Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Một số vấn đề triết học về nhân cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 100 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
٭٭٭٭٭ ٭٭٭٭



PHẠM THU TRANG



MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC
VỀ NHÂN CÁCH



LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC







HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
٭٭٭٭٭ ٭٭٭٭




PHẠM THU TRANG


MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC VỀ NHÂN CÁCH


LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC


Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 80


Giáo viên hướng dẫn: PGS., TS. HỒ SĨ QUÝ




HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 0
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận văn 8
7. Kết cấu của luận văn 8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH 8
1.1. Nhân cách với tư cách là khách thể nghiên cứu của triết học 8

1.2. Quan điểm về con người, nhân cách trong triết học Mác 19
1.3. Quan điểm về nhân cách của Luyxiêng Sevơ (Lucien Seve) 33
1.4. Quan điểm về nhân cách của A. N. Lêônchiep 43
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG NGHIÊN CỨU TRIẾT
HỌC VỀ NHÂN CÁCH 58
2.1. Khái niệm nhân cách 58
2.2. Mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong nhân cách . 69
2.3. Về sự hình thành và phát triển nhân cách 82
KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 90







1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân cách trước hết là đối tượng của khoa học tâm lý. Trong tâm lý học,
vấn đề nhân cách được đánh giá là vấn đề quan trọng bậc nhất và việc nghiên
cứu nó thường gặp nhiều khó khăn nhất vì nhiều lý do. Song, nhân cách cũng là
khách thể nghiên cứu của nhiều khoa học xã hội và nhân văn khác như đạo đức
học, giáo dục học, xã hội học, luật học Trước những năm 70 (thế kỷ XX), ở
Liên Xô, các nhà khoa học chủ yếu đã phân tích, tiếp cận nhân cách từ góc độ
của tâm lý học. Hiện nay, ở các nước phương Tây và ở các nước thuộc hệ thống
Xô Viết cũ đã hình thành nhiều khuynh hướng, học thuyết, cách tiếp cận khác
nhau về vấn đề này.
Trong số các khuynh hướng, các cách tiếp cận đó, việc người nghiên cứu

lý luận về nhân cách nên lựa chọn quan điểm nào, theo tiêu chí, cách thức,
phương thức lựa chọn như thế nào để tìm ra một quan điểm chủ đạo, hợp lý làm
cơ sở cho nghiên cứu của mình sao cho phù hợp với sự vận động, phát triển của
đối tượng hiện thực và được sự thừa nhận chung rộng rãi thì vẫn còn là vấn đề
đang để ngỏ. Liệu chúng ta lựa chọn quan điểm Mác-xít trong nghiên cứu nhân
cách làm cơ sở cho nghiên cứu của mình còn phù hợp hay không? Sau ngày
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, có nhiều ý kiến cho
rằng, trong xã hội hiện đại, khi mà đời sống con người dường như có xu hướng
ngày càng phức tạp hơn thì chủ nghĩa Mác, triết học Mác nói chung, nhận thức
duy vật lịch sử nói riêng không theo kịp sự chuyển biến của thời đại nữa, mà
phải thay nó bằng các học thuyết khác, lý luận khác phù hợp hơn. Những chỉ
dẫn mang tính chất phương pháp luận của chủ nghĩa Mác phải chăng không còn
tác dụng định hướng cho nghiên cứu nhân cách? Thay vào đó, phải chăng học
thuyết của Freud và những trào lưu, xu hướng nghiên cứu ngoài Mác-xít ở
phương Tây sẽ giữ vai trò chủ đạo và làm cơ sở cho nghiên cứu nhân cách?
Trong lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại, kể từ thời kỳ cổ đại cho đến
ngày nay, ở cả phương Đông và phương Tây, các nhà tư tưởng đã luôn đặt ra và

2
đi tìm cách lý giải: Bản chất con người là gì - là thiện hay là ác, là cá nhân hay
là xã hội? Quan hệ giữa con người với con người, con người với cộng đồng,
cũng như con người với thế giới ra sao? Mục đích sống của con người là gì?
Điều gì sẽ đến với con người sau khi chết – ý nghĩa của đời sống con người là
gì? Những vấn đề như thế mặc dù không trực tiếp giải đáp: Thế nào là nhân
cách? Nhân cách, cá nhân và con người có phải là một hay không? Nhân cách
con người hình thành khi nào? Yếu tố nào – sinh học hay xã hội – là yếu tố quy
định sự hình thành và phát triển nhân cách? v.v nhưng việc giải quyết chúng
cũng góp phần làm sáng tỏ vấn đề nhân cách và thực ra, có thể coi đó là những
bình diện khác của vấn đề nhân cách.
Ở nước ta, nghiên cứu về nhân cách cũng đang dần được định hình nhưng

còn rất sơ khai. Trong khi có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra liên quan
đến nhân cách con người Việt Nam hiện nay cần phải có những lời giải đáp
thoả đáng. Sau hơn hai mươi năm Đổi mới, trên các phương tiện thông tin đại
chúng, người ta có thể bắt gặp rất nhiều hiện tượng phản ánh sự thay đổi tích
cực trong nhân cách con người. Tuy nhiên, bên cạnh những hiện tượng tích cực
đó, tại thời điểm này, nhiều hiện tượng tiêu cực liên quan đến sự suy thoái đạo
đức, làm biến đổi, thậm chí, làm méo mó nhân cách con người đang xuất hiện
dường như nhiều hơn và có phần nghiêm trọng hơn. Trong giáo dục nhân cách
cho học sinh, sinh viên, nhiều vấn đề như: thầy, cô giáo lợi dụng học trò, giáo
viên mầm non dùng bạo lực với trẻ, người học chạy bằng, mua điểm số, v.v…
đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn xã hội. Việc định hướng nhân cách
cho tầng lớp thanh thiếu niên, cho giới trẻ cũng đang gặp nhiều khó khăn.
Ngoại tình, tham nhũng, hối lộ, chạy chức, chạy quyền… là những hiện tượng
hàng ngày, hàng giờ các em được chứng kiến, thậm chí, đó còn là những hiện
tượng nảy sinh từ chính gia đình các em, từ những người làm cha, làm mẹ,
những người làm gương cho chúng. Vậy thì, những mẫu hình nhân cách như
thế nào sẽ định hướng cho tầng lớp này? Những giá trị nào được coi là chuẩn
mực phù hợp với thời đại? Những yếu tố nội sinh hay ngoại sinh đang tác động

