Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tư tưởng đức trị và pháp trị trong Quốc triều hình luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1023.17 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHXH VÀ NHÂN VĂN
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN TRIẾT HỌC

***



BÙI THỊ PHƯƠNG THÚY



TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ VÀ PHÁP TRỊ
TRONG “QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT”

Chuyên ngành:Triết học
Mã số: 62.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Tài Đông





HÀ NỘI - 2009



0
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 8
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT TƢ TƢỞNG ĐỨC TRỊ VÀ PHÁP TRỊ
TRONG LỊCH SỬ PHƢƠNG ĐÔNG 8
1.1. Tƣ tƣởng đức trị và pháp trị trong lịch sử Trung Quốc 8
1.2. Tƣ tƣởng đức trị và pháp trị trong lịch sử Việt Nam trƣớc khi
“Quốc triều hình luật” ra đời. 18
1.3. Những giá trị và hạn chế của tƣ tƣởng đức trị và pháp trị trong lịch
sử phƣơng Đông 28
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ TƢ TƢỞNG ĐỨC TRỊ VÀ PHÁP TRỊ TRONG
“QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT” 322
2.1. Hoàn cảnh ra đời, kết cấu và nội dung khái quát của “Quốc triều
hình luật” 32
2.2. Một số nội dung tƣ tƣởng thể hiện sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị
trong “Quốc triều hình luật”. 500
2.3. Ý nghĩa của “Quốc triều hình luật” trong việc xây dựng và hoàn thiện đạo
đức, pháp luật ở Việt Nam hiện nay 733
KẾT LUẬN 800
TÀI LIỆU THAM KHẢO 844










1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Điều hành và quản lý xã hội luôn là một trong những vấn đề đƣợc quan tâm
hàng đầu của các quốc gia ở mọi thời đại. Ngay từ thời cổ đại, các triết gia Trung
Quốc đã nhận thức đƣợc vai trò to lớn của đạo đức và pháp luật trong việc thiết
lập, ổn định trật tự xã hội để từ đó đề xƣớng học thuyết “đức trị” và “pháp trị”.
Những học thuyết ấy đã vƣợt ra khỏi phạm vi Trung Quốc và có ảnh hƣởng đến
nhiều quốc gia phƣơng Đông suốt hơn hai nghìn năm, trong đó có Việt Nam.
Trong lịch sử Việt Nam, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của việc trị nƣớc,
vua chúa các triều đại đã kế thừa, tiếp thu những tƣ tƣởng về đƣờng lối trị nƣớc
của Trung Quốc. Tuy nhiên, do ảnh hƣởng của truyền thống, phong tục tập quán
của dân tộc, các tƣ tƣởng về đƣờng lối trị nƣớc của Việt Nam có những nét sáng
tạo, độc đáo riêng, không hoàn toàn giống nhƣ Trung Quốc.
Trong quá trình xây dựng luật pháp hiện nay, việc kế thừa có chọn lọc
những học thuyết, tƣ tƣởng trong lịch sử đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đó là
sản phẩm của trí tuệ con ngƣời và đƣợc thực tiễn kiểm nghiệm. Những giá trị
của lịch sử để lại qua thời gian sẽ góp phần xây dựng và hoàn thiện xã hội của
chúng ta ngày nay.
Pháp luật là hệ thống những các quy tắc xử sự, do nhà nƣớc ban hành
(hoặc thừa nhận), bảo đảm thực hiện và thể hiện ý chí, quyền lực của giai cấp
thống trị. Nó là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội và có vai trò quan trọng
trong việc điều hành, quản lý xã hội.
Trong suốt chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc ta, hầu hết các nhà cầm
quyền đều rất chú trọng tới việc xây dựng pháp luật, duy trì xã hội bằng sự
nghiêm minh của pháp luật. Nhiều bộ luật lớn đã ra đời và đóng vai trò quan
trọng trong việc trị nƣớc, an dân. Những bộ luật đó không chỉ có ý nghĩa trong
lịch sử mà còn có giá trị to lớn trong thời đại ngày nay.

Một trong những bộ luật nổi tiếng, có ý nghĩa và giá trị nhƣ vậy phải kể
đến đó là “Quốc triều hình luật” (hay còn gọi là “Luật hình triều Lê”, “Luật

2
Hồng Đức”). Đây “là một bộ luật hình chính thống và quan trọng nhất của triều
đại nhà Lê ở nƣớc ta (1428 - 1788)”[109; 1]. “Quốc triều hình luật” đƣợc các
nhà khoa học trong và ngoài nƣớc đánh giá rất cao về nhiều phƣơng diện trong
lịch sử phong kiến Việt Nam: “là một thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử
pháp luật Việt Nam. Nó không chỉ là đỉnh cao so với những thành tựu pháp luật
của các triều đại trƣớc đó, mà còn đối với cả pháp luật các triều đại phong kiến
sau này. Ngay cả bộ luật đƣợc biên soạn vào đầu thế kỷ thứ XIX: Hoàng Việt
luật lệ do Gia Long ban hành năm 1812”[109; 17]. Đây là bộ luật chịu ảnh hƣởng
sâu sắc của Nho giáo, đƣợc ra đời trong thời điểm Nho giáo có mức độ, điều kiện
và phạm vi ảnh hƣởng rộng rãi, sâu sắc nhất. “Quốc triều hình luật” là công cụ
quan trọng để xây dựng và củng cố nhà nƣớc quân chủ trung ƣơng tập quyền.
“Quốc triều hình luật” đã trở thành đối tƣợng nghiên cứu của rất nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nƣớc. Nhƣng trong thời gian qua, “Quốc triều hình luật”
chủ yếu đƣợc nghiên cứu ở phƣơng diện lịch sử và phƣơng diện lập pháp…
Các công trình đó đã nêu lên đƣợc những giá trị to lớn của bộ luật nhƣng
chủ yếu là ở khía cạnh lập pháp. Từ phƣơng diện tƣ tƣởng triết học, bộ luật chƣa
đƣợc quan tâm nghiên cứu nhiều. Đây là một bộ luật tiếp thu tƣ tƣởng triết học
Nho giáo trên tinh thần dân tộc sâu sắc, vì vậy nó mang nhiều nội dung, giá trị
tƣ tƣởng tiến bộ, là sản phẩm của sự kết hợp giữa đƣờng lối đức trị và pháp trị
cùng với tính nhân dân sâu sắc, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo to lớn. Việc
nghiên cứu các điều luật trong “Quốc triều hình luật” để thấy đƣợc sự kết hợp
giữa đƣờng lối đức trị và pháp trị trong bộ luật, từ đó rút ra ý nghĩa của nó trong
việc hoàn thiện đạo đức, pháp luật hiện nay là vấn đề hết sức cần thiết.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nƣớc ta đã đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng
trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con ngƣời. Những năm
gần đây, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, đất nƣớc ta đang bƣớc vào thời kỳ mới -

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu “Dân giàu, nƣớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhƣng thực tiễn lại đặt ra những
vấn đề mới buộc chúng ta phải suy nghĩ và tìm cách giải quyết. Đó là tình trạng

3
quản lý xã hội theo pháp luật của Nhà nƣớc còn lỏng lẻo, chƣa thật kịp thời,
chƣa thật nghiêm minh; đạo đức xã hội xuống cấp, không ít cán bộ bị sa ngã,
thoái hóa, biến chất, đang là những những vấn đề nan giải và bức xúc trong xã hội
ta hiện nay. Nhằm đạt mục tiêu trên, trong điều kiện lịch sử nƣớc ta hiện nay, một
đòi hỏi và cũng là một trong những nhiệm vụ chủ yếu là phải tăng cƣờng quản lý
xã hội bằng pháp luật một cách nghiêm minh và có hiệu quả, đồng thời phải đặc
biệt coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta đang xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đó là
một nhà nƣớc hoạt động trên tinh thần pháp luật, đề cao pháp luật, quyền lực của
nhân dân đƣợc thể chế hóa thành pháp luật và pháp luật trở thành công cụ để
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Để đáp ứng đƣợc nhu cầu đó, đòi hỏi
chúng ta cần phải có một bộ luật tiến bộ, mang đậm nét nhân văn. Trƣớc yêu cầu
đó, điều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn là phải nhận thức đƣợc giá trị to lớn của
“Quốc triều hình luật” đối với lịch sử và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền. Việc nghiên cứu sự kết hợp giữa tƣ tƣởng đức trị và pháp trị
trong bộ luật không những cho chúng ta thấy diện mạo tƣ tƣởng thời Lê Sơ, mà
còn cho chúng ta thấy ý nghĩa to lớn của nó trong việc xây dựng nền đạo đức,
pháp luật ở nƣớc ta hiện nay. Từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: Tư
tưởng đức trị và pháp trị trong “Quốc triều hình luật” làm đề tài nghiên cứu
trong luận văn thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những nội dung về đƣờng lối trị nƣớc cũng nhƣ về “Quốc triều hình luật”
đƣợc rất nhiều học giả trong và ngoài nƣớc quan tâm nghiên cứu trên nhiều lĩnh
vực. Các công trình nghiên cứu đó không trực tiếp đề cập đến đề tài luận văn

nhƣng ở đó đã đề cập đến những khía cạnh có liên quan đến đề tài. Vì vậy, luận
văn tập trung tham khảo một số hƣớng nghiên cứu chủ yếu sau:
- Những nghiên cứu về tư tưởng đức trị, pháp trị trong lịch sử Trung Quốc
và Việt Nam có các cuốn sau:

