Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Vấn đề nguồn lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải Dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.65 KB, 119 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHẠM THỊ THU HẰNG




VẤN ĐỀ NGUỒN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở HẢI DƢƠNG HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC







Hà Nội – 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THỊ THU HẰNG



VẤN ĐỀ NGUỒN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở HẢI DƢƠNG HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60 22 80


Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐÀO NGỌC TUẤN





Hà Nội – 2014

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn này, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ từ gia đình, các thầy cô giáo, các nhà quản lý, bạn bè đồng nghiệp

cùng các ban ngành có liên quan.
Em xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo khoa
Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cũng như tất cả các
thầy giáo, cô giáo đã truyền đạt cho em những kiến thức vô cùng quý báu.
Qua đây, cho phép em gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới TS. Đào Ngọc Tuấn
– Đại học Luật Hà Nội – người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em
tận tình trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình và bạn bè –
những người đã luôn sát cánh giúp đỡ, động viên em trong quá trình học tập
và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em trong thời gian thực hiện luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2014
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Phạm Thị Thu Hằng








LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Đào Ngọc Tuấn – Giảng viên Đại học Luật Hà Nội.
Các thông tin, số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa
được ai công bố trong bất kỳ luận văn nào trước đây.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Phạm Thị Thu Hằng




















MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn 6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6
8. Kết cấu của luận văn 6
NỘI DUNG 7
Chương 1 NGUỒN LỰC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI HIỆN NAY 7
1.1. Nguồn phi nhân lực 10
1.2. Các nguồn nhân lực 16
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ NGUỒN LỰC Ở HẢI DƢƠNG TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI HIỆN NAY 33
2.1. Nguồn phi nhân lực của Hải Dƣơng hiện nay 33
2.1.1. Về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên 33
2.1.2. Về tài nguyên 37
2.1.3. Về vốn 41
2.2. Nguồn nhân lực của Hải Dƣơng hiện nay 49
2.2.1. Nguồn lực từ góc độ người lao động 49
Một là, Về dân số và cơ cấu dân cư 49
2.2.2. Nguồn lực từ góc độ quản lý Nhà nước 59
2.2.3. Nguồn nhân lực từ góc độ văn hóa – xã hội 67


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY CÁC NGUỒN
LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
HẢI DƢƠNG HIỆN NAY 75
3.1. Các giải pháp phát huy nguồn phi nhân lực ở Hải Dƣơng hiện nay 75
3.1.1. Phát huy vị thế địa lý, các điều kiện tự nhiên – lợi thế của Hải Dương . 75
3.1.2. Phát huy các tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên 76
3.1.3. Huy động nguồn vốn, tài chính để phát triển kết cấu hạ tầng, công

nghiệp ở Hải Dương 77
3.2. Các giải pháp phát huy nguồn nhân lực ở Hải Dƣơng hiện nay 83
3.2.1. Phát huy nguồn nhân lực từ góc độ người lao động 83
3.2.2. Phát huy nguồn nhân lực từ góc độ quản lý Nhà nước 89
3.2.3. Phát huy nguồn nhân lực từ góc độ văn hóa – xã hội 95
KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC












DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CN
Công nghiệp
CNH
Công nghiệp hóa
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GD-ĐT
Giáo dục – Đào tạo
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
HĐH
Hiện đại hóa
KT-XH
Kinh tế - Xã hội
KH-CN
Khoa học – Công nghệ
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
UBND
Ủy ban nhân dân
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
TW
Trung ương







1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp Công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) là xu thế khách
quan, tất yếu đối với mọi quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam. Chỉ có thông qua

CNH, HĐH thì đời sống KT-XH mới phát triển, các nhu cầu vật chất và tinh thần
của quần chúng nhân dân mới được cải thiện. Tuy nhiên, CNH, HĐH là vấn đề rất
mới đối với các quốc gia kém phát triển hoặc đang phát triển, có thể hình dung đó là
một bước nhảy vọt về chất trong đời sống. Muốn vậy, phải tập trung phát triển các
năng lực nội sinh về khoa học, công nghệ, GD-ĐT, phải phát triển nguồn nhân lực,
sớm tiếp cận với kinh tế tri thức song song với việc nâng cao công nghệ trong các
cơ sở kinh tế hiện có và sử dụng phù hợp các công nghệ dùng nhiều lao động.
Trong bối cảnh CNH, HĐH là mục tiêu quan trọng nhất của thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam thì việc xác định các nguồn lực quan trọng của đất nước
chính là chìa khoá của sự thành công. Với một nước đang ở trình độ thấp, kém phát
triển như nước ta hiện nay không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu
bền nhằm phát huy các nguồn lực, cả nguồn phi nhân lực và nguồn nhân lực. Trong
đó, đặc biệt cần nâng cao chất lượng của người lao động, phát huy nhân tố con
người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu lớn lao của toàn dân tộc bởi nguồn nhân lực
với trình độ tiên tiến sẽ chính là nhân tố đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước,
đưa nước ta tiến nhanh, tiến vững chắc lên CNXH.
Hải Dương là một tỉnh nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng, là một trong
những cái nôi của nền văn hoá lâu đời của dân tộc Việt Nam đồng thời là một trong
7 tỉnh thành thuộc vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh ở
phía Bắc nước ta. Là một tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng cho sự phát triển kinh
tế, chính trị, xã hội của vùng đồng bằng sông Hồng, Hải Dương được xác định là:
“vùng động lực phát triển kinh tế, công nghiệp, dịch vụ tập trung trên trục kinh tế
giữa đô thị hạt nhân thành phố Hà Nội với thành phố Hải Phòng và thành phố Hạ
Long, trong đó đô thị Hải Dương đóng vai trò trung tâm cấp vùng, phát triển công
nghiệp nhẹ, kỹ thuật cao và hỗ trợ phát triển các loại công nghiệp chế biến của vùng

