Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Tăng cường quản lý chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Sài Gòn Thương tín (Sacombank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.42 KB, 81 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
3.2.1. Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý 70
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DNNVV : Doanh nghiệp nhỏ và vừa
VNĐ : Việt Nam đồng
NH Sacombank : Ngân hàng Sacombank
TSĐB : Tài sản đảm bảo
UNDP : Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
3.2.1. Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý 70
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, sau khi đã thoát dần khỏi sự tác động từ cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn cần vượt qua.,
đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Các DNNVV hoạt động
kinh doanh trên nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội, có khả năng thích ứng với nền
kinh tế thị trường. Đồng thời các doanh nghiệp này cũng hoạt động bên cạnh
các doanh nghiệp lớn, cung cấp các sản phẩm phụ trợ cho các doanh nghiệp
và tập đoàn kinh tế lớn. Việc quan tâm tới hoạt động kinh doanh của các
DNNVV trong đó bao gồm việc đáp ứng nhu cầu tín dụng cho các doanh
nghiệp này là rất cần thiết. Việc cung cấp vốn cho các DNNVV hiện nay cũng
tiềm ẩn nhiều rất nhiều rủi ro phần lớn DNNVV đều phát triển với tốc độ
nhanh, nhưng lại chưa chuẩn bị tốt về năng lực quản trị, hệ thống thông tin, hệ
thống chính sách khó đứng vững trước áp lực mà lạm phát và khủng hoảng
tài chính thế giới đang tạo ra. Đứng trước thực tế đó, bên cạnh việc tạo các


điều kiện thuận lợi cho DNNVV tiếp cận được nguồn vốn thì bản thân các
ngân hàng, đứng trên giác độ là một doanh nghiệp cũng cần chú trọng trong
công tác quản lý tín dụng.
Nằm trong hệ thống các ngân hàng trên địa bàn thủ đô, chi nhánh Ngân
hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Thương Tín (Sacombank) Hà Nội là chi
nhánh có số lượng đối tượng khách hàng là DNNVV rất lớn. Trong những
năm qua chi nhánh đã thực hiện một số biện pháp để nâng cao chất lượng tín
dụng đối với DNNVV nhưng chất lượng cho vay đối với DNNVV vẫn còn
thấp so với yêu cầu. Xuất phát từ lý do đó, trong thời gian thực tập tại chi
nhánh Sacombank Hà Nội, đề tài: “Tăng cường quản lý chất lượng tín dụng
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Sài Gòn Thương tín
(Sacombank)” đuợc em lựa chọn với mong muốn hoạt động tín dụng đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa của Chi nhánh sẽ phát triển tốt hơn, tương xứng với
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
4
Chuyên đề tốt nghiệp
vị thế của mình trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Khóa luận gồm có những nội dung chính sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Sacombank chi
nhánh Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp nhằm tăng cường quản lý chất lượng tín dụng
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
5
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. Tổng quan về tín dụng ngân hàng

1.1.1. Ngân hàng và các hoạt động cơ bản
Quá trình chu chuyển vốn gián tiếp trong thị trường tài chính xuất hiện
gắn liền với sự ra đời của các trung gian tài chính. Trong đó, ngân hàng là
trung gian tài chính lớn nhất. Vai trò của ngân hàng ngày càng chiếm vị trí
quan trọng trong nền kinh tế của mỗi đất nước cũng như đối với nền kinh tế
toàn cầu. Cùng với sự phát triển không ngừng của thế giới, các loại hình
trung gian tài chính khác đã không ngừng đa dạng hoá dịch vụ và cạnh tranh
trực tiếp với ngân hàng. Vì vậy, để khẳng định sự khác biệt giữa ngành ngân
hàng với các loại hình tổ chức khác, Peter Rose đã đưa ra quan điểm: “
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục tài chính
đa dạng nhất - đặc biệt tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất cứ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế.”
Bên cạnh đó, khái niệm về ngân hàng còn được tiếp cận dưới nhiều góc
độ khác nhau nhưng cho dù tiếp cận dưới góc độ nào thì chúng ta cũng có
thể thấy được rằng, xét đến cùng bản chất thì ngân hàng thương mại là một
doanh nghiệp có bộ máy tổ chức độc lập để quản lý và điều hành kinh
doanh, có nguồn vốn và tài sản riêng…Loại hình doanh nghiệp này là kinh
doanh tiền tệ, cả đầu vào và đầu ra đều là tiền, tài sản có chủ yếu là tài sản
tài chính. Chính vì lẽ đó mục tiêu hoạt động của ngân hàng thương mại là lợi
nhuận và an toàn.
Sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự phát triển ngày
càng nhiều các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp với mục tiêu phục vụ ngày
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
6
Chuyên đề tốt nghiệp
càng tốt hơn những nhu cầu của khách hàng. Nhìn chung, các dịch vụ mà
ngân hàng cung cấp có thể phân chia theo những nhóm cơ bản sau:
• Huy động
Huy động là hoạt động tạo nguồn quan trọng có vai trò quyết định trực

