mệnh của nghệ thuật và của nhà văn,
tác giả cho rằng, việc Camus vứt bỏ cả hai thứ mỹ học: nghệ thuật vị nghệ thuật
và cả chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, là những lập luận siêu hình, phi lịch
sử và phi giai cấp không có gì mới mẻ và ghê gớm. Kết luận, cũng như những
học thuyết hiện sinh chủ nghĩa khác, học thuyết của Camus cũng chất chứa đầy
mâu thuẫn và không khỏi dẫn đến bi kịch. Chính vì vậy ảnh hưởng của nó trong
cuộc sống hàng ngày rất tai hại ở những xã hội thuộc thế giới tự do.
Hoàng Trinh, Phương Tây văn học và con người (Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội,1969). Trong bài “Anbe Camuy và vấn đề “văn học nổi loạn”, tác giả
nhận xét về triết học hiện sinh của Camus: khác với một số nhà triết học hiện sinh
đã nâng thuyết hiện sinh thành “bản thể luận”, Camus không bàn đến những vấn
đề siêu hình rắc rối, như thực thể, hư vô, tồn tại, bản chất mà chỉ nói đến ý nghĩa
sự “sinh tồn” và thân phận con người. Nhìn chung, tác giả chủ yếu phê phán
thuyết “phi lý” của Camus, mà ở đó, thứ luân lý mơ hồ và nguỵ biện là hạt nhân.
Nổi loạn như là hệ quả của cái phi lý thì không xác định rõ lập trường: ai nổi
loạn, nổi loạn chống ai và nổi loạn như thế nào; không phân biệt nổi loạn tiến bộ
và nổi loạn phản động.
Những nhận định của các tác giả Hoàng Trinh và Đỗ Đức Hiểu về Camus,
một mặt, chủ yếu dựa trên tinh thần phê phán; mặt khác, về cơ bản là góc nhìn
văn học. Các tác giả có nêu ra một số điểm tích cực của Camus. Tuy vậy, theo
tôi, họ chưa bộc lộ được sự thâm trầm của tư tưởng Camus và chủ nghĩa nhân
văn sâu sắc trong các tác phẩm của Camus.

Trong những năm gần đây xuất hiện ngày càng nhiều các công trình nghiên
cứu hay giáo khoa về lịch sử tưởng phương Tây hiện đại, trong đó có chủ nghĩa


9
hiện sinh. Nguyễn Tiến Dũng: Chủ nghĩa hiện sinh và sự hiện diện ở Việt Nam
(LATS triết học, viện Triết học, 1995), Nguyễn Kim Châu: Chủ nghĩa hiện sinh
và một vài ảnh hưởng của nó ở miền Nam Việt Nam ( LATS, viện Triết học,
2000). Hai tác giả này chỉ ra những điều kiện kinh tế xã hội cho sự hình thành
chủ nghĩa hiện sinh, trình bày một số đại diện tiêu biểu và các phạm trù trung tâm
của triết học hiện sinh. Trên cơ sở đó các tác giả xem xét ảnh hưởng của chủ
nghĩa hiện sinh trong văn học và đời sống ở miền Nam Việt Nam trước năm
1975. Đỗ Minh Hợp: Vấn đề bản thể luận trong một số trào lưu triết học phương
Tây hiện đại (LATS triết học, viện triết học, 2000), Khái niệm tồn tại trong triết
học hiện sinh (Tạp chí Triết học, số 6, 1998), Chủ nghĩa hiện sinh nhìn từ góc độ
văn hoá học (Tạp chí Triết học, số 6, 2000) - các công trình này đem lại cách tiếp
cận triết học hiện sinh mới ở Việt Nam: tiếp cận góc độ bản thể luận của - một
yếu tố quyết định địa vị của triết học trong lĩnh vực tri thức nhân văn. Cuốn Chủ
nghĩa hiện sinh (Nxb Tri thức, Hà Nội, 2008) đã có phần riêng bàn về A.Camus,
tác giả nhận định tư tưởng con người nổi loạn là tư tưởng đặc sắc nhất của Camus
đồng thời chỉ ra hạn chế của Camus là không nêu ra được cương lĩnh tích cực nào
cho hành động của con người nổi loạn.
Trần Hinh, Tiểu thuyết Camus trong bối cảnh tiểu thuyết Pháp thế kỉ XX.
Phần I, “Tiểu thuyết Camus - một số vấn đề về truyện kể và kể chuyện” là phần
mà tác giả dồn nhiều tâm huyết nhất. Hàng loạt những phân tích, nhận định về
tiểu thuyết của A.Camus được tác giả trình bày dưới góc độ thi pháp học. Các tác
phẩm được phân tích cụ thể: Người xa lạ, Sa đọa, Dịch hạch. Những đánh giá
trên phương diện triết học của tiểu thuyết Camus hầu như không đáng kể.
Nguyễn Thị Sông Hương. Algier, thành phố trong "Người xa lạ"
(L'etranger) của A.Camus, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp 2001.

Đây là sự phân tích thuần tuý văn học, về nghệ thuật tả cảnh trong văn chương
Camus.