2
đồng bằng phía Nam, Đông Nam đồng bằng sông Hồng” [16, tr.3]. Với sự lựa chọn
như thế, sự phát triển của Hải Dương không thể không gắn, thậm chí có thể nói là
đồng nhất với quá trình CNH, HĐH đất nước. Trong những năm gần đây, Hải

Dương đã có nhiều nỗ lực, cố gắng đầu tư cho phát triển và đạt được những thành
tựu quan trọng bước đầu. Song, nhìn chung đến nay, nhiều nguồn lực có tiềm năng
to lớn, nhất là nguồn lực con người của Hải Dương vẫn chưa được khai thác và phát
huy có hiệu quả, chưa chuyển hóa thành nội lực cho sự phát triển nhanh và bền
vững.
Đặt trong xu thế phát triển của thế giới, đặc biệt đặt trong bối cảnh CNH,
HĐH ở nước ta hiện nay, Hải Dương cần khai thác được mọi tiềm năng, huy động
được mọi nguồn lực để phát triển KT-XH nhằm góp phần vào việc xây dựng và
phát triển đất nước. Việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm huy
động, phát huy tối đa tất cả các nguồn lực của tỉnh Hải Dương trong công cuộc đổi
mới hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đó cũng
chính là lý do thôi thúc tôi chọn đề tài: “Vấn đề nguồn lực trong sự nghiệp Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải Dương hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
“Nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội” và các vấn đề liên quan là một chủ đề
vô cùng quen thuộc trong cuộc sống đồng thời cũng là vấn đề thời sự nóng hổi được
đưa ra không chỉ một lần trong các hội thảo khoa học, các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước. Tuy nhiên, hầu hết các công trình khoa học đã được công bố ở
Việt Nam chủ yếu xoay quanh vấn đề con người và nhân tố con người, nguồn nhân
lực và nguồn nhân lực Việt Nam.
Từ những nghiên cứu chung về con người, các nhà khoa học Xô viết trước
đây đã đi sâu nghiên cứu về nhân tố con người và phát huy vai trò của nhân tố con
người. Đã có nhiều đề tài và công trình của các nhà khoa học Xô viết đi sâu vào
nghiên cứu mối quan hệ giữa nhân tố con người với các nhân tố kinh tế, vật chất kỹ
thuật trong cấu trúc nền sản xuất xã hội. Công trình nghiên cứu của nữ viện sĩ
GiaxlapxkaiA về công bằng xã hội và nhân tố con người những năm 1986 - 1987 là

3
một ví dụ tiêu biểu. Hội nghị khoa học giữa các nhà khoa học Xô viết và Việt Nam
tổ chức tại Hà Nội vào năm 1988, đã tập trung trao đổi ý kiến và thảo luận xoay

quanh chủ đề về nhân tố con người và phát triển KT-XH.
Ở nước ta, các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu về vấn đề nguồn lực con
người, nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, nhiều
công trình nghiên cứu khoa học, nhiều bài viết đã thể hiện quan điểm coi con người
là nguồn tài nguyên vô giá và sự cần thiết phải đầu tư vào việc bảo toàn, phát triển
và nâng cao chất lượng nguồn tài nguyên này, lấy đó làm đòn bẩy để phát triển kinh
tế và góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Có thể kể tên một số các bài viết,
các công trình khoa học được đăng trên báo, tạp chí như: “Nghiên cứu giáo dục,
con người và nguồn nhân lực Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập”của
Vũ Minh Chi đăng trên Tạp chí nghiên cứu con người (2004); Nguyễn Hữu Dũng
với bài:“Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế” trong Tạp chí Lý luận chính trị (2002); bài viết
của Phạm Thành Nghị: “Bối cảnh văn hóa và quản lý nguồn nhân lực” đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu con người (2004); hay công trình “Nghiên cứu con người và
nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH ” của Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội (2001); vấn đề “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước”
của TS. Nguyễn Thanh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2005);.“Nguồn lực con
người, yếu tố quyết định sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” của tác giả Đoàn Văn
Khái, (Tạp chí Triết học số 4/1995); “Về vai trò của nguồn lực con người trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước” của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa, (Tạp chí Triết học số
1/1996); “Phát triển con người Việt Nam với tư cách là mục tiêu, là động lực của
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” của tác giả Đặng Hữu Toàn, (Tạp chí Khoa học xã
hội, số 3/1997); “Tài nguyên con người trong quá trình CNH, HĐH đất nước trong
thời đại ngày nay” của tác giả Nguyễn Quang Du, (Tạp chí Cộng sản số 8/1994;
“Nguồn nhân lực trong CNH, HĐH đất nước” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn,
(Tạp chí Triết học số 2/1994); “Phát triển nguồn nhân lực- Kinh nghiệm thế giới và
thực tiễn nước ta” của các tác giả Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (Viện Kinh tế thế

4
giới), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. Các đề tài này, ở những khía cạnh,