tiếp tới quy mô của hoạt động đầu tư và cho vay của ngân hàng. Khả năng thu
hút của những ngân hàng có uy tín và tiềm lực thường lớn hơn những ngân
hàng khác. Mục tiêu của hoạt động huy động là tìm kiếm nguồn vốn ổn định
với chi phí thấp nhất có thể.
• Cho vay
Đây là một trong những hoạt động sử dụng vốn đem lại nguồn thu nhập
lớn nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này cũng tiềm ẩn rủi ro lớn vì
thế các ngân hàng thường phải có những biện pháp nghiên cứu và phòng
chống các rủi ro có thể xảy ra.
• Thanh toán
Hoạt động thanh toán có truyền thống khá lâu trong ngân hàng và ngày
càng phát triển cùng với sự phát triển của công nghệ ngân hàng cũng như sự
mở rộng mạng lưới hoạt động của ngân hàng. Điều này đã góp phần xoá bỏ
những khoảng cách về không gian, rút ngắn thời gian giao dịch và đem lại sự
tiện lợi tối đa cho khách hàng của ngân hàng.
Bên cạnh các nhóm hoạt động cơ bản trên, các ngân hàng còn không
ngừng khai thác các dịch vụ tài chính mới tư vấn, ủy thác, bảo hiểm và dịch
vụ ngân hàng đại lý…Nguồn thu từ những hoạt động này không ngừng tăng
lên đáng kể. Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong các lĩnh vực truyền thống
của ngân hàng, đặc biệt là sự cạnh tranh của các trung gian tài chính khác và
sự phát triển của công nghệ đã tạo động lực cho sự phát triển ngày càng đa
dạng của các sản phẩm dịch vụ từ ngân hàng.
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
7
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng
1.1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Sự xuất hiện của quan hệ tín dụng gắn liền với sự phát triển của hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hoá vì trong nền kinh tế luôn tồn tại một bộ
phận những doanh nghiệp thừa vốn tạm thời và những doanh nghiệp thiếu

vốn tạm thời. Từ nhu cầu cho vay và đi vay của các doanh nghiệp đã làm nảy
sinh quan hệ tín dụng. Do đó có thể hiểu bản chất của tín dụng là sự vận động
của vốn từ nơi “thừa” tạm thời đến nơi “thiếu” tạm thời để đáp ứng nhu cầu
sản xuất kinh doanh. Như vậy có thể hiểu: “ Tín dụng là quan hệ vay mượn,
sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả và sự tin tưởng.”
Tín dụng là chức năng cơ bản nhất của ngân hàng thương mại về tài sản
giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (tổ chức hay cá nhân) trong đó, bên
cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất
định theo thoả thuận và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả gốc
và lãi khi đến hạn thanh toán. Một cách khác để hiểu về hoạt động tín dụng là:
“Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn
vốn huy động để cấp tín dụng” và “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả
thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng
các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và
các nghiệp vụ khác.” (theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng)
Hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng
thương mại. Chính vì các lý do này mà ngân hàng cần cố gắng tìm ra các cách
hiệu quả để kiểm soát được khả năng hoàn trả các món vay của khách hàng.
Thực tế cho thấy, việc quyết định cho vay của ngân hàng phần lớn dựa vào
những phán đoán của họ về khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong tương lai
mà những dự tính này không phải lúc nào cũng chính xác tuyệt đối. Vì thế đối
với những khoản vay có thời hạn càng dài thì việc dự đoán càng khó khăn
hơn và những rủi ro tiềm ẩn cũng nhiều hơn. Do vậy, trong cơ cấu tín dụng
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
8
Chuyên đề tốt nghiệp
của ngân hàng, các khoản tín dụng ngắn hạn thường chiếm ưu thế.
1.1.2.2. Vai trò của hoạt động tín dụng
Tín dụng có vai trò hết sức quan trọng đối với những chủ thể kinh tế
cũng như đối với nền kinh tế đất nước. Với mỗi đối tượng khác nhau, tín dụng