3
mạnh hơn lên ý thức, nhân cách của giới trẻ? Nhìn chung, sự thay đổi, biến đổi
nhân cách người Việt như vậy có phải là tất yếu hay không? Sự biến đổi đó do
những nguyên nhân nào? Làm thế nào để khắc phục những tác động, ảnh
hưởng tiêu cực, duy trì và phát huy những tác động, ảnh hưởng tích cực?
Xuất phát từ những thực tế vừa đề cập ở trên, có thể thấy, việc lựa chọn
cách tiếp cận và quan điểm thích hợp về nhân cách làm cơ sở để giải đáp những
vấn đề đang đặt ra cả về lý luận và thực tiễn nghiên cứu nhân cách hiện nay đòi
hỏi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu và bổ sung cho hoạt động lý luận. Những
yêu cầu này, cùng với mong muốn có thể giải đáp những băn khoăn và hy vọng
có được một cái nhìn bao quát, hệ thống về vấn đề nhân cách để từ đó có thể

giúp mỗi người sẽ tự hoàn thiện, phát triển nhân cách bản thân một cách toàn
diện, là những lý do chính khiến chúng tôi chọn đề tài “Một số vấn đề triết học
về nhân cách” để nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Với tư cách là khách thể nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và
nhân văn, nhân cách từ lâu đã là đề tài được các nhà tư tưởng cả ở phương
Đông và phương Tây nghiên cứu nhiều ở các khía cạnh khác nhau. Đề tài về
nhân cách, do vậy, không thể gọi là đề tài mới. Tuy nhiên, do sự biến động của
đời sống xã hội nên trong đề tài không mới này, hầu như lúc nào cũng xuất hiện
những nội dung mới, những vấn đề mới, hoặc những cách kiến giải mới…
Ở Liên Xô trước đây, có rất nhiều công trình của các nhà khoa học Mác-xít
đã phân tích, tiếp cận nhân cách chủ yếu từ góc độ tâm lý học. Có thể kể đến
tên tuổi của một số nhà khoa học tiêu biểu như: A. N. Lêônchiep, X. L.
Rubinstein, L. X. Vưgôtxki, v. v… Các công trình nghiên cứu của những nhà
khoa học này, hiện nay, ở nước ta, đa số đều chưa được dịch ra tiếng Việt.
Trong số ít tài liệu đã được dịch ra tiếng Việt, cuốn “Hoạt động, ý thức,
nhân cách” [28]
(*)
và bài viết “Vấn đề cá nhân trên những mặt triết học và tâm

(*)
Từ đây và tiếp sau này chúng tôi quy ước: Trong ngoặc vuông, số thứ nhất (trước dấu phẩy) chỉ tên tài liệu trong danh mục tài liệu tham
khảo, sau dấu phẩy, số thứ hai – tập của tài liệu, số cuối cùng chỉ trang của tài liệu. Trong quá trình trích dẫn, đôi khi xuất hiện những chữ

4
lý học”[27] của Lêônchiep

là những tài liệu tham khảo có giá trị đối với nghiên
cứu lý luận nhân cách. Đáng chú ý là trong tác phẩm “Hoạt động, ý thức, nhân
cách” tác giả đã trình bày một cách hệ thống về bộ máy khái niệm của khoa học

tâm lý. Vấn đề nhân cách được trình bày trong chương 5 “hoạt động và nhân
cách”. Tại đây, tác giả đã xem xét, phân tích nhân cách như là đối tượng nghiên
cứu của tâm lý học, phân biệt 2 khái niệm cá nhân và nhân cách. Từ đó, tác giả
cũng chỉ ra hoạt động là cơ sở của nhân cách, phân tích các yếu tố và xác lập
mối quan hệ giữa động cơ, cảm xúc và nhân cách, phần cuối cùng nêu lên quá
trình hình thành nhân cách.
Cuốn “Chủ nghĩa xã hội và nhân cách” [6 và 7], gồm 2 tập, là công trình
chuyên khảo về đề tài nhân cách cũng đã được dịch và xuất bản. Lấy xuất phát
điểm là đề cao và bảo vệ học thuyết Mác-xít về nhân cách từ đó giải đáp những
vấn đề liên quan tới sự phát triển nhân cách trong xã hội xã hội chủ nghĩa là
những nội dung cơ bản được nghiên cứu và trình bày trong tác phẩm này. Ở
phương diện nào đó, có thể coi công trình là một lý luận tương đối hệ thống về
nhân cách trong đó một số vấn đề triết học cũng đã được nêu lên.
Ngoài ra, cũng có một số bài viết là tài liệu dịch thuộc hệ đề tài này như:
“Tiến tới xây dựng lý luận triết học về cá nhân” của M. X. Cagan [4], “Chủ
nghĩa Mác và cá nhân” của Adam Schaff [40], “Về tính toàn vẹn của cá nhân”
của V. A. Phanaxêep [37]… Trong các tài liệu dịch đó, đối tượng chính được
đề cập đến là “cá nhân”, còn “nhân cách” được nói đến không nhiều. Tuy
nhiên, khái niệm “cá nhân” ở đây nhiều khi được luận giải như là “nhân cách”.
Vì vậy, khi tiếp cận với nguồn tài liệu này người thực hiện đề tài không khỏi
băn khoăn và đặt ra cho mình nhiệm vụ quan trọng cần giải quyết trong đề tài,
đó là phải phân định một cách chi tiết, tường minh về mặt nội hàm các khái
niệm: cá nhân, nhân cách, cá tính, cá thể, cái đơn nhất, tính không lặp lại, bản
sắc, tính độc đáo để sử dụng hợp lý và tránh những nhầm lẫn đáng tiếc.

số La Mã (như I, II,…) sau dấu phẩy cũng chỉ tập của tài liệu trích. Bên cạnh đó, trong ngoặc vuông khi trích dẫn các số liên tục liền nhau
được ngăn cách bởi dấu chấm phẩy (;) đó là số thứ tự của các tài liệu tham khảo cùng được trích dẫn.

5
Đặc biệt, không thể không nhắc tới học giả người Pháp Luyxiêng Sevơ

(Lucien Seve) với tác phẩm nổi tiếng “Chủ nghĩa Mác và lý luận về nhân cách”
[42]. Ông là một trong số các học giả phương Tây nghiên cứu công phu triết
học và tâm lý học theo khuynh hướng Mác-xít. Dành nhiều thời gian nghiên
cứu chủ nghĩa Mác, đặc biệt là bộ Tư bản, L. Sevơ đã rút ra những khái niệm
cơ bản làm phương pháp luận cho nghiên cứu tâm lý học. Cuốn sách “Chủ
nghĩa Mác và lý luận về nhân cách” ra đời là kết quả nhiều năm dày công
nghiên cứu của ông. Nó đã thu hút được sự chú ý lớn trong giới triết học Mác-
xít thời bấy giờ. Với 4 chương, “lý luận về nhân cách” đã được hình thành và
triển khai một cách chi tiết, cụ thể trong tác phẩm này trên tinh thần của chủ
nghĩa Mác.
Trong khi đề cập đến các vấn đề nghiên cứu mới về con người, cuốn sách
“Con người – Những ý kiến mới về một đề tài cũ” [10] cũng đã khẳng định và
đề cao khuynh hướng tiếp cận duy vật lịch sử trong lý giải vấn đề lý luận về
nhân cách mà L. Sevơ là một đại biểu theo khuynh hướng này. Công trình khoa
học này đã luận giải rất nhiều vấn đề cơ bản và nền tảng về con người, phê
phán những quan điểm sai lệch và trực tiếp đấu tranh bảo vệ quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về con người.
Trong các trào lưu triết học phương Tây, có thể nói, phân tâm học là một
khuynh hướng nghiên cứu, hình thành nên lý luận riêng của mình về nhân cách
– “lý luận nhân cách siêu tâm lý học tầng sâu”. Lý luận nhân cách của trào lưu
này được triển khai trên nền tảng của cái vô thức. Ở nước ta, các tài liệu hiện
nay viết về phân tâm học hầu hết đều đề cập đến và phân tích một cách khá chi
tiết lý luận về nhân cách của các tác giả thuộc trường phái này mà S. Freud là
người đầu tiên khởi thảo học thuyết. Rất nhiều công trình hệ thống hoá và tổng
hợp các trào lưu, khuynh hướng, học thuyết về nhân cách bắt nguồn từ Freud đã
được xuất bản (Xem [41; 43]). Trong số đó, gần đây, có cuốn “Các học thuyết
về nhân cách” [43] của Barry D. Smith, Harold J.Vetter đã được dịch ra tiếng
Việt.

