Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Quan niệm của Xôcrát về đối tượng của triết học tt.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.4 KB, 30 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM QUỲNH TRANG




QUAN NIỆM CỦA XÔCRÁT
VỀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TRIẾT HỌC



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Triết học





Hà Nội-2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHẠM QUỲNH TRANG




QUAN NIỆM CỦA XÔCRÁT
VỀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TRIẾT HỌC


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đỗ Minh Hợp




Hà Nội-2011

1

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU 2
B. NỘI DUNG 9
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC XÔCRÁT 9
1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa và tiền đề tư
tưởng cho sự ra đời của triết học Xôcrát 9
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa 9
1.1.2. Tiền đề tư tưởng 14

1.2. Khái quát chung về triết học Xôcrát 30
1.2.1. Cuộc đời và con người Xôcrát 30
1.2.2. Những nội dung cơ bản của triết học Xôcrát 35
1.2.2.1. Tư tưởng nhân học 35
1.2.2.2 Học thuyết về phương pháp: phương pháp bà đỡ 39
Chương 2 QUAN NIỆM CỦA XÔCRÁT VỀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TRIẾT
HỌC 46
2.1. Cách đặt vấn đề của Xôcrát về đối tượng của triết học 46
2.2. Tư tưởng triết học đạo đức - biểu hiện rõ nhất của quan niệm của
Xôcrát về đối tượng của triết học 54
2.2.1. Đức hạnh - khái niệm xuất phát của đạo đức học Xôcrát 54
2.2.2. Đạo đức học cá nhân 55
2.2.3. Đạo đức học cộng đồng 61
2.3 Tính chất duy lý của đạo đức học Xôcrát 66
C. KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83


1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập và tiếp biến văn hoá toàn cầu, những
vấn đề về đạo đức đang được đặt ra cấp thiết. Các nhà triết học đang nỗ lực
đánh giá lại những giá trị tinh thần của quá khứ để hoạch định ra một đường
hướng mới cho thời đại mới.
Văn hoá đối thoại đã và đang khẳng định ưu thế của mình so với xu
hướng đối đầu trước đó. Trong chu trình mới ấy, các nền văn hoá nói chung
cũng như triết học phương Đông và phương Tây nói riêng cũng tìm thấy trong
nhau - qua sự soi rọi - những mặt tích cực và hạn chế, những tiếng nói chung
và những điểm dị biệt, độc đáo.

Cùng chung dòng chảy đó, chúng tôi hướng về triết học Hy Lạp cổ đại
- một trong những điểm xuất phát quan trọng của toàn bộ lịch sử triết học vì
nó đã đặt ra và tìm cách giải quyết hầu hết các vấn đề của triết học mà trước
hết là vấn đề đối tượng của triết học để rồi sau này các trường phái triết học
khác nhau sẽ từng bước giải quyết lại theo yêu cầu của thời đại mình.
Nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại cùng với quan niệm về đối tượng của
triết học, chúng tôi thực sự mặc tưởng về một con người mà bản thân cuộc
đời ông là một sự thể nghiệm vĩ đại cho triết học của mình - đó là Xôcrát.
Việc chọn đề tài "Quan niệm của Xôcrát về đối tượng của triết học"
làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình là nhằm làm sáng tỏ hơn điều này ở
Xôcrát, đồng thời qua đó góp một phần công sức nhỏ bé của chúng tôi để
giữ mãi mạch nguồn bất tận của tư tưởng, của những hạt giống nhân văn đã
được ươm mầm từ quá khứ giúp thực tại nở hoa.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Triết học Hy Lạp cổ đại là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử
triết học, nó được coi là cội nguồn của triết học hiện đại. Chính vì thế triết học

2
và các triết gia thời kỳ này được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước quan
tâm nghiên cứu dưới những góc độ đa dạng. Với tâm huyết của mình, chúng
tôi tiếp cận triết học Hy Lạp cổ đại trên phương diện đối tượng của triết học
thông qua một triết gia độc đáo đó là Xôcrát. Về Xôcrát có thể kể đến các
công trình sau:
Nhóm thứ nhất là các công trình nghiên cứu về lịch sử triết học trong
đó có triết học Hy Lạp cổ đại. Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả
đã trình bày dưới dạng khái quát những tư tưởng cơ bản của triết học Xôcrát,
như phương pháp “bà đỡ”, thuật “mỉa mai”, quan niệm của Xôcrát về “thông
thái”, thuyết duy lý về đạo đức của Xôcrát cũng như lập trường chính trị - xã hội
của ông. Đây là một nguồn tư liệu quan trọng để dựa vào đó, chúng tôi phân tích

quan niệm của Xôcrát về đối tượng của triết học.
Nhóm thứ hai là các công trình nghiên cứu về lịch sử triết học Hy Lạp
cổ đại. Các tác giả của nhóm các công trình này phân tích triết học Xôcrát theo
lược đồ quen thuộc trong việc giới thiệu lịch sử triết học, theo đó mỗi triết gia
(trong đó có Xôcrát) được giới thiệu qua các phần chủ yếu, như cuộc đời và sự
nghiệp, quan điểm bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức học, nhân học, triết học
chính trị - xã hội. Tuy nhiên, không một công trình nào nêu trên đã đề cập tới
bước ngoặt được Xôcrát thực hiện trong triết học có liên hệ trực tiếp với quan
niệm của ông về sự đặc thù của tri thức triết học xét trên các phương diện nội
dung và phương pháp, tức là vấn đề xác định đối tượng riêng của triết học cùng
với định hướng tìm tòi của nó.
Hai nhóm công trình trên giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quan nhất về vị
trí, vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại nói chung và những đóng góp cơ bản của
Xôcrát nói riêng đối với diện mạo và thành tựu của triết học từ quá khứ tới nay.
Nhóm thứ ba là những tài liệu sáng tạo và cuộc đời, nhân cách của
Xôcrát qua người học trò của ông là Platôn, Xênôphôn và các nhà nghiên cứu.