cũng đóng những vai trò khác nhau nhất định.
• Đối với ngân hàng
Tín dụng có vai trò đặc biệt quan trọng, là hoạt động cơ bản của ngân
hàng. Phần lớn nguồn vốn mà ngân hàng huy động được dùng để cho vay
ngắn hạn các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Hoạt động này đem lại
một phần đáng kể trong thu nhập của ngân hàng vì thế hiệu quả của hoạt động
tín dụng sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của mỗi ngân hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều yếu kém như hiện nay, nhu cầu
vốn đầu tư không lớn, quy mô tín dụng của ngân hàng do những điều kiện
khách quan bị thu hẹp lại sẽ dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn trong ngân hàng.
Tại thời điểm này, ngân hàng sẽ có xu hương giảm bớt việc mở rộng thu hút
vốn. Trước sự cạnh trang gay gắt của nhiều ngân hàng khác, thị phần của
ngân hàng có nguy cơ bị giảm sút vì thế cách tốt nhất là phải chủ động mở
rộng thị trường trên cơ sở nắm giữ ổn định các khách hàng lâu năm. Chính do
lẽ đó nên yêu cầu về nâng cao chất lượng tín dụng càng trở nên cấp thiết hơn.
• Đối với khách hàng
Đối tượng khách hàng của ngân hàng rất phong phú và đa dạng nhưng
chủ yếu nhất có thể phân chia thành nhóm cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc tổ chức
hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhóm đối tượng này. Trước hết, đối
với khách hàng cá nhân hoạt động tín dụng của ngân hàng thường dưới hình
thức cho vay tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng giúp họ có được những tài sản có
giá trị lớn với những khoản chi trả đều đặn hàng tháng khi họ không có đủ
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
9
Chuyên đề tốt nghiệp
năng lực tài chính để đáp ứng ngay các nhu cầu về tài sản. Điều này có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
người dân vì đối với các hộ gia đình có khả năng tập trung tiển của để mua
những đồ dùng cao cấo có giá trị lớn trong một thời gian ngắn là rất khó, thay

vào đó họ có thể mua trả góp thông qua nguồn tín dụng của ngân hàng. Tuy
nhiên, rủi ro của loại hình cho vay này là rất cao nên ngân hàng thường áp
dụng mức lãi suất cao đồng thời khách hàng phải chịu sự giám sát chặt chẽ
của ngân hàng.
Đối với khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp thì vai trò của tín dụng lại
càng trở nên rõ nét hơn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp
luôn có nhu cầu về vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế. Sự cạnh tranh gay gắt
trong nền kinh tế thị trường buộc doanh nghiệp phải không ngừng nâng công
và hiện đại hoá công nghệ nhằm sản xuất những mặt hàng đi đầu và chiếm ưu
thế trên thị trường để tạo được vị thế cho doanh nghiệp mình. Nhưng những
điều này chỉ có thể thực hiện được khi doanh nghiệp nắm trong tay một lượng
vốn nhất định. Bên cạnh đó, việc nắm bắt các cơ hội kinh doanh cũng là vấn
đề sống còn trong thời đại cạnh tranh hiện nay. Muốn có được thành công,
doanh nghiệp không thể bỏ qua những cơ hội đến với mình và vốn ngân hàng
chính là nền tảng giúp doanh nghiệp có thể bắt lấy những cơ hội kinh doanh
tốt. Như vậy, có thể nói tín dụng ngân hàng giúp doanh nghiệp tồn tại và lớn
mạnh trên thương trường. Thực tế đã chứng minh rằng mối quan hệ giữa
doanh nghiệp và ngân hàng càng trở nên khăng khít từ khi có quan hệ tín
dụng. Các doanh nghiệp lớn, có uy tín thường duy trì quan hệ lâu dài với một
đối tác ngân hàng và trở thành khách hàng truyền thống của ngân hàng đó.
Mối quan hệ tương hỗ này đem lại lợi ích cho cả hai phía, doanh nghiệp và
ngân hàng.
• Đối với nền kinh tế
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Sự xuất hiện của các trung gian tài chính giúp cho những người cần vốn và có
vốn có thể tiếp xúc với nhau dễ dàng hơn. Vai trò của ngân hàng – trung gian
tài chính lớn nhất – là không thể phủ nhận đối với bất cứ một nền kinh tế nào.
Nhờ có tín dụng ngân hàng những nguồn vốn nhàn rỗi được huy động

