Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Vận dụng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.89 KB, 29 trang )


đại học quốc gia hà nội
trung tâm đào tạo bồi d-ỡng giảng viên lý luận chính trị


hồ thị hà









vận dụng quan hệ Biện chứng giữa lực l-ợng sản xuất và quan hệ
sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế
ở tỉnh nghệ an hiện nay








Luận văn thạc sĩ khoa học triết học













hà nội - Năm 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
  

HỒ THỊ HÀ







VẬN DỤNG QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀO PHÁT TRIỂN
CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY




Chuyên ngành : TRIẾT HỌC
Mã số : 60 22 80




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRỌNG TUẤN





HÀ NỘI - 2008

MỤC LỤC


Trang
Mở đầu

1
Chương 1:
Nội dung và yêu cầu của quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất.
6
1.1.
Nội dung của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ của lực lượng sản xuất.
6

1.2.
Yêu cầu của quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính
chất và trình độ của LLSX.
31
Chương 2:
Vận dụng quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ
An hiện nay – thực trạng và vấn đề đặt ra.
35
2.1.
Tình hình kinh tế - xã hội ở Nghệ An.
35
2.2.
Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa
LLSX và QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh
tế ở Nghệ An trước thời kỳ đổi mới.
39
2.3.
Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa
LLSX và QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh
tế ở Nghệ An trong những năm gần đây.
50
2.3.1.
Thành tựu đạt được và nguyên nhân.
50
2.3.2.
Những khuyết điểm yếu kém.
64
2.3.3
Vấn đề đặt ra.

68
Chương 3:
Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
các thành phần kinh tế ở Nghệ An trong thời gian tới.

3.1.
Mục tiêu và phương hướng tổng quát:
70
3.1.1.
Phương hướng và quan điểm phát triển.
70
3.1.2.
Mục tiêu tổng quát.
70
3.1.3.
Nhiệm vụ chủ yếu:
72
3.2.
Những giải pháp cơ bản
79



3.2.1.
Phát huy vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối
với quan hệ sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần
ở Nghệ An
82
3.2.2.
Đẩy nhanh ứng dụng KHCN.

82
3.2.3.
Từng bước hoàn thiện các loại thị trường.
83
3.2.4.
Đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực ở Nghệ An.
84
3.2.5.
Nâng cao hiệu quả tổ chức, quản lý kinh tế.
86
3.2.6.
Hoàn thiện thực hiện các hình thức phân phối.
90

Phần Kết luận
100

Danh mục tài liệu tham khảo
102



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật cơ bản của xã hội. Nhận thức và vận dụng quy luật này
trong điều kiện Việt Nam, Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
và đi theo sự định hướng xã hội chủ nghĩa (nghị quyết Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VI, VII). Đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình
kinh tế - xã hội nước ta cũng như điều kiện quốc tế hiện nay.
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế mới, vấn đề chúng ta
cần quan tâm là vai trò con người, sự phát triển của công cụ lao động, trình độ
quản lý sản xuất, phân công lao động và trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật
của người lao động trong quá trình sản xuất Đặc biệt, đối với Nghệ An, một
tỉnh nghèo nằm ở miền Trung Việt Nam, luôn chịu sự ảnh hưởng khắc nghiệt
của tự nhiên (nắng lắm mưa nhiều, bão lụt thường xuyên xẩy ra), đời sống
kinh tế còn thấp kém lạc hậu, trình độ, kỹ năng của người lao động còn chậm
phát triển, khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật còn gặp nhiều khó khăn. Do
đó, việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Nghệ An là một yêu cầu cấp thiết để nhanh chóng đưa tỉnh
nhà tiến kịp với sự phát triển của cả nước.
Qua hơn 20 năm đổi mới, cả nước nói chung, Nghệ An nói riêng đã thu
được nhiều thành tựu to lớn, quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất, do đó mở ra khả năng mới, điều kiện mới cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tiếp tục phát triển. Có được
những thành tựu đó, là do Đảng bộ tỉnh đã nhận thức đúng và bước đầu biết
vận dụng sát hợp hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ của lực lượng sản xuất vào đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc nhận thức và vận
dụng quy luật này còn có những hạn chế nhất định: việc huy động và sử dụng

2
các nguồn lực còn kém hiệu quả và chưa tương xứng với tiềm năng, trình độ
công nghệ vẫn lạc hậu so với nhiều tỉnh xung quanh. Sức cạnh tranh của nền
kinh tế, chất lượng và tính bền vững của sự phát triển còn kém. Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển. Hội nhập kinh tế
quốc tế còn hạn chế Thực trạng trên đặt ra yêu cầu phải nhận thức sâu sắc
và vận dụng quy luật sao cho đúng đắn hơn, phù hợp hơn với tình hình thực

tiễn của tỉnh nhà. Vì vậy chúng tôi chọn vấn đề “Vận dụng quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành
phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu quy luật về sự
phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Ngoài các bộ sách giáo khoa giảng dạy ở các trường Đảng, các
trường Đại học và Cao đẳng còn có các sách, luận văn, luận án, các tạp chí
viết về vấn đề này như: “Những bài học 10 năm đổi mới” của Nguyễn Phú
Trọng, PGS.PTS khoa học lịch sử, tạp chí Cộng sản số 8 - 1996; “Triết học
Mác - Lênin với việc nhận thức xã hội trong thời đại ngày nay” của tác giả
Nguyễn Ngọc Long GS.PTS triết học , Tạp chí Triết học số 4 - 1993.
Bên cạnh đó còn có nhiều công trình khoa học nghiên cứu biểu hiện
đặc thù của quy luật này trong thời kỳ quá độ lên CNXH, như luận án phó
tiến sỹ khoa học của Nguyễn Tĩnh Gia: “Biểu hiện đặc thù của QHSX phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam”.
Có công trình nghiên cứu sự vận dụng quy luật này ở một số tỉnh như
luận án PTS: “Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của
LLSX trong quá trình đổi mới và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
Lâm Đồng” của Bùi Chí Kiên. Có một số công trình nghiên cứu và bài viết đề