10
Như vậy, các nghiên cứu về Camus ở Việt Nam hoặc thuộc lĩnh vực văn
học hoặc chưa quan tâm đầy đủ đến Albert Camus ở góc độ triết học, triết học
hiện sinh. Theo chúng tôi, tìm hiểu nghiên cứu Camus như một hiện tượng văn
hóa cần thiết xem xét riêng biệt khía cạnh triết học trong các sáng tác của ông.
Điều này là thực sự cần thiết cho việc tìm hiểu lịch sử triết học. Luận văn này
được hoàn thành trong cố gắng đưa lại một chân dung Camus – nhà triết học rõ
nét hơn.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở trình bày một cách khái quát về chủ nghĩa hiện sinh, luận văn
làm rõ quá trình hình thành và sự phát triển tư tưởng triết học hiện sinh của
A.Camus qua một số tác phẩm chủ yếu của ông.
Để thực hiện mục đích ấy, luận văn sẽ giải quyết những vấn đề sau đây:
- Giới thiệu khái quát chủ nghĩa hiện sinh: sự ra đời của chủ nghĩa hiện
sinh (bối cảnh văn hóa tinh thần và cội nguồn tư tưỏng), những chủ đề chính của
triết học hiện sinh.
- Trên cơ sở đó tìm hiểu, phân tích, trình bày, hệ thống hóa, đánh giá sơ lược
tư tưởng triết học hiện sinh của A.Camus thông qua việc xem xét cụ thể bốn tác
phẩm: Kẻ xa lạ, Huyền thoại Sisyphus, Dịch hạch, Con người nổi loạn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên nguyên tắc về sự thống nhất giữa triết
học và lịch sử triết học. Đồng thời, luận văn cũng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu lịch sử triết học như phân tích và so sánh, phân tích và tổng hợp, logic
và lịch sử.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào lĩnh vực nghiên cứu triết học hiện sinh, đặc biệt

là tìm hiểu cụ thể một đại diện cụ thể của nó là Albert Camus, qua đó góp phần
vào việc nghiên cứu triết học hiện sinh ở Việt Nam.


11
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho công tác giảng
dạy và nghiên cứu phần triết học hiện sinh.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn mạnh dạn trình bày tư tưởng của hai nhà triết học Soren
Kierkegaard và E.Husserl như là nguồn gốc tư tưởng cho triết học hiện sinh.
- Luận văn khẳng định tư tưởng triết học của Albert Camus là dòng chảy
mới của triết học hiện sinh khi ở đây, lần đầu tiên, tồn tại người đã được chỉ ra
con đường hiện thực hóa tự do của mình thông qua hành vi nổi loạn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.




















12



Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN SINH

1.1 Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh, với tư cách là trào lưu văn hoá - triết học, xuất hiện
đầu tiên ở Đức ngay sau Thế chiến I và làn sóng mới của nó nổi lên ở Pháp sau
Thế chiến II. Có thể thấy chủ nghĩa hiện sinh biểu hiện rõ khủng hoảng kinh tế xã
hội trong và sau những cuộc chiến - khi mà tâm trạng lo âu, bi quan, nổi loạn bao
trùm lên xã hội. Thuật ngữ này được nhìn nhận rộng rãi theo cách mô tả của
J.P.Sartre: tồn tại có trước bản chất. Hãy cứ sống như mình vốn có, Thượng đế
đã chết và mọi cái đều được phép. Tuy nhiên, đó chỉ mới là cái nhìn về chủ nghĩa
hiện sinh như một trào lưu văn hoá. Chủ nghĩa hiện sinh còn là một khuynh
hướng triết học phương Tây nổi trội của thế kỷ XX. Rõ ràng, đó là sự phản ứng
của chủ nghĩa phi duy lý chống chủ nghĩa duy lý. Và ở giác độ này, chủ nghĩa
hiện sinh là triết học hiện sinh, là một đóng góp lớn cho sự hình thành bản thể
luận phương Tây hiện đại. Các nhà hiện sinh coi sự lý giải siêu hình học về tồn
tại người của triết học truyền thống là thất bại, không đưa đến những kết quả thoả
mãn. Tồn tại người cũng không thể dừng lại ở những chân lý mà khoa học, cả
khoa học tự nhiên và tâm lý học đem lại. Những phạm trù của đạo đức học cũng
không đủ để định nghĩa tồn tại người. Không từ chối hiệu lực nhất định của
những phạm trù khoa học được chi phối bởi khuôn mẫu chân lý hay những phạm

trù đạo đức bị chi phối bởi khuôn mẫu của lợi ích và quyền lợi, triết học hiện sinh
có thể được định nghĩa như học thuyết triết học mà những phạm trù của nó dựa
trên tính đích thực của tồn tại người, là sự cần thiết để có thể nắm bắt sự tồn tại
của con người. Họ nhấn mạnh rằng, vấn đề của tồn tại phải là vấn đề tiên quyết


