Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N của NH TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.21 KB, 64 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
sự tồn tại nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh (SXKD), nhiều loại hình doanh
nghiệp (DN) với những quy mô, trình độ khác nhau là tất yếu. Bên cạnh các DN có
quy mô lớn là đầu tàu của nền kinh tế thì các DNV&N luôn đống một vai trò cực kỳ
quan trọng, là một trong những động lực mạnh mẽ tạo nên sự tăng trưởng liên tục của
nền kinh tế, là nơi phát triển các ngành công nghiệp bổ trợ đối với các ngành công
nghiệp mũi nhọn, đóng góp khoảng 25-27% GDP, 31% sản lượng công nghiệp, 67%
vào nguồn thu ngân sách từ thuế và tạo việc làm cho 26% tổng số lao động của cả
nước.
Trong điều kiện của những bước đi ban đầu thực hiện Công nghiệp hóa – Hiện
đại hóa đất nước, có thể khẳng định việc đẩy mạnh và phát triển DNV&N là bước đi
hợp quy luật đối với nước ta. Loại hình DN này phát triển chắc chắn sẽ có tác dụng to
lớn trong việc giải quyết các mối quan hệ mà Quốc gia nào cũng phải quan tâm chú ý
đến đó là: tăng trưởng kinh tế - giải quyết việc làm – kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên việc xúc tiến phát triển các DNV&N trong thực tế ở nước ta lại gặp
rất nhiều khó nhăn như: thiết bị công nghệ lạc hậu, trình độ tổ chức quản lý yếu kém,
năng suất lao động thấp, áp lực cạnh tranh gay gắt…nhưng khó khăn lớn nhất đối với
các DNV&N là vấn đề vốn. Vốn hiện có của các DNV&N thường là rất ít, trong khi
đó nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị lại đòi hỏi rất lớn. Trên thực tế
các DNV&N lại rất khó tiếp cận đựoc với nguồn vốn chính thức từ các NHTM mà
chủ yếu phải huy động từ các nguồn tài chính phi chính thức, không ổn định, lãi suất
cao…Dù phải đối mặt với những khó khăn trên nhưng DNV&N vẫn khẳng định vị thế
quan trọng trong nền kinh tế, không chỉ nhiều hơn về số lượng mà còn cho thấy tính
hiệu quả, linh hoạt trong hoạt động SXKD. Hiện nay, với hơn 200.000 DNV&N,
chiếm hơn 90% số DN cả nước, loại hình DN này đã càng chứng tỏ lợi thế của mình
trong nền kinh tế năng động hiện nay. DNV&N tạo ra khối lượng lớn hàng hóa và
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân Hàng K39
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội


dịch vụ, tạo sự cạnh tranh lành mạnh, góp phần tập trung vốn, giảm tỷ lệ thất nghiệp
trong xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là khu vực nông nghiệp
nông thôn…, giải quyết nhu cầu vốn. Cính các lợi thế đó, tín dụng là một trong những
kênh vô cùng quan trọng, là van điều phối vốn chủ yếu cho các DN. Theo định hướng
của Chính phủ, cả nước sẽ có khoảng 500.000 DNV&N và ước tính 80% lượng vốn
cung ứng cho DNV&N từ kênh NH.
Xuất thân từ thực tiễn nói trên và sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng
TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội, có điều kiện đi sâu tìm hiểu các hoạt động kinh
doanh, đặc biệt là hoạt động tín dụng đối với các DNV&N của NH cộng với những
kiến thức đã được học trong trường nên em đã quyết định chọn đề tài: “Nâng cao
chất lượng tín dụng đối với DNV&N của NH TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà
Nội” để nghiên cứu cho chuyên đề báo cáo thực tập của mình với mong muốn áp
dụng những kiến thức đã học nhằm đưa ra một số giải pháp tăng cường hoạt động cho
vay đối với DNV&N thuộc địa phương tại NH.
Qua đây, cho em xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong khoa Tài chính
Ngân hàng – trường ĐH Kinh tế quốc dân, đặc biệt là thầy Lê Thế Lữ cùng ban lãnh
đạo, các cô chú anh chị phòng Tín dụng NH TMCP Sài Gòn – chi nhánh Hà Nội đã
tạo điều kiện giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành bài chuyên đề thực tập. Chuyên đề
thực tập của em gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng của NHTM đối
với DNV&N
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNV&N của chi
nhánh SCB Hà Nội
Chương III: một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với
DNV&N tại chi nhánh SCB Hà Nội
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại và doanh nghiệp vừa và nhỏ:
1.1.1. Ngân hàng thương mại:
1.1.1.1. Khái niệm và chức năng của NHTM:
NHTM là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân
hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ
thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô
tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
NHTM là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng
triệu cá nhân hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi
tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập
từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia
đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia
đình và một phần đối với Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là
tổ chức cung cấp thẻ tín dịng để phục vụ cho việc mua hang hóa dự trữ hoặc xây dựng
nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp và người tiêu dung phải thanh
toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi,
thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… và khi họ cần thông tin tài chính họ thường đến
các ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Ngân hàng là một trong những tổ chức trung
gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế đặc biệt là
chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính
phủ nhằm ổn định kinh tế.
Dựa theo cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên
phương diện những loại hình mà chúng cung cấp, ta có khái niệm: “ Ngân hànglà các
tổ chức tín dụng cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất. Đặc biệt
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiên nhiều chức năng tài chính nhất
so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Theo luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua vào ngày