3
cập đến khía cạnh khác nhau của lý luận hình thái kinh tế - xã hội như: “ Lý
luận hình thái kinh tế - xã hội và cuộc đấu tranh phát triển chủ nghĩa Mác
trong thời đại ngày nay” của GS Hồ Văn Thông; “Nhận thức con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của GS.PTS Nguyễn Ngọc Long; “Biện
chứng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất trong thực
tiễn cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nước ta” của PGS.PTS Nguyễn Tĩnh Gia;

“Quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp” của PTS
Hoàng Bính và Nguyễn Kim Lai; “ Về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
lực lượng sản xuất xét từ tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” của
Trương Hữu Toàn; "Nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp nước ta
thời kỳ đổi mới” của tiến sĩ Nguyễn Trọng Tuấn.
Các công trình khoa học trên thường nghiên cứu toàn diện quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất và
trong phạm vi tác động của quy luật khá rộng bao gồm trên nhiều lĩnh vực,
trên địa bàn nhiều tỉnh hoặc trên địa bàn cả nước.
Ở Nghệ An, cũng có một số công trình, bài viết về sự vận động của quy
luật này, song mới chỉ nghiên cứu một mặt hay một số mặt nào đó của lực
lượng sản xuất hoặc quan hệ sản xuất.
Luận văn này cố gắng tiếp cận các kết quả của các công trình khoa học,
các bài viết, các đề tài khoa học của địa phương để tổng kết, phân tích thực
tiễn nhằm làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất với các thành phần kinh tế ở địa bàn một tỉnh, đồng thời vạch ra
những giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ này ở Nghệ An.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
* Mục đích:
- Trên cơ sở phân tích quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, luận văn làm rõ sự cần thiết của việc vận dụng quy luật lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đánh giá thực trạng vận dụng quy luật

4
này ở Nghệ An hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển các
thành phần kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế Nghệ An phát triển.
* Nhiệm vụ:
Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
- Làm rõ sự cần thiết của việc vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa

lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế
ở tỉnh Nghệ An
- Phân tích thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất ở tỉnh Nghệ An hiện nay.
- Kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển các thành phần kinh
tế ở tỉnh Nghệ An đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Luận văn này tập trung làm rõ sự vận dụng mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần
kinh tế ở Nghệ An.
- Từ việc phân tích những đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội ở Nghệ
An trong những năm gần đây để làm rõ tính tất yếu của việc vận dụng trên
vào phát triển các thành phần kinh tế cũng như các giải pháp nhằm phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng.
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết quả các số liệu thống kê của
Cục thống kê Nghệ An; kết quả hội thảo và nghiệm thu các đề tài khoa học
cấp tỉnh (có liên quan) thực hiện tại Nghệ An.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học như: thống kê,
khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh đặc biệt là phương pháp lịch sử và
lôgíc…
6. Đóng góp của luận văn:

5
- Thông qua việc tổng kết thực tiễn, luận văn phân tích, so sánh để thấy
được vai trò của việc vận dụng quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất nhằm phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm vận dụng một cách khoa học

quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhằm phát triển các thành
phần kinh tế ở Nghệ An.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc
nghiên cứu và giảng dạy triết học tại các trường đại học, cao đẳng, trường
chính trị, cũng như cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU CỦA QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP
GIỮA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA
LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT
1.1. Nội dung của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
trình độ của lực lƣợng sản xuất
Xã hội loài người trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, cũng là một hệ
thống rất phức tạp bao gồm nhiều lĩnh vực, nhiều mối liên hệ. Các nhà tư
tưởng trước C. Mác đã có nhiều đóng góp trong hoạt động nghiên cứu xã hội
và con người với mục tiêu là tìm ra bản chất và quy luật phát triển của xã hội
loài người. Nhưng do những hạn chế về mặt quan điểm, lập trường, về mặt
lịch sử, về trình độ của khoa học tự nhiên và xã hội, nên họ đã không vượt
khỏi chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình trong nghiên cứu xã hội và
xem xét lịch sử.
Từ quá trình sản xuất vật chất của con người, C.Mác đã khám phá ra
các quy luật chi phối sự vận động, biến đổi và phát triển của xã hội, trong đó