13
trong triết học. Hiện sinh luôn là duy nhất, cá biệt. Tự do hiện sinh thể không thể
công thức hoá. Tồn tại không thể trở thành một đề tài cho khoa học khách quan.
Tồn tại phải được phát giác và cảm nhận bởi chính hiện sinh thể cùng với sự trải
nghiệm và hoàn cảnh của chính hắn. Chính vì vậy, tồn tại người phải là vấn đề
trung tâm và tiên quyết của triết học.
Trong và sau các cuộc chiến tranh thế giới của thế kỷ XX, khi châu Âu
tìm thấy mình trong cơn khủng hoảng, đối mặt với cái chết, sự huỷ diệt thì phong
trào hiện sinh bắt đầu thịnh hành. Chủ nghĩa hiện sinh như một khuynh hướng
triết học cũng như một phong trào văn hoá được phổ biến rộng rãi nhất trong
những thập niên 40-50 của thế kỷ XX, là thời điểm mà châu Âu đang chìm trong
tâm trạng tuyệt vọng, có thể không phải không có hy vọng về việc tái thiết xã hội
nhưng tình trạng bi quan cũng đủ để chấp nhận cái nhìn hiện sinh về sự vô mục
đích của thế giới, sự buồn nôn, vô nghĩa của cuộc đời. Khi xem xét chủ nghĩa
hiện sinh với tư cách là triết học hiện sinh, bên cạnh những điều kiện kinh tế, xã
hội và chính trị là cái đóng vai trò tiền đề quan trọng cho sự ra đời của chủ nghĩa
hiện sinh và cũng đã được đề cập đến trong một số luận văn và luận án viết về
triết học hiện sinh (do vậy, chúng tôi không nhắc lại ở đây), chúng ta không thể
tách rời bối cảnh văn hoá tinh thần cũng như cội nguồn tư tưởng của nó.

1. 1.1 Bối cảnh văn hoá tinh thần cho sự ra đời triết học hiện sinh
Cuối thế kỷ XIX, trong lòng châu Âu bùng nổ cuộc khủng hoảng có cội
nguồn từ sức nặng của thứ văn hoá chuyên chế bóp nghẹt nhân cách cá nhân.
Soi xét con người cá nhân bằng những giáo lý im lìm của Cơ đốc giáo trong

suốt gần hai mươi thế kỷ, những giá trị, chuẩn tắc tuyệt đối đã giam hãm tồn tại
người vốn tự do, đột biến và đầy sáng tạo. Tồn tại người rạn nứt, nhiều tầng
cảm xúc bị đè nén bừng tỉnh với câu hỏi: hiện sinh của tôi là đích thực hay
không đích thực? Và, chính câu hỏi mang ý nghĩa thức tỉnh này đã khởi dấy lên
một cách mạnh mẽ những tư tưởng triết học hiện sinh lấy tồn tại người là cứu


14
cánh của mọi triết lý. Triết thuyết này trở nên có tác động mạnh mẽ tới đời sống
xã hội phương Tây lúc bấy giờ. Sự ra đời của triết học hiện sinh trong dòng
chảy của lịch sử triết học là biểu hiện của sự biến văn hoá. Cách tiếp cận nhân
học văn hoá trong lĩnh vực tri thức nhân văn buộc chúng ta phải tìm hiểu sâu
sắc những tiền đề văn hoá cho sự ra đời chủ nghĩa hiện sinh. Trên cơ sở hiểu rõ
những tiền đề văn hoá đó, chúng ta có thể có những góc nhìn, những soi rọi triết
học hiện sinh từ góc độ nhân học văn hoá.
Bối cảnh văn hoá cho sự ra đời chủ nghĩa hiện sinh có phông nền chính là
chủ nghĩa duy lý và cuộc khủng hoảng mà nó đưa đến cho châu Âu. Văn hoá châu
Âu Cận đại khởi từ văn hoá Phục hưng đã đưa con người vào vị trí trung tâm của
mọi sáng tạo văn hoá. Đây là thời đại “khám phá ra con người”. Những sự lý giải
con người trên chiều cạnh lý tính diễn ra trong triết học Khai sáng, tới Kant và đạt
đến đỉnh cao trong thống triết học Hegel. Lý tính trở thành chiều đo tuyệt đối về
tồn tại người, tức nhân tính. Sự tự vận động của lý tính đã kiến tạo nên một hệ
thống hoàn hảo điều chỉnh hành vi con người. Những hệ giá trị tuyệt đối được áp
dụng trong xã hội một cách triệt để bởi nhà cầm quyền. Không gì dễ dàng hơn là
điều khiển đám đông không nhân cách, hay chính là mẫu hình con người đại chúng
theo cách gọi của Oterga I Gasset. Con người đại chúng có thái độ thờ ơ với những
vấn đề quan trọng, chỉ tiếp nhận những nhận xét, sở thích do người khác đưa ra và
được phương tiện truyền thông gán cho chứ không tự mình xây dựng, và, vì vậy,
nó là nơi nhận những mỹ từ được nhồi nhét từ kẻ cầm quyền. Con người đại chúng
quen với nếp sống theo những khuôn mẫu phổ biến và sợ hãi sự thay đổi do chính

mình tạo ra. Kiểu người này không nhìn thẳng vào cô đơn vì nó không có cá tính
mạnh mẽ. Tâm hồn nó là một khối đồng tính. “Người ta gán cho tâm thần tập thể,
ý thức xã hội những phẩm chất cao cả nhất, kỳ lạ nhất, đôi khi là thần thánh nhất.
Đối với Durkheim thì xã hội là Chúa chân chính. Theo tín đồ Cơ đốc giáo Bonalld,
tín đồ Tin lành giáo Hégel v.v. thì tâm thần tập thể là cái cao cả, mang tính người
lớn hơn nhiều so với con người, là sáng suốt hơn nhiều con người”[25, 133]. Phân