mức độ khác nhau đã đề cập và khẳng định vai trò quan trọng của con người đối với
sự phát triển KT-XH.
Đặc biệt tại công trình khoa học – công nghệ cấp Nhà nước KX.05 giai đoạn
2001 – 2005 “Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH,
HĐH ” gồm 12 đề tài, do GS. VS. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm có mục tiêu
nghiên cứu là: Tổng kết thực tiễn thực hiện đường lối, chiến lược, chính sách của
Đảng và Nhà nước về các vấn đề phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực
để thực hiện CNH, HĐH nước nhà. Các đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực
trạng một số mặt chính của văn hóa, con người và nguồn nhân lực ở nước ta trong
điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nhằm đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, luận chứng cơ sở lý luận và thực tiễn cho
việc hoạch định các quan điểm, đường lối, chính sách và giải pháp phát triển văn
hóa, con người và nguồn nhân lực giai đoạn 2001 – 2002. Có thể kể tên một số báo
cáo tham luận có giá trị trong công trình này như: “Phát triển nguồn nhân lực Việt
Nam đầu thế kỷ XXI” của TS. Nguyễn Hữu Dũng, “Nghiên cứu nguồn nhân lực ở
Việt Nam, khía cạnh kinh tế và khía cạnh văn hóa” của PGS. TS. Phạm Văn Đức,
GS. Lê Thi với “Nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa, con người, nguồn nhân lực
từ quan điểm tiếp cận giới trong bối cảnh đầu thế kỷ XXI”.
Mặc dù số lượng các công trình nghiên cứu về vấn đề phát huy nguồn nhân
lực trong sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam khá nhiều nhưng đề tài đi sâu nghiên
cứu về các nguồn lực nói chung thì còn rất ít. Ở Hải Dương, đề tài bàn về các nguồn
lực và việc phát huy các nguồn lực ở Hải Dương trong thời kỳ CNH, HĐH cũng
chưa từng được nghiên cứu. Qua đây, tác giả luận văn hi vọng góp một phần nghiên
cứu nhỏ bé bước đầu vào việc nghiên cứu và đưa ra một số các giải pháp nhằm phát
huy các nguồn lực phát triển KT-XH ở Hải Dương nói riêng và phát huy các nguồn
lực của cả nước nói chung.

5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích

Xuất phát từ việc nghiên cứu tổng quan các nguồn lực trong đó có nguồn phi
nhân lực và nguồn nhân lực, đánh giá thực trạng nguồn lực ở Hải Dương trong quá
trình phát triển KT-XH hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm phát huy các
nguồn lực đáp ứng tốt nhất yêu cầu CNH, HĐH ở Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ mà chúng tôi đặt ra trong khuôn khổ luận văn này là:
Làm rõ thế nào là nguồn lực và phân loại các nguồn lực: nguồn phi nhân lực
và nguồn nhân lực.
Đánh giá thực trạng nguồn phi nhân lực và nguồn nhân lực ở Hải Dương
hiện nay cả về mặt lợi thế và những hạn chế cần khắc phục.
Đề xuất một số các giải pháp nhằm phát huy nguồn phi nhân lực và nguồn
nhân lực ở Hải Dương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề nguồn lực trong thời kỳ CNH, HĐH ở
Hải Dương hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu làm rõ các nguồn lực và vai trò của các nguồn lực ở tỉnh
Hải Dương trong sự phát triển KT-XH hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta, các quan điểm khoa học hiện đại về các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn kết hợp sử dụng các phương
pháp: phương pháp lịch sử - lôgic, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp

6
quy nạp – diễn dịch, khảo sát thực tế Bên cạnh đó, luận văn sử dụng những tài

liệu của các cấp chính quyền, các ngành ở tỉnh Hải Dương.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Góp phần đánh giá thực trạng các nguồn lực ở Hải Dương: mặt lợi thế và
mặt hạn chế của nguồn phi nhân lực và nguồn nhân lực hiện nay.
Đưa ra một số các giải pháp nhằm nâng cao và phát huy các nguồn lực của
tỉnh Hải Dương trong sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay.
Góp phần nâng cao nhận thức về việc thực hiện nâng cao chất lượng nguồn
phi nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở tỉnh Hải Dương. Đây là
việc làm của tất cả các cấp, các ngành và của mọi người dân.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Về mặt lý luận
Luận văn góp phần đưa ra các giải pháp cơ bản hiệu quả nhất nhằm phát huy
các nguồn lực trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Hải Dương hiện nay.
7.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống tại tỉnh
Hải Dương.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy và học
tập ở các trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp, các trung tâm đào tạo, đồng
thời làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.







7

NỘI DUNG
Chương 1
NGUỒN LỰC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI HIỆN NAY

Trong những năm qua, khi bàn về các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế,
bao giờ người ta cũng bàn tới hai vấn đề cơ bản là nguồn lực và động lực phát triển,
đặc biệt là nguồn lực. Để thấy được quan niệm thế nào là nguồn lực, làm thế nào tạo
ra được nguồn lực và phát huy được các nguồn lực một cách tốt nhất chúng ta cần
xuất phát từ việc nghiên cứu bối cảnh trong nước và quốc tế để nhìn nhận trên tinh
thần đổi mới tư duy mạnh mẽ hơn nữa. Đây là vấn đề quan trọng phải làm trước tiên
để xác lập quan niệm mới về nguồn lực. Nhìn chung, thế giới đang bước vào thời kỳ
khó khăn. Điều đó thể hiện ở những mặt chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tình trạng cạn kiệt tài nguyên và khan hiếm nguồn đang đặt loài
người vào thế phải tìm cách thoát ra và bứt lên. Sự thiếu hụt các nguồn năng lượng
đã làm thế giới chao đảo bởi những cơn tăng giá phi mã đối với giá dầu mỏ, khí đốt;
gây nên tình trạng tăng vọt giá đầu vào trên khắp hành tinh. Có chiến lược gia đã dự
báo rằng, nếu dân số thế giới tăng khoảng 2%/năm, GDP thế giới tăng khoảng
6%/năm và với công nghệ hiện nay thì hành tinh chúng ta sẽ bị cạn kiệt hoàn toàn
tài nguyên vào khoảng sau 20 năm nữa. Dù cảnh báo này chính xác đến đâu thì
cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh nhân loại phải có cách nhìn mới về vấn đề, mà gắn
liền với nó là cái nhìn mới về nguồn lực và động lực phát triển kinh tế.
Thứ hai, tình trạng thiếu nước nghiêm trọng xảy ra khắp nơi trên Trái Đất,
hàng vạn ha đất canh tác bị hạn hán đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đối với việc
canh tác của nông dân. Trong mấy tháng vừa qua, tình trạng thiếu lương thực đã
làm cho nhiều quốc gia điêu đứng.
Thứ ba, tình trạng biến đổi khí hậu đã làm Trái Đất thay đổi quá lớn, nhiệt độ
nóng lên, lũ lụt xảy ra trên phạm vi rộng và cường độ lớn hơn trước rất nhiều, hiện
tượng tan băng và nước biển dâng cao có thể làm cho nhiều triệu ha đất ở khu vực