6

Ở nước ta, các khái niệm cá nhân, nhân cách được sử dụng khá phổ biến
trong các nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tiễn. Song, về cơ bản, vấn đề
nhân cách chủ yếu mới chỉ được tiếp cận dưới góc độ của khoa học tâm lý. Các
nghiên cứu xã hội học đo lường giá trị nhân cách đã bước đầu được thực hiện
nhưng chưa nhiều. Có một số công trình chuyên khảo tiếp cận nhân cách từ góc
độ tâm lý học đã được xuất bản như:
- Tâm lý học nhân cách: một số vấn đề lí luận [2]
- Vấn đề nhân cách trong tâm lý học ngày nay [36]
- Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách [14]
Đúng như nhan đề của các tài liệu, hệ thống các vấn đề lý luận, các quan
điểm, lý thuyết về nhân cách đã được các tác giả giới thiệu và khái quát một
cách tương đối có hệ thống. Bên cạnh đó, các công trình, tài liệu nghiên cứu
tâm lý học đại cương về con người của các tác giả Đỗ Long, Phạm Minh Hạc,
v.v cũng đã đề cập đến những vấn đề nhân cách mới được đặt ra, từ đó cũng
gợi mở các hướng nghiên cứu khả thi và có ý nghĩa.
Trong những năm gần đây, nghiên cứu liên ngành đã thể hiện những thế
mạnh khá tích cực của nó. Công trình “Nghiên cứu giá trị nhân cách theo
phương pháp NEO PI-R cải biên” do Phạm Minh Hạc chủ biên [15] được xuất
bản mới đây là kết quả của nghiên cứu liên ngành tâm lý học và xã hội học.
Đây là đề tài thuộc chương trình khoa học cấp Nhà nước đã áp dụng phương
pháp đo đạc tâm lý NEO PI-R có sửa chữa và bổ dung cho phù hợp với thực tế
Việt Nam để điều tra, đo đạc những đặc điểm giá trị nhân cách của một số tầng
lớp người Việt Nam hiện nay.
Trên các tạp chí chuyên ngành như: Cộng sản, tâm lý học, triết học, và các
tạp chí khoa học xã hội khác v.v cũng xuất hiện nhiều bài viết chuyên sâu về
vấn đề nhân cách. Có thể kể đến tên tuổi của một số tác giả tiêu biểu như
Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Ngọc Bích, Đỗ Long, Nguyễn Công Khanh, Cao Thu
Hằng, Trần Hiệp, Lê Hương, Trần Trọng Thủy [Xem 1; 3; 16; 17; 20; 21; 22;
23; 25; 26; 30; 49]. Nội dung của các bài viết tập trung vào việc phân tích sự


7
hình thành, các động cơ, các nhân tố ảnh hưởng đến nhân cách, xem xét nhân
cách trong mối quan hệ với đạo đức, văn hoá, tri thức v.v.
Toàn bộ những tài liệu trên đây đều là những tài liệu tham khảo quý báu,
cung cấp những thông tin hữu ích cho người thực hiện đề tài. Tuy nhiên, điều
đáng lưu ý là ở chỗ, ở nước ta cho đến thời điểm này, chưa có một công trình
triết học nào được thể hiện dưới dạng sách, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ…
trực diện bàn chuyên sâu về một số vấn đề triết học về nhân cách. Nghĩa là,
chưa có công trình nào trình bày một cách có hệ thống về việc luận giải các vấn
đề triết học về nhân cách thông qua nghiên cứu một số quan điểm lý luận làm
cơ sở, nền tảng cho nghiên cứu nhân cách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở phân tích các quan điểm lý luận cơ bản về con người
và nhân cách, luận văn nêu ra và luận giải một số vấn đề triết học về nhân cách.
Nhiệm vụ:
- Lựa chọn, trình bày và phân tích một số quan điểm lý luận làm cơ sở cho
nghiên cứu nhân cách
- Luận giải các vấn đề đặt ra từ việc nghiên cứu lý luận về nhân cách: khái
niệm nhân cách, quá trình hình thành nhân cách, mối quan hệ giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội trong nhân cách, v.v
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là: phân tích - tổng hợp,
khái quát hoá, hệ thống hóa và so sánh…
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Một số quan điểm lý luận làm cơ sở cho nghiên
cứu nhân cách và một số vấn đề triết học về nhân cách.
Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát một số quan điểm chủ yếu về nhân cách
theo khuynh hướng Mác-xit và phân tích những vấn đề lý luận về nhân cách


8
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tìm
hiểu về vấn đề con người và nhân cách, đặc biệt là những người làm trong lĩnh
vực giáo dục, văn hóa, tư tưởng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu thành 2 chương, 7 tiết.

CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH
1.1. Nhân cách với tư cách là khách thể nghiên cứu của triết học
Nhân cách không chỉ là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học mà còn là
khách thể quan tâm nghiên cứu của nhiều khoa học xã hội và nhân văn khác
như: triết học, giáo dục học, xã hội học, luật học…. Mỗi một ngành khoa học
khác nhau lại nghiên cứu nhân cách trên một bình diện khác nhau.
Trong tâm lý học, vấn đề nhân cách được nghiên cứu khá sớm và hiện nay
đang tồn tại nhiều quan niệm rất đa dạng thậm chí đối lập nhau về nhân cách.
Dựa trên nguyên tắc quyết định luận tâm lý, chúng ta có thể khái quát các trào
lưu nghiên cứu về nhân cách ở phương Tây ngoài Mác - xít hiện nay thành 3 xu
hướng sau: [Theo 14, 131].
Xu hướng thứ nhất – nhấn mạnh khía cạnh tâm lý trong nguồn gốc, biểu
hiện của nhân cách. Tiêu biểu cho xu hướng này là các nhà tâm lý học
W.Wundt, W. Stern.
W. Wundt là nhà tâm lý học nội quan nổi tiếng. Ông là người thành lập
phòng thực nghiệm tâm lý học đầu tiên trên thế giới. Nghiên cứu về nhân cách,
ông và các học trò của mình đã đi theo cách thức thực nghiệm của khoa học tự
nhiên. Cách thức đó đã làm cho nhân cách mất đi sự thống nhất và bị chia thành


