Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Vận dụng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An hiện nay đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.99 KB, 115 trang )

MỤC LỤC


Trang
Mở đầu

1
Chương 1:
Nội dung và yêu cầu của quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất.
6
1.1.
Nội dung của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ của lực lượng sản xuất.
6
1.2.
Yêu cầu của quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính
chất và trình độ của LLSX.
31
Chương 2:
Vận dụng quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ
An hiện nay – thực trạng và vấn đề đặt ra.
35
2.1.
Tình hình kinh tế - xã hội ở Nghệ An.
35
2.2.
Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa
LLSX và QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh
tế ở Nghệ An trước thời kỳ đổi mới.


39
2.3.
Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa
LLSX và QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh
tế ở Nghệ An trong những năm gần đây.
50
2.3.1.
Thành tựu đạt được và nguyên nhân.
50
2.3.2.
Những khuyết điểm yếu kém.
64
2.3.3
Vấn đề đặt ra.
68
Chương 3:
Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
các thành phần kinh tế ở Nghệ An trong thời gian tới.

3.1.
Mục tiêu và phương hướng tổng quát:
70
3.1.1.
Phương hướng và quan điểm phát triển.
70
3.1.2.
Mục tiêu tổng quát.
70
3.1.3.
Nhiệm vụ chủ yếu:

72
3.2.
Những giải pháp cơ bản
79



3.2.1.
Phát huy vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối
với quan hệ sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần
ở Nghệ An
82
3.2.2.
Đẩy nhanh ứng dụng KHCN.
82
3.2.3.
Từng bước hoàn thiện các loại thị trường.
83
3.2.4.
Đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực ở Nghệ An.
84
3.2.5.
Nâng cao hiệu quả tổ chức, quản lý kinh tế.
86
3.2.6.
Hoàn thiện thực hiện các hình thức phân phối.
90

Phần Kết luận
100


Danh mục tài liệu tham khảo
102



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản của xã hội. Nhận thức và vận dụng quy luật
này trong điều kiện Việt Nam, Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước và đi theo sự định hướng xã hội chủ nghĩa (nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI, VII). Đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình
hình kinh tế - xã hội nước ta cũng như điều kiện quốc tế hiện nay.
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế mới, vấn đề chúng ta
cần quan tâm là vai trò con người, sự phát triển của công cụ lao động, trình
độ quản lý sản xuất, phân công lao động và trình độ áp dụng khoa học kỹ
thuật của người lao động trong quá trình sản xuất Đặc biệt, đối với Nghệ
An, một tỉnh nghèo nằm ở miền Trung Việt Nam, luôn chịu sự ảnh hưởng
khắc nghiệt của tự nhiên (nắng lắm mưa nhiều, bão lụt thường xuyên xẩy ra),
đời sống kinh tế còn thấp kém lạc hậu, trình độ, kỹ năng của người lao động
còn chậm phát triển, khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật còn gặp nhiều khó
khăn. Do đó, việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Nghệ An là một yêu cầu cấp thiết để nhanh chóng
đưa tỉnh nhà tiến kịp với sự phát triển của cả nước.
Qua hơn 20 năm đổi mới, cả nước nói chung, Nghệ An nói riêng đã thu
được nhiều thành tựu to lớn, quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất, do đó mở ra khả năng mới, điều kiện mới

cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tiếp tục phát triển. Có
được những thành tựu đó, là do Đảng bộ tỉnh đã nhận thức đúng và bước đầu
biết vận dụng sát hợp hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với

2
trình độ của lực lượng sản xuất vào đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc nhận thức và vận
dụng quy luật này còn có những hạn chế nhất định: việc huy động và sử dụng
các nguồn lực còn kém hiệu quả và chưa tương xứng với tiềm năng, trình độ
công nghệ vẫn lạc hậu so với nhiều tỉnh xung quanh. Sức cạnh tranh của nền
kinh tế, chất lượng và tính bền vững của sự phát triển còn kém. Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển. Hội nhập kinh tế
quốc tế còn hạn chế Thực trạng trên đặt ra yêu cầu phải nhận thức sâu sắc
và vận dụng quy luật sao cho đúng đắn hơn, phù hợp hơn với tình hình thực
tiễn của tỉnh nhà. Vì vậy chúng tôi chọn vấn đề “Vận dụng quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành
phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu quy luật về sự
phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Ngoài các bộ sách giáo khoa giảng dạy ở các trường Đảng, các
trường Đại học và Cao đẳng còn có các sách, luận văn, luận án, các tạp chí
viết về vấn đề này như: “Những bài học 10 năm đổi mới” của Nguyễn Phú
Trọng, PGS. PTS khoa học lịch sử, tạp chí Cộng sản số 8 - 1996; “Triết học
Mác - Lênin với việc nhận thức xã hội trong thời đại ngày nay” của tác giả
Nguyễn Ngọc Long GS. PTS triết học, tạp chí Triết học, số 4 - 1993.
Bên cạnh đó còn có nhiều công trình khoa học nghiên cứu biểu hiện đặc
thù của quy luật này trong thời kỳ quá độ lên CNXH, như luận án phó tiến sỹ
khoa học của Nguyễn Tĩnh Gia: “Biểu hiện đặc thù của QHSX phù hợp với

tính chất và trình độ của LLSX, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam”.
Có công trình nghiên cứu sự vận dụng quy luật này ở một số tỉnh như
luận án PTS: “Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ
của LLSX trong quá trình đổi mới và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần

3
ở Lâm Đồng” của Bùi Chí Kiên.
Có công trình đã đi vào tìm hiểu ý nghĩa của việc nhận thức và vận
dụng quy luật này trong quá trình đổi mới, xây dựng CNXH ở Việt Nam như
luận án PTS của Đoàn Quang Thọ.
Có một số công trình nghiên cứu và bài viết đề cập đến khía cạnh khác
nhau của lý luận hình thái kinh tế - xã hội như: “Lý luận hình thái kinh tế - xã
hội và cuộc đấu tranh phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay”
của giáo sư Hồ Văn Thông; “Nhận thức con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta” của GS. PTS Nguyễn Ngọc Long; “Biện chứng về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất trong thực tiễn cải tạo xã hội
chủ nghĩa ở nước ta” của PGS. PTS Nguyễn Tĩnh Gia; “Giữ vững ổn định
chính trị và đổi mới hệ thống chính trị” của GS. PTS Lê Hữu Nghĩa; “Quan
hệ sản xuất với lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp” của PTS Hoàng
Bính và Nguyễn Kim Lai; “Về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất xét từ tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” của
Trương Hữu Toàn; “khoán sản phẩm trong nông nghiệp và vận dụng quy luật
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ sản xuất ở nước ta hiện
nay” của Nguyễn Đình Hoà; "Nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nông
nghiệp nước ta thời kỳ đổi mới” của tiến sĩ Nguyễn Trọng Tuấn.
Các công trình khoa học trên thường nghiên cứu toàn diện quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất và
trong phạm vi tác động của quy luật khá rộng bao gồm trên nhiều lĩnh vực,
trên địa bàn nhiều tỉnh hoặc trên địa bàn cả nước.

Ở Nghệ An, cũng có một số công trình, bài viết về sự vận động của
quy luật này, song mới chỉ nghiên cứu một mặt hay một số mặt nào đó của

4
lực lượng sản xuất hoặc quan hệ sản xuất.
Luận văn này cố gắng tiếp cận các kết quả của các công trình khoa
học, các bài viết, các đề tài khoa học của địa phương để tổng kết, phân tích
thực tiễn nhằm làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất với các thành phần kinh tế ở địa bàn một tỉnh, đồng thời vạch ra
những giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ này ở Nghệ An.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
- Trên cơ sở phân tích quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, luận văn làm rõ sự cần thiết của việc vận dụng quy luật lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đánh giá thực trạng vận dụng quy luật
này ở Nghệ An hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển các
thành phần kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế Nghệ An phát triển.
* Nhiệm vụ:
Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
- Làm rõ sự cần thiết của việc vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế
ở tỉnh Nghệ An
- Phân tích thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lư-
ợng sản xuất và quan hệ sản xuất ở tỉnh Nghệ An hiện nay.
- Kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển các thành phần
kinh tế ở tỉnh Nghệ An đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nư-
ớc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn này tập trung làm rõ sự vận dụng mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần

kinh tế ở Nghệ An.
- Từ việc phân tích những đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội ở Nghệ

5
An trong những năm gần đây để làm rõ tính tất yếu của việc vận dụng trên
vào phát triển các thành phần kinh tế cũng như các giải pháp nhằm phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng.
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết quả các số liệu thống kê của
Cục thống kê Nghệ An; kết quả hội thảo và nghiệm thu các đề tài khoa học
cấp tỉnh (có liên quan) thực hiện tại Nghệ An.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học như: thống kê,
khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh đặc biệt là phương pháp lịch sử và
lôgíc…
6. Đóng góp của luận văn
- Thông qua việc tổng kết thực tiễn, luận văn phân tích, so sánh để thấy
được vai trò của việc vận dụng quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất nhằm phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm vận dụng một cách khoa học
quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhằm phát triển các thành
phần kinh tế ở Nghệ An.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc
nghiên cứu và giảng dạy triết học tại các trường đại học, cao đẳng, trường
chính trị, cũng như cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương, 7 tiết.





6



Chương 1
NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU CỦA QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP
GIỮA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA
LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT
1.1. Nội dung của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
trình độ của lực lƣợng sản xuất
Xã hội loài người trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, cũng là một hệ
thống rất phức tạp bao gồm nhiều lĩnh vực, nhiều mối liên hệ. Các nhà tư
tưởng trước C. Mác đã có nhiều đóng góp trong hoạt động nghiên cứu xã hội
và con người với mục tiêu là tìm ra bản chất và quy luật phát triển của xã hội
loài người. Nhưng do những hạn chế về mặt quan điểm, lập trường, về mặt
lịch sử, về trình độ của khoa học tự nhiên và xã hội, nên họ đã không vượt
khỏi chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình trong nghiên cứu xã hội và
xem xét lịch sử.
Khác với các nhà triết học trước đó C. Mác không đi tìm nguyên nhân
của sự phát triển lịch sử từ tư tưởng mà đi tìm nó trong điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội, và C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra cơ sở tồn tại và
phát triển hiện thực của xã hội, đó là sản xuất vật chất. Ông đã chỉ ra “cái sự
thật giản đơn đã bị những tầng tầng, lớp lớp tư tưởng phủ kín cho đến ngày
nay là: con người trước hết cần phải ăn, uống, ở và mặc đã rồi mới có thể làm
chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v… được” [33, tr.500]. Tư
tưởng nói trên của C.Mác đã đặt nền tảng cho một quan niệm duy vật lịch sử:
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.