12/12/1997 được sửa đổi bổ sung vào ngày 15/6/2004 của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì: “hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Theo điều 05 Nghị định 59/2009/ND-CP về tổ chiức và hoạt động của NHTM
là ngân hàng được thiực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của luật các tổ chức tín
dụng và các quy định khác của pháp luật.
Ngân hàng thương mại thực hiện 3 chức năng chính là:
a. Chức năng trung gian tín dụng: Chức năng trung gian tín dụng được xem là
chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung
gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu
cầu về vốn. Với chức năng này, NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng
vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận
gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi
tiền và người đi vay.
b. Chức năng trung gian thanh toán: Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho
các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng
như trích tiền từ tìa khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc
nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thi khác
theo lệnh của họ. Các HNTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán
tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín
dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán
phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng k39
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một
phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ
tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng

này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc
độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
c. Chức năng tạo tiền: Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản
chất của NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự
tồn tại và phát triển của minh, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc
thù của minh đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức
năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín
dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng
sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử
dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử
dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã
làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán,
chi trả của xã hội.
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM:
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài
chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
• Hoạt động huy động vốn:
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp
các dịch vụ khác. Huy động vốn – hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM – đóng vai trò
quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của NH. Để bắt đầu hoạt động NH
(được pháp luật cho phép) chủ NH phải có một lượng vốn nhất định, vốn chủ sở hữu
là loại vốn NH có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho NH
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất
sở hữu, năng lực tài chính của chủ NH, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Nguồn
vốn chủ sở hữu có thể được hình thành ban đầu, trong quá trình hoạt động, các qũy

hay là nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. Mặt khác, để có thể duy trì và
mở rộng hoạt động kinh doanh tiền tệ, các NH bên cạnh nguồn vốn tự có thì phải huy
động vốn từ các nguồn khác nhau. Các NHTM có thể huy động vón dưới các hình
thức sau:
- Huy động tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng (TCTD)
khác thông qua các công cụ như: mở tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi của các NH khác, tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Đây chính là hình thức huy
động vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NH.
- Huy động nguồn vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, và
các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài.
- Vay vốn của NH Trung Ương và các TCTD khác. Đây là khoản vay nhằm
giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự
trữ NH thường vay NH Nhà nước hoặc vay các TCTD khác.
Ngoài ra, NH có thể huy động vốn từ các nguồn khác như: nguồn ủy thác,
nguồn tổng thanh toán các nguồn khác… các nguồn này thường chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng nguồn vốn huy động của NH
• Hoạt động sử dụng vốn: Hoạt động chính của NHTM là tìm kiếm các khoản
vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các
loại tài sản khác nhau của NH, trong đó cho vay và đầu tư là 2 loại tài sản lớn nhất và
quan trọng nhất.
NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Do đặc thù đó nên phần lớn tài sản của
NH là các tài sản tài chinh, gồm các hợp đồng cho thuê – mua, các chứng khoán,
các khoản tiền gửi…Một phần nhỏ trong khối tài sản của NH là tài sản cố đinh như
nhà cửa, trang thiế bị… Mỗi loại tài sản được hình thành theo các cách thức khác
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
nhau, vì những mục tiêu khác nhau song đều tập trung đảm bảo an toàn và sinh lời
cho NH.

Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở hầu hết các NHTM, phản ánh
hoạt động đặc trưng của NH. Loại tài sản này được phân chia theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Hoạt động cấp tín dụng là một trong các hoạt động chính và quan trọng
nhất của NH. NHTM được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và
các hình thức khác theo quy định của NH Nhà nước như bao thanh toán tài trợ xuất,
nhập khẩu… Trong đó cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất,
đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho NH
• Các hoạt động khác:
Hoạt động đầu tư: đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo mục tiêu thanh
khoản và đa dạng hóa tài sản của NH. NH thường nắm giữ đa dạng các chứng khoán
như chứng khoán chính phủ, tín phiếu kho bạc, chứng khoán của các NH khác và
chứng khoán công ty. Các chứng khoán NH nắm giữ thường được chia làm 2 loại:
- Các chứng khoán kém thanh khoản được giư với mục đích đầu tư, có độ rủi
ro cao và thường được mong đợi có tỷ lệ sinh lời cao.
- Các chứng khoán thanh khoản cao được nắm giữ như một tài sản đệm cho
ngân quỹ, chúng sinh lời cao hơn ngân quỹ và cần có thể bán để chi trả như ngân quỹ.
Các chứng khoán ngắn hạn của chính phủ thường được xếp hàng đầu trong số các
chứng khoán thanh khoản của NH. Bên cạnh đó, một số giấy nợ ngắn hạn do các NH,
hoặc các công ty tài chính nổi tiếng phát hành hoặc chấp nhận thanh toán cũng là các
khoản đầu tư ưa thích của NH.
Ngoài ra NH còn cung cấp các dịch vụ khác như: kinh doanh ngoại hối, ủy thác và
nhân ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động NH, kể cả việc
quản lý tài sản, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện
thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của chính phủ, bảo lãnh, cho thuê
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
thiết bị trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ bảo hiểm và tư vấn…
1.1.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ:

1.1.2.1. Khái niệm về DNV&N:
Theo NĐ 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ
sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có
vốn đăng ký không quá 10tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá
300 người”. Căn cú vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngầnh, địa phương, trong
quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng
thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu trên.
Theo khái niệm trên thì các DNV&N ở Việt Nam bao gồm:
- Các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ và vừa kinh doanh độc lập.
(không phải là các công ty trực thuộc các tổng công ty 90,91)
- Các hợp tác xã có quy mô nhỏ và vừa đăng ký hoạt động theo luật hợp tác xã.
- Các công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa và
nhỏ kinh doanh độc lập đăng ký hoạt động theo luật công ty, luật doanh nghiệp luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký hoạt động theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP
ngày 03/02/2000 của Chính phủ.
1.1.2.2 Đặc điểm của DNV&N
Phần lớn các DNV&N có quy mô nhỏ với vốn tự có nhỏ hơn 10 tỷ và lao động
dưới 300 người. Với đặc điểm này DNV&N có ưu thế: bộ máy tổ chức đơn giản, gọn
nhẹ, không có quá nhiều khâu trung gian, có sự năng động, linh hoạt, khả năng thích
ứng cao, thu hồi vốn nhanh hơn các doanh nghiệp lớn, dễ chuyển hướng sản xuất kinh
doanh khi thấ ngành nghề khác có lợi hơn với chi phí thấp, tận dụng phát huy thế
mạnh địa phương.
Với đặc trưng cơ bản của loại hình DN này, nó đã bao trùm tất cả các đặc điểm
khác của DN. Trong đó có những đặc điểm rất thuận lợi song có những đặc điểm còn
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
hạn chế đối với quá trình phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của DNV&N
- Đặc điểm nổi bật nhất của loại hình NV&N là vốn đầu tư ban đầu thấp (chủ