3
Đây là những cuốn sách có giá trị trực tiếp nhất đối với quá trình nghiên cứu
của chúng tôi bởi đó là những đối thoại được ghi chép lại, được dịch giả nhiều
kinh nghiệm chú giải và những nghiên cứu trực diện nhất về Xôcrát, về cuộc
đời và tư tưởng sống động của ông qua các đối thoại con tương đối hoàn
chỉnh của Platôn.
Về đạo đức và đạo đức học có thể kể đến các công trình nghiên cứu về
đạo đức và đạo đức học của Trần Hậu Kiêm, và một số học giả người Nga đã
được dịch sang tiếng Việt trong đó bàn về các phạm trù, khái niệm đạo đức cơ
bản cũng như quá trình hình thành và phát triển của đạo đức học gắn với tiến
trình của lịch sử triết học cũng như quan niệm của các triết gia về đạo đức.
Ngoài ra còn không thể không nhắc đến những bài viết được đăng trên
Tạp chí Triết học, Tạp chí Khoa học xã hội, v.v , khoá luận, luận văn về đạo

đức và đạo đức học, về triết học Hy Lạp cổ đại và một số khía cạnh có liên
quan đến triết học Xôcrát. Bên cạnh đó là nguồn tài liệu đa dạng nhưng rời
rạc trên mạng Internet.
Qua quá trình khái quát các công trình phục vụ cho luận văn, chúng tôi
thấy còn một mảng rất lớn các nghiên cứu của các học giả nước ngoài ở các
giai đoạn khác nhau nhưng do hạn chế về ngôn ngữ và thời gian nên chúng tôi
rất lấy làm tiếc chưa tiếp cận được.
Nguồn tư liệu và các trình nghiên cứu càng phong phú, cách tiếp cận
càng đa dạng một mặt đem lại cho chúng tôi kiến thức và những gợi ý nhưng
mặt khác cũng thu hẹp cơ hội cho chúng tôi. Chính vì vậy, để viết về một vấn
đề không phải là quá mới nhưng phải thể hiện được thành quả riêng có, chúng
tôi đã thực sự nỗ lực tiến vào chiều sâu, khái quát trên những mặt và làm chặt
chẽ hơn những nội dung mà các nghiên cứu khác chưa có được.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4
Mục đích: Phân tích các điểu kiện, tiền đề cho sự hình thành và nội
dung cơ bản của quan niệm Xôcrát về đối tượng của triết học
.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Trình bày các điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa và tiền đề
tư tưởng cho sự ra đời của triết học Xôcrát.
- Phân tích các nội dung cơ bản của triết học Xôcrát.
- Làm rõ các nội dung cơ bản trong quan niệm của Xôcrát về đối tượng
của triết học.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được triển khai trên cơ sở lý luận duy vật lịch sử về mối quan
hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, quan điểm Mác - Lênin về lịch sử triết
học và đối tượng của triết học.
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là các nguyên tắc nghiên cứu lịch

sử triết học của triết học Mác – Lênin, cũng như các nguyên tắc nghiên cứu cụ
thể trong nghiên cứu lịch sử triết học, như nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử
và lôgíc, giữa phân tích và tổng hợp, đi từ trừu tượng đến cụ thể, quy nạp và
diễn dịch, văn bản học, đối chiếu, so sánh, v.v.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan niệm của Xôcrát về đối
tượng của triết học.
Phạm vi của luận văn là những tư tưởng của Xôcrát về đối tượng của
triết học được để lại trong di sản triết học đã dịch sang tiếng Việt và những
công trình nghiên cứu về triết học Xôcrát.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu và hệ thống hoá những biểu hiện cơ bản
của quan niệm của Xôcrát về đối tượng của triết học, qua đó làm nổi bật giá
trị của các tư tưởng đó.

5
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm tri thức
về các vấn đề của triết học Xôcrát thời Hy Lạp cổ đại và có thể dùng làm tài
liệu tham khảo phục vụ giảng dạy lịch sử triết học, đạo đức học và cho các
công trình nghiên cứu tiếp theo về vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.





















6
B. NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC XÔCRÁT
1.1. Những điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa và tiền đề
tư tưởng cho sự ra đời của triết học Xôcrát
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa
* Kinh tế:
Xôcrát và các trường phái của ông cùng với nguyên tử luận của
Đêmôcrít, phái nguỵ biện, học thuyết Platon, hệ thống Aritxtốt đã làm nên
diện mạo của triết học cổ điển Hy Lạp - giai đoạn kéo dài gần một trăm năm -
từ năm 430 đến năm 322 TCN. Ở thời gian này, những cuộc chiến tranh liên
miên đã làm chấn động Hy Lạp trong suốt một thế kỷ - từ năm 431 đến năm
338 TCN. Toàn bộ nếp sống nhà nước - thành bang ở Hy Lạp đã phải hứng
chịu một cú đòn nghiệt ngã, không chữa lành được. Đất đai tập trung vào tay
một nhóm ít người, lao động của nô lệ ngày càng đóng vai trò lớn trong sản

xuất kinh tế, người làm thuê chiếm số đông trong quân đội. Chế độ nhà nước -
thành bang lâm vào khủng hoảng. Xã hội dựa trên lao động của người tự do
dần dần chuyển biến thành xã hội chiếm hữu nô lệ và thiên về các hình thức
tổ chức mang tính quyền uy.
* Xã hội:
Năm 337 TCN, hội nghị tất cả các nhà nước - thành bang Hy Lạp đã
được tổ chức tại Côranhthơ, tại đây các thành bang Hy Lạp được hợp nhất
thành Liên minh Hy Lạp thống nhất do vua Maxêđônia trị vì. Như vậy, việc
xác lập quyền cai trị của Maxêđônia đối với Hy Lạp đã kết thúc cuộc chiến
tranh kéo dài một thế kỷ vì bá quyền toàn Hy Lạp.
Đồng thời từ đây, một thời đại lịch sử lớn đã kết thúc - thời đại hình
thành, phát triển và suy tàn của nhà nước - thành bang Cổ đại. Tất nhiên, các