8

ven biển bị chìm trong nước và kéo theo là hàng nhiều triệu người mất chỗ ở phải di
chuyển đi nơi khác.
Thứ tư, quá trình vừa cạnh tranh, vừa hợp tác diễn ra đan xen và thách thức đối
với tất cả các quốc gia, nhất là những quốc gia chậm phát triển, đang ở trình độ phát
triển thấp. Hai vấn đề về chuỗi giá trị toàn cầu và hệ thống phân phối toàn cầu làm
đảo lộn những quan niệm về phân công lao động quốc tế và lôi kéo con người vào
cuộc trường chinh giành giật các giá trị mới.
Như vậy, từ bối cảnh trong nước đòi hỏi đổi mới tư duy về nguồn lực. Lâu
nay không có tranh luận lớn về nguồn lực nhưng cách nhìn nhận về nguồn lực vẫn
còn chưa nhất quán và thiếu cách nhìn định lượng, chưa quan tâm đúng mức đến
việc tranh giành và độc quyền đối với một số nguồn lực nhờ danh nghĩa tổ chức
Nhà nước. Việc lãng phí nguồn lực cũng chưa được xem xét đúng mức… PGS. TS.
Ngô Doãn Vịnh – Viện trưởng Viện chiến lược phát triển Việt Nam đã từng đưa ra
nhận xét: Các nguồn lực ở nước ta chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả.
Chính sách đối với bảo vệ khai thác, sử dụng tài nguyên chưa thỏa đáng. Trong khi
Việt Nam thiếu điện, phải nhập từ Trung Quốc thì chúng ta xuất khẩu than sang
Trung Quốc mà không dành để phát triển nhiệt điện. Nước ta có tiềm năng lớn về
năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học nhưng những nguồn tài nguyên này
chưa được nghiên cứu khai thác thỏa đáng. Việt Nam là quốc gia không nhiều đất
nông nghiệp nhưng tình trạng làm nhà xưởng chỉ có một tầng tràn lan khắp nơi, gây
ra tình trạng tốn nhiều đất cho phát triển công nghiệp và dịch vụ. Trong khi quỹ đất
để phát triển đô thị không nhiều, khó đến nỗi mà người ta đòi mở rộng Thủ đô Hà
Nội nhưng không có chủ trương xây dựng các nhà chung cư cao tầng một cách có
kế hoạch hữu ích mà cứ để nhân dân tự xây dựng nhà ở cá nhân tràn lan, hoặc
không có chủ trương bắt các doanh nghiệp phải xây dựng nhà cao tầng đối với
những trường hợp có thể như các lĩnh vực sản xuất hàng điện tử, hàng may mặc…
Bên cạnh đó, Việt Nam đang rất thiếu nhân tài nhưng có rất nhiều người đi học ở
nước ngoài xong không về nước phục vụ và cống hiến. Nhiều người chạy ra khỏi cơ
quan Nhà nước, đi làm cho các công ty nước ngoài hoặc công ty trong nước có chế


9
độ đãi ngộ tốt hơn. Việc Việt Nam thu hút nhân tài từ nước ngoài không kèm theo
cơ chế chính sách nên vẫn chỉ là ý tưởng. Với tinh thần đổi mới, chúng ta cần có
nhận thức mới theo chiều hướng thực tế, thiết thực hơn, kết hợp định tính với định
lượng trong đánh giá tổng quan các nguồn lực cho sự phát triển KT-XH giúp cho
nguồn lực mang giá trị đúng của nó để phát triển đất nước nhanh, có chất lượng và
bền vững. Cụ thể: Những thứ được coi là nguồn lực phải là những thứ được sử dụng
hoặc có khả năng sử dụng trong thời kỳ dự kiến phát triển. Tiềm năng chưa đưa
được vào sử dụng hoặc chưa có khả năng đưa vào sử dụng thì chưa được xem là
nguồn lực. Các nguồn lực được xem xét dưới nhiều góc độ. Có nghĩa là dưới nhiều
góc độ người ta chia các nguồn lực thành các loại khác nhau để có thái độ đúng đắn
và có cách ứng xử với chúng thích hợp. Trong quá trình hoạch định chính sách phát
triển, việc tìm ra các nguồn lực, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Vì thế, để có
được những cơ chế, chính sách tốt tạo ra các nguồn lực cho sự phát triển của đất
nước thì những cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cần có kế hoạch xây dựng đội ngũ
cán bộ có kỹ năng nghề nghiệp cao, chuyên trách công việc nghiên cứu về vấn đề này.
Dựa trên sự tổng hợp các nhận định về nguồn lực có thể khái quát về nguồn
lực như sau: Nguồn lực là tổng hợp các yếu tố “đầu vào” tác động trực tiếp và gián
tiếp đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia, khu vực và một địa phương. Nguồn
lực là tổng thể vị trí, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia,
nguồn nhân lực, đường lối chính sách, vốn và thị trường… ở cả trong nước và nước
ngoài có thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế của một lãnh
thổ nhất định.
Trong thời đại hiện nay đối với bất cứ quốc gia nào, việc xác định một cách
đúng đắn và huy động có hiệu quả các nguồn lực đều được coi là điều có ý nghĩa to
lớn đối với việc thực hiện chiến lược phát triển KT-XH trong sự nghiệp đổi mới. Vì
thế có nhiều lý thuyết coi con người là một loài vốn đặc biệt "tư bản người", "tài
nguyên người", "nguồn lực có khả năng tái sinh", "nguồn lực của mọi nguồn lực",
"nguồn lực cơ bản", "lực lượng sản xuất hàng đầu" Nhân lực được hiểu là nguồn
lực của con người bao gồm: Trí lực, tâm lực, thể lực, năng lực. Nguồn lực theo