6
có quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Như vậy, lần đầu tiên C.Mác đã phát hiện ra quy luật
QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Đó là quy luật cơ bản chi
phối toàn bộ quá trình lịch sử loài người. Nó quyết định sự thay thế các

phương thức sản xuất và cùng với sự thay đổi các phương thức sản xuất là sự
thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng của hai mặt đối lập
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. LLSX chính là tất cả những lực lượng
vật chất được sử dụng vào việc sản xuất ra của cải vật chất, hay nói cách khác
LLSX là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, mà trước hết là công
cụ sản xuất và những con người với trình độ kỹ năng, kinh nghiệm và thói
quen lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó để sản xuất ra của cải vật
chất. Trong LLSX thì con người là yếu tố quan trọng nhất, cùng với con
người - người lao động, công cụ lao động cũng là một thành tố cơ bản của lực
lượng sản xuất.
Quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất vật chất tạo nên
QHSX. Quan hệ sản xuất vật chất được biểu hiện trên ba mặt, đó là quan hệ
sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất,
quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ sản xuất là hình thức xã
hội của lực lượng sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất đóng vai trò quyết định vì nó quyết định bản chất của quan hệ
sản xuất, quyết định mục đích, hình thức tổ chức, phương thức quản lý và
quyết định cả việc phân phối sản phẩm làm ra.
Đương nhiên, trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan
hệ sản xuất thì quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối cũng có vai trò
rất quan trọng.
Những vấn đề trên đây là cơ sở lý luận để chúng ta tiến hành điều chỉnh
và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển theo quy luật khách quan.

7
* Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng
cấu thành phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động

qua lại lẫn nhau, trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất, đến lượt nó, quan hệ sản xuất tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất
tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Theo nguyên lý của phép biện chứng duy vật, sự phù hợp, sự thống
nhất của các mặt đối lập chỉ là tương đối tạm thời, thoáng qua và có điều kiện,
còn đấu tranh, sự không phù hợp của các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Chính
sự không phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là nguồn gốc
tạo nên sự vận động phát triển trong mâu thuẫn của phương thức sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
thì nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại nếu quan hệ sản xuất
“không phù hợp” với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trên đây là toàn bộ nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật khách quan, nên nó chi phối
sự vận động và phát triển của toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Như vậy,
nghiên cứu nội dung quy luật này sẽ giúp chúng ta khắc phục tư tưởng chủ
quan nóng vội, duy ý chí trong việc thiết lập mối quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện của một đất nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
công cụ lao động chủ yếu còn ở trình độ thủ công. Việc nắm vững và vận
dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là
cơ sở nền tảng quan trọng cho sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
1.2. Yêu cầu của quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất
và trình độ của LLSX.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là

8
mối quan hệ cơ bản biểu hiện của quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính
chất và trình độ của LLSX. Quy luật này mang tính khách quan, chi phối toàn

bộ quá trình phát triển của xã hội loài người. Do vậy khi vận dụng quy luật
này yêu cầu nhân tố chủ quan phải nhận thức đầy đủ và đúng đắn nội dung
của nó, để từ đó vận dụng nó một cách phù hợp với thực tiễn địa phương, đây
là yêu cầu khách quan đối với sự phát triển sản xuất vật chất nói riêng, sự phát
triển của xã hội nó chung.
Chương 2:
VẬN DỤNG QUAN HỆ GIỮA LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT VÀ
QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀO PHÁT TRIỂN CÁC THÀNH PHẦN KINH
TẾ Ở NGHỆ AN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA.

2.1- Tình hình kinh tế - xã hội ở Nghệ An.
Nghệ An là tỉnh thuộc Bắc trung bộ, có toạ độ địa lý từ 18
0
33’10” đến
19
0
24’43” vĩ độ Bắc và từ 103
0
52

53
’’
đến 105
0
45

50
’’
kinh độ đông, phía Bắc
giáp Thanh Hoá với đường biên dài 196,13km; phía Nam giáp Hà Tĩnh với

đường biên dài 92,6 km; phía Tây giáp nước bạn Lào với đường biên dài 419
km, đã có lịch sử quan hệ hữu nghị lâu đời, là điều kiện thuận lợi để mở rộng
hợp tác quốc tế và khai thác những tiềm năng phát triển của nước bạn Lào;
phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 82 km; Diện tích đất tự nhiên:
1.648.729 ha; Nghệ An có 1 thành phố loại một, 1 thị xã và 17 huyện, thành
phố Vinh, Thị xã Cửa Lò, 10 huyện miền núi…
Về địa hình: Nghệ An là tỉnh nằm ở Đông Bắc dãy Trường Sơn, địa
hình đa dạng, phức tạp và bị chia cắt bởi hệ thống các đồi núi, sông suối. Về
khí hậu - Thời tiết: Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, Nghệ An chịu
sự tác động trực tiếp của gió mùa Tây - Nam khô và nóng và gió mùa Đông
Bắc lạnh, ẩm ướt, Độ ẩm trung bình hàng năm là: 84%.
Sông ngòi: Cả tỉnh có tổng chiều dài sông suối là 9.828 km, mật độ
trung bình là 0,7 km/km
2
. Tổng lượng nước hàng năm khoảng 28.109 m
3
.