4
“Lịch sử tƣ tƣởng chính trị Trung Quốc” của tác giả Lã Trấn Vũ do Trần
Văn Tấn dịch, “Đại cƣơng triết học Trung Quốc” của tác giả Giản Chi và
Nguyễn Hiến Lê; “Đại cƣơng triết học sử Trung Quốc” của Phùng Hữu Lan;
“Đức trị và pháp trị trong Nho giáo” của GS. Vũ Khiêu; “Hàn Phi Tử” (Phan
Ngọc dịch); “Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở
Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX)” của TS. Nguyễn Thanh Bình;
“Tƣ tƣởng pháp trị của Pháp gia với sự nghiệp xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
Việt Nam” của tác giả Doãn Chính và Nguyễn Văn Trịnh; “Tìm hiểu tƣ tƣởng
chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mạng” của tác giả
Nguyễn Hoài Văn…
Các công trình nghiên cứu đã cung cấp cho ngƣời đọc bức tranh tổng thể
cùng tiến trình phát triển của tƣ tƣởng triết học Trung Quốc và Việt Nam (trong
đó có tƣ tƣởng đức trị và pháp trị). Các tác giả đã phân tích cơ sở xã hội, những
tiền đề lý luận hình thành tƣ tƣởng đức trị và pháp trị. Đồng thời, các tác giả đã
đề cập đến một số giá trị, hạn chế của những tƣ tƣởng đó trong lịch sử và đƣơng
thời. Đặc biệt là ảnh hƣởng của những tƣ tƣởng đó đối với sự nghiệp xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Những nghiên cứu về pháp luật Việt Nam, có các cuốn sau:
“Sơ thảo lịch sử Nhà nƣớc và pháp quyền Việt Nam” của tác giả Đinh Gia
Trinh, “Giáo trình lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Việt Nam” của TS. Vũ Thị
Phụng, “Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII” của GS. Insun
Yu…Những tài liệu trên đã đƣa ra một cái nhìn tổng quan về diện mạo tƣ tƣởng
và pháp luật thời đại Lê Sơ. Các tác giả đã làm nổi bật đƣợc giá trị của bộ luật
thời Lê trên nhiều khía cạnh, đặc biệt là phƣơng diện lập pháp.

- Liên quan đến Hoàng đế Lê Thánh Tông - người có công lao to lớn trong
việc xây dựng và hoàn thiện bộ Luật Hồng Đức, có một số cuốn:
“Lê Thánh Tông (1442 - 1497) - Con ngƣời và sự nghiệp”, do Đại học
Quốc gia xuất bản; “Hoàng đế Lê Thánh Tông - Nhà chính trị tài năng, nhà văn
hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn” của Viện Văn học. Đó là những bài viết của các nhà

5
nghiên cứu về đóng góp của Hoàng đế Lê Thánh Tông trên nhiều phƣơng diện
từ văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, nghệ thuật…Đặc biệt, tác phẩm đề cập đến
vai trò của Lê Thánh Tông trong việc bổ sung, hoàn thiện bộ “Quốc triều hình
luật” dƣới thời ông trị vì mang niên hiệu Hồng Đức.
- Những nghiên cứu về “Quốc triều hình luật”:
Cuốn “Quốc triều hình luật - Lịch sử hình thành, nội dung và giá trị” do
TS. Lê Thị Sơn chủ biên đã tập trung nghiên cứu bộ luật dƣới góc độ của khoa
học pháp lý: kỹ thuật lập pháp, các chế tài pháp luật…
Bên cạnh đó, phải kể đến cuốn kỷ yếu Hội thảo quốc gia tổ chức tại Thanh
Hóa: “Quốc triều hình luật - Những giá trị lịch sử và đƣơng đại góp phần xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam” do Bộ Tƣ pháp và UBND tỉnh Thanh
Hóa tổ chức. Các bài tham luận trong hội thảo cũng tập trung chủ yếu vào những
vấn đề có liên quan tới việc xây dựng bộ máy chính quyền nhà nƣớc: “Lê Thánh
Tông và bộ luật Hồng Đức” của GS. Phan Huy Lê; “Tƣ tƣởng, quan điểm của
vua Lê Thánh Tông về giữ nƣớc” của Thiếu tƣớng, PGS. TS. Vũ Quang Lộc;
“Tƣ tƣởng pháp trị kết hợp với đức trị trong đạo trị quốc, an dân của vua Lê
Thánh Tông” của TS. Uông Chu Lƣu…
Ngoài ra còn một số bài tạp chí khác nhƣ: “Những giá trị tích cực của Nho
giáo trong Bộ luật Hồng Đức” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn; “Nội dung và giá
trị cơ bản về quyền con ngƣời trong bộ luật Hồng Đức” và “Vấn đề phòng,
chống tham nhũng trong Quốc triều hình luật” của TS. Nguyễn Thanh Bình;
“Khía cạnh quyền con ngƣời, quyền công dân và quản lý Nhà nƣớc trong bộ
Quốc triều hình luật” của tác giả Cao Quốc Hoàng,…

Các bài viết này không những đề cập đến nhiều khía cạnh trong “Quốc
triều hình luật” mà còn chỉ ra những đóng góp to lớn của bộ luật nhà Lê trên một
số khía cạnh về quyền con ngƣời, về vấn đề quản lý nhà nƣớc, củng cố xã
hội…đối với thời đại Lê Sơ. Đồng thời, các bài viết cũng đã gợi mở những ý
nghĩa và giá trị đƣơng đại của bộ luật.


6
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của luận văn
a) Mục đích:
Phân tích tƣ tƣởng đức trị và pháp trị trong “Quốc triều hình luật”, từ đó chỉ ra ý
nghĩa của nó trong việc xây dựng, hoàn thiện đạo đức, pháp luật ở nƣớc ta hiện nay.
b) Nhiệm vụ:
- Trình bày khái quát tƣ tƣởng đức trị, pháp trị trong lịch sử Trung Quốc và
Việt Nam.
- Trình bày những điều kiện, tiền đề cơ bản cho sự ra đời của “Quốc triều
hình luật”.
- Phân tích một số nội dung tƣ tƣởng đức trị và pháp trị cũng nhƣ sự kết
hợp giữa chúng trong “Quốc triều hình luật”.
- Chỉ ra ý nghĩa của tƣ tƣởng đức trị và pháp trị trong việc xây dựng và
hoàn thiện đạo đức, pháp luật ở nƣớc ta hiện nay.
c) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu một số nội dung tƣ tƣởng thể hiện sự kết
hợp giữa đức trị và pháp trị thông qua các điều luật trong “Quốc triều hình luật”
(cuốn do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1995).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
a) Cơ sở lý luận: Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề đạo đức, pháp luật,…
b) Phương pháp nghiên cứu: phƣơng pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phƣơng pháp lôgíc - lịch sử, phƣơng pháp

so sánh, đối chiếu, khái quát hóa, phân tích, tổng hợp…
5. Ý nghĩa của luận văn
“Quốc triều hình luật” là một bộ luật có giá trị lớn và nó là đối tƣợng
nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau. Với đề tài này, thông qua việc phân
tích các điều luật, tác giả muốn tập trung nghiên cứu một số nội dung tƣ tƣởng
thể hiện sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị trong bộ luật từ góc độ triết học. Từ
đó chỉ ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức, pháp luật ở

7
nƣớc ta hiện nay. Để làm đƣợc điều này, chúng tôi phải sử dụng những nội dung
và kết luận trong nghiên cứu về bộ luật của khoa học pháp lý và sử học làm cơ
sở cho nghiên cứu của mình.
Hơn thế nữa, việc nghiên cứu một số nội dung tƣ tƣởng thể hiện sự kế hợp
giữa đức trị và pháp trị trong “Quốc triều hình luật” góp phần khai thác, phát
huy các di sản văn hóa dân tộc, truyền thống đạo đức trong đạo trị nƣớc của nhà
nƣớc phong kiến Việt Nam. Đồng thời, luận văn là một tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu và giảng dạy lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội
dung của luận văn bao gồm 2 chƣơng và 6 tiết.




