9
những bộ phận riêng lẻ thoát ly khỏi những điều kiện, hoàn cảnh sống cụ thể,
đa dạng của nó [14, 39].
Khắc phục những hạn chế tâm lý học thực nghiệm truyền thống gặp phải,
tâm lý học sai biệt mà W. Stern là đại biểu, xuất hiện sau đó, nhấn mạnh tính
toàn vẹn, mối quan hệ đa dạng của nhân cách nhưng “đó mới chỉ là mang tính
tuyên ngôn, còn trong thực tế, tâm lý học vẫn chưa có khả năng bước hẳn qua
được nhịp cầu trở ngại đó” [14, 40]. Có thể lý giải điều này qua đối tượng
nghiên cứu của tâm lý học sai biệt là những sự khác nhau chủ yếu của các chức
năng và thuộc tính tâm lý. Những sự khác biệt trong mỗi chức năng được quy
về những hình thức cơ bản, những “kiểu” nào đó hoặc được xem xét theo một
thang bậc lượng hóa chúng. Nhân cách tồn tại như một chỉnh thể cho nên việc
mô tả chỉ thông qua những khác biệt của các yếu tố cấu thành nó sẽ là không
trọn vẹn.
Việc nghiên cứu nhân cách như một chỉnh thể sống động không bị chia
nhỏ, phân tách hiện là vấn đề mà các trào lưu vẫn phải tiếp tục tìm ra các
phương pháp và cách thức nghiên cứu tương ứng để bổ sung và hoàn thiện hơn
nữa cho xu hướng nghiên cứu trên.
Xu hướng thứ hai – nhấn mạnh khía cạnh sinh học trong nguồn gốc, biểu
hiện của nhân cách con người. Đây được coi là xu hướng sinh vật hóa nhân
cách. Những quan điểm theo xu hướng này thường nhìn nhận nhân cách con
người theo các đặc điểm hình thể (E. Krestchmer), qua thể tạng (W. H.
Scheldon) hay ở bản năng vô thức (S. Freud)
E. Kretschmer cho rằng, các thành phần cấu tạo cơ thể có mối quan hệ và
quy định các thành phần tâm lý của nhân cách: những người mảnh khảnh
thường nhạy cảm, hướng nội, kỷ luật, kín đáo, tự kỷ. Những người béo mập
thường hồ hởi, hướng ngoại, vui tính, hào phóng, dễ thích nghi. Những người
lực lưỡng thường chậm chạp, dễ nổi giận, ít nói, cứng nhắc. Ông đã chia các
nhà khoa học thành hai nhóm: phần lớn các nhà triết học, thần học, luật học


10
thuộc loại gày gò, mảnh khảnh, trong khi đó, đa số bác sĩ, các nhà thực nghiệm
khoa học tự nhiên lại thuộc loại béo [Trích theo 14, 42]. W. H. Scheldon cũng
có những miêu tả tương tự. Ông cũng quan niệm rằng giữa đặc điểm cấu tạo cơ
thể và những đặc điểm trong phạm vi thuộc tính tâm lý có mối quan hệ với
nhau [Trích theo 14, 42]. S. Freud cho rằng nhân cách là một tổ hợp của ba bộ
phận: vô thức, ý thức và siêu thức. Các bộ phận trên tồn tại không ôn hòa trong
nhân cách con người mà giữa chúng luôn mâu thuẫn, đấu tranh với nhau và bao
giờ bộ phận “vô thức” với các bản năng tình dục cũng chiến thắng và quyết
định cho toàn bộ hành vi ứng xử, tâm lý của con người.
Các thuộc tính nhân chủng của cá thể như các đặc điểm hình thể, thể tạng
hay giải phẫu – sinh lý, kiểu loại thần kinh,… được nêu ra trên đây rõ ràng
không thể quy định nhân cách hoặc tham gia vào cấu trúc nhân cách mà chỉ là
điều kiện về mặt phát sinh để hình thành nên nhân cách. Các thuộc tính đó đồng
thời không phải là yếu tố quy định các nét tâm lý của nhân cách mà chỉ quy
định các hình thái và phương thức thể hiện những nét tâm lý ấy mà thôi. Cho
nên, những quan niệm theo xu hướng này chỉ mô tả mối quan hệ bề ngoài giữa
các thành phần tâm lý với các thành phần cấu tạo cơ thể chứ chưa làm rõ bản
chất thực sự của nhân cách con người.
Xu hướng thứ ba – nhấn mạnh đến yếu tố nhân văn, xã hội của con người.
Đây được coi là xu hướng xã hội hóa nhân cách. Các học thuyết theo xu hướng
này là thuyết hành vi của F. B. Watson, thuyết siêu đẳng và bù trừ của Alfred
Adler, thuyết lo lắng của K. Horney, thuyết phát huy bản ngã của A. Maslow,
thuyết tương tác xã hội của G. H. Mead, thuyết Liên cá nhân của R. Sears,
thuyết “cái Tôi” của C. Rogers, thuyết Trường tâm lý của K.Lewin, thuyết chạy
trốn tự do của E. Fromm, thuyết Đặc trưng của G. Allport, thuyết nhu cầu tâm
lý của H. Murray, …
Tâm lý học hành vi sử dụng cách thức nghiên cứu của khoa học tự nhiên
thực nghiệm, đối tượng nghiên cứu của nó là hành vi của con người. Họ quan


11
niệm rằng, “hành vi là tổng số các phản ứng, cử động bên ngoài của con người
nhằm thích nghi với môi trường với tư cách tồn tại sống mà có thể quan sát
được” [Trích theo 14, 136]. Nguồn gốc của hành vi là kích thích từ môi trường
bên ngoài và được tạo lập từ môi trường bên ngoài, cho nên điều quan trọng
hàng đầu là phải tạo ra kích thích (môi trường kích thích). Nguyên tắc hình
thành và điều khiển hành vi là nguyên tắc “thử và sai”. Phương pháp nghiên
cứu chủ đạo là phương pháp quan sát khách quan vì đối tượng nghiên cứu chủ
yếu là các hành vi hàng ngày trong cuộc sống của con người.
Về cơ bản, tâm lý học hành vi đã tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố môi
trường bên ngoài đối với sự hình thành nhân cách. Môi trường này chỉ bó hẹp
trong tổng số các kích thích được tạo ra chứ không phải là môi trường được
hình thành nên từ các mối quan hệ xã hội. Cơ chế hình thành nhân cách theo họ
là cơ chế “thử và sai” – cơ chế thụ động đáp lại kích thích bên ngoài của chủ
thể. Họ đã không thấy được nhân cách vừa là khách thể, vừa là chủ thể của thế
giới bên ngoài, không thấy được vai trò của hoạt động cá nhân trong việc tạo
lập và hình thành nên nhân cách.
Cũng áp dụng các phương pháp thực nghiệm của khoa học tự nhiên nhưng
thuyết “Trường tâm lý” của K. Lewin không chỉ miêu tả hành vi hiện thực của
nhân cách mà còn khám phá ra động lực của mối quan hệ cá nhân và hoàn
cảnh, nhu cầu, nguyện vọng. Ông đã sơ đồ hóa các khái niệm tâm lý bằng
trường không gian, địa thế, véc tơ. Những đóng góp lý luận và các công trình
thực nghiệm của K. Lewin về không gian sống đã khiến ông có một vị trí cao
trong tâm lý học nhân cách. Song lý luận về trường không gian sống cũng có
những khó khăn nhất định vì hoàn cảnh sống của con người luôn luôn thay đổi
do đó không gian sống cũng thay đổi. Do vậy, nếu chỉ dựa vào không gian sống
thì khó đánh giá được nhân cách con người.
Khác với những nghiên cứu thực nghiệm, tâm lý học nhân văn (có các đại
biểu nổi tiếng như: C. Rogers, A. Maslow, G. Allport) nhấn mạnh đến cơ sở