15
tâm học Freud đã mở ra triển vọng lớn cho việc tìm hiểu tâm lý con người. Không
đi vào lý thuyết của Freud, tôi chỉ muốn nói đến sự quan tâm của ông vào cái Ngã
bị đè nén bởi cái Siêu Ngã - các cấm đoán xã hội, các chuẩn tắc văn hoá và tình
trạng “không thỏa mãn với văn hoá”. Sự ra đời của phân tâm học cho phép chúng
ta tiếp cận tình trạng tồn tại người trong mọi nền văn hoá: bị cưỡng chế. Chính bản
thân Freud cũng không ủng hộ việc giải phóng tình cảm, mà coi việc đè nén dục
vọng là nguyên tắc của tồn tại; đáp ứng các dục vọng tình dục, hiếu chiến, sự phá
hủy hay bản năng chết thì không những đe dọa thứ văn hoá áp đặt mà còn đe doạ
cả sự kế tục giống nòi người. Bản thân Freud ở một khía cạnh nhất định chính là
sản phẩm của nền văn hoá duy lý.
Cách mạng khoa học kỹ thuật cùng với sự bành trướng của phương tiện
truyền thông khiến cho cuộc sống con người trở nên phức tạp và nguy hiểm hơn.
Triết học hiện sinh hoàn toàn không phủ định những thành tựu của khoa học đối
với sự phát triển toàn diện con người, nhưng vấn đề là sự phát triển của khoa học
kỹ thuật tự thân chúng không kéo theo sự phát triển trong lĩnh vực văn hoá tinh
thần. Franc đã phải nói: “loài người hiện đại không còn khả năng tạo ra tính
người”. Như vậy, cần phải tỏ thái độ đối với sự phát triển tiếp theo trên bình diện
nhân cách con người, nếu không, con người không còn năng lực đồng cảm và sẽ
uỷ thác mọi vấn đề về nhân tính, nhân phẩm cho khoa học. Điều này được
Berdyaev cảnh báo trong triết học lịch sử của mình. Ông xác định rõ ràng rằng,
lịch sử là lịch sử loài người và lịch sử của những số phận cá nhân chứ không phải

là lịch sử của lãnh tụ, nên thái độ với lịch sử phải là thái độ có nhân cách, có trách
nhiệm, có đạo đức. Ông phản đối thái độ xác tín đối với tính có quy luật của lịch
sử. Tâm thế tin tưởng một cách vô căn cứ vào tương lai tốt đẹp mà không biết suy
nghĩ nghiêm túc về việc bắt đầu xây dựng tương lai đó như thế nào (Berdyaev gọi
là Tiến bộ giáo) sẽ hình thành một lớp người vô ơn với di sản quá khứ, tàn nhẫn
với hiện tại và vô trách nhiệm với tương lai. Hơn nữa, nó còn tạo ra tâm lý thù hằn


16
giữa các thế hệ do niềm tin vào sự vượt trội tất yếu của thế hệ sau so với thế hệ
trước và như vậy, tạo ra sự xa lạ ngày càng lớn giữa người với người.
Chủ nghĩa vô thần trở thành một nguyên nhân quan trọng cho các vấn đề
của triết học hiện sinh. Sự sụp đổ truyền thống tôn giáo ở châu Âu, một mặt, làm
mất đi những giá trị nhân bản, hướng thiện trong đời sống tinh thần của xã hội mà
tất cả tôn giáo đều hướng đến; mặt khác, điều đó làm cho ý thức về sự vô nghĩa,
vô giá trị của đời sống càng trở nên trầm trọng. Sau cái chết của Chúa là cái chết
của con người. Andre Malraux đã viết trong bài diễn văn đọc trước Đại hội văn
hoá Liên hợp quốc (1948): “Thảm kịch của châu Âu chính là cái chết của con
người” [47, 188].
Triết học hiện sinh đến lúc tất yếu phải xuất hiện. Cá nhân con người trong
nhiều thế kỷ đã bị đẩy vào hậu trường bởi những hệ thống tư tưởng không quan
tâm đến tính độc đáo của con người cá nhân, khinh rẻ khát vọng sống, tình cảm cá
nhân. Triết học hiện sinh khẳng định tự do của con người, từ chối việc ý thức cá
nhân phụ thuộc vào những khái niệm trừu tượng hay các cấu trúc xã hội đã bị phi
nhân tính hoá. Triết học này là biểu tượng nổi loạn chống lại những tư tưởng và
định chế một mặt đã kìm hãm tự do cá nhân, mặt khác, lại biến cá nhân thành kẻ
chối bỏ trách nhiệm, trước hết là trách nhiệm với chính bản thân mình. Trước và
cùng với chủ nghĩa hiện sinh, đã xuất hiện nhiều sự phản kháng từ các phong trào
xã hội nhằm chống văn hoá tuyệt đối hoá, nhưng chỉ có triết học hiện sinh đã tìm
ra lối thoát: không phải đập phá các giá trị hiện tồn, mà tương đối hoá các giá trị và