7
thành bang Hy Lạp vẫn tiếp tục tồn tại và đời sống bên trong chúng vẫn giữ
lại nhiều quy định của thời đại trước. Song, nếp sống, mục đích và nội dung
nội tại của nó vốn có ở thời đại nhà nước - thành bang cổ điển đã vĩnh viễn đi
vào quá vãng.
* Chính trị
Thể chế và hệ tư tưởng của nhà nước - thành bang dường như là hạt
nhân của nền văn minh Cổ đại, quyết định các đặc điểm cơ bản của mọi lĩnh
vực tồn tại của loài người Cổ đại. Với đặc điểm cơ bản của nó là: nhà nước -
thành bang đảm bảo những điều kiện cho tự do con người ở một chừng mực
lớn hơn bất kỳ chế độ xã hội nào khác cho nên nó biến thành nền tảng và
động lực của toàn bộ tồn tại xã hội. Tự do cá nhân là cơ sở cho mọi thành tựu
tinh thần của con người.
* Văn hóa
Thế giới quan cổ đại có xu hướng tượng trưng với những bình diện đa
dạng. Người Hy Lạp cổ quan niệm vũ trụ là một cơ thể sống, vĩnh viễn trẻ.
Tồn tại đối với người Hy Lạp là một ngôi đền chứa đầy rẫy những bức tượng

phát ra ánh sáng của thần linh. Người Hy Lạp không phải bao giờ cũng ôn
hoà trong cuộc sống cũng như trong sáng tạo. Nhưng, họ ý thức được độ như
một giá trị. Họ coi ý thức như vậy là sự khác biệt cơ bản của thời văn minh so
với thời man rợ. Đây cũng chính là những tiền đề quan trọng, có ảnh hưởng
trực tiếp tới nhân cách của Xôcrát - một công dân chân chính của nhà nước -
thành bang.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng
Chúng tôi khái quát một cách ước lệ các tiền đề tư tưởng của triết học
Xôcrát thành ba nhóm cơ bản sau đây: 1) triết học tự nhiên Hy Lạp sơ kỳ; 2)
triết học Đêmôcrít, vì sự mở đầu về mặt tinh thần giai đoạn cổ điển được coi
là sáng tạo của các nhà nguỵ biện đương thời với ông (Prôtago, Gôriát). Nêu

8
bật vai trò của Xôcrát đối với chuyển biến sâu sắc trong toàn bộ tư tưởng triết
học thời đại này, người ta đề cập tới "cách mạng Xôcrát" trong triết học. Thực
chất của nó là ở việc tái định hướng ý thức triết học từ hệ vấn đề nguồn gốc
vũ trụ luận sang đề tài con người. Nhân vật quá độ từ một thời đại này sang
thời đại khác còn là một người đương thời với Xôcrát, đó là Đêmôcrít - người
sáng lập ra nguyên tử luận. Học thuyết của ông hợp nhất trong mình hệ vấn đề
nguồn gốc vũ trụ luận vốn đặc trưng cho các nhà triết học tiền Xôcrát, với các
giải pháp bản thể luận khác về nguyên tắc; và 3) triết học nguỵ biện.
* Triết học tự nhiên Hy Lạp sơ kỳ
Triết học Hy Lạp sơ kỳ - bao hàm thời đại từ khi xuất hiện tư duy triết
học ở đầu thế kỷ VI TCN cho đến thời đại Xôcrát (cuối thế kỷ V TCN). Triết
học Hy Lạp sơ kỳ thường được hiểu là tư tưởng của các nhà triết học tự nhiên
(naturphilosophie), tập trung vào nghiên cứu giới tự nhiên. Không thể tái hiện
quan điểm của từng nhà triết học Hy Lạp sơ kỳ riêng biệt, chúng tôi cố gắng
đánh giá khái quát tư tưởng triết học Hy Lạp sơ kỳ với tư cách một trong các
tiền đề tư tưởng của triết học Xôcrát như sau: Hàng loạt chủ đề đã xuất hiện
và định hình trong tư tưởng triết học Hy Lạp sơ kỳ, sự hiện diện của chúng

cho phép nói tới sự thống nhất về mặt tinh thần của triết học ở thời kỳ tiền
Xôcrát. Với tất cả những khác biệt và tính độc đáo của các học thuyết tồn tại
ở thời kỳ này thì vẫn có một số các tư tưởng và định hướng tư duy nhất định
được các nhà triết học tiền Xôcrát tán thành dưới hình thức nào đó. Có thể
nêu ra những điểm chung sau đây của triết học Hy Lạp sơ kỳ: 1. Sự giống
nhau về đề tài chủ đạo của tư duy. Đó là đề tài về nguồn gốc vũ trụ, về sự
xuất hiện và cấu trúc của vũ trụ; 2. Quan niệm về sự hình thành vũ trụ từ hỗn
loạn (trạng thái bất định và không có trật tự của tồn tại) sang vũ trụ (toàn vẹn
và có trật tự); 3. Tách biệt vấn đề tồn tại đích thực. Làm sáng tỏ tồn tại đích
thực trong văn cảnh của vấn đề "vạn vật là gì?"; 4. Trực giác về tồn tại đích

9
thực như "một" trong sự khác biệt với vũ trụ hiện có, hữu hình bao quanh như
"nhiều". Tính không đáng tin cậy của "nhiều"; 5. Niềm tin rằng tri thức đích
thực chỉ có thể đạt được nhờ tư duy. Những biểu tượng trực tiếp, ý kiến và
cảm xúc là cái cần được vượt qua; 6. Tư duy triết học và tri thức nó nhận
được là cái phục vụ sự hoàn thiện và cải thiện con người, làm trong sạch nó,
thúc đẩy phẩm chất đạo đức; 7. Triết học không tách rời khỏi các năng lực
khác (tri thức thực chứng), các hình thức tinh thần khác (tôn giáo) cùng không
tách khỏi kinh nghiệm sinh hoạt. Tất cả những điều nói trên chứng tỏ rằng, triết
học Hy Lạp sơ kỳ đã ẩn chứa trong mình mầm mống, tiền đề để sau này, Xôcrát
thực hiện sự phản tư về bản chất của tri thức triết học (đối tượng của triết học).
* Đêmôcrít (460 - 371 TCN)
Tư tưởng quan trọng đầu tiên của Đêmôcrít là nguyên tử luận. Từ
nguyên tử luận, Đêmôcrít chuyển sang vấn đề thế giới người. Trước tiên,
ông suy luận về nguồn gốc và sự phát triển của con người. Con người có
nguồn gốc tự nhiên và lúc đầu có lối sống giống như mọi động vật. Toàn bộ
nếp sống chung (ngôn ngữ, nhà nước, luật pháp) đều được tạo ra theo thoả
thuận chung của mọi người, thông qua quyết định tập thể của họ. Từ đó suy
ra rằng việc thay đổi các chuẩn tắc và nếp sống hoàn toàn phụ thuộc vào ý

chí của con người.
Tình cảm chủ yếu dẫn dắt con người trong cuộc sống. Chúng ta đề cao
những gì giống với chúng ta, né tránh những gì xa lạ, đem lại sự bất tiện và
đau khổ. Định hướng chung của cuộc sống là thái độ cam chịu, vả lại nếu
vượt quá độ, thì cái dễ chịu nhất sẽ trở thành cái khó chịu. Mục đích tối hậu
và cái phúc tối cao đối với con người – tâm trạng thoải mái đó là tâm hồn yên
tĩnh và cân bằng, không bị một dục vọng nào quấy rầy. Tất cả những sắc thái
nội dung nhân học triết học Đêmôcrít tất yếu có tác động mạnh mẽ đến định