12
triết học về con người. Trường phái này không tạo nên một bộ máy lý luận
thống nhất về nhân cách mà là sự tổng hợp nhiều khuynh hướng mới và những
trường phái tư tưởng khác nhau. Họ đều có chung những tư tưởng là tôn trọng
con người, tôn trọng giá trị sáng tạo, tôn trọng các phẩm giá cá nhân và trách
nhiệm con người. Tuy nhiên, nếu như chủ nghĩa hành vi dựa vào phương pháp
thực nghiệm để nghiên cứu thì tâm lý học nhân văn lại dựa vào những kinh
nghiệm chủ quan để phân tích nhân cách con người. Họ từ chối việc tiếp thu
những yếu tố tiến bộ của nhiều trào lưu tâm lý học mà lại quay về với truyền
thống tôn giáo nên rơi vào quan niệm duy tâm, phản khoa học. Sự ra đời của
tâm lý học nhân văn là thể hiện sự khủng hoảng về hệ thống phương pháp
nghiên cứu về tâm lý học trong các nước tư bản chủ nghĩa. [Theo 2, 76]
Học thuyết siêu đẳng và bù trừ của A. Adler phủ nhận sự quyết định trực
tiếp của cái sinh vật tới sự phát triển nhân cách, coi nhân cách phát triển theo
lôgic của xã hội. Mặc dù là học trò của Freud nhưng A. Adler đã đi theo hướng
chống lại thuyết sinh học của thầy mình. Có thể coi rằng “Adler là dấu nối đầy
màu sắc từ Freud tới tâm lý học nhân văn trong vấn đề nhân cách” [14, 139]
Nhìn chung, các học thuyết theo xu hướng thứ 3 này, ít nhiều vẫn mang
dấu ấn của phân tâm học, song họ đã đặt yếu tố sinh vật học xuống vị trí phụ,
thay vào đó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các nhân tố xã hội và văn hóa
trong sự phát triển con người và trong việc biểu lộ các hành vi cụ thể.
Như vậy, có thể nhận thấy, hiện nay, trong tâm lý học phương Tây ngoài
Mác-xít, mỗi một xu hướng nghiên cứu lại nhấn mạnh đến một khía cạnh, một
mặt nào đó của nhân cách con người. Trong khi nhân cách lại tồn tại như một
chỉnh thể sống động, toàn vẹn, độc đáo, nên việc đưa ra một cái nhìn tổng thể,
chung nhất, khái quát nhất về nhân cách là nhiệm vụ mà triết học cần hướng
tới. Nghĩa là, về lý luận, triết học sẽ phải giải đáp các vấn đề như: Bản chất của
nhân cách là gì? Mối quan hệ giữa con người, cá nhân và nhân cách ra sao?
Nhân cách được hình thành khi nào? Yếu tố nào – sinh học hay xã hội mang


13
tính chất quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách? Liệu có phải
ngay từ khi sinh ra con người đã có nhân cách hay không? .v.v.
Thực tiễn nghiên cứu về nhân cách con người Việt Nam hiện nay cũng
đang đặt ra nhiều vấn đề như: Tình hình biến đổi nhân cách con người Việt
Nam hiện nay đang diễn ra theo xu hướng tích cực hay tiêu cực? Những yếu tố
nào tác động đến sự biến đổi đó? Muốn xây dựng mô hình nhân cách con người
Việt Nam phát triển hài hòa, toàn diện cần có những yếu tố nào? Cần phải có
chiến lược định hướng và giáo dục nhân cách cho con người Việt Nam hiện nay
ra sao?
Những vấn đề đang đặt ra như vậy cả về lý luận và thực tiễn theo chúng tôi
đều là những vấn đề triết học về nhân cách. Những vấn đề này thực chất không
mâu thuẫn và không nằm ngoài phạm vi giải quyết của các khoa học khác.
Trong giới hạn và phạm vi của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi tập trung chủ
yếu vào việc luận giải những vấn đề lý luận về nhân cách. Những vấn đề lý
luận này, trên thực tế, theo những cách tiếp cận, cách thức nghiên cứu và lập
trường nghiên cứu khác mà có những xu hướng nghiên cứu trong tâm lý học đã
tìm hiểu và giải đáp.
Xu hướng nghiên cứu Mác-xít về nhân cách với cách tiếp cận hoạt động về
cơ bản đã giải thích nhân cách có bản chất xã hội - lịch sử và do yếu tố hoạt
động của chính chủ thể con người tạo nên. Trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách, các nhà tâm lý học Mác – xít không phủ nhận các yếu tố sinh
học, cũng không tuyệt đối hóa yếu tố môi trường mà thừa nhận vai trò của tất
cả các yếu tố đó. Qua thời gian, những nội dung như vậy giúp tâm lý học Mác-
xít vẫn “khẳng định được những quan điểm cơ bản có ý nghĩa lý luận và
phương pháp luận chỉ đạo chung cho hoạt động nghiên cứu con người và nhân
cách” [14, 68]. Mặt khác, như chủ nghĩa Mác cũng đã tuyên bố một cách rõ
ràng sự cáo chung của mọi thứ triết học có tham vọng hiểu biết đến tận cùng
bản chất của đối tượng nếu không phải là chính bản thân một khoa học cụ thể,