8

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT TƢ TƢỞNG ĐỨC TRỊ VÀ PHÁP TRỊ
TRONG LỊCH SỬ PHƢƠNG ĐÔNG
1.1. Tƣ tƣởng đức trị và pháp trị trong lịch sử Trung Quốc
1.1.1. Khái niệm “đức trị” và “pháp trị”
Ở Trung Quốc, “đức trị” và “pháp trị” là hai đƣờng lối trị nƣớc cơ bản của
Nho gia và Pháp gia đƣợc xây dựng từ thời cổ đại. Nó đã trở thành nền tảng lý
luận trong chính sách cai trị của các vƣơng triều phong kiến Trung Quốc suốt
hơn hai nghìn năm.
Khái niệm trị đƣợc sử dụng trong triết học Trung Quốc, với tính cách là
một khái niệm chính trị - triết học, là sự sắp xếp, chỉnh đốn công việc của quốc
gia, Nhà nƣớc (trị dân, trị nƣớc).
Ngay từ thời cổ đại, các triết gia phƣơng Đông đã nhận thức một cách khá
tinh tế về vai trò, tác dụng của đạo đức và pháp luật trong việc thiết lập, ổn định
chính trị - xã hội. Đặc biệt ở Trung Quốc, thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc đã có sự
chuyển biến sâu sắc từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến sơ kỳ, từ
chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến trung ƣơng tập quyền.
Đây là thời kỳ, những thể chế pháp luật cùng những chuẩn mực đạo đức của xã
hội cũ bị băng hoại và những thể chế pháp luật và chuẩn mực đạo đức của xã hội

mới đang manh nha. Chính trong điều kiện lịch sử đó đã đặt ra những vấn đề về
tƣ tƣởng, đạo đức luân lý, chính trị, pháp luật…làm xuất hiện hàng loạt các
trƣờng phái triết học. Các nhà tƣ tƣởng với lợi ích và địa vị xã hội khác nhau, với
các phƣơng pháp cải biến xã hội, giáo hóa đạo đức cho con ngƣời khác nhau, đã
đƣa ra các lý thuyết, nhƣ các nhà nho hay nói, là nhằm “tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”, đƣa xã hội Trung Quốc tới sự ổn định. Trong đó, nếu Nho gia nêu cao “đức
trị” khẳng định “chính danh”, lấy “nhân nghĩa” làm gốc, thì Mặc gia chủ trƣơng
“kiêm ái”, “thƣợng đồng” hay Đạo gia đề xuất theo đạo tự nhiên “vô vi nhi
trị”…Khác với những quan điểm trên, Pháp gia căn cứ vào những tiền đề lý luận

9
của mình đã chủ trƣơng dùng pháp luật của nhà nƣớc làm công cụ quan trọng để
kiểm soát đời sống xã hội và củng cố trật tự xã hội phong kiến ở Trung Quốc.
“Tƣ tƣởng đức trị là hệ thống những quan niệm về đƣờng lối trị nƣớc, quản
lý xã hội dựa trên những chuẩn mực đạo đức. Đó là hệ thống những chuẩn mực,
những nguyên tắc, quy phạm đạo đức để điều chỉnh hành vi của con ngƣời trong
các mối quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích cộng đồng. Đức trị phản ánh nhu cầu và lợi ích xã hội của giai cấp thống trị
đƣợc biểu hiện dƣới những hình thức những quy phạm và những đánh giá trên cơ
sở xác lập những giá trị luân lý, đƣợc mọi ngƣời thừa nhận và chấp nhận một cách
tự giác. Nó đƣợc củng cố bằng tấm gƣơng đạo đức.”[9; 55] Đức trị là chủ trƣơng
của Nho gia, họ coi trọng đạo đức, lấy đức để cai trị, đạo đức đƣợc coi là phƣơng
tiện chủ yếu để trị nƣớc. Vào thời Tây Chu, Chu Công Đán đã đề xuất tƣ tƣởng
“kính đức, bảo dân” (tôn trọng đạo đức, chăm lo cho dân). Khổng Tử là ngƣời
đầu tiên xây dựng, hệ thống hóa tƣ tƣởng này thành học thuyết và mở rộng tƣ
tƣởng đó sang lĩnh vực chính trị.
Từ quan niệm về “tính thiện” của con ngƣời do trời phú, chủ trƣơng trị
nƣớc của Nho gia là hƣớng tới bảo vệ, củng cố, khơi dậy, phát huy cái thiện, cái
tốt đẹp vốn có trong mỗi con ngƣời, từ đó loại trừ đƣợc cái ác, cái xấu và do đó
xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, thịnh trị. Tiêu chuẩn để Nho gia đánh giá một chế độ

xã hội tốt hay xấu, tiến bộ hay không là bộ mặt đạo đức của xã hội đó.
Bên cạnh khái niệm “đức trị”, chúng ta còn gặp những khái niệm khác nhƣ “lễ
trị”, “nhân trị”. Chữ “nhân” là cốt lõi trong học thuyết chính trị - đạo đức của
Khổng Tử, cho nên “nhân trị” là sự cụ thể hóa nội dung cơ bản của đức trị, tức là
hƣớng hành vi của mọi ngƣời cũng nhƣ chính sách cai trị vào điều “nhân”. “Nhân”
là cái cốt lõi, là nền tảng của những nguyên tắc đạo đức, “lễ” là những chuẩn mực
cụ thể, là khuôn phép quy định cách đối nhân xử thế của con ngƣời theo từng quan
hệ cụ thể, là hình thức biểu hiện của “nhân”. Đồng thời, “lễ” là biện pháp rèn luyện
để đạt đƣợc “đức nhân”. Vì vậy, “lễ trị” chính là “đức trị” nhƣng đƣợc tiếp cận
dƣới góc độ biện pháp, con đƣờng thực hiện.

10
Mục đích của hai đƣờng lối trị nƣớc là giống nhau, đều hƣớng tới một xã
hội ổn định, có trật tự và đẳng cấp nhƣng phƣơng pháp đạt tới mục đích đó là
khác nhau. Pháp trị là tƣ tƣởng chính trị của phái Pháp gia từ thời Xuân Thu với
những tên tuổi nhƣ Quản Trọng, Tử Sản. Họ đề cao pháp luật và chủ trƣơng căn
cứ vào pháp luật để quản lý đất nƣớc. Bên cạnh việc coi trọng giáo hóa đạo đức,
họ nhấn mạnh đến vai trò của pháp chế. Tƣ tƣởng về pháp luật đƣợc nêu lên một
cách sâu sắc với ba đại biểu là Thƣơng Ƣởng, Thân Bất Hại và Thận Đáo tƣơng
ứng với ba học thuyết về “pháp”, “thuật” và “thế”. Hàn Phi là ngƣời kế thừa,
tổng hợp và phát triển những tƣ tƣởng này. Về lý luận chính trị, ông tiếp thu sở
trƣờng của ba trƣờng phái trong Pháp gia “pháp” (Thƣơng Ƣởng), “thuật” (Thân
Bất Hại) và “thế” (Thận Đáo). Từ đó, ông phát triển phát triển và xây dựng một
hệ thống lý luận pháp trị tƣơng đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đƣơng thời.
Tóm lại, đức trị và pháp trị là hai đƣờng lối trị nƣớc của Nho gia và Pháp
gia, trong đó, đạo đức hoặc pháp luật đƣợc xem là công cụ chủ yếu. Nhƣ vậy,
điểm khác biệt căn bản của Nho gia và Pháp gia trong tƣ tƣởng về đƣờng lối trị
nƣớc là: Nho gia đề cao vai trò của đạo đức, coi trọng hành động tự nguyện, tự
giác của chủ thể xuất phát từ động cơ bên trong, ngƣợc lại, Pháp gia tuyệt đối
hóa vai trò của pháp luật, coi trọng sự cƣỡng chế bằng luật pháp - quyền lực nhà