9
Nhìn chung nguồn nước khá dồi dào, đủ để đáp ứng cho sản xuất và phục vụ
cho đời sống sinh hoạt của nhân dân.
Biển, bờ biển: Hải phận rộng 4.230 hải lý vuông, đáy biển tương đối
bằng phẳng, từ độ sâu 40m trở ra có nhiều đá ngầm, cồn cát. Vùng biển Nghệ
An là nơi tập trung nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao. Bãi biển Cửa Lò
là một trong những bãi tắm đẹp và hấp dẫn.
Tài nguyên đất: Tổng quỹ đất đã sử dụng là 956.250 ha/tổng diện tích
đất tự nhiên: 1.648.729 ha, chiếm 58%. Trong đó đất nông nghiệp chiếm gần
196.000 ha chiếm 11,9%, đất lâm nghiệp trên 685.000 ha, chiếm 41,8%, đất
chuyên dùng trên 59.000 ha chiếm 3,6%, đất ở gần 15.000 ha chiếm 0,9%.
Tài nguyên rừng: Tổng diện tích đất có rừng trên 685.000 ha. Tổng trữ

lượng gỗ trên 50 triệu m
3
; nứa, mét 1.050 triệu cây, trong đó trữ lượng rừng
gỗ kinh tế gần 8 triệu m
3
; nứa 415 triệu cây, mét 19 triệu cây. Ngoài ra còn có
các loại lâm sản: song, mây, dược liệu tự nhiên phong phú để phát triển các
mặt hàng xuất khẩu.
Tài nguyên biển: Bờ biển Nghệ An dài 82 km. Cảng biển Cửa Lò được
xác định là cảng biển Quốc tế quan trọng của vùng Bắc Trung bộ, là cửa ngõ
vận tải cho nước bạn Lào và vùng đông bắc Thái Lan. Hải phận Nghệ An có
khoảng 4.230 hải lý vuông, biển có nhiều loại động vật phù du, là nguồn thức ăn
tốt cho các loại hải sản sinh sống và phát triển.
Tài nguyên khoáng sản: Đa dạng, phong phú trong đó có nhiều loại
khoáng sản quý hiếm như vàng, đá quý Rubi, thiếc, đá trắng, đá granit, đá
bazan…
Tài nguyên nước: Nghệ An có nguồn nước mặt dồi dào (trên 30 tỷ m
3
)
thuận lợi cho phát triển sản xuất, dân sinh kinh tế.
Dân số: Đến năm 2007, dân số Nghệ An có khoảng 3.122.405 người,
trong đó thành thị 350.629 người, nông thôn 2.771.776 người. Nghệ An là
tỉnh có quy mô dân số và lao động đứng thứ 4 trong cả nước, bình quân mỗi
năm số lao động đến tuổi bổ sung vào nguồn hơn 3 vạn người.

10
Giáo dục đào tạo chuyển biến tích cực. Hệ thống trường lớp được quan
tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp, mua sắm các trang thiết bị đáp ứng tốt hơn
cho nhu cầu học tập. Chất lượng giáo dục toàn diện có tiến bộ.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, công tác dân

số, gia đình và trẻ em có nhiều tiến bộ. Hệ thống cơ sở khám chữa bệnh từ
tỉnh đến xã từng bước được củng cố nâng cấp. Chất lượng khám và điều trị
bệnh được cải thiện. Công tác phòng chống dịch bệnh được quan tâm. Tỷ lệ
trạm xã xã phường có bác sĩ đạt 70%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ
41% năm 2000 xuống còn 28% năm 2005 [22 - tr 17].
Tóm lại, những đặc điểm về kinh tế - xã hội nói trên có ảnh hưởng rất
lớn đến sự vận dụng quy luật phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của
LLSX vào phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An nói riêng cũng như cả
nước nói chung.
2.2. Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và
QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An trƣớc thời
kỳ đổi mới.
Trước năm 1986, cả nước nói chung, Nghệ An nói riêng đều có những
quan niệm cứng nhắc về CNXH, đó là quan niệm cho rằng cần phải đưa đất
nước tiến nhanh, tiến mạnh lên CNXH. Thiết lập và duy trì quá lâu kiểu
QHSX với những đặc trưng như vậy làm cho các hiện tượng tiêu cực nảy sinh
ngay trong lòng kinh tế quốc doanh và Hợp tác xã ngày càng phổ biến, các
cấp lãnh đạo và đơn vị cơ sở đều ra sức khắc phục trong nhiều năm, song vẫn
không giảm bớt. Chúng ta đã đồng nhất tư hữu tư liệu sản xuất (mà tư hữu đó
được sử dụng vào việc bóc lột lao động của người khác) với sở hữu cá nhân
của các thành viên, do đó khi đưa lao động vào làm ăn tập thể là xoá ngay sở
hữu cá nhân đối với các tư liệu sản xuất của họ.
Vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô và vai trò quản lý sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, Hợp tác xã không được tách
bạch rõ ràng.

11
Tất cả những tiêu cực nảy sinh trong lòng kinh tế quốc doanh, tập thể
và những vướng mắc nan giải trong cơ chế quản lý, phân công, phân cấp quản
lý, trong xác định phương hướng kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, phương