14
riêng biệt nào: “Hệ thống của Hêghen là một hình thức triết học cuối cùng,
hoàn chỉnh nhất, trong chừng mực triết học ấy được coi như là môn khoa học
đặc biệt đứng trên tất cả các môn khoa học khác. Cùng với nó, toàn bộ triết học
đã sụp đổ. Chỉ còn lại có phương pháp tư duy biện chứng và quan niệm về toàn
bộ thế giới tự nhiên, lịch sử, trí tuệ như một thế giới không ngừng vận động,
biến đổi, nằm trong một quá trình thường xuyên xuất hiện và hủy diệt. Ngày
nay, không chỉ đứng trước triết học mà cả trước mọi khoa học đều đặt ra một
yêu cầu là phát hiện ra các quy luật vận động của quá trình biến đổi vĩnh viễn
đó trong mỗi lĩnh vực đặc biệt” [33, 21, 449].
Chính vì thế, những quan điểm mà chúng tôi lựa chọn làm cơ sở cho
nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhân cách cũng như việc giải quyết các vấn
đề đang đặt ra là theo xu hướng này.
Nhân cách và con người vốn là chỉnh thể không tách rời nhau. Trong tiến
trình phát triển của mình, trải qua các thời kỳ, giai đoạn khác nhau, từ cổ đại
cho đến ngày nay, triết học không trực diện trả lời rõ ràng từng vấn đề, từng
câu hỏi về nhân cách như đã nêu trên mà việc giải quyết chúng thường gắn liền
với việc tìm kiếm các câu trả lời cho vấn đề con người: Con người là gì: là
“động vật chính trị”, là động vật kinh tế” hay là “thực thể sinh học – xã hội”?
Con người có vai trò gì trong “tồn tại người” và trong thế giới xung quanh nó?
Con người được sinh ra từ đâu – từ ý chí thượng đế hay từ sự tiến hóa của vũ
trụ? Vai trò của con người có ý nghĩa đến đâu trong cuộc sống của chính mình?
Số phận của con người sẽ ra sao?
Cuộc đấu tranh về lý luận và tư tưởng xung quanh việc giải quyết những
vấn đề của đề tài con người là những nét nổi bật trong lịch sử triết học. Do xuất
phát từ những lập trường và thế giới quan khác nhau, hoặc từ những phương
pháp luận khác nhau, nên những lý giải của các trường phái triết học về con
người thường rất khác nhau, đôi khi hoàn toàn đối lập nhau.

15

Trong triết học phương Đông, những vấn đề quan trọng hàng đầu trong các
quan niệm về con người là vấn đề bản chất con người (bản tính người) và con
đường, phương pháp giải phóng con người, đi tìm hạnh phúc cho con người
(đạo làm người). Có thể nhận xét rằng, các nhà triết học phương Đông đã quan
tâm nhiều hơn cả tới khía cạnh đạo đức của vấn đề con người: Con người được
sinh ra là thiện hay ác? Có thể cải tạo được con người hay không? Làm người
phải như thế nào? Tại sao lại cần phải tu luyện hay noi gương các bậc “tiên
thánh”, “tiên vương”.
Trong triết học Ấn Độ cổ đại, các nhà triết học đã tranh luận khá nhiều về
vấn đề con người và giải phóng con người. Kinh Vêđa cho rằng, con người
cũng như mọi vật đều do một đấng sáng thế tạo ra. Kinh Upanishad lại quan
niệm rằng cả thể xác và linh hồn con người đều là hiện thân của Brahman – tinh
thần tối cao. Khác với hai quan điểm trên, Phật giáo cổ đại Ấn Độ lại coi bản
chất thế giới là “chân không”, từ đây sinh ra con người và vạn vật, con người là
“vô ngã”, nhưng do “vô minh” mà con người không hiểu được điều đó; vì vậy
mà “đời là bể khổ”. Con người muốn thoát khỏi bể khổ đó phải tự giác thực
hiện “bát chính đạo”, “bảy biện pháp phá chấp” và “tam học” v.v… Nhìn
chung, những lý giải về bản chất đời sống tâm linh và những phương thức giải
thoát con người khỏi “bể khổ” là nội dung chính yếu trong toàn bộ hệ thống
quan niệm về con người của tất cả các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại.
Trong triết học Trung Quốc cổ đại, con người đã luôn luôn được xem là
trung tâm của sự luận giải và là đối tượng nhận thức chủ yếu của mọi trào lưu
triết học. Triết học Trung Quốc đã xây dựng được hàng loạt phạm trù, hệ thống
tư tưởng triết học về con người và đạo làm người. Do con người là trung tâm
của nhận thức nên triết học Trung Quốc cổ đại luôn luôn đề cao tinh thần nhân
văn, khẳng định giá trị tồn tại tích cực của con người đối với chính bản thân
mình và thế giới bên ngoài. Trong triết học Trung Quốc cổ đại, con người là hạt
nhân của vũ trụ, nhưng không tách mình khỏi hệ thống hữu cơ của vũ trụ, con

16

người cũng không đồng nhất một cách giản đơn với động vật hoặc thần linh,
mà hòa hợp với trời đất để trở thành “tam tài”.
Xung quanh vấn đề bản chất con người, nhìn chung triết học cổ đại Trung
Quốc quan tâm nhiều đến “tính”, “tâm”, “lý”, tức là bàn đến phẩm chất tinh
thần, ý thức, tâm lý, tư tưởng của con người. Về cơ bản, các triết gia Trung
Quốc cổ đại xem “tính người” như là cái biểu hiện của cái thiện hoặc của cái
ác, của cái tính trời hoặc của cái tính thuộc nhân tâm. Theo họ, tính người
không tách rời “tính trời” hoặc “đạo trời”.
Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng, việc quan tâm lý giải về con người và
vận mệnh con người của các triết gia cổ đại Trung Quốc dẫu sao vẫn không
thoát khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa duy tâm và ít nhiều thần bí. Quan niệm về
“thiên mệnh”, cái quy định về vận mệnh con người là một trong những biểu
hiện của điều đó. Quan niệm này cho rằng, bất kể ai cũng đều phải tuân theo số
mệnh, tuân theo sự xếp đặt, thưởng phạt của trời.
Nói tới con người và quan hệ xã hội của con người, triết học cổ đại Trung
Quốc lấy đạo đức – luân lý làm nội dung chủ yếu cho các luận thuyết. Đạo đức
– luân lý ở đây thuộc tính đẳng cấp xã hội của con người, một thuộc tính quyết
định bản chất thiện hay ác của con người. Luân thường đạo lý nằm trong cả vạn
vật, trời đất. Trời là hóa thân, đại diện của đạo đức – luân lý và “thiên đạo”
(đạo của trời) trở thành chuẩn mực của “đạo người” và là minh chứng cho nhân
tình thế thái. Phạm trù “thiện – ác” trong quan hệ với “đạo người” và “thiên
đạo” trở nên có ý nghĩa đặc biệt: cái “thiện” và cái “ác” trở thành một chủ đề
tranh cãi đặc biệt quan trọng trong triết học cổ đại Trung Quốc.
Quan hệ nhân luân, nhân tính theo tinh thần đức trị là thước đo đánh giá
tốt, xấu đối với hệ thống chính trị, quan hệ xã hội và đời sống con người. Nó là
sản phẩm thực tiễn của xã hội Trung Quốc cổ đại.