đồng thời tuyệt đối hoá sự tự do lựa chọn có trách nhiệm những giá trị của cá nhân
cho chính họ.
Kết luận về bối cảnh văn hoá cho sự ra đời triết học hiện sinh, tôi xin trích
nhận xét của Mounier: “Tưởng là cũng không nên quên những điều kiện lịch sử đã
tạo nên triết thuyết này. Chủ nghĩa hiện sinh được coi như một phản ứng chống lại
một thế giới trong đó chủ nghĩa duy vật khoa học đã bành trướng tới độ muốn chối
bỏ thực tại chủ quan nội tại trong tâm hồn con người. Bước đầu tiên của chủ nghĩa


17
hiện sinh khi đi vào trong thế giới như quay cuồng trong tốc độ máy móc, là kéo
con người ra khỏi sự mù quáng về quảng cáo, rứt con người khỏi cái cảnh cứ bám
riết lấy sự vật ngoại giới cũng như cách xã giao hời hợt bên ngoài để đi sâu vào
một cuộc kiếm tìm một cuộc sống có tính người đích thực hơn” [58, 141]

1.1.2 Cội nguồn tư tưởng triết học hiện sinh
Nếu như coi sự quan tâm đến tồn tại người với nhân cách, nhân tính và sự
sống động, độc đáo là nét cơ bản nhất của triết học hiện sinh, thì khi tìm về cội
nguồn tư tưởng của nó, người ta phải ngược về tận Socrates, St.Augustin, Pascal,
v.v. bởi sắc thái hiện sinh trong các triết lý ấy.
Socrates là nhà triết học đầu tiên đã đặt con người, mục đích tồn tại của con
người, các đặc điểm của bản tính con người vào trung tâm những suy ngẫm của
mình. Socrates đã chỉ ra rằng, không thể nghiên cứu con người theo con đường mà
người ta nghiên cứu các đối tượng vật lý: Có thể mô tả đối tượng vật lý thông qua
các thuộc tính khách quan của chúng, trong khi đó, chỉ có thể mô tả và xác định
con người thông qua các đặc tính của tâm hồn con người. Con người là thực thể
thường xuyên tìm kiếm bản thân mình, thể nghiệm bản thân và điều kiện tồn tại
của mình. Chính tâm thế thử nghiệm, phê phán đối với cuộc sống là cái quyết định
giá trị của cuộc sống. Socrates nói rằng, "không có sự trải nghiệm thì cuộc sống
không còn là cuộc sống dành riêng cho con người"[25, 221].

Thánh Augustin, theo nhận xét của Foulquié, là “triết gia thuộc phái hiện
sinh vì ta có thể tìm thấy nơi thánh nhân cũng như thấy nơi tất cả những người nào
có một đời sống cá nhân mãnh liệt, những thái độ giống như thái độ của phái hiện
sinh tân thời, đó là cách sống thực sự, không giả dối” [58, 134]. Trong Thú tội,
thông qua việc thuật lại những tội lỗi của đời sống xa rời Thiên Chúa của mình,
ông đã thể hiện tâm trạng hiện sinh lo âu và xao xuyến, bất an. Từ đó, ông chú
trọng đến sự hiện hữu của cá nhân mà theo ông là sự hiện hữu gắn với hiện hữu


18
của Thiên Chúa, thấu hiểu bản thân và thấu hiểu Thiên Chúa, “sống biết Thiên
Chúa chính là biết mình”.
Blaise Pascal được nhìn nhận như là người đầu tiên, tuy sống trong thời đại
của chủ nghĩa cơ giới, nhưng lại bảo vệ cá nhân vì ông đã nhận ra bản chất và ý
nghĩa quan trọng của hiện sinh cá nhân. Pascal đưa ra quan điểm mà sau này được
các nhà hiện sinh phát triển: con người đánh mất mình trong sự lạc hướng nhằm
tránh phải nghĩ tới bản chất yếu đuối, hữu hạn của chính mình, làm như vậy họ
thoát khỏi sự tất yếu phải phán xét cuộc sống của họ có phải là không có giá trị gì
hay không. Lẩn trốn sự phán xét này rất quan trọng với họ bởi dường như đúng là
cuộc sống của họ không có giá trị. Lẩn tránh việc định giá cuộc sống, con người
đồng thời cũng lãng quên bản thân mình theo nghĩa là họ đã từ bỏ bất kỳ cơ hội
nào để tiếp cận với cuộc sống theo cách có thể khiến họ sống với nó trọn vẹn.
“Thảng hoặc, khi tôi đặt mình để xem xét những trạng thái đau khổ khác nhau của
con người, nỗi đau và nguy hiểm mà với nó họ phơi bày con người của mình, tại
toà án hay trong cuộc chiến…tôi khám phá ra rằng mọi bất hạnh của con người đều
xuất phát từ những sự kiện cá nhân, rằng họ không thể ngủ yên trong căn phòng
của mình… Nhưng xem xét kỹ lưỡng hơn, khi mà, sau khi tìm kiếm nguyên nhân
của sự đau khổ, tôi tìm thấy nguyên nhân của nó rồi thì tôi lại nhận ra rằng chỉ có
một lý do thực sự, ấy là, sự nghèo nàn mang tính bản chất của đời sống hữu hạn và
yếu đuối của chúng ta, điều đó khủng khiếp đến nỗi không có gì có thể làm ta