7
Để duy trì sự tồn tại, phát triển của mình, con người không thể chỉ dựa
vào những cái có sẵn trong tự nhiên mà phải tiến hành lao động sản xuất ra
của cải vật chất. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên của con người là việc sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất. Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt
động đặc trưng riêng của con người và xã hội loài người. Trong quá trình sản
xuất, con người biến đổi giới tự nhiên, biến đổi xã hội đồng thời biến đổi
chính bản thân mình. Nhưng sản xuất không thể là hành động riêng lẻ của
con người tác động vào tự nhiên mà: “Muốn sản xuất được người ta phải có
những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau. Và chỉ có trong phạm vi,
những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó thì mới có sự tác động của họ vào
giới tự nhiên, tức sự sản xuất” [30, tr.94]. Cái mối quan hệ và quan hệ nhất
định với nhau đó lúc đầu C.Mác gọi là quan hệ giao tiếp, quan hệ trao đổi,
sau này được C.Mác thay bằng thuật ngữ quan hệ sản xuất.
Như vậy, loài người đã tồn tại và phát triển được không phải do phép
màu của một lực lượng siêu nhiên huyền bí, hay ý chí của những bậc vĩ nhân
mà do có sự tồn tại và phát triển của LLSX và QHSX. C.Mác đã vận dụng
phép biện chứng duy vật vào việc xem xét mối quan hệ giữa LLSX và QHSX
từ đó từng bước tìm ra mối quan hệ giữa sự phát triển của LLSX đến sự thay
đổi của các quan hệ xã hội: “do có được những LLSX mới, loài người thay
đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại
xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư
bản công nghiệp” [31, tr.380].
Từ quá trình sản xuất vật chất của con người, C.Mác đã khám phá ra
các quy luật chi phối sự vận động, biến đổi và phát triển của xã hội, trong đó
có quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Con người trong quá trình tồn tại của mình càng phải
được đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Như vậy, con người


8
không thể một ngày một giờ ngừng sản xuất ra của cải vật chất. Chính sự
phát triển mạnh mẽ của LLSX đã mâu thuẫn với QHSX và sự giải quyết mâu
thuẫn này đã tạo nên sự biến đổi dây chuyền trong lịch sử. Trong các tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức” và đặc biệt là trong tác phẩm “Góp phần phê phán
khoa kinh tế chính trị”, C.Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của
mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu không tuỳ thuộc vào ý
muốn của họ - tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với
một trình độ phát triển nhất định của của các lực lượng sản xuất vật chất của
họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội,
tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng
pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với
cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các
quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý
thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ
quyết định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các
lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất
vật chất hiện có, hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất
đó mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực
lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các
lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực
lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” [32,
tr.14-15]. Như vậy, lần đầu tiên C.Mác đã phát hiện ra quy luật QHSX phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Đó là quy luật cơ bản chi phối toàn
bộ quá trình lịch sử loài người. Nó quyết định sự thay thế các phương thức
sản xuất và cùng với sự thay đổi các phương thức sản xuất là sự thay đổi các
hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên ở các điều kiện cụ thể khác nhau thì các
hình thức biểu hiện của nó cũng khác nhau nhưng bản chất thì không thay

9

đổi. Vì vậy, C.Mác khẳng định rằng, mỗi giai đoạn lịch sử gắn với một
phương thức sản xuất nhất định phù hợp với hoàn cảnh của thời kỳ đó.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng của hai mặt đối lập lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
LLSX chính là tất cả những lực lượng vật chất được sử dụng vào việc
sản xuất ra của cải vật chất, hay nói cách khác LLSX là toàn bộ những tư liệu
sản xuất do xã hội tạo ra, mà trước hết là công cụ sản xuất và những con
người với trình độ kỹ năng, kinh nghiệm và thói quen lao động sử dụng
những tư liệu sản xuất đó để sản xuất ra của cải vật chất.
Trong LLSX thì con người là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì: một là, dù
tư liệu lao động có hiện đại đến đâu nhưng nếu không có con người có năng
lực tương xứng sử dụng tư liệu lao động đó thì cũng không tạo ra năng suất
lao động tương xứng được; hai là, bản thân con người chế tạo ra tư liệu lao
động. Khi nói đến sản xuất là nói đến lao động của con người, thiếu lao động
của con người sẽ không có bất kỳ một quá trình sản xuất nào.
C.Mác viết: “lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con
người ta và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình
con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự
nhiên” [34, tr.266], tức là con người phải dựa vào tự nhiên, liên hệ chặt chẽ
với tự nhiên và trao đổi chất với nó. Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối
quan hệ của con người với tự nhiên, trong đó con người hoạt động nhằm cải
tạo, biến đổi những đối tượng của tự nhiên thành những sản phẩm đáp ứng
nhu cầu đa dạng của xã hội. Nhân tố đầu tiên của lực lượng sản xuất chính là
bản thân người lao động. Người lao động với tất cả các khí quan và trí tuệ,
toàn bộ sức mạnh thể lực và trí tuệ của họ tạo thành lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá
trình chinh phục tự nhiên, là biểu hiện quan hệ của con người với tự nhiên.

10
Nhưng không nên đồng nhất lực lượng sản xuất là quan hệ giữa con người

với tự nhiên. Bởi vì không phải quan hệ nào của con người với tự nhiên cũng
đều là lực lượng sản xuất. Chỉ những quan hệ nào của con người với tự nhiên
mà mục đích cuối cùng là tạo ra của cải vật chất, đáp ứng được nhu cầu
khách quan của đời sống mới là lực lượng sản xuất.
Trong quá trình lao động, con người tiến hành sản xuất không chỉ bằng
các khí quan của mình, mà còn sáng tạo ra các khí quan mới bằng các vật liệu
của tự nhiên, đó là công cụ lao động, C.Mác viết: “Một vật do bản thân tự
nhiên cung cấp đã trở thành khí quan mà con người đem chắp vào những khí
quan của cơ thể mình và do đó mà kéo dài tầm thước tự nhiên của cơ thể đó”
[34, tr.268]. Như vậy, lực lượng sản xuất là kết quả hoạt động thực tiễn của
con người, là kết quả của lao động “quá khứ” và là quá trình “tích luỹ” được
từ thế hệ này qua thế hệ khác, nó tồn tại một cách khách quan, không phụ
thuộc vào ý thức con người. Con người khi sinh ra đã có sẵn những lực lượng
sản xuất do thế hệ trước để lại và họ tìm cách thích ứng với chúng, sử dụng
chúng vì mục đích của mình. Đồng thời các thế hệ mới tiếp tục sửa đổi bổ
sung hoàn thiện các công cụ tư liệu sản xuất ấy để nâng cao chất lượng và
hiệu quả của nó trong quá trình sản xuất. Kết quả là “mỗi một thế hệ sau đã
có được những lực lượng sản xuất ấy là nguyên liệu cho thế hệ sau ấy để thực
hiện một hoạt động sản xuất mới” [35, tr.657-658]. Do đó, người ta không
được tự do lựa chọn những lực lượng sản xuất của mình, nghĩa là con người
kế thừa được những lực lượng sản xuất do các thế hệ trước để lại và dùng
chúng làm cơ sở cho việc duy trì và phát triển một cách liên tục sự sản xuất
xã hội. Như vậy, con người tự bản thân mình vừa là LLSX vừa là nguồn gốc
phát triển LLSX của mình.
Trong LLSX có mối quan hệ hữu cơ giữa hai yếu tố cấu thành, đó là
con người và tư liệu sản xuất, mà trước hết là công cụ sản xuất. LLSX được