nƣớc - áp lực từ bên ngoài.
1.1.2. Nội dung và yêu cầu cơ bản của tư tưởng đức trị
Đƣờng lối đức trị là một trong những nội dung cơ bản nhất trong học thuyết
chính trị - xã hội của Nho giáo. Các nhà nho từ Khổng Tử trở đi đều đặc biệt đề
cao vai trò của đạo đức, coi đạo đức là công cụ, phƣơng tiện chủ yếu nhất, hữu
hiệu nhất để đạt đƣợc những mục đích chính trị và nhân sinh.
Nho giáo coi đạo đức, lễ giáo không chỉ là mục đích, mà còn là công cụ,
phƣơng tiện chủ yếu, có vai trò quyết định trong việc củng cố, duy trì địa vị,
quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị trong việc trị nƣớc, quản lý xã hội.
Trong sách Luận Ngữ, Khổng Tử nói: “Nếu dẫn dắt bằng đạo đức, sửa trị bằng
lễ giáo, thì dân không những có lòng hổ thẹn mà còn cảm hóa quy phục”[110;

11
245]. Khổng Tử còn khẳng định rằng, đạo đức là biện pháp hiệu quả nhất trong
việc thu phục nhân tâm, nhân lực, trong việc “bình thiên hạ”. Ông nói: “Làm
chính trị bằng đức, thì tự mình sẽ giống nhƣ sao Bắc Đẩu, ở nguyên một chỗ mà
mọi vì sao khác chầu quanh mình”[110; 244]
Ngoài ra, Nho giáo còn cho rằng, đạo đức và việc thi hành đạo đức còn là
biện pháp tốt nhất để loại bỏ tình trạng phi nhân, phi đạo đức trong xã hội, là
phƣơng tiện để duy trì trật tự, kỷ cƣơng và sự ổn định của xã hội. Đối với Nho
giáo, điều đáng sợ nhất của một quốc gia, một nền chính trị không phải là nƣớc
nghèo, của cải ít, mà là không có phép tắc, không có đạo đức. Đạo đức của một
xã hội quyết định sự tồn vong của xã hội đó.
Đạo đức là tiền đề, điều kiện quan trọng nhất để hình thành và hoàn thiện
đạo đức của con ngƣời, góp phần vào việc củng cố, duy trì trật tự, kỷ cƣơng và
ổn định xã hội. Nho giáo khẳng định rằng, để thiết lập, duy trì trật tự, kỷ cƣơng
và ổn định của gia đình cũng nhƣ xã hội cần phải thực hành các biện pháp mang
nội dung đạo đức. Tức là phải lấy các chuẩn mực đạo đức nhƣ: nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, hiếu, trung…trở thành những nguyên tắc, những quy phạm chi phối mọi
hành vi của con ngƣời, mọi mối quan hệ xã hội của con ngƣời ở trong gia đình

và ngoài xã hội. Nhƣ vậy, mỗi ngƣời mới có đạo đức, mới bảo tồn đƣợc tính
thiện và cái ác đƣợc trừ bỏ. Nhƣng, để đạt đƣợc mục đích này, các nhà nho đều
khẳng định rằng điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là mọi ngƣời trong thiên
hạ từ thiên tử trở xuống phải tận tâm trong việc “tu thân” (tu dƣỡng đạo đức).
Đạo đức và việc thực hành đạo đức đóng vai trò quyết định đối với việc tạo
lập ra mẫu ngƣời lý tƣởng và góp phần tạo lập xã hội lý tƣởng. Trong quan niệm
của Nho giáo, muốn có xã hội lý tƣởng, có đạo đức tất nhiên phải có con ngƣời
lý tƣởng, con ngƣời có đạo đức.
Con ngƣời lý tƣởng theo quan niệm của Nho giáo là ngƣời “quân tử”. Nho
giáo đƣa ra quan niệm về ngƣời quân tử xuất phát từ sự đối lập giữa “tính thiện”
và “tính ác”, giữa “nghĩa” và “lợi”, giữa “quân tử” và “tiểu nhân”. Ngƣời quân
tử là ngƣời có đạo đức, học và thực hành nhân, nghĩa, lễ, trí, tín…coi trọng

12
nghĩa, coi thƣờng lợi…Nhƣng để trở thành ngƣời quân tử họ phải trải qua quá
trình học tập rèn luyện và tu dƣỡng đạo đức lâu dài với nỗ lực bền bỉ. Có nhƣ
vậy, trí và đức của họ mới giàu có thêm và ngày càng bền vững. Ngƣời quân tử
phải tu dƣỡng đạo đức ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Khổng Tử nói:
“Ngƣời quân tử chẳng bao giờ rời bỏ điều nhân, dù chỉ trong thời gian một bữa
ăn, dẫu trong cơn vội vàng hay trong lúc nghiêng ngả chao đảo, ngƣời ấy cũng
vẫn ở với điều nhân”[110; 280] và “điều mình không muốn thì đừng áp đặt cho
ngƣời khác” [110; 423]. Điều quan trọng hơn, ngƣời quân tử làm gƣơng trong
việc thi hành cái đức của mình và còn phải đem cái đức đó giáo hóa cho mọi
ngƣời trong khắp thiên hạ. Khi ngƣời quân tử có những đức tính, năng lực ấy thì
nghèo hèn, phú quý chẳng hề chuyển lay, uy vũ chẳng thể khuất phục và có thể
cai trị đƣợc dân.
Trong quan niệm của Nho giáo, tƣ tƣởng đức trị có vai trò là cơ sở, căn cứ
để định hƣớng và chỉ đạo việc thực hiện đƣờng lối cai trị, quản lý xã hội bằng
những chuẩn mực, quy phạm đạo đức. Các phạm trù đạo đức căn bản của Nho
giáo không chỉ là những chuẩn mực đạo đức cần có và là phƣơng tiện để hoàn

thiện nhân cách đạo đức của con ngƣời trong xã hội. Hơn thế nữa, nó còn là
công cụ có tính chính trị để ràng buộc con ngƣời, cai trị và quản lý xã hội nhằm
đáp ứng những yêu cầu và mục đích chính trị của giai cấp phong kiến thống trị.
Vì vậy, có thể nói, ở Nho giáo, đạo đức và chính trị có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Sự thống nhất và quan hệ chặt chẽ giữa đạo đức và chính trị đƣợc biểu
hiện tập trung trong tƣ tƣởng đức trị - đƣờng lối trị nƣớc bằng đạo đức.
Nho gia cho rằng, một xã hội thật sự tốt đẹp là ở đó mọi ngƣời đều quý
trọng cái thiện và ra sức làm điều thiện. Nếu cái thiện chi phối hành vi của tất cả
mọi ngƣời từ trong ý nghĩ đến việc làm của họ đều hƣớng tới cái thiện thì xã hội
sẽ trở nên thái bình, thịnh trị. Từ quan niệm đó, họ chủ trƣơng dùng đạo đức làm
công cụ chủ yếu để điều khiển sự vận hành của xã hội với những yêu cầu sau:
Trƣớc hết, người cai trị phải có đức, lấy việc tu thân làm đầu. Từ chỗ đề
cao địa vị, vai trò của nhà vua trong việc trị nƣớc, trị dân, duy trì sự ổn định, của