án sản phẩm và tổ chức sản xuất đều đã được các cấp lãnh đạo quan tâm nắm
bắt và xử lý, nhưng chuyển biến tiến bộ không đáng kể. Kết quả là tình hình
sản xuất và phân phối lưu thông càng rối ren, bế tắc, càng cải tiến quản lý, mở
rộng quy mô sở hữu kinh tế quốc doanh và tập thể thì làm ăn càng kém hiệu
quả, người lao động càng xa lánh thờ ơ.
Kết luận: Nghệ An có điều kiện địa lý, tự nhiên, môi trường thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế - xã hội, song dù sao, đó cũng mới chỉ là những khả
năng và điều kiện quan trọng, cần thiết cho sự phát triển. Vấn đề có tính chất
quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội chính là phương thức sản
xuất.
Quy luật này mang tính đặc thù khi tác động vào tỉnh Nghệ An, cũng
như các tỉnh khác của miền Trung trước đây, Nghệ An bước vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội, xây dựng quan hệ sản xuất mới và phát triển lực lượng sản
xuất trong điều kiện đặc biệt - đất nước có chiến tranh. Do đó, để tạo sự ổn
định của hậu phương, dồn sức cho tiền tuyến đánh Mỹ và đảm bảo cho bộ đội
yên tâm chiến đấu trên các mặt trận, Nghệ An đã đẩy nhanh quá trình xây
dựng quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp, xúc tiến xây dựng hàng loạt
hợp tác xã nông nghiệp và nâng chúng lên quy mô lớn. Đó là các biện pháp
đặc biệt phù hợp với một thời kỳ đặc biệt. Tuy nhiên sau khi đất nước thống
nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta vẫn trung thành với mô hình và kinh
nghiệm xây dựng hợp tác xã và kinh tế quốc doanh trước đó. Hậu quả là làm
cho nền kinh tế - xã hội trong tỉnh phát triển không bình thường, nhiều mặt
sản xuất đình đốn trì trệ, các thế mạnh kinh tế hàng hoá sa sút dần, lực lượng
sản xuất nhìn chung bị kìm hãm nặng nề, có mặt bị phá hoại, kinh tế - xã hội
địa phương lâm vào tình trạng khủng hoảng.
2.3. Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và

12
QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An trong
những năm gần đây.

2.3.1. Thành tựu đạt được và nguyên nhân.
* Thành tựu:
Nhờ thực tiễn tháo gỡ khó khăn để phát triển sản xuất của người lao
động trong tỉnh, đồng thời với một số chủ trương tháo gỡ những vướng mắc
trên một số lĩnh vực kinh tế của Trung ương đối với đất nước, Đảng bộ Nghệ
An cũng đã đề ra những chủ trương, chính sách về đổi mới kinh tế địa
phương. Do đó trong những năm gần đây, nền kinh tế của tỉnh đạt được tốc
độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định:
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm 2001 - 2005 đạt 10,3%
(vượt chỉ tiêu kế hoạch), GDP bình quân đạt 5,59 triệu đồng/người/năm, tăng
hơn 2 lần so với năm 2000.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng: Tăng tỷ trọng Công
nghiệp - Xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng Nông - Lâm nghiệp - Thuỷ sản.
Tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 44,3% năm 2000 xuống 34,2% năm 2005 và
31,03% năm 2007, tỷ trọng nghành công nghiệp, xây dựng tăng từ 18,6% lên
30,4% và 32,01% năm 2007; khu vực dịch vụ từ 36,57% năm 2006 lên 36,96
năm 2007.
Từ một tỉnh trước đây thiếu đói triền miên, đến nay Nghệ An đã cơ bản
giải quyết và cân đối được lương thực cho nhân dân. Năm 2006, sản lượng
lương thực đạt 1,142 triệu tấn. Cùng với trồng trọt, chăn nuôi phát triển khá
nhanh; Nông, lâm, ngư nghiệp có bước phát triển khá; Công nghiệp và xây
dựng tiếp tục tăng trưởng: giá trị sản xuất công nghiệp tăng gấp 4 lần so với
đầu nhiệm kỳ.
Việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện
tích cực, nhất là cổ phần hoá, nhờ vậy các doanh nghiệp đã hoạt động ổn định
và hiệu quả hơn. Các loại hình kinh tế tư nhân phát triển khá nhanh, đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong tăng thu ngân sách của tỉnh.

13
Dịch vụ có chuyển biến theo hướng đa dạng hoá. Ngành thương mại

tiếp tục được tổ chức lại đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống nhân
dân. Hoạt động du lịch có khởi sắc, hạ tầng du lịch được quan tâm đầu tư,
khai thác du lịch khá; tổ chức tốt năm du lịch quốc gia Nghệ An 2005 và đón
trên 1 triệu lượt khách du lịch.
Thu ngân sách hàng năm tăng khá, năm 2005 đạt trên 1.700 tỷ đồng,
tăng 4 lần so với đầu nhiệm kỳ. Đến năm 2007 ước đạt 2.010,8 tỷ đồng đạt
104,5 dự toán và tăng 16,6% so với năm 2006. Chi ngân sách đã có nhiều cố
gắng đảm bảo đáp ứng các yêu cầu thiết yếu.
Thu hút đầu tư có bước chuyển biến tích cực. Tổng vốn đầu tư xã hội
được huy động tăng 40% so với 5 năm trước,
Đặc biệt trong năm 2007, mặc dù Nghệ An gặp nhiều thiên tai, dịch
bệnh gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp, giá cả nhiều mặt hàng tăng cao…
Song Đảng bộ và nhân dân Nghệ An phấn đấu đạt và vượt 20/23 chỉ tiêu chủ
yếu và kinh tế - xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,5%.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của tỉnh năm 2007 ước đạt 12.520 tỷ
đồng (theo giá so sánh 1994) tăng 10,5% so với năm 2006. Trong đó: Nông -
Lâm nghiệp - Thuỷ sản tăng 2,88%; Công nghiệp, xây dựng tăng 17,07%;
Dịch vụ tăng 11,72%.
Năm 2007, tỉnh đã thu hút được 2 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số
vốn đăng ký là: 61,7 triệu USD và 36 dự án trong nước với tổng số vốn đăng
ký 10.976 tỷ đồng.
Đến nay sự nghiệp giáo dục, đào tạo đã có bước phát triển vượt bậc.
Cùng với giáo dục, sự nghiệp y tế, văn hoá, thể dục, thể thao cũng đạt được
những kết quả quan trọng. Hệ thống chính trị các cấp trong tỉnh ngày càng
được xây dựng vững mạnh, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm
bảo. Đã và đang xuất hiện nhiều nhân tố mới, tận tình, tận tâm trong sản xuất
kinh doanh phát triển văn hóa xã hội, tiêu biểu mô hình Thanh niên xung