11
phát triển không ngừng do mâu thuẫn giữa khả năng và nhu cầu của con
người luôn tồn tại trong mọi lúc mọi nơi. Nhu cầu của con người bao giờ

cũng cao hơn khả năng, do vậy, con người luôn tìm cách cải tiến công cụ,
nâng cao năng lực sử dụng công cụ lao động, đổi mới công nghệ sản xuất,
mở rộng đối tượng lao động. Tư duy con người và năng lực sử dụng công cụ
lao động cũng đồng thời được phát triển song song với quá trình cải tiến,
sáng tạo ra những công cụ lao động mới. Công cụ lao động ngày càng phong
phú, trí tuệ con người ngày càng cao thì phạm vi đối tượng lao động càng
được khai thác mở rộng, năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động ngày càng
được nâng cao tiến dần đến đáp ứng được nhu cầu của con người, khi đó lại
nảy sinh nhu cầu mới cao hơn. Như vậy, các yếu tố trong LLSX có quan hệ
biện chứng với nhau theo một hệ thống luôn phát triển. Trong mối quan hệ
này vai trò của các yếu tố khác tham gia vào quá trình sản xuất chỉ có thể
đánh giá khi xem xét nó trong mối quan hệ với nhân tố con người. Bởi vì, các
nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, thiết bị máy móc, công nghệ, nguyên -
nhiên liệu, vốn … thực chất chỉ là những nguồn lực phụ thuộc vào con người.
Chúng chỉ được phát hiện cải tạo, biến đổi và phát huy tác dụng khi có sự kết
hợp với nhân tố con người. Con người biết tư duy, có trí tuệ, có ý trí và biết
sáng tạo ra công cụ, phương tiện lao động… để gắn kết những yếu tố vật thể
đó lại với nhau tạo ra những sản phẩm theo mục đích đã định sẵn. Bởi vậy,
V.I. Lênin khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là
công nhân, là người lao động” [27, tr.430].
Con người lao động với đặc trưng sinh học - xã hội riêng có của mình,
trong quá trình sản xuất xã hội có sức mạnh và kỹ năng lao động thần kinh -
cơ bắp. Sức mạnh và kỹ năng ấy trong lao động đã được nhân lên gấp nhiều
lần. Thêm nữa, ngày nay năng lực trí tuệ của con người là đối tượng khai thác
chủ yếu và giá trị sản phẩm được tạo ra tuỳ thuộc vào trí tuệ năng lực của con

12
người. Trí tuệ của con người là sản phẩm của tự nhiên và lao động. Trong
lịch sử phát triển của xã hội loài người, trí tuệ được hình thành và phát triển
cùng với lao động và làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao

hơn. Điều này thể hiện ở tỉ trọng tri thức trong giá trị của sản phẩm. Nếu như
trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai tỷ trọng tri
thức chỉ chiếm trong giá thành sản phẩm 20 - 25%, thì trong cách mạng công
nghiệp lần thứ ba tỷ trọng đó đã lên tới 75 - 80% [21, tr.42]. Trí tuệ khoa học
và công nghệ của con người trong lao động hiện nay đã làm cho con người
trở thành nguồn lực đặc biệt và vô tận trong sản xuất và mọi hoạt động khác
của xã hội.
Cùng với con người - người lao động, công cụ lao động cũng là một
thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Theo Ph. Ăngghen công cụ lao động
là “khí quan của bộ óc con người”, là sức mạnh tri thức đã được vật thể hoá
có tác dụng “nối dài” bàn tay lên gấp nhiều lần. Do vậy, khi công cụ lao động
đã đạt tới trình độ lao động hoá, tin học hoá… thì vai trò “khí quan vật chất”
của nó trở lên diệu kỳ. Ở mọi thời đại, công cụ lao động luôn là yếu tố động
nhất của lực lượng sản xuất, biểu hiện khả năng hoạt động thực tiễn của con
người ngày càng tiến bộ. Sự cải tiến đổi mới và hoàn thiện không ngừng của
công cụ sản xuất đã làm nên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản
xuất. Xét cho cùng chính nó là nguồn gốc sâu xa gây ra mọi cải biến xã hội.
Trong lịch sử, lực lượng sản xuất phát triển không ngừng và đã trải qua các
giai đoạn khác nhau: giai đoạn công cụ lao động thủ công thô sơ trong nông
nghiệp cổ truyền và thủ công nghiệp kéo dài hàng ngàn năm với đặc trưng là
lao động cơ bắp. Giai đoạn cơ khí hoá trong sản xuất công nghệ và các
nghành sản xuất khác, giai đoạn này kéo dài hàng trăm năm. Trình độ của lực
lượng sản xuất thể hiện ở sự phát triển của công cụ lao động xã hội… Trình
độ thủ công gắn với giai đoạn thấp của sự phát triển, tồn tại trong các xã hội