17
Với những nội dung trên đây có thể khẳng định triết học cổ đại Trung
Quốc là triết học về xã hội – con người. Bản chất nhân cách như chúng ta hiểu

ngày nay phải chăng đồng nhất với nhân tính, là tính người như triết học Trung
Quốc cổ đại quan niệm? Theo một nghĩa nào đó, quan niệm như vậy có thể
chấp nhận được. Tuy nhiên, việc cho rằng “thiên mệnh”, “thiên đạo” chi phối,
quyết định “nhân tính”, “tính người” lại thể hiện sự thống trị của thế giới quan
duy tâm gắn liền với lợi ích của giai cấp phong kiến quý tộc.
Nếu như triết học phương Đông là triết học lấy con người làm trung tâm,
coi con người là đối tượng duy nhất để nghiên cứu, lý giải thì một trong những
đặc điểm quan trọng của triết học phương Tây là ngay từ thời cổ đại triết học đã
tập trung phân tích mối quan hệ giữa tinh thần và tự nhiên. Việc nghiên cứu
mối quan hệ này, trên thực tế cũng có nghĩa là phải tìm hiểu về mối tương quan
giữa “thế giới bên ngoài” và “thế giới con người”. Bởi vậy, có thể nói, triết học
phương Tây nghiên cứu con người và bản chất con người chủ yếu là trong
khuôn khổ vấn đề cơ bản của triết học.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, đề tài con người là nơi diễn ra cuộc đấu
tranh gay gắt giữa chủ nghĩa duy tâm – tôn giáo và chủ nghĩa duy vật – vô thần.
Ở Hy Lạp cổ đại lúc bấy giờ, các nhà thông thái, những người “yêu mến sự
thông thái” được coi là những mẫu hình nhân cách lý tưởng, là đại diện chung
cho thời đại đó
Từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XV, châu Âu tồn tại trong đêm dài của chế độ
phong kiến trung cổ. Hầu hết quan niệm của các nhà triết học thời kỳ này đều
cho rằng, chúa Trời là lực lượng siêu tự nhiên tối cao, có quyền lực tối thượng,
sáng tạo ra muôn loài và quyết định số phận của muôn loài trong đó có loài
người. Con người chỉ là hình ảnh của Chúa Trời. Vị trí, vai trò, số phận và đẳng
cấp của con người đều do Chúa Trời định đoạt.

18
Thế kỷ XVI – XVIII là thời đại của giai cấp tư sản cách mạng, thời đại của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng đồng thời cũng là thời đại phát
triển mạnh mẽ của các khoa học thực nghiệm và phân tích. Nét nổi bật của lịch
sử châu Âu ở giai đoạn này là sự thắng thế của chủ nghĩa duy lý. Xuất phát từ

đây, các quan niệm nhân đạo tư sản về con người và giải phóng con người đã
chiếm được vị trí tôn vinh trong xã hội. Vào thời đại ấy, các giá trị “tự do”,
“bình đẳng”, “bác ái” của con người đã được khẳng định một cách rõ ràng.
Kế thừa những quan điểm tiến bộ của các nhà Khai sáng Pháp, trong triết
học Cổ điển Đức, một trong những đặc điểm quan trọng của nó là việc đề cao
vai trò tích cực của hoạt động người, đề cao tinh thần đấu tranh chống lại sự trì
trệ và bất công của xã hội Đức lúc bấy giờ. Ở triết học cổ điển Đức, nhìn chung
con người hiện ra như là một chủ thể, đồng thời lại như là một sản phẩm của
quá trình hoạt động của chính mình, mặc dù một số nhà tư tưởng của dòng triết
học này đôi khi đã thần thánh hóa sức mạnh của con người, đặc biệt là thần
thánh hóa trí tuệ, ý thức, biến trí tuệ thành lực lượng siêu tự nhiên.
Tóm lại, trong lịch sử phát triển lâu dài của triết học, các nhà tư tưởng
không trực diện giải quyết vấn đề nhân cách mà thông qua việc giải đáp các vấn
đề con người. Vấn đề con người, bằng cách này hay cách khác, đều đã được
mọi triết học, từ triết học cổ đại ở phương Đông và phương Tây cho đến triết
học cổ điển Đức, xem xét và lý giải.
Việc giải quyết các vấn đề con người sẽ là cơ sở, là nền tảng căn bản để
giải quyết vấn đề nhân cách. Tuy vậy, do những hạn chế về mặt lịch sử, triết
học trước Mác đã không tránh khỏi tìm đến bản chất con người ở một cái gì đó
có tính chất siêu nhiên hoặc khi vào cuộc sống trần thế thì lại vô tình hạ thấp
con người xuống hàng động vật, hoặc coi con người không hơn gì cái máy,
nhiều lắm thì cũng chỉ nhìn con người chung chung, trừu tượng với một bản
chất bất biến nào đó… Như thế là trước khi học thuyết Mác ra đời, những cố
gắng của tư duy triết học nhằm tìm hiểu bản chất con người đều không đủ khả

19
năng đưa lại một cái nhìn toàn diện về con người. Rút cuộc chủ nghĩa duy tâm
vẫn ngự trị trong nhận thức về con người và về xã hội. Sự hạn chế này khiến
cho việc lý giải những vấn đề nhân cách cũng gặp những khó khăn nhất định.
Nếu không có một cơ sở triết học đúng đắn, người ta sẽ dễ đi đến những kết

luận, cách giải quyết sai lầm: bản chất nhân cách con người phải chăng cũng
mang tính chất siêu nhiên hay lại không hơn gì cái máy? Nguồn gốc của nhân
cách con người liệu có phải do một đấng sáng thế hay một tinh thần tối cao nào
đó sinh ra hay là sản phẩm ở trình độ phát triển cao nhất của “ý niệm tuyệt
đối”?.
Với sự xuất hiện của triết học Mác, nhu cầu về một quan điểm duy vật triệt
để về vấn đề con người mới có điều kiện để được giải quyết một cách căn bản.
Từ đây, những vấn đề nhân cách có cơ sở để được giải quyết đầy đủ và hoàn
thiện .
1.2 . Quan điểm về con người, nhân cách trong triết học Mác
Từ khi chủ nghĩa Mác ra đời, các học giả tư sản đã luôn tìm cách phủ
nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Xung
quanh vấn đề con người, để trả lời cho câu hỏi: “trong triết học Mác, có học
thuyết về con người hay không?”, phần lớn những người đó đều đưa ra câu trả
lời phủ định. Theo họ, triết học Mác đã “bỏ quên”, “bỏ rơi” con người, trong
triết học Mác không hề có học thuyết về con người. Một số quan điểm khác ít
cực đoan hơn thì cho rằng, Mác chỉ bàn đến con người trong những tác phẩm
thời trẻ, tức là thời kỳ quan điểm của ông còn chịu nhiều ảnh hưởng của triết
học Hêghen. Họ cho rằng, đỉnh cao của học thuyết về con người mà Mác đạt
đến thể hiện trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, còn sau đó Mác
không chú ý, quan tâm đến con người nữa. Với những sáng tạo khoa học của
Mác, họ chỉ thừa nhận cống hiến của ông trong những nghiên cứu kinh tế học,
còn về mặt triết học, theo họ, Mác đã xa rời truyền thống “nhân đạo” của triết
học phương Tây. Họ lý giải, vì trong các học thuyết của mình, đặc biệt là ở