14
phong xây dựng kinh tế ở miền Tây. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

không ngừng được tăng cường.
Trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng dần tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ đã tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần nâng cao
đời sống nhân dân, hạ tỷ lệ hộ nghèo xuống 23% (năm 2006, theo chuẩn mới).
* Nguyên nhân của thực trạng đó.
Nền kinh tế - xã hội của Nghệ An trong những năm gần đây bên cạnh
những mặt hạn chế đã có nhiều bước phát triển rõ rệt, có được những kết quả
đó là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa LLSX và
QHSX vào việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh ngày càng đúng đắn hơn.
Hai là, Đảng bộ tỉnh đã nhận thức và hiểu rõ nguồn gốc, bản chất và tác
hại của chủ nghĩa chủ quan, bệnh giáo điều, máy móc và tư tưởng ỷ lại. Từ
đó, Đảng bộ Nghệ An đã ban hành những chủ trương phù hợp, điều chỉnh, đổi
mới cả ba mối quan hệ của quan hệ sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển
Ba là, thấy được sự tất yếu phải thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế
nhiều thành phần trong một nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu
sản xuất, nhiều hình thức tổ chức quản lý và phân phối khác nhau.
Bốn là, đảng bộ tỉnh đã nhận ra những sai lầm khuyết điểm của mình và
kịp thời đề ra những chủ trương, chính sách đổi mới phù hợp với tình hình
thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Do những nguyên nhân trên nên những năm gần đây, nền kinh tế - xã
hội của Nghệ An đã có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên, Nghệ An hiện nay vẫn là
một tỉnh còn nhiều khó khăn, nhiều vướng mắc cần được giải quyết để đưa
Nghệ An sớm trở thành một tỉnh khá nhất ở miền Bắc như chủ tịch Hồ Chí
Minh hằng mong muốn.
2.3.2. Những khuyết điểm yếu kém.
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu quan trọng song nhìn chung Nghệ
An vẫn còn là một tỉnh nghèo, mức tăng trưởng kinh tế dưới tiềm năng, khai

15

thác nội lực cho đầu tư phát triển còn yếu, chưa phát huy thế mạnh tiềm năng
Hoạt động dịch vụ, trong đó thương mại và du lịch phát triển chưa tương
xứng với tiềm năng. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp thua
nhiều so với bình quân chung toàn quốc.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, sức
cạnh tranh của sản phẩm còn hạn chế, hầu hết các doanh nghiệp chưa tích cực
chuẩn bị các điều kiện để thích ứng với cơ chế thị trường khi hội nhập với
khu vực và quốc tế. Các thành phần kinh tế dân doanh chưa được quan tâm
chỉ đạo đúng. Tiến độ xây dựng các khu công nghiệp chậm, hiệu quả chưa
cao, một số dự án chưa thực hiện được.
Tốc độ đô thị hoá chậm. Mức tăng cơ học dân cư đô thị thấp (tỷ lệ dân
đô thị trong 5 năm chỉ tăng 3%), văn minh đô thị chưa được quan tâm đúng
mức. Quản lý quy hoạch, kiến trúc, xây dựng ở một số địa phương còn yếu
Quản lý và xử lý môi trường ở một số nhà máy công trình xây dựng bệnh
viện, khu đô thị… chưa tốt đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân
dân. Đầu tư phát triển sản xuất, khai thác tài nguyên khoáng sản chưa gắn kết
chặt chẽ với công tác bảo vệ môi trường.
- Những mặt hạn chế trong công tác chỉ đạo dẫn đến kết quả không cao
trong nông nghiệp.
- Trên lĩnh vực kinh tế, tốc độ phát triển còn chậm, chất lượng tăng
trưởng chưa bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, hiệu quả sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp và sức cạnh tranh của sản phẩm còn yếu.
Hiệu quả xúc tiến đầu tư, tốc độ xây dựng cơ bản chưa đạt yêu cầu.
- Việc củng cố, xây dựng QHSX mới còn lúng túng, sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp, nhất là cổ phần hoá làm chậm. Việc tổng kết để cải tiến quản lý
nông trường làm chậm, chỉ đạo thực hiện không kiên quyết. Doanh nghiệp
nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chất lượng hàng hoá và sức cạnh tranh còn
yếu; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh kém phát triển,