13
cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến. Ở đó công cụ sản xuất
đều là công cụ cầm tay. Tương ứng với trình độ thủ công là tính chất cá nhân
của lực lượng sản xuất. Công cụ sản xuất đều do một người sử dụng, không
cần tới lao động tập thể cũng có thể sản xuất ra vật dụng. Trình độ cơ khí gắn

với giai đoạn cao của sự phát triển sản xuất, xuất hiện cùng với xã hội tư bản
chủ nghĩa. Ở trình độ này, con người sản xuất chủ yếu bằng máy động lực và
lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá. Những tư liệu sản xuất có tính
chất cá nhân chuyển thành những tư liệu sản xuất mang tính chất xã hội,
chuyển từ lao động thủ công, cơ bắp sang lao động cơ khí máy móc. Trình độ
và tính chất của lực lượng sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó trình độ
quyết định tính chất. Nó là biểu hiện đặc trưng của lực lượng sản xuất trong
mỗi thời kỳ phát triển của lịch sử.
Ngày nay lực lượng sản xuất đã đạt tới những trình độ cao hơn. Chúng
ta đã chứng kiến những biến đổi sâu sắc của lực lượng sản xuất qua các cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật với quy mô toàn cầu: cuộc cách mạng lần thứ
nhất diễn ra vào thế kỷ XVIII - XIX làm thay đổi cơ bản LLSX ở các nước có
nền khoa học phát triển bằng việc chuyển từ lao động thủ công sang nền sản
xuất đại công nghiệp, cơ khí hoá và điện khí hoá giữa các nghành, các lĩnh
vực sản xuất. Sinh học và hoá học, nhất là hoá học hữu cơ cũng đạt được
những thành tựu to lớn giúp cho LLSX phát triển.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai diễn ra vào đầu thế kỷ
XX, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ tiên tiến trong
các lĩnh vực điều khiển học, điện tử, tin học, sinh học… và sự thâm nhập
mạnh mẽ của khoa học và công nghệ vào tất cả các mặt của quá trình sản
xuất. Ngày nay khoa học và công nghệ đang trở thành LLSX hàng đầu của
nhân loại, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Nếu đầu thế kỷ XX, trong
các nhân tố làm tăng trưởng kinh tế, khoa học kỹ thuật mới chiếm 5%, thì

14
đến đầu những năm 60 đã chiếm 62% ở Nhật; 60% ở Mỹ; 87% ở Pháp [45,
tr.22].
Trong lực lượng sản xuất công cụ lao động được xem là yếu tố động
nhất, cách mạng nhất, có ý nghĩa quyết định năng suất lao động. Bởi vì nó
trực tiếp truyền sự tác động của con người tới đối tượng lao động, làm tăng

hiệu lực sự tác động của con người. Trong quá trình sản xuất, con người
muốn tăng năng suất lao động thì con người phải thường xuyên cải tiến, phát
minh ra những công cụ mới. Khi công cụ được cải tiến, đổi mới thì năng suất
lao động tăng lên, đồng thời kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức của con người
cũng được nâng cao.
Trong thời đại ngày nay dự báo của C.Mác “khoa học trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp” đã trở thành sự thật. Khoa học không còn là một
yếu tố bên ngoài tác động vào sản xuất nữa, nó gia nhập vào sản xuất, trở
thành yếu tố không thể thiếu của quá trình sản xuất, khoa học được vật chất
hoá thành những nghành sản xuất mới, thành công cụ và công nghệ sản xuất
mới ngày càng tinh vi, hiện đại với hàm lượng trí tuệ cao, thành nguyên,
nhiên, vật liệu mới, thành các lực lượng lao động kiểu mới với tri thức khoa
học, kỹ thuật cao, thao tác công nghệ, kỹ năng, kỹ xảo thành thạo, sự khéo
léo và trình độ lành nghề cao… trong đó trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Như vậy, với cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, tri thức đã trở thành yếu tố bên trong
của quá trình sản xuất, lao động trí tuệ ngày càng trở thành lực lượng lao
động chủ yếu. Trên cơ sở của đại công nghiệp cơ khí, những thành tựu của
các khoa học hiện đại trong thời kỳ cuộc cách mạng khoa học lần thứ hai như
toán học ứng dụng, điện tử học, tin học, sinh học, điều khiển học… mà kỹ
thuật cơ khí đang chuyển sang kỹ thuật tự động hoá, tối ưu hoá, kế hoạch hoá
các quá trình sản xuất. LLSX đang đi vào phát triển theo chiều sâu nhờ

15
những tiến bộ khoa học và công nghệ. Đến giai đoạn tin học hoá, LLSX sẽ có
những biến đổi lớn về chất nhờ sự xuất hiện của những máy tính hiện đại có
thể thực hiện vài chục tỷ cho đến hàng trăm tỷ phép tính trong một giây, các
Rôbốt thông minh dựa trên cơ sở của trí tuệ nhân tạo, những thiết bị điều
khiển tự động các quá trình sản xuất mà con người có thể tạo ra năng suất,
chất lượng và hiệu quả lao động cao chưa từng thấy.

Ngày nay nói đến chất lượng của nhân tố con người trong sản xuất
là nói đến hàm lượng trí tuệ lao động, nói tới “người lao động có trí tuệ cao,
có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp” [20, tr.9], tính vô tận của nhân
tố con người đó là trí tuệ. Bàn tay và khối óc con người đã sáng chế ra kỹ
thuật công nghệ hiện đại giúp nhân loại làm nên những biến đổi thần kỳ trong
lịch sử phát triển của mình. Khi trí tuệ được coi trọng, tri thức khoa học, kỹ
thuật phát triển thì vai trò quyết định của nhân tố con người trong lực lượng
sản xuất ngày càng được tăng lên.
Trong những giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội không có những
LLSX nào lại không gắn bó với những QHSX nhất định. Nếu sản xuất với tư
cách là mối liên hệ kỹ thuật giữa con người với tự nhiên, thì mối liên hệ ấy
chỉ có thể thực hiện được thông qua các quan hệ kinh tế xã hội giữa con
người với con người. Như vậy, quan hệ giữa con người với con người trong
sản xuất vật chất tạo nên QHSX. Quan hệ sản xuất vật chất được biểu hiện
trên ba mặt, đó là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ
chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Quan
hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất. Mặt khác, do hình
thành một cách tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con
người cho nên những quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất
thuộc đời sống xã hội, chúng là cơ sở hiện thực của kiến trúc thượng tầng.
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất nói lên rằng tư liệu sản xuất thuộc về