10
nghĩa rộng là tổng thể các tiềm năng (lao động) của con người của một quốc gia,
một vùng lãnh thổ, một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó, có khả năng
huy động vào quá trình phát triển KT-XH của đất nước (hoặc một vùng, một địa
phương cụ thể).
Có rất nhiều các nguồn lực chính để phát triển KT-XH ở một quốc gia nói
chung và ở Việt Nam nói riêng. Người ta chia các nguồn lực này thành hai loại: các
nguồn phi nhân lực và các nguồn nhân lực.
1.1. Nguồn phi nhân lực
Vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, vốn (các nguồn vốn tài chính và công
nghệ, ) là những nguồn phi nhân lực chủ yếu của mỗi một quốc gia nói chung và
Việt Nam nói riêng. Các nguồn phi nhân lực đều có vị trí và vai trò của riêng mình.
Thứ nhất: Môi trường tự nhiên (Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, tài nguyên
thiên nhiên)
Mỗi quốc gia có vị trí địa lý khác nhau trên bản đồ địa lý thế giới. Vị trí tự
nhiên của một quốc gia ảnh hưởng đến những lợi thế tuyệt đối và tương đối của các
quốc gia trong phát triển kinh tế. Ví như Việt Nam có đường bờ biển dài, khả năng
phát triển vận tải biển quốc tế sẽ đem lại cho Việt Nam có lợi thế hơn Lào và
Campuchia trong tham gia thương mại quốc tế. Việt Nam có thể phát triển vùng
cảng biển trở thành các trạm trung chuyển hàng hoá từ các quốc gia khác vào khu
vực 3 nước Lào, Campuchia, Việt Nam và ngược lại.
Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến nguồn lực
đầu vào của nhiều ngành công nghiệp. Điều kiện tự nhiên của các quốc gia cũng
quyết định nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia. Môi trường tự nhiên tạo nên
lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối giữa quốc gia này với quốc gia kia. Nước ta
có sự đa dạng về tài nguyên thiên nhiên. Ở trình độ phát triển kinh tế như hiện nay,
tài nguyên đất giữ vị trí quan trọng. Việt Nam có khoảng 8,0 triệu ha đất nông
nghiệp, bao gồm đất ở đồng bằng, ở các bồn địa giữa núi, ở đồi núi thấp và các cao
nguyên. Nguồn nhiệt ẩm lớn, tiềm năng nước dồi dào, số lượng các giống loài động,

thực vật biển và trên cạn khá phong phú, nguồn khoáng sản đa dạng v.v… là những

11
thuận lợi mà thiên nhiên đã dành cho chúng ta. Đặc biệt, nguồn tài nguyên khoáng
sản phong phú là một lợi thế lớn của Việt Nam. Irăc có nguồn dầu mỏ dồi dào nhờ
đó có khả năng phát triển kinh tế thông qua xuất khẩu dầu mỏ. Singapore bốn phía
là biển đã trở thành quốc gia có hệ thống kho hàng và đội tàu vận tải quốc tế mạnh
nhất thế giới. Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên khí hậu ảnh hưởng đến cơ cấu hàng
hoá tiêu dùng trên mỗi khu vực thị trường. Khí hậu bốn mùa, cơ cấu hàng hoá mang
tính mùa vụ tăng cao hơn so với khu vực có khí hậu phân chia hai mùa. Mặt khác,
vòng đời các sản phẩm mùa vụ lại ngắn hơn. Sự đa dạng về môi trường tự nhiên
giữa các quốc gia cũng ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế, cơ cấu hàng hoá xuất nhập
khẩu của quốc gia đó. Sự khắc nghiệt của khí hậu cũng ảnh hưởng đến việc sử dụng
và các chức năng của sản phẩm. Sản phẩm hoạt động tốt ở khí hậu ôn đới có thể
mất giá trị nhanh chóng hoặc đòi hỏi phải có chế độ bảo dưỡng khác biệt khi hoạt
động ở vùng nhiệt đới. Thậm chí, thị trường ngay trên một quốc gia đơn lẻ khí hậu
cũng rất đa dạng, đòi hỏi sự điều chỉnh lớn. Những rào cản môi trường tự nhiên
cũng có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động marketing, thông tin liên lạc và phân
phối sản phẩm. Vì thuận tiện trong hoạt động phân phối, các thành phố bên bờ biển,
các thành phố nằm bên cạnh dòng sông tàu thuyền có thể đi lại được đều có khả
năng trở thành các trung tâm mua bán hơn là các thành phố không có lợi thế địa lý
này. Tuy nhiên, toàn cầu hoá hiện nay sẽ lôi cuốn tất cả khu vực vào trong guồng
máy của nó và vấn đề phát triển giao thông, cơ sở hạ tầng trở thành đòi hỏi tất yếu
của tất cả các khu vực, các quốc gia lẫn các thành phố.
Có thể nói, phát triển KT-XH là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật
chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan
hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hoá. Giữa môi trường và sự phát triển có mối
quan hệ hết sức chặt chẽ: môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn
phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Trong hệ thống KT-
XH, hàng hoá được di chuyển từ sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng cùng

với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, phế thải. Các thành
phần đó luôn ở trạng thái tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ

12
thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Khu vực giao nhau giữa hai hệ
thống trên là môi trường nhân tạo. Tác động của hoạt động phát triển đến môi
trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh
phí cần thiết cho sự cải tạo đó, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên
hoặc nhân tạo. Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát
triển KT-XH thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên đang là đối tượng của
hoạt động phát triển hoặc gây ra thảm hoạ, thiên tai đối với các hoạt động KT-XH
trong khu vực.
Ngày nay, các nguồn nguyên nhiên vật liệu không có khả năng tái sinh như
dầu mỏ, than đá, các loại khoáng sản khác đang ngày càng cạn kiệt. Ngay bản thân
không khí và nguồn nước sạch là nguồn tài nguyên vô tận cũng dần cạn kiệt. Một
phần ba thế giới hiện nay bị thiếu hụt nguồn nước sạch trầm trọng. Việc sử dụng
quá nhiều hoá chất gây tổn hại cho tầng ôzôn, phá huỷ sự cân bằng của bầu khí
quyển, đe doạ đến sự tồn tại của loài người trong tương lai. Bên cạnh đó, chính sách
môi trường nghèo nàn, các thảm hoạ thiên nhiên, dân số tăng, nạn chặt phá rừng
bừa bãi… làm gia tăng mức độ tác động đến điều kiện tự nhiên dẫn đến thiếu ăn,
bệnh tật và xa hơn nữa là sự suy tàn về kinh tế. Những nước chịu thảm hoạ này
nhiều nhất lại là những nước nằm trong nhóm nước nghèo nhất thế giới. Nhiều nước
không có vốn cũng không có khả năng về công nghệ nhằm tối thiểu hoá hậu quả của
môi trường. Với các nước công nghiệp phát triển, những nỗ lực tăng trưởng kinh tế
lại dẫn đến tình trạng suy thoái môi trường theo góc độ khác. Việc quản lý nguồn
khí thải, nước thải độc hại kém, sự gia tăng ô nhiễm công nghiệp là những vấn đề
môi trường mà các nước phát triển phải đương đầu. Sự cạn kiệt nguồn nguyên nhiên
vật liệu không có khả năng tái sinh dẫn đến sự gia tăng giá các nguồn lực đầu vào
của doanh nghiệp. Nền kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là các nền kinh tế hàng
đầu thế giới ngày càng phụ thuộc vào các nguồn cung ứng nguyên nhiên vật liệu

như dầu mỏ. Các nguồn nguyên nhiên vật liệu có khả năng tái sinh vẫn chưa được
tìm ra hoặc khả năng cung cấp còn hạn chế. Trong khi đó, việc tăng giá sản phẩm
đầu ra không phải có được sự chấp nhận dễ dàng của người tiêu dùng. Việt Nam với

13
vị trí địa lý và đặc điểm địa hình, khí hậu, tài nguyên sinh thái là một thiên nhiên
nhiệt đới gió mùa phong phú, đa dạng, chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn, nhưng
cũng đặt ra không ít thách thức đối với con người. Tuy ba miền Bắc - Trung - Nam
mà mỗi miền có những nét khác biệt nhau về địa hình, khí hậu, môi trường sinh
thái, tài nguyên, nhưng tính nhiệt đới gió mùa và bán đảo vẫn là đặc trưng chung
của thiên nhiên Việt Nam. Những điều kiện tự nhiên đó kết hợp với hoàn cảnh lịch
sử cụ thể mà có ảnh hưởng nhất định đến vai trò hoạt động của nhân tố con người,
đến tính tích cực, sáng tạo của con người, lòng say mê hoạt động của họ cũng như
tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ trong quá trình xây dựng nước nhà, phát triển
KT-XH.
Thứ hai: Về các nguồn vốn
Trong kinh tế thị trường, thị trường vốn được coi là một trong những thành
tố không thể thiếu của nền kinh tế. Vốn là nguồn lực quan trọng để phát triển KT-
XH của mọi quốc gia. Để phát triển kinh tế nhanh, mạnh và bền vững, phải có thị
trường vốn phát triển. Phát triển thị trường vốn – nơi diễn ra cung và cầu vốn của
nền kinh tế sẽ có cơ hội thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước, tạo điều kiện sử
dụng đồng vốn hiệu quả cao. Vốn vừa là phương thức, vừa là điều kiện để thực
hiện mục tiêu phát triển kinh tế; vốn tạo ra khả năng huy động, sử dụng và khai
thác hiệu quả mọi nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển KT-
XH, thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Có rất nhiều
quan niệm về vốn đối với phát triển kinh tế:
Nhà kinh tế học Adam Smith đã nghiên cứu và đi đến kết luận vai trò của vốn
thông qua phạm trù tư bản: vốn là tư bản mang lại thu nhập, tư bản là cái bộ phận dự
trữ nhờ đó mà con người trông mong nhận được thu nhập [34, tr.153]. Nghiên cứu
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng tư duy biện chứng và phương pháp khoa học,

C.Mác đã làm rõ bản chất kinh tế của vốn là khởi đầu của quá trình sản xuất, kinh
doanh. Ông chỉ rõ: “giá trị được ứng ra lúc ban đầu không những được bảo tồn trong
lưu thông, mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn cộng thêm một giá trị thặng dư,
hay đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động đó đã biến giá trị thành tư bản”