16

nhiều khó khăn vướng mắc về thuê đất và giao quyền sử dụng đất, về vay
vốn, về đầu tư chưa được tháo gỡ kịp thời.
Lĩnh vực văn hoá - xã hội còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết tốt.
Các cơ sở khám chữa bệnh, nhất là tuyến huyện chậm được đầu tư nâng cấp.
Vấn đề việc làm cho người lao động, tai nạn giao thông, ma tuý, lây nhiễm
HIV… chưa được giải quyết, ngăn chặn có hiệu quả. Tỷ lệ tăng dân số ở vùng
ven biển, vùng giáo, vùng dân tộc vẫn cao, lực lượng lao động tăng gây sức
ép mạnh về vấn đề giải quyết việc làm.
*Những tồn taị yếu kém mà hiện nay Nghệ An đang mắc phải là do
những nguyên nhân sau:
- Nghệ An là tỉnh có diện tích miền núi rộng lớn (chiếm 83,3%), địa
hình hiểm trở và chia cắt, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, lại là một tỉnh nằm xa
các cực tăng trưởng và các trung tâm kinh tế văn hoá lớn của cả nước, xuất
phát điểm của nền kinh tế. Bên cạnh đó tỉnh nhà chưa có sự nỗ lực thật cao,
hơn nữa, trong thời gian qua, sự đầu tư của nhà nước cho vùng đất này để đẩy
mạnh sản xuất ở một địa phương trọng yếu là chưa đúng mức.
- Năng lực sản xuất còn yếu, thiếu vốn, trình độ khoa học công nghệ
còn lạc hậu, do đó quy mô và năng lực cạnh tranh kinh tế còn thấp; tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi, thiên tai, dịch bệnh vẫn diễn
biến hết sức phức tạp.
- Sản xuất hàng hoá trên địa bàn tỉnh ta chưa phát triển, một số chương
trình, đề án phục vụ xuất khẩu triển khai không đảm bảo tốc độ hoặc thấp so
với mục tiêu đề ra.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp làm công tác nhập khẩu của tỉnh đều là
doanh nghiệp nhỏ, chưa có doanh nghiệp đầu tàu, nguồn nhân lực chưa đáp
ứng yêu cầu hội nhập, thiếu cán bộ giỏi nghiệp vụ, ngoại ngữ, thiếu đội ngũ
thợ lành nghề, cán bộ quản lý năng động…
- Giá cả biến động, nguồn nguyên liệu không ổn định và trên thị trường
cả nước sự cạnh tranh gay gắt.


17
Ngoài những nguyên nhân nói trên, những hạn chế mà Nghệ An gặp
phải còn do các nguyên nhân sau:
- Công tác tuyên truyền quán triệt các nghị quyết của Đảng, chính sách
pháp luật Nhà nước chưa đồng bộ
- Công tác chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết chưa phát
triển tốt, sự phối hợp giữ các cấp các nghành chưa đồng bộ, phân công trách
nhiệm, phân cấp quản lý chưa rõ ràng.
- Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, cán bộ quản lý kinh doanh,
chuyên gia kỹ thuật giỏi, doanh nhân năng động còn ít và chưa phát triển theo
kịp yêu cầu phát triển khoa học kỹ thuật của tỉnh. Công tác quản lý, kiểm tra
giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa phát triển chặt chẽ.
2.2. Vấn đề đặt ra.
- Tích cực đổi mới cơ chế quản lý điều hành, định rõ trách nhiệm của
các cấp, các nghành, có biện pháp đúng đắn, năng động, sáng tạo hơn nữa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải được tiến hành đồng thời với việc phát triển
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và phải gắn liền với phát triển văn hoá, xã hội,
bảo vệ môi trường và bảo đảm quốc phòng an ninh, nhất là an ninh vùng xung
yếu.
- Khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế trong của nước và ngoài tỉnh, từ nguồn đầu tư nước ngoài.
- Cần tận dụng triệt để mặt tích cực của qúa trình hội nhập để tạo ra thế
phát triển mới cho đất nước và cho tỉnh nhà.
- Tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá
với quy mô lớn, đưa kinh tế của tỉnh phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn và
bền vững hơn.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ cho vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào theo đạo. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực có kỹ thuật cao trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt ở các


18
nghành, nghề kinh tế - kỹ thuật. Có chính sách thích hợp để thu hút cán bộ,
nhân tài góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh

Chƣơng 3:
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
PHÁT TRIỂN CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ Ở NGHỆ AN TRONG
THỜI GIAN TỚI.

3.1. Mục tiêu và phƣơng hƣớng tổng quát:
3.1.1. Phương hướng và quan điểm phát triển.
Huy động tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, ưu tiên cho đầu tư
khai thác tiềm năng miền Tây và vùng Biển. Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tạo các mũi đột phá trong
phát triển công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp; chủ động hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế; giữ gìn và phát huy các truyền thống, bản sắc văn hoá xứ
Nghệ; kiểm soát, kìm giữ, đẩy lùi các tệ nạn xã hội và tội phạm; giữ vững ổn
định chính trị, đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội. Nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng. Xây dựng Đảng bộ,
Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ngày càng vững mạnh.
Để thực hiện quan điểm trên cần quán triệt các quan điểm sau:
- Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với bảo vệ và làm giàu thêm môi
trường để đảm bảo phát triển bền vững.
- Phát triển kinh tế phải gắn với chăm lo tốt các vấn đề xã hội, thực
hiện công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền.
- Phát triển phải gắn với xã hội hoá, hiện đại hoá, đi lên từ nền tảng văn
hoá, giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ mới.
3.1.2. Mục tiêu tổng quát.