10
hướng tư duy triết học của Xôcrát vào tất cả những gì có liên quan tới con
người, tới cuộc sống hạnh phúc và số phận của con người.
* Phái ngụy biện (thời đại Khai sáng Cổ đại)
Vào giữa thế kỷ V TCN xuất hiện tu từ học – nghệ thuật nói hay, các
thầy giáo được trả tiền bắt đầu dạy các quy tắc của nó cho những người có
nhu cầu. Đời sống của polis thường xuyên đi liền với ngôn ngữ. Nó đòi hỏi sự
giao tiếp trực tiếp của con người ở nhiều phương diện, trong mỗi biểu hiện
của mình. Kỹ năng nói và thuyết phục, trình bày và bảo vệ ý kiến đòi hỏi phải
có trong mọi lĩnh vực đời sống. Khả năng nói không tách rời khỏi khả năng tư
duy. Việc biểu thị lời nói do định hướng và lôgíc nội tại của tư duy quyết
định. Do vậy, các thầy dạy tu từ học khi đó đồng thời cũng là các thầy dạy sự
thông thái. Nói, suy luận, tư duy, hiểu biến thành một quá trình và năng lực
thống nhất.
Có hai thế hệ nguỵ biện: các nhà nguỵ biện thời kỳ đầu và các nhà nguỵ
biện thời kỳ sau. Xôcrát cũng nằm trong số các nhà nguỵ biện thời kỳ đầu,
ông vừa là nhà ngụy biện nổi tiếng nhất, vừa là người phê phán phép nguỵ
biện một cách hăng hái nhất.
Phái nguỵ biện biến giáo dục và đào tạo thành một nhiệm vụ độc lập,
đòi hỏi những nỗ lực đặc biệt. Nó chỉ ra rằng dòng chảy tự nhiên của bản thân
cuộc sống là chưa đủ để hình thành trí tuệ và đạo đức của con người. Mỗi

người đều cần phải bỏ ra những nỗ lực có mục đích rõ ràng để hình thành
nhân cách, các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
Phép nguỵ biện có ảnh hưởng rõ ràng và mang tính quyết định trên
nhiều phương diện đến toàn bộ tư tưởng cổ điển thời Cổ đại. Trên thực tế,
Xôcrát đã tái hiện tất cả các định hướng cơ bản của phép nguỵ biện trong tư
duy của mình. Các trường phái Xôcrát đã hoạt động hoàn toàn theo tinh thần
của phép nguỵ biện, có không ít hơn căn cứ để gọi chúng là các trường phái

11
nguỵ biện. Cuối cùng, có thể nói đây là điều quan trọng nhất, - phái nguỵ biện
đã hình thành một sự khu biệt mang tính then chốt giữa hai loại tồn tại: tồn tại
tự nhiên và tồn tại người. Sự khu biệt này trở thành cơ sở để xem xét vấn đề
đạo đức và công bằng xã hội là vấn đề quan trọng bậc nhất đối với thời cổ
điển Hy Lạp. Như vậy, sau khi trở thành khởi điểm sáng tạo và cơ sở của
Khai sáng Hy Lạp cổ, tư tưởng nguỵ biện đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi
hiện tượng tinh thần quan trọng thời cổ điển Hy Lạp.
1.2. Khái quát chung về triết học Xôcrát
1.2.1. Cuộc đời và con người Xôcrát
Trên nền văn hoá cổ đại Hy Lạp, Xôcrát xuất hiện như một nhân cách
độc đáo, cả cuộc đời ông là một minh chứng cho lối sống triết học. Không chỉ
nghề đẽo đá của cha mà đặc biệt chính nghề đỡ đẻ của mẹ đã đóng một vai
trò quan trọng với tinh thần Xôcrát. Ông đã coi đó như là linh hồn của một
thủ thuật triết học nhằm tác động cho chân lý ra đời trong quá trình đối
thoại.
Khác với đa số các nhà triết học đương thời, ông không đi chu du ở
các miền đất xa xôi. Ông luôn sống ở Aten và rất thích tranh luận với bất
kỳ ai gặp được không phải để thuyết phục họ, mà để tìm tòi chân lý.Cho
đến khi kết thúc hành trình cuộc đời ông vẫn một mực bảo vệ cho chân lý.
Ông cho rằng: chỉ có lời nói sống động mới có thể biểu thị và truyền tải
được tư tưởng. Tuy ngoại hình không thực hấp dẫn, song ông lại là hiện thân

của một nhà truyền giáo thế tục có tác động đến người khác và có ảnh hưởng
không nhỏ đến những biến đổi về đời sống tinh thần của người Aten. Ông
cũng làm cho một số người bất mãn, đặc biệt là một số công dân có thế lực.
Đó cũng chính là lý do chính dẫn tới bi kịch của cuộc đời ông.
Chính bởi đề cao giá trị sống động của hội thoại, nên sinh thời ông
không viết bất cứ một tác phẩm nào, cho nên việc xác định quan điểm của