16
ai, ai chiếm hữu tư liệu sản xuất và ai là người có quyền định đoạt tư liệu sản
xuất. Nói cách khác, quan hệ sở hữu phản ánh quyền sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, chứa đựng các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định
đoạt. Các quyền này có thể hợp nhất trong một tập đoàn người nhất định.
Chính quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng tập
đoàn trong hệ thống xã hội. Xét đến cùng quan hệ sản xuất không có mục
đích tự thân, mà nhằm đạt đến lợi ích nhất định của chủ sở hữu và chỉ thông

qua các lợi ích mà người ta mới có thể nhận thức đúng đắn về quan hệ sở hữu
và quan hệ quản lý.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng
vai trò quyết định vì nó quyết định bản chất của quan hệ sản xuất, quyết định
mục đích, hình thức tổ chức, phương thức quản lý và quyết định cả việc phân
phối sản phẩm làm ra. Do vậy, quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ
cơ bản, quan hệ trung tâm của quan hệ sản xuất. Trong quan hệ giữa quan hệ
sở hữu với lợi ích kinh tế xã hội thì quan hệ sở hữu là cái bên trong, được
biểu hiện ra ngoài thông qua lợi ích. Ở đây có thể nói lợi ích kinh tế là biểu
hiện gần gũi nhất của quan hệ sở hữu. Bởi vì lợi ích kinh tế của mỗi người,
mỗi tập đoàn người, mỗi giai cấp, cũng như vai trò của họ trong hệ thống sản
xuất được quy định trước hết do mối quan hệ của họ đối với việc chiếm hữu
tư liệu sản xuất. Quan hệ sở hữu quyết định mục đích, hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh, phương thức quản lý, chi phối và định đoạt việc phân phối
sản phẩm làm ra. Do vậy, nó cũng quyết định địa vị của các tập đoàn người
trong hệ thống sản xuất xã hội. Trong xã hội, giai cấp nào nắm quyền sở hữu
những tư liệu sản xuất chủ yếu, thì giai cấp đó nắm quyền chi phối tổng sản
phẩm xã hội, đồng thời nắm quyền thống trị xã hội.
Trong lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay có các loại hình sở
hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất, đó là sở hữu công cộng và sở hữu tư

17
nhân. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao
động xã hội thì các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất ngày càng trở nên đa
dạng.
Quan hệ sở hữu quyết định hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh,
thông qua đó quyết định hệ thống lợi ích kinh tế của các giai cấp khác nhau
trong xã hội. Chẳng hạn, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản nắm
quyền sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu nên có quyền chi phối hệ thống
quản lý sản xuất, do đó quyết định lợi ích của tất cả các giai cấp khác trong

xã hội, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể là hai hình thức sở hữu cơ bản giữ
vai trò định hướng sự phát triển của các hình thức sở hữu khác trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì lợi
ích xã hội, lợi ích tập thể là cái cơ bản, quy định hệ thống các lợi ích trong xã
hội.
Về quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh, thích ứng
với một kiểu quan hệ sở hữu là một chế độ tổ chức và quản lý sản xuất nhất
định. Trong các xã hội mà nền kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất, thì người sở hữu tư liệu cũng là người quản lý sản xuất, là kẻ
bóc lột, còn người lao động không có tư liệu sản xuất là người bị quản lý và
bị bóc lột. Điển hình của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong lịch
sử phát triển trong xã hội loài người phải kể đến ba loại hình: sở hữu chiếm
hữu nô lệ, sở hữu phong kiến và sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Trong các
chế độ mà tư liệu sản xuất dựa trên chế độ công hữu thì mọi thành viên đều
có vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm. Chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất đã từng tồn tại trong buổi đầu của xã hội loài
người - chế độ công xã nguyên thuỷ và trong chế độ cộng sản chủ nghĩa mà
loài người đang hướng tới giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Việc
thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất trên thực tế trong chế độ cộng

18
sản chủ nghĩa là tiền đề cho việc tổ chức quản lý và các hoạt động khác sẽ
được thực hiện một cách bình đẳng. Tuy nhiên, việc làm đó là cả một quá
trình lâu dài và chỉ có thể được thực hiện dần dần từng bước từ thấp đến cao
thông qua nhiều bước trung gian quá độ.
Đương nhiên, trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành
quan hệ sản xuất thì quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối cũng có
vai trò rất quan trọng.
Tuy phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất nhưng trong
thực tế quan hệ tổ chức và quản lý cũng có vai trò rất quan trọng tác động trở

lại to lớn đối với sở hữu. Ngay cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi,
nhưng nếu có một phương thức quản lý thích ứng, phù hợp thì sản xuất vẫn
có bước phát triển. Trong nhiều trường hợp nó là yếu tố quyết định trực tiếp
đến quy mô, tốc độ và hiệu quả của nền kinh tế. Khi lợi ích của người lao
động mâu thuẫn với chủ sở hữu và quản lý thì quan hệ tổ chức quản lý mang
nặng tính chất thống trị, chuyên chế, cưỡng ép. Nếu quan hệ tổ chức quản lý
được điều chỉnh, mâu thuẫn được tháo gỡ thì quan hệ giữa chủ sở hữu, quản
lý và công nhân sẽ mang tính hợp tác, dân chủ hơn và do vậy mà có thể khai
thác được tính chủ động sáng tạo của người lao động. Trái lại, khi tổ chức
quản lý lỏng lẻo thì tư liệu sản xuất ngày càng bị thất thoát, hao mòn đi,
không phát huy được tác dụng, làm kìm hãm, thậm chí phá hoại quan hệ sở
hữu. Thực tế cho thấy các công ty bị vỡ nợ, phá sản… nhiều khi không phải
do công nghệ lạc hậu, mà là chưa thiết lập được quan hệ quản lý phù hợp.
Hay cũng có nhiều công ty chỉ được trang bị những công nghệ sản xuất trung
bình nhưng vẫn làm ăn phát đạt là nhờ một hệ thống quản lý thích hợp. Vì thế
trong sự nghiệp công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra là không
chỉ xây dựng được một cơ cấu sở hữu hợp lý, mà còn phải thiết lập đươc một
hệ thống tổ chức quản lý hữu hiệu. V.I. Lênin đã từng chỉ ra rằng, chủ nghĩa