được có thể đến với những nơi, những ngành cần vốn cho phát triển sản xuất,
đáp ứng nhu cầu vốn khi cần thiết. Đối với những nơi, những ngành thừa vốn,
vẫn có thể kiếm tiền từ chính nguồn tiền đang tạm thời nhàn rỗi của mình.
Như vậy, nhờ có hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp tiết kiệm được các chi
phí giao dịch và hạn chế được rủi ro trong kinh doanh. Nhờ có khả năng
chuyên nghiệp của ngân hàng trong việc nắm giữ và thu thập thông tin nên
các nguồn vốn sau khi được đem đi đầu tư sẽ được theo dõi một cách chặt
chẽ, kịp thời để hạn chế những phát sinh tiêu cực.
Đối với những quốc gia đang phát triển, vai trò của tín dụng ngân hàng
càng trở nên quan trọng hơn vì nhờ có nó mà những quốc gia đó có thể tập trung
nguồn vốn và du chuyển những nguồn cốn đầu tư vào những lĩnh vực sao cho
đạt hiệu quả tốt nhất. Không những thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi trong
nước, ngân hàng còn có thể mở rộng thu hút các nguồn khác từ nước ngoài.
Ngân hàng dưới sự bảo trợ của Chính phủ có thể đứng ra vay vốn nước ngoài
sau đó đem cho vay lại ở trong nước. Điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng
trong việc tạo vốn mà còn trong hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên
liệu công nghê, chất xám từ nước ngoài, tiếp nhận tiến bộ khoa học kĩ thuật.
Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và tăng trưởng tín dụng là mối quan
hệ tương hỗ, thúc đẩy lẫn nhau. Tín dụng ngân hàng khuyến khích tăng
trưởng kinh tế thông qua việc tài trợ vốn cho đầu tư. Ngược lại, một nền kinh
tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện cho sản xuất được mở rộng, nhu cầu đầu
tư tăng lên, đồng thời làm tăng quy mô tín dụng. Vì thế, thông qua việc kiểm
soát hoạt động ngân hàng nói chung và tín dụng nói riêng, Ngân hàng Trung
ương có thể thực thi các mục tiêu chính sách tiền tệ của mình trong từng thời
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
11
Chuyên đề tốt nghiệp
kỳ khác nhau.
Tóm lại, hoạt động tín dụng có vai trò quan trọng không những đối với
bản thân ngân hàng mà còn đối với toàn bộ phần còn lại của nền kinh tế. Do

vậy. việc nâng cao chất lượng tín dụng trở nên vô cùng cần thiết để đảm bảo
sự ổn định và phát triển của ngân hàng, tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia.
1.1.2.3. Phân loại tín dụng
Với những mục đích và căn cứ khác nhau, tín dụng có thể được chia
theo nhiều tiêu chí như căn cứ theo thời hạn tín dụng, theo tính chất bảo đảm
của khoản vay, vào cách thức cho vay và vào phương thức tài trợ.
• Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Việc phân loại dựa vào căn cứ này có ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng
đối với ngân hàng. Vì nguồn vốn cho hoạt động tín dụng dựa vào nguồn huy
động từ dân cư trong khi nguồn vốn huy động chủ yếu là ngắn hạn vì thế ngân
hàng phải có sự điều chỉnh cơ cấu thời hạn cho vay, cân đối với kỳ hạn bên
nguồn để vừa đảm bảo tính an toàn, lại vừa đảm bảo khả năng thanh khoản
của ngân hàng. Việc phân loại tín dụng theo thời hạn có ý nghĩa đặc biệt đối
với việc quản lý khe hở kỳ hạn và khe hở lãi suất để tránh rủi ro. Theo quy
định hiện hành thì tín dụng được chia làm ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản cho vay có thời hạn đến 12 tháng.
Các khoản tín dụng này chủ yếu là để đầu tư vào tài sản lưu động.
- Tín dụng trung hạn: là những khoản vay có thời hạn từ trên 1 năm đến
5 năm. Khoản tín dụng này thường được sử dụng để đầu tư đổi mới
hoặc nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thiết bị công nghệ hoặc mở rộng
sản xuất.
- Tín dụng dài hạn: là những khoản vay trên 5 năm. Nói chung do thời
hạn dài nên khách hàng thường sử dụng những khoản tín dụng này để
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
12
Chuyên đề tốt nghiệp
đầu tư vào các lĩnh vực xây dựng cơ bản, bất động sản…thời gian sử
dụng dài.
Tuy nhiên, bên cạnh những loại hình tín dụng có thời hạn rõ ràng thì có