12
Xôcrát đối với chúng ta là một nhiệm vụ mang tính kiến tạo. Ông không cố
gắng làm chủ nhiều kỹ năng mà đặt ra vấn đề sự thông thái nói chung, sự
thông thái tự thân nó là gì. Nói cách khác, ông tìm kiếm điểm chung trong
mọi hình thức kĩ năng. Theo Xôcrát, việc làm chủ sự thông thái tự thân nó sẽ
cho phép dễ dàng làm chủ sự thông thái trong các lĩnh vực riêng biệt. Đó cũng
chính là cách tiếp cận của Xôcrát với mọi khái niệm chung: cái thiện và cái
ác, cái đẹp và cái xấu, cái công bằng và cái hợp pháp,v.v Ông đi từ những
biểu hiện riêng biệt của một đối tượng đến việc hình thành khái niệm chung
về đối tượng ấy. Nhờ phương pháp này Xôcrát đã xây dựng một học thuyết
độc đáo và đúng đắn về con người - một phát kiến mà toàn bộ triết học sau
này đánh giá rất cao.
Là một con người có phong cách khiêm nhường và giản dị trong gia
đình cũng như ngoài cuộc sống, ông đã để lại những vang vọng lay động lòng
người bởi sự chân thành và niềm rung cảm mãnh liệt khi ông hướng con
người ta thoát khỏi thực tại đầy rẫy những lo toan, rối ren. Tuy nhiên, ông
không coi sự bần cùng là cơ sở của đức hạnh. Ông cũng không phải là một
người sống khắc kỷ. Sự kiềm chế mà ông coi là đức hạnh quan trọng nhất
cũng giống với thái độ ôn hoà mà các nhà thông thái Hy Lạp đã ca ngợi từ
lâu trước ông.
Sau khi nền bạo chính bị lật đổ ông đã bị bắt vì lời tố cáo của Milet với
tội danh: Xôcrát báng bổ các thần linh đã được thành phố thừa nhận, tôn thờ
các thần linh mới; ông cũng bị buộc tội là làm suy đồi thanh niên, do vậy phải

chịu mức án tử hình. Xôcrát đã uống thuốc độc chết vào tháng 5 năm 399
TCN. Đây cũng là bị kịch của cuộc đời Xôcrát, một con người rất mực yêu
Tổ quốc và rất trung thành với luật pháp của nhà nước. Với bản lĩnh chính trực
và thanh khiết, ông đã từ chối cơ hội được chạy trốn cùng với cơ hội được giảm

13
nhẹ tội bằng sự có mặt của vợ con ông tại toà án. Cái chết của Xôcrát nhuốm đầy
đau thương và gây nên niềm tiếc nuối vô bờ của Aten về sau. Đó đồng thời cũng
là một tượng đài bất diệt về khí phách và con người ông, là một minh chứng cho
bài học đạo đức mà ông là người đã nêu gương sáng.
1.2.2. Những nội dung cơ bản của triết học Xôcrát
Tên tuổi của Xôcrát thường được gắn với việc đưa ý thức triết học quay
lại với con người, xác định đối tượng của triết học không gì khác ngoài con
người với các vấn đề đạo đức của nó. Đó là bước ngoặt rất đặc trưng cho phái
Nguỵ biện và có liên hệ mật thiết với tinh thần chung của thời đại.
1.2.2.1. Tư tưởng nhân học
Chủ đề tìm kiếm cuộc sống thoả đáng là chủ đề chủ đạo trong nhân
cách và tư duy của Xôcrát. Ông đã khuấy động ý thức của người Aten, bắt họ
phải suy ngẫm về tồn tại của mình: xác định thiện và ác là gì, con người cần đi
theo con đường nào. Những nội dung này bao hàm đề tài cơ bản trong những
suy tư của Xôcrát, phương châm được ông chọn là dòng chữ nổi tiếng ở cổng
đền thờ Đenphy: "Hãy nhận thức bản thân mình". Điều này có nghĩa là con
người là thực thể thường xuyên tìm kiếm bản thân mình, kiểm tra, thử nghiệm
bản thân mình và điều kiện sinh tồn của mình. Chính tâm thế, định hướng có
phê phán, thể nghiệm đối với cuộc sống là cái quy định giá trị của cuộc sống:
"Thiếu sự thể nghiệm này thì cuộc sống không còn là cuộc sống dành cho con
người" - Xôcrát nói. Khi khẳng định điều đó, ông đồng thời cũng phát hiện và
khẳng định sự hiện diện của tâm hồn, dấu hiệu quan trọng nhất của bản tính
con người - điều mà chưa có một nhà tư tưởng nào trước ông nhắc tới. Tâm
hồn trong quan niệm của ông là năng lực tự ý thức vì nó tồn tại, nó hoạt động.

Với nguyên tắc nội tại của mình, tâm hồn thanh lọc những hiện tượng bên
ngoài thông qua bản chất của nó để từ đó cấu thành nên bản chất của chính
con người. Ông còn luận chứng sự hiện diện của tâm hồn bằng lập luận: thể

14
xác tồn tại không tự nó có thể điều khiển được mọi hành vi mà cần tới tâm
hồn, thể xác chỉ tồn tại với thiên chức là công cụ - cái phục vụ cho tâm hồn.
Nô lệ của thói tục ăn, của thói mộng mơ, của thói dâm dục, của thói
nghiện ngập không thể là một con người tự do. Do vậy, tự do là kỹ năng điều
khiển bản thân mình, kỹ năng được bảo đảm nhờ lý tính luôn là chủ nhân của
thể xác. Xôcrát xuất phát từ chỗ cho rằng, lý tính luôn có thể xác lập độ cho
những khoái cảm mà việc hoàn toàn khước từ nó là không thể. Người thông
thái là người học được cách xác định hợp lý độ và tuân thủ nó để có thể có
được tự do.
Như vậy, Xôcrát đã thực hiện một bước ngoặt khỏi hệ thống giá trị
đang tồn tại. Cụ thể, cái có ý nghĩa đặc biệt trong triết học của ông là tự do
nội tâm của con người. Ngoài ra, nếu người ta quen cho rằng anh hùng là
người chiến thắng kẻ thù bên ngoài thì bây giờ anh hùng là nhà thông thái -
người chiến thắng kẻ thù bên trong.
1.2.2.2 Học thuyết về phương pháp: phương pháp bà đỡ
Bàn đến học thuyết về phương pháp của Xôcrát, chúng ta cần khẳng
định tính đặc thù của nó là sự thống nhất giữa nhân cách và tư duy. Đối với
ông thì bản thân quá trình tồn tại, bản thân cuộc sống trực tiếp trở thành
phương thức triết lý.
Từ đó, Xôcrát đã đặt ra vấn đề đầu tiên trong học thuyết về phương
pháp của ông là vấn đề cội nguồn của tư duy. Xôcrát khẳng định: phương
pháp bà đỡ chính là con đường tìm kiếm chân lý. Theo ông, không có ý kiến
nào xác đáng tới mức được thừa nhận là chân lý. Với những cuộc hội thoại
của mình, thông qua việc khắc phục các quan điểm không chân thực và thiển
cận, nhà triết học đã đem lại khả năng đi đến quan niệm sâu sắc và chính xác