19
xã hội chỉ có thể thắng được chủ nghĩa tư bản nếu nó đưa ra một kiểu tổ chức
lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Quan hệ phân phối là một mặt cấu thành của quan hệ sản xuất. Trong
quá trình sản xuất quan hệ sản xuất là cách thức phân phối kết quả sản xuất
cho những người tham gia vào quá trình đó, việc phân phối kết quả sản phẩm
cũng phụ thuộc vào quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất. Do hình thức sở
hữu rất đa dạng nên phương thức phân phối cũng rất phức tạp. Chính từ khía
cạnh này đã bộc lộ những mâu thuẫn về lợi ích giữa những người tham gia
vào quá trình sản xuất, đồng thời cũng xuất hiện các quan niệm khác nhau
trong cách thức phân phối.

Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, người ta đã biết đến các
phương thức phân phối gắn liền với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
của các chủ nô lệ, của địa chủ phong kiến và của các nhà tư bản. Trong các
chế độ xã hội đó người lao động bị bóc lột, bị cưỡng ép và quan hệ phân phối
bất bình đẳng. Dưới chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến đã từng tồn
tại các kiểu bóc lột phi kinh tế gắn với sự lệ thuộc hoàn toàn hoặc một phần
về thân thể người lao động. Dưới chế độ tư bản, người lao động được tự do
về thân thể, tự do đi làm thuê, thì kiểu phân phối trở nên phức tạp hơn. Về
cách thức phân phối này cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Ađam Smith đã chỉ
ra cách phân phối ở đó người nông dân được hưởng tiền công do họ sở hữu
sức lao động, người có ruộng cho thuê được hưởng địa tô, nhà tư bản được
hưởng lợi nhuận hoặc lợi tức hay cổ tức nếu họ cho thuê tư bản hoặc có cổ
phần, điều đó có nghĩa là việc phân phối được tính theo các yếu tố chi phí
trong sản xuất hàng hoá và nó được xác định thông qua thị trường. Trong khi
đó C.Mác đã chỉ ra cách phân phối mà ở đó nhà tư bản đã chiếm đoạt giá trị
thặng dư bóc lột lao động không công của người công nhân, mặc dù, người lao
động đã được tự do về thân thể nhưng lại bị cột chặt vào guồng máy kinh tế cơ

20
bản. Dĩ nhiên phương thức phân phối tư bản mang tính chất bóc lột trở nên
tinh vi hơn.
Như vậy, quan hệ phân phối sản phẩm làm ra không chỉ hoàn toàn phụ
thuộc vào quan hệ sở hữu, mà thông qua quan hệ quản lý, nó có tác động trở
lại quan hệ sở hữu. Lịch sử xã hội, từ khi có sự phân chia giai cấp là lịch sử
đấu tranh giữa các giai cấp vì cách thức phân phối bất bình đẳng. Các cuộc
đấu tranh đó xét đến cùng là để giải quyết mối quan hệ giữa các giai cấp
trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất. Ngày nay, các giai cấp nắm quyền lãnh
đạo ở các quốc gia đều thông qua các cơ quan quản lý nhà nước nhận thức
về lợi ích và sự tương tác lẫn nhau giữa chúng để từ đó điều chỉnh các hình
thức sở hữu cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nhằm thúc đẩy

nền kinh tế phát triển. Cho đến nay, chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại phát triển
cũng chính là do giai cấp tư sản đã nhận thức được sự tác động lẫn nhau giữa
các lợi ích trong xã hội, trên cơ sở ấy giai cấp tư sản hiện đại điều chỉnh quan
hệ sở hữu cho phù hợp với tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng
sản xuất. Tuy rằng sự điều chỉnh đó không thể xoá bỏ được mâu thuẫn tư bản
của chủ nghĩa tư bản.
Ở nước ta, xuất phát từ vấn đề lợi ích, mà đặc biệt là lợi ích của người
lao động, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách quản lý
thích hợp, tiến hành thực hiện đa dạng hoá sở hữu để phù hợp với trình độ đa
dạng cả lực lượng sản xuất, nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất xã hội
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế V.I.Lênin đã viết:
“Những lợi ích thúc đẩy đời sống các dân tộc” [26, tr.98].
Trong ba nội dung cơ bản trên đây của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định, nó chi phối các mặt khác
của quan hệ sản xuất. Khi chế độ sở hữu thay đổi thì căn bản đóng vai trò
quyết định, nó chi phối các mặt khác của quan hệ sản xuất. Khi chế độ sở hữu