[40,

14
tr.228]. Như vậy, bản chất của vốn là giá trị, chức năng của vốn là sinh lời, nhưng để
giá trị thành tư bản và tư bản sinh lời phải trải qua quá trình vận động. Thông qua sự
vận động, tư bản sinh sôi nảy nở, tiền đẻ ra tiền và lớn lên không ngừng. C.Mác đã
khẳng định “giá trị trở thành giá trị tự vận động, thành những đồng tiền tự vận động,
và với tư cách là như thế, nó trở thành tư bản. Nó ra khỏi lĩnh vực lưu thông rồi lại
trở lại lưu thông, tự duy trì và sinh sôi nảy nở trong lưu thông, quay trở về dưới
dạng đã lớn lên và lại không ngừng bắt đầu cũng một vòng chu chuyển ấy” [40,
tr.233-234]. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, vốn là loại hàng hóa đặc biệt
không chỉ là nguồn lực quan trọng đối với các nước phát triển, mà còn là yếu tố cấp
thiết đối với hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Do đó, vốn đã
được các nhà kinh tế học luôn quan tâm nghiên cứu và tiếp cận ở những hình thái
khác nhau.
Một là, dưới hình thái tiền tệ, vốn là tiền của bỏ ra kinh doanh nhằm sinh lời
[54, tr.1126]. Vốn tiền tệ luôn vận động và chuyển hóa về hình thái vật chất, đồng
thời từ trạng thái vật chất sang hình thái tiền tệ.
Hai là, dưới hình thái vật chất, tổng số vốn của nền kinh tế đã tích luỹ được còn
gọi là tài sản quốc gia. Tài sản quốc gia được tích luỹ, có thể chia thành hai nhóm: vốn
sản xuất và vốn phi sản xuất.
- Vốn sản xuất, bao gồm công xưởng, nhà máy; trụ sở, trang thiết bị văn
phòng; máy móc, phương tiện vận tải; các công trình hạ tầng; tồn kho của tất cả các
loại hàng hóa. Đây là những tư liệu sản xuất không được chuyển hóa hết giá trị
trong một quá trình kinh doanh, có thể được tái sử dụng trong những quá trình kinh

doanh tiếp theo.
- Ngoài vốn sản xuất, tài sản quốc gia còn bao gồm vốn vật chất phi sản xuất
như các công trình phúc lợi công cộng, công trình kiến trúc quốc gia, các cơ sở quân
sự Như vậy, vốn sản xuất phản ánh năng lực sản xuất của một doanh nghiệp hay
của một quốc gia và nó quyết định khả năng hấp thụ vốn đầu tư.
Ba là, vốn đầu tư, là toàn bộ các khoản chi phí vật chất hoạt động đầu tư, bao
gồm việc thay thế, phục hồi, sửa chữa, phát triển mới các công trình kinh tế, phúc

15
lợi xã hội [32, tr.10]. Vốn đầu tư còn là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở kinh
doanh, dịch vụ của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử
dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm
lực kinh tế lớn hơn trong kinh doanh, dịch vụ [41, tr.18].
Bên cạnh vốn tồn tại dưới hình thái vật chất, còn có các loại vốn vô hình như:
bằng phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, thương hiệu, sở hữu trí tuệ… không
tồn tại dưới dạng vật chất nhưng nó đóng vai trò giá trị kinh tế cao và cũng là nguồn
lực vốn không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Như vậy, vốn là nguồn lực kinh
tế rất quan trọng, nó hình thành và phản ánh sự vận động tồn tại của các quan hệ
hàng hóa - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
Thị trường vốn là một kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Thông qua việc phát hành và mua bán chứng khoán, dòng vốn di chuyển từ nơi thừa
sang nơi thiếu, từ nơi sử dụng kém hiệu quả đến nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Thị
trường vốn giúp các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân có cơ hội để trở thành
nhà đầu tư thực hiện nghiệp vụ đầu tư, mua bán chứng khoán và các công cụ tài
chính trên thị trường để kiếm lời. Chính phủ trung ương và địa phương có thể vay
nợ các tổ chức, doanh, dân cư thông qua việc phát hành trái phiếu trung và dài hạn,
thực hiện các công trình hạ tầng KT-XH cũng như đáp ứng các nhu cầu đầu tư phát
triển của trung ương hay địa phương. Ngoài ra, thị trường vốn còn tạo tính thanh
khoản cho chứng khoán và các công cụ tài chính, khi các nhà đầu tư cần tiền. Nhờ
đó, họ có thể tối ưu hóa hiệu quả đồng vốn để hưởng lợi (thường lãi của các chứng

khoán và công cụ tài chính cao hơn lãi tiền gửi tiết kiệm). Phát triển thị trường vốn
để thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài. Đây là kênh đầu tư hữu hiệu trong
nền kinh tế thị trường. Với những thông tin công khai, minh bạch, thị trường vốn là
nơi mà các nhà đầu tư nước ngoài có thể phân tích, nhận định, đánh giá “sức khỏe”
của doanh nghiệp, ngân hàng để đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý. Cơ quan quản
lý thường thông qua thị trường vốn để phân tích, dự báo, ban hành các văn bản pháp
lý để điều tiết và quản lý thị trường một cách hiệu quả. Bên cạnh những mặt tích
cực nêu trên, phát triển thị trường vốn dễ nảy sinh những hành vi lừa đảo, giao dịch

16
nội gián, hiện tượng đầu cơ chứng khoán, thị trường vốn ngầm Do đó, cần nhận
thức rõ và có chính sách và biện pháp phù hợp để thị trường vốn luôn phát triển ổn
định, an toàn, lành mạnh, phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Chiến lược huy động vốn có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện thành
công các chiến lược KT-XH. Mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam cần phải tìm ra
các nguồn vốn có khả năng huy động và xác định được những nguồn vốn chủ đạo.
Để giải bài toán về vốn, phải coi trọng cả hai hình thức tạo vốn từ trong nước và
ngoài nước. Đứng trước xu thế hội nhập khu vực và thế giới, việc cạnh tranh về vốn
ngày một gay gắt. Điều đó đòi hỏi phải đưa ra những phương pháp thích hợp để huy
động một cách có hiệu quả các nguồn vốn phục vụ cho nền kinh tế. Đây là một vấn
đề đòi hỏi sự quan tâm không ngừng của Đảng, Nhà nước cũng như tất cả các cấp
các ngành bởi vốn là nhân tố vừa có tính cấp thiết, vừa có ý nghĩa lâu dài để phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội; xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, xây dựng nông
thôn mới, tăng năng lực thực hiện nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tạo ra việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, cũng như
thực hiện chính sách dân tộc, giảm nghèo bền vững và công bằng xã hội.
Như vậy, qua những phân tích trên đây có thể thấy, các yếu tố thuộc vị trí
địa lý, địa hình khí hậu, tài nguyên thiên nhiên và các nguồn vốn là những yếu tố
then chốt thuộc nhóm nguồn lực vật chất hay nguồn phi nhân lực của mỗi quốc gia
nói chung và Việt Nam nói riêng. Mỗi yếu tố đều có vị trí, vai trò nhất định đối