hơn về sự vật. Với những câu hỏi, những lời đáp lại và những nhận xét,

15
Xôcrát dẫn dắt tiến trình suy luận chung là cái dần dần hình thành diện mạo
của tri thức chân thực. Ông dường như là người chỉ đường cho ý thức của
những người hội thoại, qua đó là cả ý thức của bản thân, lần tìm dấu vết của
chân lý. Nhà triết học gọi phương pháp suy luận này là "đỡ đẻ", tức nghề của
mẹ ông. Nếu mẹ ông đỡ trẻ thơ, thì Xôcrát giúp đỡ chân lý ra đời.
Nói cách khác, Xôcrát đề cập tới một đặc điểm quan trọng của tư duy
cho phép tìm ra chân lý, - đó là tính mỉa mai của tư duy. Mỉa mai trở thành
tinh thần đích thực của tư duy và giao tiếp giữa Xôcrát với mọi người. Tính
chất mỉa mai, thứ nhất, đã giải phóng tư duy của Xôcrát khỏi quyền lực của
những quan điểm đã bám chắc rễ; thứ hai, nó đã thủ tiêu kỳ vọng hiểu biết tất
cả có trong bản thân tư duy. Mỉa mai là biểu thị lao động không mệt mỏi
nhằm thử thách trí tuệ của bản thân và của người khác, đó cùng là công việc
của cả đời ông.
Tất cả những thành tố nêu trên - phương pháp hỏi đáp, sự mỉa mai và
thuật đỡ đẻ, "biết về sự không biết" - tạo thành phép biện chứng Xôcrát.
Theo đúng nghĩa thì thuật ngữ "phép biện chứng" có nghĩa là "nghệ thuật
phân tích". Nghĩa này rộng hơn ở Xôcrát - nghệ thuật điều khiển, tổ chức
quá trình nhận thức. Việc này được Xôcrát xem là việc tổ chức và điều
khiển cuộc đối thoại. Do vậy, nghĩa gần của thuật ngữ "biện chứng" là
nhận thức dưới dạng đối thoại, hội thoại, mà quan trọng ở đó là biết cách
đặt đúng câu hỏi.










16
Chương 2
QUAN NIỆM CỦA XÔCRÁT VỀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TRIẾT HỌC
2.1. Cách đặt vấn đề của Xôcrát về đối tượng của triết học
Theo Xôcrát, chỉ có thần linh mới có thể hiểu biết được cấu tạo vũ trụ,
nguyên nhân và thực chất của các hiện tượng thiên giới. Bất đồng giữa những
quan điểm triết học về các vấn đề nguồn gốc vũ trụ luận cho thấy rõ sự bất lực
của lý tính con người trong vấn đề này. Do vậy, Xôcrát kết luận, con người
cần hướng tư duy vào những cái cấp thiết và gần gũi với họ - những công việc
của bản thân, của tổ chức xã hội, các chuẩn tắc, các tập quán và mục đích
sống của mình. Bước ngoặt quay từ triết học suy tư về nguồn gốc vũ trụ đến
triết học đạo đức diễn ra như vậy. Xôcrát là người thể hiện nó và được gọi là
"cuộc cách mạng Xôcrát".
Gắn liền với tên tuổi của Xôcrát, bước chuyển từ triết học tự nhiên sang
triết học đạo đức đã diễn ra không phải ngay lập tức. Lúc đầu, như chúng ta
nhận thấy rõ từ tác phẩm '' Phêđôn'' của Platôn, Xôcrát trẻ tuổi đã theo đuổi
khát vọng nhận thức giới tự nhiên, nghiên cứu nguyên nhân của những hiện
tượng trên trời và dưới đất cũng như sự xuất hiện và tiêu vong của chúng.
Trong những suy ngẫm khoa học tự phát như vậy, Xôcrát đã dựa vào những
luận điểm triết học tự nhiên của các bậc tiền bối của mình, cụ thể là của
Anaximanđrơ, Ămpeđôclơ, Hêraclít, phái Pitago mà quan điểm của họ được
ông biết rất rõ. Lời giải thích của họ về những hiện tượng tự nhiên đã không
làm cho Xôcrát trẻ tuổi hài lòng. Ông đã thất vọng về triết học tự nhiên trước
đó và qua đó đã đi tới kết luận mang tính tự phê phán về sự vô tích sự của bản
thân đối với những nghiên cứu tương tự.
Sự làm quen với triết học Anaxago đã diễn ra vào thời điểm Xôcrát
thất vọng về triết học tự nhiên nhưng cuối cùng ông đã phát hiện ra tính

không nhất quán của Anaxago thể hiện ở chỗ Trí tuệ lúc đầu được ông ta

17
tuyên bố với tư cách là nguyên tắc đem lại trật tự cho vạn vật trong thế giới và
là nguyên nhân của chúng, nhưng khi đề cập tới những hiện tượng cụ thể thì
Trí tuệ này lại không có tác dụng giải thích được gì, vì không phải Trí tuệ này
mà bản thân những sự vật tự nhiên, như nước, không khí, ête,v.v , quy định
trật tự và nguyên nhân của các sự vật. Qua đó, giống như các nhà triết học tự
nhiên khác, theo Xôcrát, Anaxago đã đánh tráo khái niệm về nguyên nhân của
những sự vật hiện tượng tự nhiên bằng bản thân những hiện tượng tự nhiên,
bằng sự xung đột và trò chơi tự phát giữa chúng.
Tồn tại tự thân nó, nằm ngoài nguyên nhân của nó, theo Xôcrát, là một
thực thể không có lý tính và trật tự, và việc gán cho nó vai trò của Trí tuệ, như
Anaxago đã làm là một điều ngu xuẩn. Mặc dù nguyên nhân là nguồn gốc của
tồn tại nhưng không nên quy về nó. Khi đi tới kết luận về sự sai lầm của việc
nghiên cứu nguyên nhân của tồn tại bằng con đường kinh nghiệm chủ nghĩa,
dựa trên những dữ liệu của các giác quan, Xôcrát đã chuyển sang việc xem
xét chân lý của tồn tại thông qua những khái niệm triết học trừu tượng. Xét từ
góc độ này thì tiêu chuẩn của chân lý là sự phù hợp của cái đang được nhận
thức với khái niệm về nó.
Khái niệm trong quan điểm của Xôcrát - đó không chỉ là kết quả những
nỗ lực tư duy của chủ thể nhận thức, không đơn giản là hiện tượng chủ quan
của tư duy con người, mà là tính khách quan của lý tính và chỉ có lý tính mới
đạt tới được.
Tuy nhiên, bước chuyển của Xôcrát sang triết học đạo đức với tư cách
là đối tượng của triết học không có nghĩa là ông giữ một lập trường thù địch
nào đó với khoa học đương thời.
Đề cao lý tính và thừa nhận sức mạnh toàn năng của nó, Xôcrát bắt
mọi sự kiện vũ trụ và trái đất phục tùng nó. Tri thức trong sự lý giải của