19
Đoàn kết phấn đấu đưa Nghệ An thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo và
kém phát triển vào năm 2010; cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm
2020; xây dựng thành phố Vinh thành trung tâm kinh tế, văn hoá của vùng
Bắc Trung bộ; quyết tâm đưa Nghệ An sớm trở thành một trong những tỉnh
khá của cả nước.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các thành phần kinh
tế ở Nghệ An trong thời gian tới.
3.2.1. Phát huy vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với
quan hệ sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Nghệ An.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
trong điều kiện nền kinh tế mà sản xuất nhỏ là phổ biến, vấn đề nhận thức và
vận dụng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đòi
hỏi phải vận dụng tối đa năng lực của các thành phần kinh tế để phát triển lực
lượng sản xuất. Không có lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ tiên tiến,
hiện đại sẽ không thể có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cũng như cả
nước nói chung, Nghệ An muốn vươn lên thoát khỏi tình trạng nghèo và kém
phát triển, cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp vào năm 2020, đòi hỏi cả
tỉnh phải nỗ lực phấn đấu, đặc biệt phải quan tâm đầu tư phát triển lực lượng
sản xuất bằng cách:
* Thứ nhất: đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
* Thứ 2, Huy động tối đa nguồn lực cho đầu tư phát triển ở Nghệ An.
* Ba là, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
3.2.1. Xây dựng quan hệ sản xuất ở Nghệ An phải phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
* Trước hết, phải thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
* Thứ hai, nâng cao hiệu quả tổ chức, quản lý kinh tế.
*Thứ ba, hoàn thiện thực hiện các hình thức phân phối.



20
KẾT LUẬN
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản của xã hội, nhận thức và vận dụng quy luật
nhằm giải phóng sức lao động, không ngừng phát triển sản xuất là nhiệm vụ
thường xuyên sống còn của xã hội loài người.
Cũng như cả nước nói chung, Nghệ An trong một thời gian nhất định,
do nóng vội chủ quan khi vận dụng quy luật, Đảng bộ tỉnh đã mắc phải một số
sai lầm khuyết điểm, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất và
khoa học kỹ thuật, làm cho năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp, đời
sống vật chất, văn hoá của nhân dân chậm được cải thiện, đời sống tinh thần
của mọi người không có điều kiện phát triển, khủng hoảng kinh tế - xã hội
xẩy ra làm cho niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng bị giảm sút. Song
với bản chất năng động và cách mạng, Đảng bộ tỉnh đã kịp thời đề ra những
chủ trương chính sách phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của tỉnh nhà, đặc biệt
là việc nhận thức và vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Điều đó được thể
hiện ở những thành tựu mà Nghệ An đạt được về kinh tế - xã hội trong những
năm gần đây.
Để theo kịp với sự phát triển của đất nước, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh phải phải nhận thức rõ tình hình cụ thể
của tỉnh nhà để từ đó phát huy những mặt tích cực, khắc phục những mặt khó
khăn, vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất để đề ra những chủ trương, chính sách phù
hợp sớm đưa nền kinh tế của tỉnh ra khỏi tình trạng kém phát triển, “trở
thành một trong những tỉnh khá nhất ở miền Bắc” như Bác Hồ từng mong
đợi. Đồng thời phải luôn tổng kết thực tiễn để thấy rõ vai trò, tác dụng của
quy luật cũng như phải tiếp tục nghiên cứu tìm tòi, phát hiện những mâu
thuẫn mới trong khi vận dụng quy luật ở địa phương để có các giải pháp phù
hợp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển có hiệu quả.


21
Đặc biệt, khi Việt Nam gia nhập WTO, cơ hội nhiều nhưng thách thức
cũng không ít, vì vậy tỉnh đã đề ra những chủ trương, chính sách lớn nhằm tận
dụng những cơ hội do Việt Nam gia nhập WTO mang lại, phát huy những lợi
thế, tiềm năng của tỉnh để vượt qua thách thức, khó khăn, tạo thế và lực mới
đưa nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, sớm thoát khỏi là một tỉnh
nghèo.
Với tinh thần đó, hy vọng Nghệ An sẽ sớm đưa nền kinh tế của tỉnh nhà
phát triển thêm một bước mới. Tuy nhiên, thực tiễn không ngừng vận động
biến đổi đòi hỏi Nghệ An phải biết phát huy nội lực đồng thời tiếp nhận và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực từ trung ương và bên ngoài, phấn đấu để nền
kinh tế có mức tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ 2001 - 2005. Tạo điều kiện
thuận lợi để chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự túc, tự cấp thành sản
xuất hàng hoá, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản lý, điều tiết hợp
lý của Nhà nước các cấp. Điều đó đòi hỏi Nghệ An phải tìm ra phương thức
phát triển LLSX sao cho tối ưu trên cơ sở điều chỉnh, đổi mới QHSX phù hợp
với trình độ của LLSX ngày một phát triển. Việc vận dụng mối quan hệ biện
chứng giữa LLSX và QHSX ở Nghệ An đến nay đã đạt được một số kết quả
nhất định. Trong giai đoạn tới, nhiều vấn đề mới và phức tạp trong nhận thức
cũng như trong việc vận dụng quy luật này chắc chắn sẽ xuất hiện đòi hỏi
phải được giải quyết ở trình độ cao hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục thống kê Nghệ An (2007), Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An 2007.
2. Cục thống kê Nghệ An (2007), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế
- xã hội năm 2007 tỉnh Nghệ An.
3. Trân Châu (2007), “Tập trung đào tạo nguồn nhân lực, phát triển kết cấu
hạ tầng”, Báo Nghệ An.

×