nguôi lòng được một khi nghĩ đến nó [77, 139]. Đọc Pascal, người ta bị ám ảnh khi
ông mô tả cảm giác rợn ngợp của con người nhỏ bé trước vũ trụ mênh mông trong
tác phẩm Hai cái vô cùng: “một cái hư vô đối với cái vô cùng, một cái toàn thể đối
với cái hư vô, một cái trung gian ở giữa cái toàn thể và hư vô. Vô cùng xa cách để
hiểu những cái cực kia, cứu cánh của sự vật và nguyên lý của chúng đều bị giấu
trong một bí ẩn không thể nào khám phá được đối với con người, do đó con người
cũng không sao thấy được cái hư vô nơi con người bước ra và cái vô cùng là nơi
con người chìm xuống”[59, 217]. Bằng suy tư của một cá nhân và là một cá nhân


19
có kiến thức khoa học tự nhiên uyên bác, Pascal đã đưa đến một kết luận mà các
triết gia hiện sinh hiện đại đã dùng để mô tả đời người: Giữa chúng ta và thiên
đàng hay địa ngục chỉ có một cuộc sống duy nhất và đó là thứ mong manh nhất
trong vũ trụ.
Đi tìm tư tưởng hiện sinh trong lịch sử tư tưởng phương Tây là không khó,
bởi lẽ bất kỳ thời đại, giai đoạn nào ít nhiều cũng luôn nuôi dưỡng mâu thuẫn
giữa cá nhân và các lý tưởng văn hoá - xã hội. Sự bộc phát tâm tình cá nhân theo
hướng đi ngược lại cộng đồng để khẳng định cái Ngã chính là khởi đầu cho tư
duy hiện sinh. Trong các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh, các tác
giả đưa ra nhiều nhà triết học theo quan điểm của họ. Nhưng, ở đây, tôi cho rằng
hai con người - triết gia mà các nhà triết học hiện sinh sau này khi từ chối hết
những bậc tiền bối khác thì còn lại họ, đó là Soren Kierkegaard và Edmund
Husserl.

1.1.2.1 Soren Kierkegaard - bậc tiền bối của triết học hiện sinh
Kierkegaard đã tạo ra những đối lập đáng chú ý với những nhà tư tưởng
quan trọng khác cả trước và sau ông. Có thể nói ông là trường hợp điển hình cho
nhận xét: tác phẩm của các nhà triết học hiện sinh là bản dịch cuộc đời họ.
Kierkegaard sinh năm 1813 tại Copenhagen - Đan Mạch, trong một gia đình Cơ

đốc giáo. Cha ông là một người có đời sống cá nhân dữ dội, đặc biệt với những
tình cảm tôn giáo cùng với ám ảnh vì tội lỗi đối với Thiên Chúa. Nỗi ám ảnh ấy
ông dồn hết vào người con trai út - Soren. Kierkegaard không có tuổi thơ, ông bị
lôi cuốn vào ám ảnh tội lỗi của cha mình, luôn đau khổ, cô đơn. Năm 1839, ông
đính hôn với Regina Olsen nhưng sau đó một năm thì từ hôn vì nghi ngờ sự thích
hợp của bản thân với hôn nhân. Sự kiện này lại khiến ông càng thêm đau khổ vì
tội lỗi, làm tăng thêm sự xa cách giữa ông và thế giới xung quanh. Song tiếp theo
đó là thời kỳ sáng tạo mãnh liệt của Kierkegaard.


20
Kierkegaard, trong sự sáng tạo đặc biệt mang những dấu ấn tâm lý đậm nét
từ bi kịch của gia đình và của bản thân, đã đưa vào khái niệm “hiện sinh” dấu ấn
đặc biệt của ông. Ông lần đầu tiên đưa ra khái niệm hiện sinh như là tổng thể
những biểu hiện của nhân tính, là cuộc sống đích thực của cá nhân. Hiện sinh
không thể định nghĩa được mà chỉ có thể mô tả. Con người bất hạnh vì nó bị gạt ra
ngoài bản thân nó, ngay lúc nó sống bằng hồi tưởng quá khứ hoặc hy vọng vào
tương lai cũng là lúc nó đánh mất cuộc sống đích thực của mình. Hiện sinh nhấn
mạnh tính chất cụ thể và riêng biệt của một đời sống hiện hữu trong thời gian và
những đòi hỏi về tính cá nhân như là sự tương phản với những nỗ lực để điều
chỉnh cuộc sống của họ một cách trừu tượng, theo những chuẩn mực phổ biến,
quên lãng cái tôi độc đáo. Dấu hiệu đặc thù của hiện sinh là sự lo âu xao xuyến của
cá nhân do cái họa đánh mất mình luôn ở trước mắt nó. Đây là một mô tả điển hình
cái “lo âu hiện sinh”: “Tôi ở đâu? Tôi là ai? Tôi đến đây từ đâu? Từ thế giới có
nghĩa là gì? Ai là người đã đưa tôi vào tồn tại và bây giờ lại bỏ rơi tôi? Tôi có mặt
trong thế giới này như thế nào? Tại sao người ta không hỏi ý kiến tôi, tại sao không
giới thiệu tôi với những tập quán của họ, mà đơn giản đẩy tôi đứng cùng một dãy
với những người khác, dường như tôi bị bắt làm tù binh của một kẻ bán linh hồn
nào đó? Tại sao tôi lại quan tâm tới xí nghiệp khổng lồ được gọi là thực tại này?
Sự quan tâm tự nguyện của tôi là gì? Nếu tôi buộc phải tham gia vào nó, thì ai là