18
Xôcrát thể hiện với tư cách là cái hiểu biết cần thiết duy nhất và là tiêu chí
đáng tin cậy về lối ứng xử của con người. Qua đó ông đem lại một sức
sống mới cho câu thành ngữ cổ xưa: "Hãy tự nhận thức bản thân mình".
Đây cũng là xuất phát điểm để Xôcrát xây dựng triết học đạo đức của mình
như là đối tượng duy nhất mà triết học cần và nên hướng tới.
2.2. Tư tưởng triết học đạo đức - biểu hiện rõ nhất của quan niệm
của Xôcrát về đối tượng của triết học
2.2.1. Đức hạnh - khái niệm xuất phát của đạo đức học Xôcrát
Để đạt tới cái phúc thì cần phải có những phẩm chất cụ thể - những đức
hạnh. Học thuyết về đức hạnh là bộ phận cơ bản của triết học đạo đức Xôcrát.
Ông thừa nhận ba đức hạnh cơ bản: tính kiềm chế (tự chủ), lòng dũng cảm và
sự công bằng. Ba đức hạnh này cộng lại thành sự thông thái.
Giống như đức hạnh nói chung, đức hạnh chính trị cũng là tri thức.
Xôcrát khẳng định rằng chính nghĩa và mọi đức hạnh khác đều là tri thức, và
cái chính nghĩa cũng như tất cả những gì diễn ra thông qua đức hạnh đều là
cái đẹp - có đạo đức; như vậy, những người không hiểu biết sẽ coi thường nó.
Còn nếu cái chính nghĩa và mọi cái đẹp - có đạo đức đều diễn ra thông qua
đức hạnh thì đương nhiên chính nghĩa và mọi đức hạnh khác đều là tri thức.
Có thể khẳng định rằng, vấn đề về những phẩm chất đạo đức (đức
hạnh) của con người là trung tâm của toàn bộ đạo đức học Xôcrát. Về thực
chất, triết học Xôcrát là triết học đạo đức, là đạo đức học.
2.2.2. Đạo đức học cá nhân
Với Xôcrát cũng như với toàn bộ triết học cổ đại Hy Lạp, việc tìm
kiếm chân lý trùng hợp với khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp nhất, về cái
phúc. Trong quan niệm của Xôcrát, cái phúc là khái niệm xác định mục đích
của cuộc đời con người, giá trị của nó. Đây là cái mà cần phải hướng tới để

19
trở thành người hạnh phức. Đức hạnh là những phẩm chất của con người

được đánh giá một cách tích cực, khác với những khuyết tật.
Theo Xôcrát, cái phúc bao gồm những bộ phận cấu thành cơ bản sau
đây. Đó là, thứ nhất, sức khoẻ; thứ hai, tinh thần, trí lực; thứ ba, nghệ thuật và
khoa học; thứ tư, tình hữu nghị ; thứ năm, hoà thuận giữa cha mẹ, con cái và
anh em; thứ sáu, cộng đồng công dân hay nhà nước.
Xôcrát, một mặt khẳng định sự hiện diện và vai trò quyết định của tự
do ý chí đạo đức, song mặt khác, ông cũng chỉ ra tính được chế định bởi
lương tâm của mỗi người với tư cách sản phẩm phát triển của lịch sử văn hoá
và của xã hội đương thời. Cách lập luận như vậy của Xôcrát gắn liền với sự
luận chứng cho tính phổ biến của lý tính mà, về thực chất, là khác đáng kể so
với sự luận chứng của phái nguỵ biện.
Bàn về đạo đức học cá nhân của Xôcrát, chúng ta không thể không nói
tới quan niệm của ông về trách nhiệm cá nhân. Cái chết của Xôcrát, hay nói
chính xác hơn, việc ông tự nguyện chấp nhận cái chết là minh chứng rõ nhất
cho quan niệm của ông về trách nhiệm cá nhân.
Cái chết tự nguyện của Xôcrát còn làm sáng tỏ một phương diện đạo
đức quan trọng khác của vấn đề trách nhiệm cá nhân: chân lý quan trọng hơn
sự sống đối với ai? Phẩm chất của lý tính được xác định bằng thái độ sẵn sàng
tìm kiếm chân lý và năng lực đi đến cùng trong cuộc tìm kiếm ấy. Vả lại cũng
không thể có triết học thiếu trách nhiệm cá nhân về tư duy của mình.
2.2.3. Đạo đức học cộng đồng
Theo Xôcrát, nhận thức về cái thiện căn cứ trên nhận thức về đạo đức cá
nhân và nhận thức về công bằng xã hội với tư cách một chỉnh thể thống nhất.
Với tư cách đạo đức học cộng đồng, công bằng xã hội dựa trên quan niệm về
luật pháp như là cái biểu thị cái thiện, như là cơ sở để tổ chức cuộc sống của nhà
nước - thị thành. Cái thiện trong trường hợp này là sự chấp hành luật pháp của

20
nhà nước mình, là thực hiện các nghĩa vụ công dân của mình. Con đường này
cho chúng ta thấy rõ quan điểm đạo đức học cộng đồng (xã hội) của Xôcrát.