yếu dựa vào nguồn vốn tự có, vốn huy động ngoài rất ít), khả năng thu hồi vốn nhanh
là cơ sở cho các DN đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư cho công nghệ hiện đại. Còn với
lĩnh vực NH, khi đầu tư sẽ thu hồi vốn nhanh và yên tâm tái đầu tư cho chu kỳ sản
xuất kinh doanh mới tăng khả năng sinh lợi cho hoạt động NH.
- Một đặc điểm nữa giúp DNV&N phân biệt với các DN khác là tính ổn định
trong sản xuất không cao, mặt hàng không mang tính độc quyền và hơn nữa lại không
có định hướng trong ngành nghề, sản phẩm dịch vụ (nhiều chủng
loại nhưng không nhiều về số lượng). DNV&N rất đa dạng về lĩnh vực hoạt động,
trong tất cả các thành phần kinh tế giúp DN nhạy cảm hơn với những biến động của
thị trường, chuyển đổi mặt hàng nhanh, tận dụng được các nguồn nguyên vật liệu,
nhân lực tại chỗ, những nơi không thích hợp cho sản xuất lớn nhưng lại lãng phí nếu
không sản xuất. Đây cũng chính là một ưu thế của DNV&N so với DN lớn.
- Với quy mô vừa và nhỏ nên quá trình sản xuất kinh doanh linh hoạt, chi phí
quản lý nhỏ do công tác điều hành mang tính trực tiếp, ít trung gian đầu mối, các mối
quan hệ nội bộ dễ điều chỉnh giúp các DNV&N tiết kiệm về thời gian, tiền của và tận
dụng được các cơ hội kinh doanh. Thành công của DNV&N là nắm bắt được những
điều kiện cụ thể của đất nước về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động. Đối với
DN lớn, việc sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương gặp rất nhiều khó khăn
do lượng dự trữ thấp. Ngược lại, các DNV&N có lợi thế trong việc sử dụng lao động
dồi dào tại địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sản xuất sẵn có, phát huy
được tiềm lực trong nước cho sản xuất kinh doanh.
- Về nguồn lao động: các DNV&N thu hút nhiều lao động nhưng tay nghề
thường không cao, đa số chưa được đào tạo kỹ lưỡng (tỷ lệ được đào tạo dưới 18%),
trong số 25% lao động có chuyên môn thì chỉ có 6% là có trình độ cao đẳng và đại
học nên không đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa.
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
- Về trình độ công nghệ: DNV&N có thể sử dụng các loại máy móc, thiết bị,
công nghệ tương đối “bình dân”, dễ dàng thay đổi công nghệ, đổi mới trang thiết bị

kỹ thuật, có thể kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, do
còn khó khăn về vốn nên loại hình DN này vẫn còn hạn chế về trang thiết bị, máy
móc thường cũ kỹ lạc hậu. Không chỉ vậy, do năng lực tài chính yếu nên nguồn vốn
tín dụng cho các DNV&N còn hạn hẹp, thêm vào đó hầu như không có khả năng tích
lũy nên các DN này không có vốn bổ sung cho đầu tư thiết bị mới và mở rộng sản
xuất. Tất yếu nhiều DN phải tìm đến giải pháp liên doanh liên kết để có thể thu hút
vốn đầu tư, đổi mới công nghệ.
- Khả năng cạnh tranh của các DNV&N còn thấp. Có đặc điểm này cũng phải
kể đến nhiều lý do song nguyên nhân cơ bản là do khả năng tiấp cận thông tin, tiếp
cận thị trường nên chiến lược kinh doanh không có tính định hướng. Các DN chưa
chủ động tham gia vào các tổ chức, hiệp hội để nắm bắt thêm thông tin cần thiết cho
một chiến lược kinh doanh lâu dài. Và đây cũng là một trong những lý do NH rất ngại
đầu tư vốn cho các DNV&N vì rủi to là rất lớn.
1.2. Tín dụng Ngân hàng đối với DNV&N:
1.2.1. Vai trò của DNV&N trong nền kinh tế thị trường:
Thực tế phát triển kinh tế thế giới đã khẳng định, DNV&N vẫn giữ một vị trí và
vai trò hết sức quan trọng nhằm thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, đảm bảo ổn định
kinh tế, phòng chống nguy cơ khủng hoảng. Khu vực DNV&N là xương sống trong
nền kinh tế của mỗi quốc gia, kể cả các nước có trình độ phát triển cao. Trong bối
cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt như hiện nay, các nước đều chú ý hỗ trợ các
DNV&N nhằm huy động tối đa các nguồn lực và hỗ trợ cho công nghiệp lớn, tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm. Về mặt lý luân và thực tế số liệu thống kê cho thấy
DNV&N có vị trí khá lớn ở nhiều nước trên Thế giới trong đó bao gồm cả các nước
công nghiệp phát triển.
Dù là nền kinh tế nào, các DNV&N đều khẳng định được vai trò không thể thiếu của
mình. Nhất là đối với Việt Nam, khi số lượng các DN quy mô vừa và nhỏ ngày càng
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
đông đảo thì vai trò đối với nền kinh tế cũng càng được thể hiện rõ nét, trên các khía

cạnh:
Thứ nhất, DNV&N có vị trí quan trọng, chúng chiếm đa số về mặt số lượng
trong tổng số cơ sở sản xuấ kinh doanh và ngày càng gia tăng mạnh. Ví dụ, số
DNV&N chiếm tới hơn 99% trong tổng số các DN ở Nhật Bản và Đức. Ở nước ta,
DNV&N chiếm tới 97% trong tổng số DN của cả nước (khoảng hơn 240.000 DN).
DNV&N ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội, cung cấp một
số lượng lớn hàng hóa và dịch vụ cho nền kinh tế góp phần tăng trưởng nền kinh tế
quốc gia. Ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện nghiên cứu kinh tế Trung ương thì hiện
nay khu vực DNV&N chiếm khoảng 30% GDP, chiếm 25% tổng đầu tư xã hội.
Thứ hai, DNV&N giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế,
các DNV&N là những nhà thầu phụ cho các DN lớn. Sự điều chình hợp đồng thầu
phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNV&N được
ví là “thanh giảm sốc” cho nền kinh tế.
Thứ ba, DNV&N giải quyết một khối lượng lớn việc làm cho dân cư, làm tăng
thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo. Tại nước ta, các
DNV&N thu hút khoảng 77% lực lượng lao động phi công nghiệp.
Thứ tư, DNV&N góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng
và chuyển dịch cơ cấu theo vùng, lãnh thổ. Thông thường các DN lớn thường tập
trung chủ yếu pử các vùng kinh tế lớn, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển nhưng lại không
đáp ứng được tất cả các yêu cầu như: lưu thông hàng hóa, dịch vụ, phát triển tiểu thủ
công nghiệp, giải quyết lao động, ổn định đời sống xã hội của nhân dân. Trong khi đó
DNV&N có mặt ở khắp các địa phương, giúp cho cá địa phương có thể khai thác,
phát huy các nguồn lực, tiềm năng của mình để phát triển các ngành sản xuất và dịch
vụ, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ.
Thứ năm, DNV&N góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong
dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn vốn của địa phương. Việc tạo lập DNV&N không
cần
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội

quá nhiều vốn, điều đó khiến cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư. Ngoài ra,
trong quá trình hoạt đông của các DNV&N có thể dễ dàng huy động vốn dựa trên
quan hệ thân thiết như họ hàng, bạn bè. Chính vì vậy DNV&N được coi là phương
tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và
thúc đẩy đầu tư phát triển. Mặt khác, loại hình DN này còn có khả năng tận dụng tiềm
năng, thế mạnh về lao động và nguyên liệu ở các địa phương.
Thứ sáu, DN&N làm tăng nguồn vốn hàng xuất khẩu, hiện nay các sản phẩm
truyền thống manh đậm nét văn hóa đã trở thành nguông xuất khẩu quan trọng, vừa có
ý nghĩa quảng bá cho hình ảnh đất nước vừa tăng nguồn thu nhập cho quốc gia. Ngoài
ra, các DNV&N còn đóng góp đáng kể vào nguồn the ngân sách và chi phối hầu hết
các hoạt động phân phối của cả nươc (chiếm tỷ trọng khoảng 85% năm 2007).
Một vai trò nữa của DNV&N đó là tạo môi trường cạnh tranh. Do số lượng
DNV&N là rất lớn nên mỗi DN phải luôn tìm cách nâng cao hiệu quả kinh doanh,
tăng thu nhập, xây dựng củng cố uy tín, hình ảnh thương hiệu thì mới có thể tồn tại và
phát triển. Vì thế, sự cạnh tranh giữa các DN này diễn ra ngày càng gay gắt sẽ đem lại
một thị trường cạnh tranh lành mạnh và lợi ích cho cả các DN lẫn khách hàng.
Hơn nữa, Các DNV&N còn đóng góp vào việc hình thành và phát triển đội ngũ
các nhà kinh doanh năng động. Để tồn tại và phát triển thì đòi hỏi các DNV&N phải
có những nhà quản lý, những nhân viên có kiến thức, nhạy bén và năng động. Chính
vì thế các DN thường lựa chọn cho mình những người tốt nhất, có khả năng hoàn
thành công việc. Số lượng DNV&N lớn cũng đồng nghĩa với việc tồn tại một tầng lớp
xã hội mới – đó là doanh nhân – là những người năng động.
Như vậy, không còn nghi ngờ gì về tiềm năng và lợi thế của DNV&N. Khi
chúng ta thấy rõ vị trí chiến lược của nó thì cần có những chính sách nhằm hỗ trợ, tạo
điều kiện cho các DNV&N sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
1.2.2. Một số vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng:
1.2.2.1 Khái quát về tín dụng Ngân hàng:

Danh từ Tín dụng (credit) được xuất phát từ tiếng Latinh: Creditum, có nghĩa
là sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau hay nói cách khác là lòng tin.
Theo C.Mác, “Tín dụng là sự vận động của tư bản cho vay”: sự chuyển nhượng
tạm thời một lượng giá trị dư thừa tạm thời từ người sở hữu sang người sử dụng sau
một thời gian nhất định thu về một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Theo luật của các tổ chức tín dịng Việt Nam “Tín dụng là một giao dịch đảm
bảo về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài
chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác). Trong đó, bên
cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất đinh theo
thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả gốc lẫn lãi khi đến kỳ
hạn thanh toán”. Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng nói riêng và
của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo
thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động rủi ro cao nhất.
Tóm lại, tín dụng ngân hàng có thể hiểu cơ bản là việc NH tin tưởng nhường
quyền sử dụng vốn trong khoảng thời gian đã thỏa thuận và kết thúc thời gian đó
người sử dụng vốn phải chấp nhận hoàn trả vô điều kiện cả gốc lẫn lãi.
1.2.2.2 Đặc trưng của tín dụng Ngân hàng:
- Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị trên cơ sỏ lòng tin. Vì vậy lòng tin
là yếu tố đầu tiên để thiết lập nên quan hệ tín dụng. Điều này được thể hiện ở chỗ:
người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời
gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Để đảm bảo thu
hồi nợ đúng hạn, người cho vay thường xác định rõ thời gian cho vay. Việc xác định
thời gian đó dựa vào quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Có nghĩa là, thời
gian cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì lúc đó
mới có điều kiện để trả nợ. Việc xác định thời hạn cho vay không chỉ dựa vào tính có
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
thể dài hơn và ngược lại thì thời hạn cho vay phải ngắn hơn để đảm bảo khả năng

thanh toán của NH.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc phải
hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng có của tín dụng. Vì vốn cho vay của NH
là vốn huy động của những người tạm thời thừa nên sau một thời gian nhất định NH
phải trả cho người ký thác. Mặt khác, NH cần phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt
động như: khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên, chi phí văn
phòng phẩm…nên người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả cho NH một
khoản lãi.
- Tín dụng NH chỉ thay đổi về quyền sử dụng chứ không thay đổi về quyền sở
hữu vốn.
1.2.2.3 Các hình thức cho vay:
Theo luật các tổ chức tín dụng, điều 49 có ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín
dụng cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ
có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước.” Hiện nay, các NH đã và đang thực hiện đa dạng các hình thức
tín dụng, một mặt mang lại thu nhập, mặt khác lại chứa đựng rủi ro. Việc phân loại tín
dung là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức
nhất định, phân loại tín dụng là tiền đề thiết lập quy trình cho vay, đánh giá và nâng
cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp.
+ Căn cứ vào thời hạn vay: chia thành 3 loại:
-Tín dụng ngắn hạn: là laọi tín dụng có thời hạn dười 01 năm, được sử dụng để
bổ sung cho tài sản lưu động.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 01- 05 năm.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 05 năm. Được sử dụng để
cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình
thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay…), cải tiến và mở rộng sản xuất với
quy mô lớn.
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội

+ Căn cứ cào đối tượng sử dụng: 2 loại
-Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn lưu
động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp thiếu hụt vốn lưu động tạm
thời.
- Tín dụng vốn cố định: là loại hình vốn tín dụng được sử dụng để hình thành
tài sản cố định, có nghĩa là đầu tư để mua sắm tìa sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới.
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: 2 loại
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hanhg hóa: là loại tín dụng cấp cho các nhà
DN, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ….
+ Căn cứ vào mức độ đảm bảo: 2 loại
- Tín dụng có đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo
lãnh đứng ra đảm bảo cho khoản nợ vay.
- Tín dụng không có đảm bảo: là hình thức tún dụng không có tài sản hoặc
người bảo lãnh.
+ Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng: 2 loại
- Tín dụng trực tiếp: là hình thức cấp tín dụng không qua trung gian tài chính
nào.
- Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng giữa ngững người có tiền (hoặc
có hàng hóa) với người cần sử dụng tiền (hoặc hàng hóa) đó, thông qua một trung
gian tài chính.
1.2.3. Tầm quan trọng của tín dụng Ngân hàng:
1.2.3.1. Đối với NHTM:
Các DNV&N với đặc điểm vốn tự có ít, trang thiết bị công nghệ lạc hậu, trình độ lao
động thấp…do vậy cần có một lượng vốn ban đầu đủ lớn để tiến hành các hoạt động
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội

cho vay của các NHTM. Để hoạt động kinh doanh tiền tệ của các NHTM có hiệu quả,
khả năng sinh lời cao, các HNTM phải tìm kiếm được những khoản cho vay sinh lời
cao, rủi ro thấp, tức là nâng cao chất lượng tín dụng.Trong hoạt động tài trợ vốn cho
DN, các khoản vay thường lớn và chênh lệch giữa thu nhập – chi phí càng ngày càng
nhỏ do sự cạnh tranh gay gắt giữa các NH, vì thế chỉ cần một số ít khoản cho vay
không thu được sẽ làm cho toàn bộ lợi nhuận của NH bị mất và họ phải đối mặt với
nguy cơ phá sản. Nhờ nâng cao chất lượng cho vay, một mặt giúp NH bảo toàn được
nguồn vốn của mình, đảm bảo khả năng sinh lời, duy trì khả năng thanh khoản, nâng
cao uy tín của NH, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng.
1.2.3.2. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ:
DNV&N ngày càng đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước,
DNV&N luôn mong muốn huy động được nguồn vốn cần thiết một cách nhanh
chóng, chi phí thấp để thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Nâng coao
chất lượng cho vay cũng là mong muốn của các DNV&N. Một khoản cho vay phù
hợp với mục đích sử dụng của khách hàng, với lãi suất kỳ hạn hợp lý tạo điều kiện
thuận lợi cho DNV&N phát triển sản xuất, kinh doanh hiệu quả. Do đó, nâng cao chất
lượng cho vay là động lực thúc đẩy DN hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao khả
năng hạch toán kinh doanh, khả năng tổ chức sản xuất, tạo động lực tìm kiếm đầu ra,
kinh doanh có lãi, nâng cao hiệu quả sử dụng món vay.
Tín dụng NH góp phần hình thành cơ cấu vốn hợp lý cho DNV&N. Mục tiêu
của mỗi DN là tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu tại mức cơ cấu vốn tối ưu. Để
đạt được cơ cấu vốn tối ưu, các DN phải duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa vốn chủ sở hữu
và vốn vay sao cho chi phí vốn bình quân gia quyền nhỏ nhất đồng thời đạt được cân
bằng giữa rủi ro và lợi nhuận của DN. Trong vốn vay của DN thì vốn vay từ NH
thường chiếm tỷ trọng lớn, có chi phí thấp hơn so với các chi phí nợ khác nên nó góp
phần quan trọng trong việc hình thành cơ cấu vốn hợp lý cho DN.
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
Tín dụng NH tạo điều kiện cho DNV&N mở rộng sản xuất hoặc đầu tư chiều

sâu. Muốn mỏ rộng sản xuất các DNV&N bên cạnh việc sử dụng nguồn lợi nhuận tích
lũy cần phải huy động từ các nguồn tài trợ bên ngoài như: Phát hành trái phiếu, vay
NH và các tổ chức tín dụng khác,trong đó nguồn vốn vay từ NH có thể coi là nguồn
có chi phí thấp, dễ tiếp cận nếu DN chứng minh được phương án sản xuất kinh doanh
có hiệu quả, có tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh vay vốn thông qua uy tín của người thứ
ba.
Trong quá trình hội nhập kinh tế đang ngày càng mở rộng như hiện nay thì nền
kinh tế nước ta ngày càng gắn liền với nên kinh tế Thế giới. Các dịch vụ tín dụng
quốc tế như: tín dụng giữa Chính phủ, giữa các tổ chức, giữa các cá nhân với nhau đã
trở thành một phương tiện nối liền kinh tế giữa các nước với nhau. Đây chính là thuận
lợi giúp cho các DNV&N có thể giao lưu kinh tế với các nước khác, qua đó mở rộng
thị phần hoạt động của họ, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa và
chuyển giao công nghệ, những hoạt động này đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn, mà
điều này rất khó khăn cho các DNV&N. Do vậy, vai trò tín dụng của NH càng quan
trọng hơn trong việc hỗ trợ các DNV&N đẩy mạnh xuất khẩu để làm tăng sức cạnh
tranh hàng hóa trên thị trường trong nước cũng như quốc tế, đem lại lợi ích cho quốc
gia.
1.3. Chất lượng tín dụng của NHTM đối với DNV&N:
1.3.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, bất cứ
một DN nào muốn đứng vững và phát triển trong hoạt độngkinh doanh đều đòi hỏi
phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm – dịch vụ kinh doanh của mình
nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu dặt ra của nền kinh tế.NH là một loại hình kinh doanh
tiền tệ và dịch vụ NH, tìm kiếm lợi nhuận nên cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Trong các hoạt động NH thì hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, chiếm
tỷ trọng từ 85-95% doanh thu, mang lại nhiều lợi nhuân nhất song cũng đồng nghĩa
với việc chứa đựng mức độ rủi ro cao nhất. Trên thế giới cũng như nước ta hiện nay,
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội

NH đang ngày càng đa dạng hóa khách hàng, đa dạng hóa các hình thức tín dung, mở
rộng thị trường hoạt động…một mặt làm giảm ớt rủi ro tín dụng, song lại làm tăng
tính rủi ro, chịu sự tác động từ nhiều phía hơn. Chính vì vậy, chất lượng tín dụng có
tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của NHTM. Vậy để có thể đánh giá và đưa
ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, nhằm đảm bảo NHTM kinh doanh có
hiệu quả, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thì chúng ta cần đưa ra khái niệm chung
về chất lượng tín dụng.
Chất lượng tín dụng (CLTD) là một khái niệm phản ánh hiệu quả hoạt động
cho vay của NHTM, nó được hình thành bởi 2 nhân tố: mức độ an toàn của khoản vay
và khả năng sinh lời do hoạt động cho vay mang lại.
CLTD đối với DNV&N là khả năng mở rộng tài trợ (cho vay, thuê, mua…)
của NH phù hợp với nhu cầu của các DNV&N, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
NH cũng như đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Khi các khoản tài trợ được
khách hàng sử dụng đúng mục đích, khách hàng trả được đầy đủ nợ gốc và lãi đúng
hạn cho NH còn khách hàng bù đắp được chi phí và có lợi nhuận thì khoản tín dụng
đó được xem là có chất lượng tốt. Như vậy, NH không những chỉ tạo hiệu quả kinh tế
cho các DN, cho minh mà còn đem lại hiệu quả cho xã hội. Đây chỉ là cách hiểu
chung, khái quát về chất lượng tín dụng mà thôi, vấn đề là chúng ta cần đánh giá chất
lượng tín dụng một cách cụ thể và chính xác dựa trên các chỉ tiêu dưới đây.
1.3.2. Các chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng đối với DNV&N:
Để đánh giá CLTD đối với DNV&N một cách chính xác, đầy đủ chúng ta phải
xem xét và phân tích kỹ lưỡng cả mặt lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội, cả các chỉ tiêu
định tính và chỉ tiêu định lượng trên giác độ của NHTM, DNV&N và nền kinh tế - xã
hội.
1.3.2.1. Các chỉ tiêu định tính:
a. Chất lượng tín dụng biểu hiện ở mức độ đáp ứng nhu cần của khách hàng:
CLTD được đánh giá là tốt khi các DN quan hệ tín dung với NH được đáp ứng
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội

tốt nhu cầu của họ. Khách hàng nói chung và DNV&N nói riêng luôn mong muốn
một quy trình thủ tục đơn giản, gọn nhẹ, khoa học, thuận tiện và thật sự khách quan
trong thái độ làm việc của nhân viên NH. Tất nhiên, dù gọn nhẹ mấy vẫn phải tuân
theo nguyên tắc tín dung, các nguyên tắc đảm bảo an toàn khác. DN được cung cấp
vốn nhanh chóng, kịp thời sẽ giúp quá trình SXKD diễn ra ổn định, nắm bắt được các
cơ hội kinh doanh và giảm được một phần chi phí vốn vay. Cùng với sự phát triển
ngày càng mạnh mẽ của nên kinh tế trong nước cung như thế giới thì sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt. Sự cạnh tranh này buộc các DN phải linh hoạt, sáng tạo hơn trong
hoạt động kinh doanh đầu tư, NH cũng phải đổi mới tư duy, cung cách làm việc, năng
động hơn để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao từ các DN. NHTM không chỉ là người
đánh giá các dự án vay vốn, kế hoạch kinh doanh mà còn đóng vai trò là nhà tư vấn.
Tư vấn cho DN điều chỉnh những mặt chưa hợp lý trong dự án, trong hồ sơ tín
dụng…Cung cấp thêm cho DN các thông tin về các cải tiến trong khoa học công
nghệ, thông tin về tình hình thị trường, xu hướng đầu tư… Giúp đỡ và bám sát DN
khi họ rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính, kinh doanh kém hiệu quả so với dự
tính. Khi ấy đồng vốn của NH không chỉ mang lại lợi nhậu cho DN mà còn hạn chế
được rủi ro tín dụng, đảm bảo NH kinh doanh có hiệu quả.
b, Chất lượng tín dụng của các NHTM đối với các DNV&N còn được thể hiện
qua kết quả kinh doanh và uy tín của NH:
Điều này có nghĩa là một NH được đánh giá có CLTD tốt thì đồng nghĩa với hoạt
động tín dụng phải giúp NH bù đắp được chi phí và mang lại thu nhập. Hoạt động tín
dụng là hoạt động đặc trưng của tất cả các NHTM, hoạt động này đem lại nguồn thu
lớn nhất cho họ song cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro. Ngoài các yếu tố khách quan ra,
rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ phía NH như sai sót tring đánh giá dự án, nghiệp vụ
non yếu…hoặc từ phía chính khách hàng. Để có được CLTD tốt, NH phải không
ngừng hoàn thiện quy trình tún dụng cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng,
nâng cao nghiệp vụ, nắm bắt kịp thời và đầy đủ thông tin…
Nguyễn Thuỳ Linh – Lớp Ngân hàng K39
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội

c, Chất lượng tín dụng của NH còn được thể hiện qua sự phát triển KT-XH:
NH cung cấp tín dụng giúp DN kinh doanh thu được lợi nhuận thì qua đó NH
cũng đạt được hiệu quả trong hoạt động của chính mình. Hiệu quả trong mối quan hệ
thuận chiều này tất yếu đem lại lợi ích cho tổng thể nền kinh tế đất nước: tăng năng
suất lao động, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, thị trường tài
chính ổn định, hệ thống NH phát triển, nâng cao sức cạnh tranh của nên kinh tế trong
nước Với nền kinh tế thị trường chưa phát triển mạnh như ở nước ta hiện nay, nhưng
đóng góp vào sự tăng trưởng chung của đất nước là hết sức quan trọng.
1.3.2.2. Các chỉ tiêu định lượng:
a, Chỉ tiêu về doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ.
Doanh số cho vay là số tiền thực mà NH đã giải ngân cấp cho DN trong đầu tư
cải tiến máy móc thiết bị, mở rộng sản xuất kinh doanh. Doanh sô cho vay và tốc độ
tăng của doanh số cho vay qua các năm thể hiện quy mô và xu hướng của hoạt động
tín dụng là mở rộng hay thu hẹp.
Dư nợ là số tiền mà khách hàng còn nợ NH tại một thời điểm cụ thể.
b, Chỉ tiêu về khả năng cho vay của NH:
Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Nợ quá hạn
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này giúp NH so sánh khả năng cho vay của NH với khả năng huy
động vốn. Chỉ tiêu này lớn là tốt bởi như thế nghĩa là NH thực hiện tốt nghiệp vụ cho
vay, vốn huy động cho vay được nhiều.
Chỉ tiêu về tỷ trọng cho vay đối với DNV&N trong tổng doanh số cho vay.
Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Doanh số cho vay DNV&N
Tổng doanh số cho vay
Nguyễn Thuỳ Linh – lớp Ngân hàng K39
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
20
Chỉ tiêu này cho ta biết tốc độ tăng trưởng của cho vay DNV&N so với tong