giám đốc? Tôi muốn góp ý với ông ta, nhưng không có giám đốc nào. Vậy, khi đó,
tôi cần thỉnh cầu với ai? Sự hiện sinh đương nhiên là cuộc luận chiến, vậy lẽ nào
tôi có thể yêu cầu để quan điểm của tôi được xem xét? Nếu cần phải lĩnh hội thế
giới như nó hiện có, thì hoàn toàn không biết nó như thế này thì có tốt hơn
không?" [27, ]. Lo âu trở thành một khái niệm quan trọng trong tư tưởng
Kierkegaard. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông nhấn mạnh lo âu như một cơ
cấu của hiện sinh thể. Nó là ánh sáng của bản chất tinh thần của chúng ta. Nó phản
ánh mối liên hệ của chúng ta với khả năng và tương lai. Lo âu dẫn chúng ta đến tội
lỗi nhưng nó cũng là hệ quả của tội lỗi. Lo âu đồng nghĩa với khả năng tự do. [34,


21
317] hay lo âu chính là “sự để lộ mình của tự do thành khả năng của nó”. “Lo âu
là tự do bị mắc phải, là nơi mà sự tự do không phải tự do trong bản thân nó mà
là bị vướng phải, không phải bởi sự tất yếu mà là trong chính nó”[34, 318].
Trong lo âu, chúng ta đã dùng tự do của mình làm cho bản thân chúng ta cảm
thấy bất lực hay không được tự do. Lo âu được Kierkegaard mô tả như một hình
thức nghịch lý của ước vọng, hoặc là nghịch lý của sự sợ hãi. Người ta vừa
muốn lẩn trốn lo âu vừa yêu nó bằng tình yêu thực sự. Như vậy là trước Freud
khá lâu, Kierkegaard đã phát hiện ra hố sâu của dục vọng trong tình trạng lo âu.
Chính vì trong lo âu có bao hàm yếu tố của dục vọng nên mặc dù chúng ta sợ
hãi thì nó vẫn là cái mà chúng ta ước muốn, nghĩa là chúng ta phải ham muốn
sự lo âu của chính mình. “Lo âu là một ước vọng làm cho người ta thấy sợ hãi,
một mối ác cảm giao cảm, vì vậy người ta không thể rứt mình khỏi tự do được
và cũng không muốn làm vậy, vì sợ hãi, nhưng cái anh ta sợ hãi cũng chính là
cái anh ta mong muốn. Lo âu làm cho cá nhân bất lực”.[34, 321].
Các khái niệm nội tâm, cá nhân, cá tính, cảm xúc, đam mê là cách mà
Kierkegaard dùng để mô tả hiện sinh người. Có vẻ như những thuật ngữ này gần
nghĩa với nhau nhưng với ông thì chúng không thể thay thế nhau. Nội tâm ngụ ý
một sự khác biệt với những cái bên ngoài của một cá nhân như địa vị xã hội, danh

tiếng, những hiện tượng tự nhiên có thể quan sát được một cách công cộng. Một
cuộc sống hướng ngoại hoàn toàn có thể che đậy sự đồi bại, tầm thường hay một
trái tim trống rỗng. Tính cá nhân được định nghĩa trong sự đối lập với cuộc sống
bị định hướng bởi người khác hay của đám đông. Đám đông luôn lầm lạc và tai
ác. Cá nhân là duy nhất và độc đáo. Trở thành cá nhân tức là cảm nhận và hành
động ở một trình độ độc lập xã hội cao, nghĩa là không trở thành đối tượng cho
sự chấp thuận hay không chấp thuận từ những kẻ cầm quyền và rồi bị nô dịch
một cách êm ái. Kierkegaard kiên quyết chống lại hệ thống của Hegel. Trong triết
học Hegel, cá nhân chỉ còn là một yếu tố bị giản lược vào hệ thống: “mỗi người
chỉ là khoảnh khắc của hài hước, bạn là khoảnh khắc của sự trả đũa của lãng mạn