với sự phát triển KT-XH, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, đa phương hóa, đa
dạng hóa hiện nay thì việc quan tâm, đầu tư cho các nguồn phi nhân lực ngày càng
đóng vai trò quan trọng. Phần lớn các nguồn lực đều hữu hạn do vậy, việc sử dụng
tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực và dự trữ các nguồn lực trong điều kiện có thể là
một trong những quốc sách quan trọng.
1.2. Các nguồn nhân lực
Bên cạnh các nguồn lực khác như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa
học kỹ thuật, cơ sở vật chất thì nguồn nhân lực là một yếu tố mà bất kỳ quốc gia nào
khi tiến hành CNH, HĐH đều phải chú trọng. Có nhiều công trình khoa học nghiên

17
cứu về nguồn nhân lực, do cách tiếp cận khác nhau nên có nhiều quan niệm khác
nhau về nguồn nhân lực.
Theo thuyết lao động xã hội thì nghĩa rộng của nguồn nhân lực có thể hiểu là
nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội. Theo nghĩa hẹp là khả năng lao
động của xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có tham gia vào
nền sản xuất xã hội.
Theo quan điểm của tổ chức Lao động thế giới thì lực lượng lao động là một
bộ phận dân số trong độ tuổi qui định, thực tế có việc làm và những người thất nghiệp.
Theo thuyết tăng trưởng kinh tế thì nguồn nhân lực chính là nguồn lực chủ
yếu tạo động lực cho sự phát triển.
Theo thuyết về vốn con người thì nguồn nhân lực được hiểu như nguồn lực
con người được huy động, quản lý cùng với các nguồn lực khác (tài chính, tài
nguyên ) để thực hiện những mục tiêu đã định.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc thì nguồn nhân lực là trình độ lành
nghề, kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc
tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng.
Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-07 của GS.VS Phạm
Minh Hạc rút ra kết luận: “Nguồn nhân lực cần được hiểu là sự thống nhất giữa dân
số và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Là tổng thể nguồn

nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển
kinh tế xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào đó” [28, tr.17].
Như vậy, từ những quan niệm trên, nguồn nhân lực (nguồn lực con người)
được hiểu là tổng thể những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong tổng số lực
lượng lao động của xã hội, đang và sẽ được vận dụng vào quá trình lao động sản
xuất ra của cải vật chất để phục vụ nhu cầu xã hội.
Nguồn nhân lực như một bộ phận cấu thành các nguồn lực của quốc gia như
nguồn lực vật chất (trừ con người), nguồn lực tài chính, nguồn lực trí tuệ (chất
xám). Những nguồn lực này có thể được huy động một cách tối ưu để phát triển
KT-XH. Nguồn nhân lực được nghiên cứu trên giác độ số lượng và chất lượng. Số

18
lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng
nhân lực. Các chỉ tiêu này có liên quan mật thiết tới chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng
dân số. Chất lượng nguồn nhân lực được nghiên cứu trên các khía cạnh về sức khoẻ,
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực phẩm chất, ý thức kỷ
luật, ý thức làm chủ của người lao động Vai trò của các nguồn lực lao động thể
hiện trên rất nhiều khía cạnh:
Thứ nhất, nguồn nhân lực, đặc biệt là năng lực trí tuệ có vai trò to lớn trong
sự phát triển KT-XH
Trí tuệ của con người có sức mạnh vô cùng to lớn, nhất là trong thời đại ngày
nay khi loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức. Trí tuệ, nguồn chất xám của
con người là vô hạn, càng sử dụng thì càng phát triển, (đối với từng con người là
hữu hạn, đối với cả loài người là vô hạn), trong khi đó các nguồn lực khác là hữu
hạn. Tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý thuận
lợi đều là những điều kiện vô cùng quan trọng. Trong quá trình phát triển, thiếu
chúng, ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Song các nguồn lực này, dù có phong phú, đa
dạng và giàu có đến đâu thì mình chúng cũng không thể phát huy được tác dụng.
Chúng chỉ thực sự có ý nghĩa và phát huy được tác dụng thông qua hoạt động có ý
thức, sáng tạo của con người, nghĩa là được con người sử dụng. Mặt khác, các

nguồn lực khác có phong phú bao nhiêu chăng nữa thì sau quá trình khai thác và sử
dụng, đến một lúc nào đó nó cũng sẽ bị cạn kiệt. Nguồn vốn cũng luôn bị giới hạn
bởi nhu cầu của sự phát triển. Công nghệ hiện đại, tiên tiến đến mấy chăng nữa
cũng sẽ bị lạc hậu theo thời gian. Tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý cũng không
phát huy tác dụng nếu thiếu sự tác động của con người với bàn tay và khối óc của
mình. Do đó, chỉ có trí tuệ của con người là được rèn luyện và phát triển không
ngừng cùng thời gian. Con người là chủ thể sáng tạo ra công nghệ kỹ thuật, trí tuệ
con người phát triển tới đâu sẽ tạo ra trình độ công nghệ, kỹ thuật tương ứng. Sự
phát triển này được đánh dấu bằng số lượng những phát minh khoa học và chất
lượng của những phát minh đó. Người ta tính rằng, trong 30 năm gần đây, lượng
kiến thức nhân loại tiếp thu được về mặt khoa học-kỹ thuật bằng tổng số thu được

×