21
thay đổi căn bản thì chế độ quản lý và phân phối cũng thay đổi theo. Quan hệ
sở hữu không có mục đích tự thân, mà bao giờ cũng nhằm lợi ích kinh tế xã
hội nhất định. Nhưng việc phân phối kết quả sản phẩm chỉ có thể đạt được
thông qua công tác quản lý, quan hệ tổ chức quản lý đưa đối tượng sở hữu
vào quá trình vận động và qua đó nó giải quyết các quan hệ phân phối đảm
bảo quyền sở hữu trên thực tế. Ngược lại việc phân phối sản phẩm lại là động
lực cho sự vận hành của quản lý và là động lực hoạt động của chủ sở hữu.
Suy cho cùng thì lợi ích là động lực sâu xa của mọi hoạt động của con người,
C.Mác viết: Tất cả cái gì mà con người đấu tranh để giành lấy, đều gắn liền
với lợi ích của họ.
Những vấn đề trên đây là cơ sở lý luận để chúng ta tiến hành điều
chỉnh và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, thúc đẩy

nền kinh tế phát triển theo quy luật khách quan.
Trong các nền kinh tế - xã hội xuất hiện sau chế độ công xã nguyên
thuỷ đã tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất, nhiều thành phần kinh tế
khác nhau, phản ánh trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội và tính
phong phú, đa dạng trong hình thức biểu hiện. Trong mỗi hình thái kinh tế -
xã hội, quan hệ sản xuất thường tồn tại dưới nhiều hình thức, biểu hiện thành
các quan hệ kinh tế khác nhau, như quan hệ sản xuất đóng vai trò chủ đạo,
chi phối, quy định bản chất nền kinh tế của mỗi giai đoạn lịch sử. Các quan
hệ sản xuất có tính tất yếu, nhưng không đóng vai trò chi phối mà chỉ bổ sung
làm cho nền kinh tế phát triển đa dạng, phong phú. Quan hệ sản xuất mang
tính tàn dư, nó sẽ mất dần cùng với sự hình thành, phát triển của nền kinh tế
mới. Các quan hệ sản xuất mang tính mầm móng của xu hướng phát triển nền
kinh tế mới sang giai đoạn phát triển cao hơn.

22
Lịch sử loài người đã từng biết đến các quan hệ sản xuất chủ đạo gắn
với các hình thái kinh tế - xã hội từ công xã nguyên thuỷ chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Chẳng
hạn, trong lòng xã hội phong kiến thì quan hệ sản xuất phong kiến biểu hiện
thành quan hệ địa chủ - nông nô. Đây là quan hệ sản xuất chủ đạo, bên cạnh
đó người ta còn thấy có các quan hệ sản xuất khác là tàn dư của chế độ thị
tộc, bộ lạc mà cơ sở của nó là chế độ sở hữu ruộng đất công làng xã, ở đó
ruộng đất được chia cho các thành viên tương đối bình quân và quan hệ cộng
đồng làng xã khá dân chủ, hay còn tồn tại các nô tỳ vừa phục vụ trong gia
đình quý tộc phong kiến, vừa tham gia sản xuất như những người nô lệ. Cùng
với sự phát triển của nền sản xuất phong kiến, những mầm mống kinh tế tư
bản dần dần xuất hiện làm cơ sở cho sự ra đời của quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa…
Trong thực tiễn các hình thức quan hệ sản xuất không tồn tại biệt lập,

mà có sự tác động lẫn nhau, liên kết với nhau dưới nhiều hình thức muôn vẻ.
Tuy thế, không có nghĩa là bản chất của chúng đã bị hoà tan, không còn phân
biệt được nữa. Trái lại, các hình thức quan hệ sản xuất bao giờ cũng được
biểu hiện trong các quan hệ sở hữu khác nhau. Trong thời kì quá độ, tồn tại
các hình thức sở hữu đa dạng, các hình thức sở hữu này không tồn tại riêng
biệt mà chúng đan xen lẫn nhau và quyết định sự hình thành các hình thức
của quan hệ sản xuất khác nhau. Do bản chất khác nhau của các hình thức sở
hữu nên hệ thống các hình thức các quan hệ sản xuất bao hàm cả sự thống
nhất, tương hợp lẫn mâu thuẫn, xung đột với nhau. Điều đó tác động đến xu
hướng vận động, tiến trình vận động, nhịp điệu vận động của cả hệ thống
quan hệ sản xuất. Do vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, muốn trở thành hiện thực, trước hết phải xây

23
dựng, củng cố cho được vai trò chủ đạo của các quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Trong mỗi xã hội, giai cấp nào nắm quyền sở hữu những tư liệu sản
xuất chủ yếu thì giai cấp đó sẽ nắm quyền thống trị, nắm quyền phân phối
tổng sản phẩm xã hội, do đó, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất còn
quyết định cả cơ cấu giai cấp xã hội. Quan hệ này giữ vị trí căn bản của quan
hệ sản xuất, nó nằm sâu trong mối quan hệ giữa người với người trong sản
xuất và nó liên hệ chặt chẽ với quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ
phân phối. Đồng thời, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản
phẩm là hình thức biểu hiện rực tiếp, cụ thể của quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất. Chính vì thế, khi nói đến vai trò quyết định của quan hệ sở hữu
phải thấy ngay mối liên hệ chặt chẽ giữa các quan hệ khác trong quan hệ sản
xuất. Như vậy, ba mặt của quan hệ sản xuất có liên quan chặt chẽ với nhau
tạo thành cấu trúc đồng bộ mang tính hệ thống. Trong mối liên hệ này đòi hỏi
các mặt của quan hệ sản xuất phải có sự phù hợp tương ứng, nếu thiếu điều
đó thì quan hệ sản xuất sẽ có những biểu hiện bất thường. Trước đây đã có

lúc chúng ta nhấn mạnh quá mức vai trò của quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, trong thực tế chúng ta đã tập trung vào việc làm thay đổi quan hệ sở
hữu để sớm xác lập chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức toàn
dân và tập thể, chưa coi trọng tính khách quan của các quan hệ tổ chức quản
lý và quan hệ phân phối, điều đó đã làm cho quan hệ sản xuất phát triển
không hoà nhịp với lực lượng sản xuất.
Là các mặt cấu thành của quan hệ sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý,
phân công lao động và quan hệ phân phối có vai trò không kém phần quan
trọng. Sự tác động của chúng có thể góp phần củng cố phát triển sản xuất,
cũng có thể làm xói mòn, biến dạng quan hệ sở hữu. Quan hệ phân phối sản
phẩm là biểu hiện trực tiếp, cụ thể của quan hệ lợi ích. Đối với người lao

×