22
thuyết, bạn là giai đoạn của chủ thể tính. Một khoảnh khắc sẽ bị vượt qua và tất
nhiên luôn luôn bị vượt qua” [58, 157]. Kierkegaard phản đối lại Hegel: “ông
muốn nói gì thì nói, tôi không phải một khoảnh khắc lý luận trong hệ thống của
ông. Tôi hiện hữu, tôi tự do. Tôi là tôi, một cá nhân mà không phải một khái
niệm. Không một ý tưởng trừu tượng nào có thể diễn tả nổi nhân cách của tôi,
hay thiết định được dĩ vãng, hiện tại và nhất là tương lai của tôi, hay múc cạn
được những khả tính của tôi, không một lập luận nào có thể giảng nghĩa cho tôi
về chính tôi, về cuộc đời và những tự do lựa chọn của tôi hay về sự sinh tử của
tôi. Do đó triết lý cần thiết phải từ bỏ những tự phụ điên cuồng của mình là muốn
nhìn mọi sự hợp lý theo lý trí để chú tâm vào con người và mô tả hiện sinh của
con người theo thực trạng cụ thể của nó” [58, 157]. Nếu những gì biểu hiện ra
bên ngoài là đã đầy đủ ý nghĩa rồi, bên ngoài là biểu hiện đầy đủ của tâm hồn thì
cuộc đời như vậy chỉ có bề mặt mà không có bề sâu. Cá nhân không còn gì là
riêng tư nữa, mọi sự đã trở thành công khai. Trong khi đó “mỗi cá nhân là một vũ
trụ, ở đó không có một bàn tay ngoại lai nào có thể thò vào được”. Cá tính là đối
lập với kiểu người tiêu biểu của thời đại vốn “thiếu đam mê, hời hợt, say mê
trong chốc lát và lười biếng một cách khôn ngoan”. Một cá nhân có cá tính đưa

đến cái chân thực, vững chãi, trong khi người thiếu cá tính lại là sự trống rỗng,
bất định, dựa dẫm vào những mối quan hệ tạm thời với người khác. Cảm xúc
chính là biểu hiện của cá tính. Có ba loại cảm xúc tương ứng với ba chặng đường
đời là cảm xúc thẩm mĩ, cảm xúc đạo đức và cảm xúc tôn giáo, nghĩa là lựa chọn
một cách nghĩ cũng là lựa chọn cảm xúc.
Kierkegaard phê phán mạnh mẽ triết học duy lý và do đó, ông chối bỏ quyết
liệt triết học Hegel. Ông đã từng nghe Seling giảng triết học Hegel một cách say
mê nhưng sau đó ông nhận ra rằng: hệ thống - từ mà ông dùng để nói về toàn bộ
triết học Hegel, tuy là một thành tựu triết học quan trọng nhưng nó không liên quan
đến cuộc sống thực của cá nhân, nó không đưa ra một hướng dẫn nào về điều mà
cá nhân phải làm. Ông viết: “cái mà tôi thực sự thiếu là không biết tôi phải làm gì,


23
chứ không phải tôi phải biết gì , trừ việc tôi cần một ít hiểu biết trước khi hành
động. Điều cần là tôi phải hiểu bản thân mình, xem Thiên chúa thực sự muốn tôi
làm gì” [1, 520]. Kierkegaard coi mệnh đề “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” của
Descartes là thái độ bất nhân đối với số phận con người vì nhân tính, vì cuộc hiện
hữu sống động mới là cái có trước và quyết định, tôi tư duy để sống chứ không
phải sống để tư duy, điều này đã đảo lộn định hướng giá trị của phương Tây lấy
tính khoa học duy lý làm thước đo tồn tại người, ngay thời điểm mà triết học duy
lý, triết học Hegel đang thống trị đời sống tinh thần của xã hội. Có thể nói, đây
chính là điểm quan trọng nhất khiến cho không chỉ triết học hiện sinh mà rất nhiều
các trào lưu triết học phi duy lý sau này nhận Kierkegaard là ông tổ của triết thuyết
của mình. Kierkegaard muốn biến triết học Hegel thành khôi hài khi khẳng định
rằng Tồn tại là từ dành riêng cho cá nhân con người. Tồn tại chỉ có nghĩa là một
cá thể nhất định đang xem xét những khả năng, lựa chọn, quyết định và dấn thân.
Kierkegaard phủ nhận chân lý khách quan vốn được đạt tới dựa trên một
trong những nguyên lý của chủ nghĩa duy lý về sự đồng nhất về cấu trúc của thế
giới khách quan và thế giới nội tâm của con người. Chân lý không phải là những

tri thức phù hợp với đối tượng trong hiện thực, triết học không phải có nhiệm vụ
nhận thức các quy luật khách quan và tham gia vào lĩnh vực cải tạo thế giới hay
định hướng cho khoa học. Trong Sợ hãi và run rẩy, Kierkegaard đã phân tích sự
bất lực của triết học truyền thống mà cụ thể là triết học Hegel, khi cho rằng cuộc
sống cá nhân trở nên có ý nghĩa khi đặt mình hướng tới cái phổ quát, làm cho
những ước vọng trực tiếp của cá nhân phải cúi mình trước những quy phạm đạo
đức. Triết học đó chấp nhận sự đánh mất tính cá nhân của con người để đổi lấy
một ý nghĩa bị chi phối bởi khuôn mẫu có sẵn. Dựa vào triết học Hegel cũng
không thể hiểu được ý nghĩa việc Abraham hiến con trai mình cho Thiên Chúa và
cho rằng hành động đó phạm vào giá trị đạo đức rồi kết án ông ta nhân danh luân
lý. Lời của Thiên Chúa khi yêu cầu Abraham hiến con trai mình không phải là
luật lệ dành cho tất cả mọi người mà nó đến với Abraham một cách kỳ lạ. Nếu

×