cho vay toàn nền kinh tế. Tỷ trọng này càng lớn chứng tỏ NH đã chú trọng vào cho
vay DNV&N.
c, Chỉ tiêu về tình hình nợ quá hạn:
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này nhằm đánh giá chất lượng công tác tín dung. Theo quy đinh cảu NH Nhà
nước Việt Nam thì các NH có tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ lớn hơn 7% được xem là
NH yếu kém, nhỏ hơn 5% thì đánh giá là NH thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng. Nợ
quá hạn là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, do đó NH nào kiểm
soát được nợ quá hạn thì NH đó có chất lượng tín dụng tương đối cao.
d, Chỉ tiêu về khả năng sinh lời:
Tỷ lệ thu lãi cho vay =
Thu lãi cho vay
Dư nợ bình quân
Tỷ lệ này đánh giá khả năng thu lãi của NH trong kỳ, tỷ lệ này càng cao khả
năng thu lãi càng cao và doanh thu của NH càng lớn. Tuy nhiên, không vì thế mà tăng
lãi suất cho vay vì sẽ làm giảm lượng khách hàng của NH. NH nên xem xét và đưa ra
mức lãi suất hợp lý để thu hút khách hàng và đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu
quả.
Chỉ tiều về khả năng sinh lời =
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
Dư nợ bình quân

NH nào có chỉ tiêu này càng lớn thì chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại. Khả
năng sinh lời quyết định đến hoạt động kinh doanh cảu NH. Với các NHTM, hoạt
động kinh doanh luôn đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu, NH nào có lợi nhuận càng
Nguyễn Thuỳ Linh – lớp Ngân hàng K39
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội

cao thì có lợi thế từ khoản lợi nhuận đó Nh có thể đổi mới và nâng cao hình ảnh của
NH, làm cho NH ngày càng phát triển.
21
e, Hệ số sử dụng vốn vay:
Hệ số sử dụng vốn vay =
Tổng dư nợ DNV&N
Tổng nguồn vốn
Hệ số này phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn để đầu tư của NHTM. Nếu hệ
số sử dụng vốn thấp thì cần tăng trưởng dư nợ hoặc giảm tổng nguồn vốn huy động
bằng cách hạ lãi suất huy động, hạn chế rủi ro nguồn vốn tác động đến hiệu quả kinh
doanh. Xem xét và so sánh các chỉ tiêu này qua các thời kỳ (tháng, quý, năm) nhằm
đánh giá tỷ trọng tín dụng đối với DN đã phù hợp với khả năng đáp ứng của bản than
NH cũng như đòi hỏi về vốn của nền kinh tế hay chưa.
Các chỉ tiêu trên đều phản ánh quy mô tín dụng đối với DNV&N, cho thấy khả
năng của NH trong việc đáp ứng nhu cầu vốn của DNV&N, khả năng cạnh tranh, thu
hút khách hàng của NH. Do đó, các chỉ tiêu trên đã thể hiện được phần nào chất lượng
tín dụng. Tuy nhiên, khi đánh giá chỉ tiêu này không thể xem xét trong một thời kỳ
riêng lẻ mà phải đặt trong cả một quá trình để có sự đánh giá đúng đắn.
1.3.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với DNV&N:
1.3.3.1. Các yếu tố khách quan:
a. Nhân tố nền kinh tế:
Bất kỳ DN hay NHTM nào cũng nắm trong tổng thể của một nền kinh tế.
những biến động của nền kinh tế, trình độ phát triển cũng như tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế tác động mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng NH nói chung và tín dụng NH
đối với các DNV&N nói riêng. Thật vậy, khi nền kinh tế ở trạng thái tăng trưởng cao
và ổn định, môi trường kinh doanh ít biến động, hoạt động SXKD có lãi thì nhu vầu
vốn của các DN tăng lên tạo sơ hội cho NH mở rộng tín dung, cũng như chất lượng
tín dụng cũng được nâng lên, ngược lại sẽ làm cho tín dụng NH bị thu hẹp hoặc có thể
Nguyễn Thuỳ Linh – lớp Ngân hàng K39
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội

không phát triển được.
b. Nhân tố chính trị - xã hội:
Tình hình chính trị, an ninh trật tự, an toàn xã hội…ảnh hưởng trực tiếp tới quan
22
hệ tín dụng NH. Nếu tình hình chính trị ổn định,bộ máy lãnh đạo Nhà nước hoạt động
hiệu quả sẽ tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư từ đó khuyến khích các chủ đầu tư
mở rộng quy mô hoạt động làm nhu cầu vốn tín dụng tăng lên, tạo điều hiện cho NH
có thể mở rộng tín dụng một cách có hiệu quả.
c. Nhân tố pháp luật:
Một hệ thống căn bản pháp luật đồng bộ, chặt chẽ, khoa học và ổn định cùng các
cơ quan pháp luật thực thi nghiêm minh, công bằng sẽ là điều kiện cho mọi hoạt động
kinh doanh noi chung và hoạt động tín dụng NH nói riêng được bảo vệ, góp phần vào
sự cạnh tranh lành mạnh giữa các NH trong hoạt động tín dụng. Đó cũng là cơ sở
pháp lý để NH giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra, đảm bảo được
tính sinh lời và an toàn trong hoạt động tín dụng.
d. Điều kiện tự nhiên:
Đây cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng mang tính khách quan
không xuất phát từ con người noi chung hay bản thân khách hàng nói riêng. Đặc biệt
các DN SXKD trong lĩnh vực phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như: nông lâm
thuỷ sản, sản xuất tiêu thụ sản phẩm theo mùa vụ…Thiên tai, những thay đổi bất
thường của tự nhiên không chỉ làm DN khó khăn trong hoạt động SXKD, mà còn có
thể dẫn tới mất trắng, phá sản. Đây là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng mà con
người không phải lúc nào cũng lường trước được.
1.3.2.2. Các nhân tố chủ quan:
a. Từ phía Ngân hàng:
* Quy mô và cơ cấu nguồn vốn: Đây là yếu tố tiền đề để mở rộng vốn tín dụng cho
DNV&N, từ đó quyết định đến quy mô, thời hạn tài trợ của NH đối với khách hàng
nói chung và DNV&N nói riêng.
Nguyễn Thuỳ Linh – lớp Ngân hàng K39
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội

- Vốn huy động: là nguồn vốn chủ yếu để cho vay vì thế NH không chỉ cố gắng
huy động một lượng vốn ngày càng lớn để đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô cho vay
và đầu tư tới DNV&N, mà còn không ngừng đa dạng hóa nguồn để tìm kiếm cơ cấu
23
nguồn có chi phí thấp nhất, ổn định nhất.
- Vốn tự có: đối với mỗi NHTM thì việc mở rộng tín dụng còn phụ thuộc vào
mức vốn tự có của mỗi NH. Luật các TCTD đã quy định tổng dư nợ cho vay của một
khách hang không được vượt quá 15% vốn tự có của NH. Vì vậy, vớn tựu có của NH
quyết định khối lượng tín dụng tối đa mà NH có thể đầu tư cho một DN.
* Chiến lược kinh doanh: Trong nền kinh tế hiện đại, cạnh tranh gay gắt, mỗi
NH phải xây dựng một phương châm, chiến lược kinh doanh hiệu quả. Chiến lược
kinh doanh hiệu quả là điều vô cùng cần thiết, giúp NH có định hướng nhất quán, khai
thác tốt nhất năng lực hiện có và có thể thích ứng một cách tốt nhất với những biến
đổi trong môi trường kinh doanh gay gắt hiện nay.Vì vậy, công tác lập chiến lược
kinh doanh được các NH hết sức coi trọng và có ảnh hưởng kớn đến chất lượng hoạt
động tín dụng NH đối với DNV&N.
* Các chính sách tín dụng: là cương lĩnh tài trợ của một NH, để hướng đãn
chung cho cán bộ nhân viên NH thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Chính sách
tín dụng gồm có chính sách về khách hang, quy mô và giới hạn tín dung, lãi suất, thời
hạn tín dụng và kỳ hạn nợ, các khoản đảm bảo và chính sách với các tài sản có vấn đề.
Chính sách tín dụng đúng đắn, phù hợp sẽ thu hút được nhiều khách hang có uy tín,
năng lực, giúp NH tận dụng tối đa các thuận lợi từ môi trường và phát huy tối đa nội
lực của bản thân NH, đảm bảo khả năng sinh lời, giảm rủi ro trong hoạt động tín
dung, nâng cao chất lượng tín dụng.
* Chất lượng thẩm định tín dụng: Thẩm định tín dụng là việc vô cùng quan
trọng trong hạt động tín dụng. Thẩm định tín dụng là công việc phức tạp, đòi hỏi
nhiều thời gian và trình độ bởi kết quả của công tác này sẽ là cơ sở để ra quyết định
có cho vay hay không. Cũng từ quá trình này, cán bộ tín dụng có thể tư vấn cho khách
hàng về
Nguyễn Thuỳ Linh – lớp Ngân hàng K39

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội
phương án sử dụng vốn hiệu quả hơn, đồng thời xác định số tiền cho vay, thời hạn
cho vay, kỳ hạn trả nợ, phương thức trả nợ phù hợp. Nếu công tác thẩm định không
tốt, không hiệu quả, nội dung không đúng quy định, đầy đủ, chính xác thì có thể gây
24
rủi ro cho NH. Nếu quá trình thẩm định diễn ra quá thận trọng, tốn thời gian, thủ tục
rườm rà thì có thể cả NH và DN sẽ bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tốt. Chi phí thẩm định lớn
cũng làm hạn chế hiệu quả hoạt động tín dụng, giảm sức cạnh tranh của NH. Như vậy,
chất lượng thẩm định có tác động lớn đối với chất lượng tín dụng.
* Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng là tất cả các thông tin về tài chính, quan
hệ tín dụng, đảm bảo tiền vay, tình hình hoạt động và thong tin pháp lý của khách
hàng có quan hệ với NH. Mục đích quan trọng nhất của hệ thống thong tin tín dụng là
tìm kiếm và phát hiện sớm các khoản tín dụng có vấn đề và đánh giá đúng mức độ rủi
ro của các khoản nợ, đồng thời dự báo trước khả năng một khoản tín dụng có thể
chuyển sang nợ xấu. Trên cơ sở thong tin thu thập được, NH sẽ ra quyết định dễ dàng
hơn, quá trình kiểm tra, giám sát tín dụng cũng thuận lợi hơn.
* Công tác kiểm tra, giám sát: Khi thực hiện cấp một khoản tín dụng, NH luôn
phải tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát một cách chặt chẽ để đảm bảo khách hang
sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả, đồng thời có thể hỗ trợ, tư vấn cho
khách hàng để nâng cao hiệu qủa vốn đầu tư.
* Trình độ đội ngũ can bộ, đạo đức nghề nghiệp: Chất lượng tín dụng cao hay thấp
phụ thuộc rất lớn vào trình độ đội ngũ cán bộ NH, đặc biệt là cán bộ tín dụng- những
người trực tiếp thực hiện các hoạt động này. Cán bộ tín dụng có trinh độ nghiệp vụ, có
kiến thức và hiểu biết rộng sẽ phân tích và nắm bắt được tình hình của khách hang và
ra quyết định tín dụng chính xác hơn; khả năng giao tiếp tốt và khả năng marketing
giỏi sẽ ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng tin dụng, nâng cao chất lượng tín dụng. Đội
ngũ lãnh đạo tốt có thể đưa ra những chính sách phát triển hợp lý, có khả năng cạnh
tranh cao trong nên kinh tế.
Nguyễn Thuỳ Linh – lớp Ngân hàng K39
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trường ĐH KTQD Hà Nội

b. Nhân tố từ phía các DNV&N:
* Năng lực tài chính của các DNV&N: năng lực tài chính của DNV&N là một
nhân tố rất quan trọng quyết định đến hiệu quả hoạt động của DN. Năng lực tài chính
25

×