13
xã hội, Nho giáo coi trọng vai trò của đạo đức và sự tu dƣỡng đạo đức của nhà
vua. Trong tƣ tƣởng đức trị, các nhà Nho khẳng định rằng, điều có ý nghĩa quyết
định trong việc trị dân, giáo hóa dân, thu phục lòng ngƣời là nhà vua, ngƣời cầm
quyền phải có đạo đức và luôn tu dƣỡng đạo đức. Nhà vua, ngƣời cầm quyền có
đạo đức và thi hành đƣờng lối nhân đức trong việc cai trị thì không chỉ làm cho
nƣớc thịnh trị lâu dài mà có thể làm cho những kẻ ác nhân thành thiện nhân.
Nhƣ vậy, Nho giáo coi nhà vua có đạo đức và thi hành cái đạo đức ấy gắn liền,
thậm chí là quyết định sự thành - bại, thịnh - suy của việc cai trị chế độ và triều
đại. Nhƣng để làm cho đạo đức có vai trò to lớn nhƣ vậy, theo Nho giáo, còn
phụ thuộc chủ yếu ở sự tu dƣỡng đạo đức của nhà vua, của kẻ cai trị. Ở Nho
giáo, luân lý và tu dƣỡng đƣợc gắn liền với nhau. Theo Khổng Tử, nhà vua,
ngƣời cầm quyền trƣớc hết là phải tự mình tu dƣỡng đạo đức, có nhƣ vậy dân
mới tuân theo phép tắc, mới tự giác theo mình và nền cai trị mới đƣợc giữ vững.
Sự tu dƣỡng đạo đức của nhà vua, ngƣời cầm quyền không chỉ thành tâm mà sự
tu dƣỡng đó phải thƣờng xuyên, ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, trong

mọi mối quan hệ, có nhƣ vậy, trăm họ mới đƣợc yên trị.
Trong tƣ tƣởng đức trị của Nho giáo, sự tu dưỡng đạo đức của nhà vua, kẻ
cầm quyền thể hiện bằng những tấm gương đạo đức. Nho giáo coi nhà vua nêu
gƣơng trong việc tu dƣỡng đạo đức và thi hành đạo đức còn là một trong những
yếu tố quyết định việc thực hiện thành công đƣờng lối đức trị. Có nhƣ vậy, cái
đức của mình mới đƣợc mọi ngƣời trong khắp thiên hạ noi theo, xã hội mới có
đạo đức, có tôn ti trật tự, mới thật sự ổn định. Nêu gƣơng là nói phải đi đôi với
làm, tự sửa mình trƣớc sau mới giáo hóa ngƣời.
Tóm lại, quan niệm của Nho giáo về vai trò của đạo đức, sự tu dƣỡng đạo
đức của con ngƣời nói chung, đặc biệt là của nhà vua, ngƣời cầm quyền trong
việc cai trị nói riêng là biểu hiện tập trung nhất, rõ rệt nhất những yếu tố hợp lý
và hạn chế của Nho giáo.
Trong quan niệm của Nho giáo, ngƣời dân và đặc biệt là vai trò của dân
đƣợc đề cao: Dân là gốc nƣớc, là nền tảng của nền chính trị. Nhìn chung, các

14
nhà Nho đều coi dân là gốc của nƣớc, dân không chỉ do trời sinh ra mà điều cơ
bản, họ là bộ phận to lớn trong xã hội, họ là đối tƣợng của sự cai trị, không có
họ thì cũng không tồn tại mặt đối lập - đó là giai cấp thống trị. Do đó, không có
dân thì không có nƣớc, không có vua. Họ không chỉ là những ngƣời nuôi dƣỡng,
phụng dƣỡng mà còn là lực lƣợng bảo vệ nhà vua và những ngƣời cai trị. Vì
vậy, các nhà Nho đều khuyên nhà vua hãy coi trọng dân, lấy dân làm gốc, coi
dân còn quý trọng hơn cả xã tắc và nhà vua. Vai trò của dân trong tƣ tƣởng “dân
duy bang bản” của Kinh Thƣ (dân duy bang bản, bản cố bang ninh). (Kinh Thƣ.
Ngũ tử chi ca), “dân vi quý” của Mạnh Tử còn đƣợc biểu hiện khi các nhà Nho
coi dân là một trong ba điều quan trọng nhất của nhà vua (dân chúng, đất đai và
nhà vua), có ảnh hƣởng trực tiếp đến thịnh suy, hƣng vong của cả chế độ. Tuân
Tử thì coi “vua là thuyền, thứ nhân là nƣớc. Nƣớc chở thuyền, cũng có thể lật
thuyền” [115; 64]. Dân là gốc, là quý, là nƣớc và có vai trò to lớn nhƣ vậy nên
các nhà Nho đều chủ trƣơng phải giữ đƣợc dân, có thế mới giữ đƣợc thiên hạ,

giữ đƣợc ngôi vị của vua. Sự tồn - vong, an - nguy, thịnh - suy của triều đại, chế
độ gắn chặt và phụ thuộc vào những chủ trƣơng, biện pháp của nhà vua, ngƣời
cầm quyền có thuận theo lòng dân, ý dân hay không. Đây chính là tƣ tƣởng vừa
có tính định hƣớng vừa có tính xác định những nghĩa vụ, trách nhiệm của giai
cấp thống trị đối với dân. Nghĩa vụ và trách nhiệm gộp lại thành hai chính sách
“Dƣỡng dân” và “Giáo dân”. Hai chính sách này thể hiện vai trò của nhà vua là
“cha mẹ của dân” và “thay trời trị dân, dƣỡng dân”.
Trong tƣ tƣởng giáo dục, giáo hóa nói riêng và tƣ tƣởng đức trị nói chung
của Nho giáo là sự kết hợp giữa tƣ tƣởng đức trị và pháp trị. Sự kết hợp này
trong đƣờng lối đức trị của Nho giáo cũng là tất yếu, vì xét đến cùng đạo đức
hay hình phạt đều mang tính ràng buộc, bắt buộc đối với mọi hành vi, hành động
của con ngƣời và đều nhằm duy trì, bảo vệ trật tự, kỷ cƣơng của chế độ phong
kiến cũng nhƣ địa vị, quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị. Thực chất của
toàn bộ tƣ tƣởng và đƣờng lối đức trị của Nho giáo cũng để nhằm mục đích
chính trị. Chính bởi vậy, hạn chế lớn nhất trong tƣ tƣởng giáo dục là nội dung

15
giáo dục của Nho giáo không bao giờ dạy con ngƣời tri thức về tự nhiên, về sản
xuất, buôn bán. Do vậy, chính sách và đƣờng lối giáo dục của Nho giáo là hết
sức hạn chế và không thể đào tạo ra những con ngƣời toàn diện đƣợc.
Có thể nói rằng, nội dung cơ bản bao trùm của Nho giáo là học thuyết
chính trị - xã hội. Cái cốt lõi trong học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo là:
từ việc nhìn nhận con ngƣời, vai trò của con ngƣời trong các mối quan hệ cơ bản
và chủ yếu từ phƣơng diện đạo đức - chính trị, Nho giáo đã đề xuất những quan
điểm cơ bản nhất về đƣờng lối trị nƣớc, quản lý xã hội. Trong đƣờng lối trị nƣớc
ấy, những chuẩn mực, những quy phạm đạo đức đƣợc xác định là những yếu tố
cơ bản chi phối mọi hành động của con ngƣời trong các mối quan hệ cơ bản.
Không những vậy, chúng còn là những công cụ, biện pháp chính trị cơ bản nhất
để trị nƣớc. Do vậy, đƣờng lối trị nƣớc đó còn là đức trị, lễ trị. Tất nhiên, trong
việc thực thi đƣờng lối này trên thực tế, các vƣơng triều theo ý thức hệ Nho giáo

còn viện tới ý trời, mệnh trời và kết hợp với pháp trị. Chính vì vậy, học thuyết
chính trị - xã hội của Nho giáo không tránh khỏi tính chất duy tâm và siêu hình.
Suy cho cùng, những điều ấy nhằm củng cố, bảo vệ chế độ phong kiến, vĩnh
viễn hóa địa vị, quyền lợi của giai cấp phong kiến thống trị. Vì vậy, Nho giáo
không tránh khỏi những hạn chế trong giai đoạn phát triển của xã hội loài ngƣời.
1.1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng pháp trị
Đƣờng lối trị nƣớc của Pháp gia cũng xuất phát từ quan niệm về bản tính
vốn có của con ngƣời. Kế thừa quan niệm “tính ác” của Tuân Tử, Hàn Phi - đại
biểu cho đƣờng lối pháp trị đã khẳng định bản tính con ngƣời là vị kỷ. Ông cho
rằng, bản tính của con ngƣời là tất yếu, bất biến, không thể thay đổi đƣợc. Theo
ông, trừ một số ít Thánh nhân, hầu hết đều là thƣờng nhân với nhiều tính xấu
nhƣ: hám lợi, lƣời biếng…những hành vi của con ngƣời bề ngoài có vẻ tốt đẹp
nhƣng đằng sau nó đều có động cơ vụ lợi, vị kỷ. Bản tính vị kỷ, hám lợi sẽ dẫn
con ngƣời đến chỗ tranh giành lẫn nhau mà gây ra điều ác là tất yếu, khách quan,
cho nên đừng trông mong ngƣời dân làm từ thiện. Ông cũng không đòi hỏi nhà
vua là ngƣời nhân đức, thậm chí ông còn cho rằng vua quá chú trọng nhân đức sẽ