20
những tác phẩm thời kỳ trưởng thành, Mác đã “bỏ quên con người” như là con
người cá nhân mà chỉ chú ý đến con người giai cấp [Xem 34; 55].
Đúng là Mác không để lại một tác phẩm riêng về con người và vấn đề này
không được ông trình bày một cách có hệ thống, trực tiếp mà nằm rải rác trong

các tác phẩm. Trên thực tế, Mác cũng không có ý định xây dựng một hệ thống
lý luận triết học “thuần túy” về con người, vấn đề nhân cách theo đó không
được đưa ra để xem xét một cách trực diện. Tuy nhiên, khi theo dõi tiến trình
phát triển về mặt tư tưởng và về mặt lý luận từ những tác phẩm thời kỳ đầu của
Mác trước năm 1844 đến những tác phẩm sau này, chúng ta có thể nhận thấy,
triết học Mác xuất phát từ con người và trở lại con người, mục đích cuối cùng
là hướng tới giải phóng con người. Những cách thức trong nghiên cứu con
người đồng thời cũng là những chỉ dẫn mang tính phương pháp luận cho nghiên
cứu nhân cách đã hình thành dần dần trong quá trình hoàn thiện, phát triển về
mặt tư tưởng của Mác, thể hiện những bước tiến, những “vượt bỏ” của ông về
mặt lý luận.
Nội dung cơ bản trong học thuyết về con người của Mác là làm sáng tỏ
nguồn gốc, bản chất của con người, đồng thời khẳng định tính tất yếu của sự
giải phóng con người.
Những nhà triết học trước Mác khi luận giải về vấn đề nguồn gốc, bản chất
của con người thường bàn luận, tìm kiếm ở một cái gì đó có tính chất siêu nhiên
hoặc nếu có đi vào cuộc sống trần thế thì lại hạ thấp con người xuống hàng
động vật, hoặc coi con người không hơn gì cái máy, nhiều lắm thì cũng cho là
con người trừu tượng, chung chung với một bản chất tộc loài, bất biến nào đó.
Với việc nghiên cứu sâu sắc các thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội, dựa vào đó mà nêu ra những khái quát về mặt thế giới quan, triết học Mác
đã chỉ ra: Con người không do ai sáng tạo ra mà là sản phẩm cao nhất trong quá
trình phát triển và tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Bản chất của con người chỉ
có thể được giải thích một cách khoa học nếu được đặt trên cơ sở đó, tức là trên
cơ sở thừa nhận những nguồn gốc tự nhiên khách quan của sự tồn tại người.

21
Những điều này được thể hiện rõ thông qua việc Mác phân tích về mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên - con người tồn tại trong tự nhiên, gắn bó
chặt chẽ với tự nhiên, giới tự nhiên là thân thể vô cô của con người. Mác viết:

“Con người là một sinh vật có tính loài Con người đối xử với bản thân mình
như với một loài hiện đang sống, như với một thực thể phổ biến và do đó là
một thực thể tự do” [33, 42, 134]. Mác đã chỉ ra rằng: “về mặt thể xác thì ở con
người cũng như ở con vật, đời sống có tính loài là ở chỗ con người (cũng như
con vật) sống bằng giới tự nhiên vô cơ”, “giới tự nhiên là tư liệu sinh sống trực
tiếp đối với con người là vật liệu, đối tượng và công cụ của hoạt động sinh
sống của con người”. Giới tự nhiên với tư cách đó “là thân thể vô cơ của con
người”, thân thể mà với nó, “con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên
giao tiếp để tồn tại”. Cả đời sống thể xác lẫn đời sống tinh thần của con người
đều gắn liền với giới tự nhiên đó. Và, điều đó chẳng qua chỉ có nghĩa là “giới tự
nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới
tự nhiên” [33, 42, 134-135].
Rõ ràng là, trong quan niệm của Mác, sự tồn tại của con người bao giờ
cũng gắn liền với những điều kiện tự nhiên nhất định, và hơn thế nữa, con
người tồn tại với tư cách là một bộ phận không thể tách rời của giới tự nhiên,
con người là một bộ phận của giới tự nhiên, con người là sản phẩm và sự phát
triển lâu dài của tự nhiên. Điều này hoàn toàn bác bỏ những nhận định của các
nhà tư sản cho rằng, chủ nghĩa Mác không chú ý đến bản tính tự nhiên của con
người.
Ngoài việc xem xét con người là một bộ phận của giới tự nhiên, tất cả các
nhà triết học trước Mác đều loay hoay tìm kiếm bản chất con người trong
khuôn khổ các cá nhân riêng lẻ, nghĩa là con người trong mắt các nhà triết học
trước Mác đều bị tách khỏi các mối quan hệ xã hội hiện thực của nó. Khác với
họ, Mác và Ăngghen tìm ra chìa khóa thực sự của việc nghiên cứu con người
tạo ra một bước ngoặt cách mạng trong việc nhận thức bản chất con người.
Trong luận cương nổi tiếng của mình về Phoiơbắc, C. Mác viết: “Bản chất con

22
người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã

hội” [33, 3, 11].
Theo quan điểm của Mác, bản chất con người không phải là trừu tượng mà
là hiện thực. Trong tính hiện thực của nó thì bản chất ấy không phải là bản chất
tự nhiên mà là bản chất xã hội – lịch sử. Bản chất ấy cũng không phải là vốn có
trong mỗi cơ thể riêng lẻ mà là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Cái tổng hoà
này có cơ sở, nguồn gốc hiện thực là tổng thể những hoạt động, quan hệ xã hội
liên hệ với cá nhân một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong hoạt động sinh
sống cá nhân tổng hợp và kết tinh vào mình hệ thống những quan hệ ấy, theo
cách của mình và chúng hình thành, tồn tại trong thân thể cá nhân dưới dạng
tiềm năng (vật chất và tinh thần) và khi cá nhân hoạt động, cái tiềm năng ấy lại
biểu hiện ra, được khẳng định trong một tổng thể những quan hệ xã hội của nó.
Song luận điểm đó không có nghĩa bản chất con người là một cái gì ngưng
đọng, nhất thành bất biến. Bản chất con người, mà đặc biệt là bản chất con
người cá nhân cũng cần phải được xem xét trong quá trình hình thành và phát
triển không ngừng. Nghĩa là, khi coi bản chất con người là tổng hòa các quan
hệ xã hội, thì con người tất yếu sẽ được hiện ra không chỉ trong các quan hệ
đồng đại mà còn cả trong quan hệ lịch sử. Điều đó đòi hỏi con người còn phải
được xét theo quan điểm phát triển. Đương nhiên, trong đời sống xã hội, quan
điểm phát triển gắn liền với quá trình thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội.
Vì thế, theo triết học Mác: mỗi cá thể không những là sản phẩm của các quan
hệ xã hội hiện có mà còn là sản phẩm của các quan hệ lịch sử, là sự đúc kết của
toàn bộ quá khứ. C. Mác viết: “Con người làm ra lịch sử của mình, nhưng
không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình
chọn lấy, mà là trong những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã cho sẵn và do
quá khứ để lại. Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi
lên đầu óc những người đang sống… [33, 8, 145].

×