Toàn bộ đạo đức học Xôcrát thấm nhuần tư tưởng bài trừ bạo lực và sự
vô dụng của việc sử dụng nó vào mục đích giáo dục tâm hồn. Do vậy, những
người có học không mấy khi dùng bạo lực: những hành động như vậy chỉ vốn
có ở những người có sức mạnh mà thiếu trí khôn.
Khái niệm tiếp theo trong triết học đạo đức cộng đồng của Xôcrát là
nghĩa vụ. Nghĩa vụ là luật mà con người có lý tính cần phải tuân theo trong
cuộc sống. Hiểu luật có nghĩa là hiểu mối liên hệ của nó với cái phúc và các
đức hạnh. Theo Xôcrát, điểm căn bản của luật là ở chỗ làm sao tránh được
điều xấu xa và hướng tới điều tốt đẹp. Để làm được điều đó thì cần phải hạn
chế nhu cầu và khoái cảm.
Trách nhiệm cá nhân còn được Xôcrát khảo cứu từ góc độ đạo đức
cộng đồng. Luật pháp, theo Xôcrát, chính là bản thân nền tảng của nhà nước.
Giống như phái nguỵ biện, Xôcrát cũng phân biệt luật pháp tự nhiên và luật
pháp thực tại nhưng không đặt chúng đối lập với nhau. Theo ông, chúng có
cùng một sự chính đáng vốn không chỉ là tiêu chuẩn cho tính hợp pháp mà
còn đồng nhất với nó. Luận điểm này là rất quan trọng đối với toàn bộ đạo
đức học chính trị của Xôcrát.
Nguyên tắc cơ bản của triết học đạo đức Xôcrát, theo đó đức hạnh
là tri thức được trình bày như sau trong lĩnh vực pháp lý: "Những người
cầm quyền phải là những người có tri thức". Yêu sách này tổng kết quan
niệm triết học của Xôcrát về các cơ sở hợp lý và chính nghĩa của nhà
nước và pháp luật. Nó được dành cho mọi hình thái chế độ chính trị "làm
vua là những người biết cai trị".
Quan điểm "nhà triết học ngồi trên ngai vàng" của Xôcrát là hệ
quả tất yếu của thuyết sùng bái giới quý tộc trí thức trong lĩnh vực chính

21
trị. Học thuyết này xuyên suốt toàn bộ triết học đạo đức của ông. Một
điều nổi bật là các lý tưởng chính trị của Xôcrát đều vượt lên trên như
nhau đối với chế độ dân chủ, chế độ đầu sỏ, chế độ quý tộc dòng họ và

chế độ cầm quyền truyền thống của vua chúa. Xét về mặt lý luận, lý
tưởng của Xôcrát là thử nghiệm tạo lập bản chất hợp lý hoá của nhà
nước, còn về mặt thực tiễn chính trị là để khẳng định nguyên tắc hiểu
biết trong quản lý nhà nước - thị thành.
Theo Xôcrát, giống như các phẩm chất khác của con người, đức hạnh
cũng phải được giáo dục và phát triển bằng con đường nghiên cứu và áp
dụng. Những người chuẩn bị cho hoạt động chính trị và cầm quyền cần
phải học cách kiềm chế dục vọng và đạt tới những tri thức cần thiết cho lợi
ích của nhà nước - thị thành và công dân của nó. Theo Xôcrát, quản lý công
việc nhà nước - thị thành dựa trên tri thức là con đường duy nhất tin cậy dẫn
đến phúc lợi chung.
Tóm lại, đạo đức học cộng đồng của Xôcrát là kết quả phát triển độc
đáo tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại trước đó và đồng thời đã trở thành xuất
phát điểm cho sự phát triển tiếp theo của nó đến các đỉnh cao như triết học
chính trị Platôn và khoa học chính trị Arixtốt.
2.3. Tính chất duy lý của đạo đức học Xôcrát
Có thể khẳng định rằng, vấn đề về những phẩm chất đạo đức của con
người là trung tâm của toàn bộ triết học Xôcrát.
Theo Xôcrát, chỉ một số người - các nhà triết học, các nhà thông thái -
mới đạt tới được nhận thức chân thực, tức nhận thức bằng khái niệm. Nhưng
ngay cả họ cũng không đạt tới được toàn bộ sự thông thái, mà chỉ đạt tới được
một phần không đáng kể của nó. Sự thông thái là tri thức nhưng con người
không có khả năng nhận thức được tất cả mọi thứ. Xôcrát nói: Con người

22
không thể là thông thái trong mọi vấn đề. Do vậy, người nào biết được điều
đó thì người ấy là người thông thái.
Nhưng, theo Xôcrát, sự thông thái của con người là không đáng kể so
với sự thông thái của thần linh. Chính luận điểm của Xôcrát về sự thông thái
trong việc con người nhận thức được giới hạn của sự hiểu biết và sự không

hiểu biết của mình ("tôi biết rằng tôi không biết gì") đã ghi nhận quan hệ giữa
nhận thức của con người với lý tính của thần linh. Lập trường này có hai khía
cạnh: khiêm tốn - có nghĩa xấu khi hướng vào tri thức của thần linh, phê phán
- chế nhạo khi hướng vào tri thức của của con người. Nhà triết học đứng giữa
thần linh và con người, giữa sự thông thái và sự dốt nát.
Theo Xôcrát, tri thức luôn mang tính thần thánh, và chỉ có nó nâng con
người lên cao và làm cho con người trở nên giống với các thần linh. Trong khi
đó thì đa số mọi người lại lảng tránh tri thức và tuân theo những ham thích ngẫu
nhiên và những cảm xúc thất thường. Họ nghĩ về tri thức trực tiếp như là kẻ nô
lệ, mỗi người đều lôi kéo nó về phía mình.
Trái ngược với ý kiến của đa số, Xôcrát kiên trì nguyên tắc thống trị
phổ biến của lý tính trong tự nhiên, ở con người riêng biệt, trong xã hội loài
người. Sự thống trị này thể hiện trong tự nhiên như là sự hài hoà và hợp lý ở
khắp nơi; ở cá nhân riêng biệt - như là sự thống trị của tâm hồn có lý tính đối
với thể xác không có lý tính; trong xã hội - như là sự thống trị của luật pháp
hợp lý, như là sự cầm quyền của những người có tri thức.
Xét đến cùng thì con người là thước đo vạn vật ở Xôcrát, nhưng khi đó
Xôcrát hàm ý nói tới lý tính và tri thức của con người (với tư cách một thực thể
biết tư duy), còn Prôtago thì là cảm giác và cảm tính của con người (con người
với tư cách một thực thể có cảm tính).
Theo Xôcrát, không phải là những tri thức khác nhau mà chỉ là các bộ
phận khác nhau của một khối tri thức thống nhất về chân lý thần thánh của tồn

×