16
trở nên nhu nhƣợc, dùng đức để trị sẽ sinh ra loạn. Hàn Phi chủ trƣơng dùng hình
pháp để ngăn chặn không cho cái ác gây hại cho ngƣời khác và đất nƣớc.
Tƣ tƣởng pháp trị của Pháp gia là sự kế thừa nhiều tƣ tƣởng triết học của
các bậc tiền bối đƣơng thời. Đặc biệt là sự kế thừa tƣ tƣởng “tôn quân”, “chính
danh” của Khổng Tử, tƣ tƣởng “thƣợng đồng”, “công lợi” của Mặc gia. Đồng
thời, Pháp gia còn kế thừa tƣ tƣởng, quan điểm về “đạo”, “đức”, “vô vi” của
Đạo gia, tƣ tƣởng về “tính ác” của Tuân Tử. Tƣ tƣởng về “đạo” và “lý” của
Pháp gia là sự kế thừa tƣ tƣởng duy vật về thế giới của Lão Tử. Chính vì vậy,
GS. Phan Ngọc đã đánh giá rất cao tƣ tƣởng của Hàn Phi Tử: “…Đó là sự đóng
góp riêng của ông vào “thuật trị nƣớc”. Kết quả ông là con ngƣời duy nhất của
Trung Quốc thực hiện đƣợc một sự tổng hợp ba học thuyết Nho, Lão, Pháp, ở đó
Nho là tài liệu xây dựng, Pháp là cái bản thiết kế, nhƣng Lão mới là kỹ thuật thi

công của cái ngôi nhà độc đáo.”[88; 17]
Hàn Phi quan niệm rằng, mọi suy nghĩ, hành động, lý luận đều đƣợc bắt
nguồn từ chính thực tiễn xã hội. Xuất phát từ điều này, ông cho rằng, vấn đề
then chốt của việc xây dựng đất nƣớc giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Một
quốc gia có pháp luật và pháp luật đƣợc thi hành một cách rộng rãi, đúng đắn thì
xã hội mới ổn định. Điều đó là tiền đề cho việc xây dựng đất nƣớc giàu mạnh,
dân chúng yên bình, hạnh phúc. Từ đó, Hàn Phi đã đề xuất tƣ tƣởng “trị nƣớc
bằng pháp luật” (dĩ pháp trị quốc). Ông chủ trƣơng “pháp luật không phân biệt
sang hèn”, “hình phạt không kiêng dè bậc đại thần, tƣởng thƣởng không bỏ sót
kẻ thất phu”. Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật, xây dựng một lý
tƣởng pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ
“pháp”, “thuật” và “thế”. Hàn Phi cho rằng: “Pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thƣởng cho những kẻ
cẩn thận giữ pháp luật, nhƣng phạt những kẻ làm trái lệnh”[88; 478 - 479]. Tƣ
tƣởng này của Hàn Phi là hết sức tiến bộ so với đƣơng thời. Pháp luật vừa phải
rõ ràng, vừa phải đƣợc ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh
phạm pháp và lấy đó làm chuẩn tắc cho cho hành vi của mọi ngƣời chứ không

17
phải là cái bẫy để hại dân. Các điều luật rõ ràng, minh bạch là phƣơng thức
phòng bị tích cực chứ không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời,
pháp luật cũng là một công cụ để nhà vua cai quản thần dân. Nội dung chủ yếu
của “pháp” có thể quy về hai khái niệm chủ yếu là “thƣởng” và “phạt”: thƣởng
hậu và phạt nặng.
Hàn Phi chủ trƣơng pháp trị nhƣng ông rất chú trọng đến “thuật” của nhà
vua. Theo ông, dựa vào pháp trị để làm cho “…nƣớc giàu, quân mạnh. Nhƣng
nếu không có cái thuật để biết kẻ gian thì chỉ lấy cái giàu mạnh của nƣớc mà làm
giàu có cho các quan đại thần mà thôi” [88; 480]. Chính vì vậy, nhà vua phải có
“thuật” để dùng ngƣời. Đối với ông, “thuật” chính là một loạt các phƣơng pháp
bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi cử, thƣởng, phạt…của nhà vua. Trong đó, phép “hình

danh” là một “thuật” không thể thiếu đƣợc của bậc quân chủ. Với cách nhìn nhận
nhƣ vậy, “pháp” và “thuật” gắn bó chặt chẽ với nhau.
Ngoài “pháp” và “thuật”, Hàn Phi đặc biệt coi trọng “thế” (còn gọi là “quyền
thế”, “uy thế”, “thế trọng”), nó chỉ một sức mạnh quyền uy tuyệt đối, cũng chính
là quyền thống trị tối cao của nhà vua (bao gồm quyền sử dụng ngƣời, thƣởng,
phạt…). Ông cho rằng, kẻ nào nắm quyền thống trị trong tay thì kẻ đó là ngƣời
thống trị và khi đó mới có thể cai trị dân chúng. “Pháp”, “thuật”, “thế” cốt yếu là
để tăng cƣờng sức mạnh của tập quyền quân chủ, tạo nên bối cảnh chính trị:
“Công việc làm ở bốn phƣơng nhƣng then chốt là ở trung ƣơng. Bậc Thánh nhân
nắm lấy cái chủ yếu, bốn phƣơng đến phục dịch”[88; 68], từ đó góp phần tạo ra
một xu thế lịch sử cho việc xây dựng một nhà nƣớc phong kiến trung ƣơng tập
quyền thống nhất. Việc kế thừa và luận chứng ba nội dung “pháp”, “thuật”,
“thế” của các Pháp gia tiền bối trong tƣ tƣởng pháp trị của Hàn Phi đã tôn ông là
tập đại thành các tƣ tƣởng Pháp gia.
Quan điểm tiến hóa về lịch sử của Pháp gia là một thành tựu nổi bật trong
việc nghiên cứu về lịch sử xã hội và là một tiền đề đặc sắc cho đƣờng lối pháp
trị của Pháp gia. “Thời biến, pháp biến” là tƣ tƣởng cơ bản về biến pháp trong
phép trị nƣớc của Pháp gia. Hàn Phi Tử là ngƣời phát triển quan điểm đó lên

18
đỉnh cao mới và vận dụng triệt để vào thực tiễn xã hội, lấy quan điểm lịch sử
tiến hóa làm căn cứ cho lý luận pháp trị của mình.
Hàn Phi rất đề cao pháp luật trong đƣờng lối trị nƣớc và khẳng định sự tất
yếu phải trị nƣớc bằng pháp luật. Ông khẳng định vai trò của pháp luật trong sự
phù với điều kiện xã hội, tính nghiêm minh và công khai của pháp luật, nguyên
tắc bình đẳng trƣớc pháp luật,…Pháp trị theo quan niệm của phƣơng Tây có một
vài đặc điểm khác biệt so với quan niệm pháp trị của phƣơng Đông. Pháp trị
theo quan niệm của phƣơng Tây dựa trên hai cơ sở: Nhà nƣớc pháp quyền và
tinh thần thƣợng tôn pháp luật. Còn pháp trị theo quan niệm của phƣơng Đông
là sự kết hợp của pháp, thế, thuật, chú trọng thƣởng hậu phạt nặng và đề cao uy

quyền của nhà vua.
1.2. Tƣ tƣởng đức trị và pháp trị trong lịch sử Việt Nam trƣớc khi “Quốc
triều hình luật” ra đời.
Trong lịch sử nhân loại, không có một quốc gia, dân tộc nào tồn tại hoàn
toàn cô lập với các quốc gia, dân tộc khác. Trung Quốc là một trong những cái
nôi của nền văn minh nhân loại. Từ thời cổ đại, Trung Quốc đã có một nền văn
hóa vô cùng rực rỡ. Vì vậy, Việt Nam chịu ảnh hƣởng và tiếp thu những giá trị
từ nền văn hóa ấy là điều tất yếu. Nƣớc ta là một nƣớc có nền văn hiến lâu đời,
đó là nền tảng của sức mạnh tinh thần giúp chúng ta không bị “đồng hóa”, mặc
dù phải trải qua hàng nghìn năm bị phong kiến phƣơng Bắc đô hộ. Mặt khác,
trong lịch sử hàng thế kỷ dân tộc ta đã lựa chọn, tiếp thu những gì có giá trị, cần
thiết để phát triển, cải biến nó sao cho phù hợp với những đặc điểm của đất
nƣớc. Trong lịch sử nƣớc ta không có một ông vua nào trong lúc trị vì lại chỉ sử
dụng duy nhất đƣờng lối đức trị hay pháp trị. Hai đƣờng lối trị nƣớc đó đƣợc kết
hợp với nhau tùy thuộc vào mỗi giai đoạn và điều kiện lịch sử nhất định mà đức
trị hay pháp trị đƣợc sử dụng rõ nét hơn, ở mức độ nhất định tỏ ra ƣu thế hơn.
Ở nƣớc ta, trƣớc khi có sự du nhập của Nho giáo, những chuẩn mực đạo đức
đóng vai trò chủ yếu trong việc điều chỉnh hành vi của con ngƣời và chi phối sự
vận hành của xã hội. Do phù hợp với đặc điểm truyền thống của dân tộc, nên tƣ

19
tƣởng đức trị đƣợc ngƣời Việt đón nhận nồng nhiệt hơn tƣ tƣởng pháp trị. Trải qua
nhiều thế kỷ, qua nhiều giai đoạn lịch sử, tƣ tƣởng đức trị ở Việt Nam đã đƣợc tiếp
biến với nhiều vẻ phong phú: khi thì có màu sắc từ bi của Phật giáo, khi lại cụ thể
bằng chính sách “khoan thƣ sức dân”, cai trị bằng đƣờng lối “nhân nghĩa”, khi thì
kết hợp với những yếu tố có giá trị từ tƣ tƣởng pháp trị.
1.2.1. Thời kỳ đầu độc lập (Ngô - Đinh - Tiền Lê)(939 - 1009)
Thế kỷ X là một cái mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam, nó khép lại hơn
10 thế kỷ Bắc thuộc và mở đầu một kỷ nguyên độc lập dân tộc. Nhà nƣớc độc lập
dân tộc Việt Nam ở thế kỷ X đã trở thành nền tảng ban đầu của các nhà nƣớc

quan liêu Lý, Trần, Lê Sơ sau này. Ngay từ buổi đầu, khi bắt tay vào xây dựng tổ
chức bộ máy nhà nƣớc, những ngƣời cầm quyền đã đứng trƣớc một thể chế chính
trị khá hoàn chỉnh, đó là các thể chế chính trị kiểu phong kiến phƣơng Bắc. Do
đó, sự ảnh hƣởng của các tƣ tƣởng về nhà nƣớc và pháp luật Trung Quốc mà trực
tiếp là nhà Đƣờng và nhà Tống đối với các nhà cầm quyền đƣơng thời là một tất
yếu trên cả phƣơng diện tổ chức, thiết chế. Khát khao của những nhà cầm quyền
các triều đại phong kiến đƣơng thời là tiến tới một cuộc cải cách các đơn vị hành
chính ở địa phƣơng nhằm xây dựng một chính quyền độc lập dân tộc thống nhất,
tách khỏi sự chi phối của các thế lực phong kiến Trung Quốc. Theo “Việt sử
thông giám cƣơng mục”, Đinh Tiên Hoàng muốn dùng oai lực để chế trị thiên hạ
mới đặt vạc lớn ở sân, nuôi hổ dữ ở cũi, hạ lệnh rằng: hễ kẻ nào vi phạm thì bắt
bỏ vào nấu trong vạc hay cho hổ ăn thịt. Ai nấy sợ hãi, không dám phạm pháp. Tƣ
tƣởng hình pháp này của Đinh Tiên Hoàng là sự ảnh hƣởng khá đậm nét tƣ tƣởng
pháp trị của Pháp gia, nó rất gần với tƣ tƣởng của Quản Trọng.
Pháp luật triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê mang tính chất hà khắc, tàn bạo và
còn rất sơ khai. Pháp luật thời kỳ này chƣa phát triển đƣợc vì các vƣơng triều tập
trung cho việc bình định chống cát cứ và chống giặc ngoại xâm là chính chƣa có
điều kiện tập trung cho việc xây dựng pháp luật. Nƣớc Đại Cồ Việt mới dựng lên,
kỷ cƣơng và trật tự xã hội chƣa ổn định, các thế lực cát cứ thƣờng xuyên chống

20
đối vƣơng triều, vì vậy, Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành phải dùng biện pháp
khắc nghiệt để trừng trị những kẻ chống đối.
1.2.2. Thời Lý - Trần (1010 - 1400)
Sau khi thoát khỏi sự đô hộ hàng nghìn năm của chính quyền phong kiến
phƣơng Bắc, từ thời nhà Lý trở đi, việc đối nội, trị nƣớc đƣợc đặt lên hàng đầu.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, trƣớc khi có sự du nhập của Nho, Phật, Lão từ
phƣơng Bắc, Phật giáo đã vào nƣớc ta từ phƣơng Nam. Do đó, trong buổi bình
minh của nền độc lập, Phật giáo đã chiếm ƣu thế trong xã hội nƣớc ta. Phật giáo
không chủ trƣơng tham chính nhƣng Lý Công Uẩn - ngƣời mở đầu của triều Lý

xuất thân từ cửa Phật. Vì vậy, trong đƣờng lối trị nƣớc của triều Lý có màu sắc
từ bi của Phật giáo.
Trƣớc hết, cần khẳng định rằng, học thuyết của nhà Phật không phải là học
thuyết về việc trị nƣớc, vì vậy, những nhà cầm quyền lúc bấy giờ không thể
không dùng đến học thuyết về đƣờng lối trị nƣớc của Nho giáo. Tƣ tƣởng đức trị
thời Lý thể hiện trên những nét chính:
Ý dân, lòng dân được xem là chỗ dựa vững chắc của vương triều và là cơ
sở của những chủ trương chính trị lớn. Việc lên ngôi hoàng đế của Lý Công
Uẩn (cũng nhƣ Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn trƣớc đó) theo sử sách ghi chép lại là
hợp với ý trời và lòng dân, là thể hiện trách nhiệm đối với vận mệnh của dân tộc.
Qua đó, có thể khẳng định rằng, nhân dân ta vốn có truyền thống kính phục
ngƣời có đức và chỉ những ngƣời có đức mới xứng đáng trị vì thiên hạ. Sau khi
lên ngôi vua, Lý Thái Tổ muốn dời đô về Đại La (Thăng Long) đã xuống chiếu
rằng: “Trên kính mệnh trời, dƣới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi. Bởi thế
ngôi truyền dài lâu, phong tục giàu thịnh…”[25; 240]. Trong chế độ quân chủ,
nhà vua có toàn quyền quyết định mọi công việc hệ trọng của quốc gia nhƣng
“Chiếu dời đô” đã thể hiện sự tôn trọng ý dân.
Lý Cao Tông trị vì vào thời kỳ nhà Lý suy vong, năm 1207, giặc cƣớp nổi
lên nhiều, ông thấy mình không làm trò trách nhiệm nên đã xuống chiếu hối lỗi:
“Trẫm còn bé đã phải gánh vác nghiệp lớn, ở trong chốn cửu trùng sâu thẳm,

21
không biết nỗi khó nhọc của đời sống muôn dân, lại nghe lời bọn tiểu nhân mà
gây oán với ngƣời dƣới. Dân đã oán thì trẫm còn biết dựa vào ai?”[102; 538]. Lý
Cao Tông cũng nhận thức đƣợc rằng, sự tồn vong của vƣơng triều phụ thuộc vào
dân, vua không có đức sẽ bị dân oán ghét, căm giận. Ông nhận thức đƣợc điều
đó nhƣng không sửa chữa đƣợc lỗi lầm, tiếp tục lao vào ăn chơi và đã đẩy nhà
Lý đến chỗ sụp đổ một cách nhanh chóng.
Tư tưởng đức trị trong thời Lý đề cập đến việc người cai trị phải có đức,
coi trọng việc tu thân và làm gương cho dân. Trong tƣ tƣởng đức trị đòi hỏi

hàng đầu đối với ngƣời cai trị là phải có đạo đức. Các vua nhà Lý rất coi trọng
việc “tu thân tích đức”, xem đó là điều kiện quyết định đến sự ổn định của xã
hội và sự bền vững của một vƣơng triều. Vua Lý Thái Tông đã từng tự trách:
“Trẫm là ngƣời ít đức, đứng đầu thần dân, dậy sớm thức khuya, lúc nào cũng lo
sợ nhƣ lội vực sâu, chƣa biết lấy đạo gì để thấu trời đất, lấy đức gì để kịp
Nghiêu, Thuấn”[26; 275]. Nếu Nho gia xem “tu thân” là con đƣờng nuôi dƣỡng
cái thiện vốn có của mỗi con ngƣời với biện pháp “khắc kỷ phục lễ” thì nhà Lý
lại chủ trƣơng tu theo đạo Phật. Các vua Lý đã nhiều lần xuống chiếu cho xây
dựng, trùng tu chùa chiền, thu gom đồng để đúc chuông, đúc tƣợng Phật, chép
kinh Phật…Thời nhà Lý, Phật giáo rất hƣng thịnh, từ vua chúa cho đến thứ dân
đều bị cuốn hút vào việc tu hành. Các vua nhà Lý cũng ý thức đƣợc rằng việc
dạy dỗ muôn dân không gì hiệu quả bằng làm gƣơng cho dân.
Vì vậy, hầu hết các vua Lý đều là những ông vua nhân từ, hết lòng thƣơng
yêu chăm sóc dân. Trong mối quan hệ với dân, vua tự xem mình là “cha mẹ của
dân” tự thấy mình phải có bổn phận thƣơng yêu, chăm sóc dân.
Đức trị dƣới thời Lý chƣa chú trọng nhiều vào việc giáo hóa dân chúng mà
chủ yếu hƣớng tới việc chăm lo cho đời sống thiết thực của dân. Các vua nhà Lý
thực hiện đƣờng lối đức trị thông qua các việc làm cụ thể nhƣ: miễn giảm tô
thuế, phát chẩn, đại xá thiên hạ…những vấn đề dân sinh đƣợc đảm bảo. Mặc dù
nhà Lý vận dụng tƣ tƣởng Nho giáo vào đƣờng lối trị nƣớc, nhƣng họ đã chú ý
đến việc sử dụng pháp luật trong việc cai trị đất nƣớc. Vào năm 1042 vua Lý

22
Thái Tông cho biên soạn và ban hành “Hình thƣ”. Sử cũ chép: “Ban sách Hình
Thư. Trƣớc kia, trong nƣớc việc kiện tụng phiền nhiễu, quan giữ việc hình câu
nệ luật văn, cất làm khắc nghiệt, thậm chí bị oan uổng. Vua lấy làm thƣơng xót,
sai Trung thƣ sửa định luật lệnh, châm chƣớc cho thích dụng thời bấy giờ, chia
ra môn loại, biên ra điều khoản, làm sách Hình luật của một triều đại để cho
ngƣời xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến
đây, phép xử hình thản nhiên rõ ràng, cho nên có lệnh đổi niên hiệu làm Minh

Đạo và đúc tiền Minh Đạo”[26; 280].
Sau hơn 10 thế kỷ loạn lạc, do nhu cầu khoan giảm an lạc của dân chúng và
do ảnh hƣởng của Phật giáo, đƣờng lối cai trị của nhà Lý thiên về đức trị. Nhà Lý
đã sử dụng kết hợp giữa đức trị và pháp trị theo tinh thần “đức chủ, pháp bổ”.
Đến cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII, triều Lý bắt đầu suy thoái, khủng
hoảng và nhanh chóng bị diệt vong. Đối với họ nhà Lý, Trần Thủ Độ là kẻ phản
nghịch, nhƣng đối với họ Trần, ông là ngƣời tôn quân tuyệt đối. Tinh thần tôn
quân tuyệt đối cũng là tinh thần của Pháp gia. Trần Thủ Độ là một ngƣời có tinh
thần trọng pháp. Ông luôn có ý thức dùng pháp luật để đƣa xã hội vào kỷ cƣơng.
Chỉ sau 5 năm sau khi lên ngôi, ông đã cho “…xét các lệ của triều trƣớc, định
làm thông chế của quốc triều và sửa đổi hình luật lễ nghi, phàm 20 quyển”[26;
404]. Đó chính là bƣớc khởi đầu, tạo nền tảng cho bộ Hình thư của nhà Trần sau
này do Trƣơng Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên soạn.
Ông còn là ngƣời coi trọng các nguyên tắc: nghiêm minh, công bằng, bình
đẳng của luật pháp. Ông nêu cao tinh thần công bằng, bình đẳng “quân pháp bất vị
thân” trái với chủ trƣơng “thân thân” của Nho giáo. Bằng pháp trị, Trần Thủ Độ đã
nhanh chóng ổn định trật tự xã hội. Từ đó có thể thấy rằng, trong việc đƣa xã hội từ
tình trạng loạn lạc đi vào trật tự, ổn định, pháp trị tỏ ra có hiệu quả nhanh chóng.
Đƣờng lối trị nƣớc thời nhà Trần đƣợc duy trì trên cơ sở “đức chủ pháp bổ”
từ thời nhà Lý. Trong hoàng tộc, Trần Thủ Độ chủ trƣơng theo đƣờng lối pháp
trị, các vua đầu đời Trần lại tôn sùng đạo Phật, Trần Hƣng Đạo lại khuyên vua
theo con đƣờng đức trị. Trần Hƣng Đạo là một vị tƣớng tài có nhiều công lao to

23
lớn trong công cuộc chống giặc ngoại xâm. Đồng thời, ông còn là nhà tƣ tƣởng,
nhà văn hóa lớn của dân tộc. Những đóng góp của ông không chỉ trên lĩnh vực
quân sự mà còn cả trong lĩnh vực tƣ tƣởng, đặc biệt là trong đƣờng lối trị nƣớc.
Về đƣờng lối trị nƣớc, ông chủ trƣơng: những ngƣời cầm quyền phải thật
sự gƣơng mẫu, trọng dụng ngƣời hiền tài và thực hiện chính sách “khoan thƣ
sức dân”. Trần Quốc Tuấn làm quan đến đời vua Trần Anh Tông thì xin về trí sĩ

ở Vạn Kiếp. Khi ngài sắp mất, Vua Anh Tông có ngự giá đến thăm và hỏi ý kiến
về thuật giữ nƣớc. Ông đáp: “…lúc bình thì khoan thƣ sức cho dân, để làm kế
sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nƣớc hay hơn cả”[61; 155]. Chủ trƣơng
“khoan thƣ sức dân” của Trần Quốc Tuấn có thể xem là bƣớc phát triển, là sự cụ
thể hóa tƣ tƣởng “thân dân” của Nho giáo. Theo ông, đối với ngƣời cầm quyền,
“khoan thƣ sức dân” là con đƣờng thực hiện thống nhất giữa “nội Thánh, ngoại
Vƣơng”. Đức trị không phải là lời nói suông, sáo rỗng mà phải thể hiện trong
những chủ trƣơng và những việc làm cụ thể để chăm lo cho đời sống của dân.
Tƣ tƣởng của Trần Hƣng Đạo đã ít nhiều ảnh hƣởng đến chính sách cai trị của
các vua Trần, đặc biệt là Trần Nhân Tông. Vì vậy, đời sống của nhân dân đƣợc
cải thiện. Không những thế, tƣ tƣởng của Trần Hƣng Đạo cùng với tƣ tƣởng
Phật giáo đã làm giảm bớt tính chất khắc nghiệt của đƣờng lối pháp trị do Trần
Thủ Độ xây dựng.
Mặc dù, ở thời Trần, hệ thống pháp luật chƣa hoàn chỉnh nhƣng tƣ tƣởng pháp
trị đã có vai trò nhất định trong đƣờng lối cai trị xã hội đƣơng thời. Pháp luật thời kỳ
này đã chặt chẽ và hoàn chỉnh hơn so với thời trƣớc, nó trở thành chỗ dựa vững chắc
cho việc xây dựng và củng cố chính quyền nhà nƣớc phong kiến.
Trong đƣờng lối cai trị của nhà Trần có sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị,
mặc dù vẫn trên tinh thần đề cao đức trị hơn pháp trị. Một mặt, nhà vua đề cao
việc tu thân, sửa đức, quan tâm, chăm lo đến đời sống nhân dân. Mặt khác, nhà
Trần cũng rất chú trọng đến pháp luật trong đƣờng lối cai trị đất nƣớc. Sự kết
hợp này đóng vai trò tích cực trong việc ổn định xã hội, đánh dấu một thời kỳ
phát triển trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

×