những hình thức tín dụng không xác định được thời hạn rõ tàng như cho vay
theo hạn mức tín dụng hay cho vay luân chuyển. Việc thu nợ cũng như kiểm
soát các khoản nợ trong các loại hình cho vay này thường gặp phải rất nhiều
khó khăn. Vì thế các loại hình cho vay này thường chỉ được áp dụng đối với
những khách hàng có mối quan hệ truyền thống đối với ngân hàng.
• Căn cứ theo tính chất bảo đảm của khoản vay
Tài sản bảo đảm (TSBĐ) là một trong những yêu cầu của bất cứ ngân
hàng nào đối với khách hàng của mình. Nhưng không phải bất cứ khoản vay
nào ngân hàng cũng yêu cầu khách hàng phải có TSĐB, đặc biệt là trong
những trường hợp cho vay theo chỉ định của Chính phủ hay cho vay ưu đãi.
Vì thế, ngân hàng vẫn phải theo dõi các khoản vay này để có những biện pháp
xử lý khi có vấn đề xảy ra. Theo căn cứ này thì các khoản tín dụng có thể chia
làm hai loại:
- Cho vay có tài sản bảo đảm: Đây là loại hình cho vay mà khách hàng
phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba làm bảo
đảm.
- Cho vay không có tài sản đảm bảo: Quan hệ cho vay này chủ yếu dựa
trên sự tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng. Nói chung các
ngân hàng đều cố gắng giảm thiểu tỷ lệ cho vay không có TSĐB do
tính chất rủi ro của nó.
Rõ ràng cho vay có TSĐB là cần thiết nhưng không thể coi đó là điều
kiện tiên quyết khi cho vay. Nói chung việc khách hàng thiếu TSĐB nhưng
muốn vay của ngân hàng là khá phổ biến vì thế làm cho hoạt động tín dụng
của ngân hàng gặp nhiều khó khăn, việc này đòi hỏi chúng ta phải tính đến
những giải pháp có tính toàn diện và dài hạn nhằm khắc phục hiệu quả tình
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
13
Chuyên đề tốt nghiệp
trạng này.
• Căn cứ vào cách thức cho vay

Theo căn cứ này hoạt động cho vay có thể chia làm hai loại:
- Cho vay trực tiếp
Theo phương thức này ngân hàng là người trực tiếp cấp tín dụng cho
khách hàng và khách hàng là người trực tiếp có trách nhiệm hoàn trả nợ bao
gồm cả lãi và gốc cho ngân hàng. Đây là hình thức cho vay phổ biến trong
ngân hàng và có thể được tiến hành qua các phương thức sau:
+ Cho vay từng lần là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng. Với
hình thức này ngân hàng tiến hành cấp tín dụng cho những khách hàng không
có nhu cầu vay vốn thường xuyên và cũng không có nhu cầu hay điều kiện để
được ngân hàng thực hiện thấu chi. Nói chung những khách hàng được áp
dụng hình thức này khi họ có nhu cầu chi tiêu đột xuất chứ không theo chu
kỳ. Hình thức cho vay này khá đơn giản và khách hàng không phải chịu quá
nhiều ràng buộc như các hình thức cho vay khác.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Hình thức cho vay này được áp dụng
đối với những khách hàng có nhu cầu thường xuyên vì thế có thể giảm được
thủ tục cho khách hàng trong mỗi lần vay. Hạn mức tín dụng được xác định
dựa vào những tính toán về vốn dành cho kế hoạch sản xuất kinh doanh và
các nguồn tài trợ khác của khách hàng. Hạn mức có thể áp dụng cho cả kỳ
hoặc cuối kỳ.
+ Cho vay theo hợp vốn: đây là hình thức cho vay mà không phải chỉ
có nguồn vốn tín dụng của một ngân hàng mà còn có sự tham gia của nhiều
ngân hàng đối với một khách hàng sẽ giúp san sẻ rủi ro và khiến cho quá trình
kiểm soát khoản vay càng trở nên chặt chẽ. Đây là hình thức được các ngân
hàng ưa chuộng khi khoản vay là khá lớn và có tính rủi ro.
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
14
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Cho vay luân chuyển: với hình thức này vốn tín dụng của ngân hàng
tham gia rẩt sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc
hoàn trả của doanh nghiệp sẽ được tiến hành khi hàng hoá tiêu thụ xong.

+ Cho vay trả góp: đây là hình thức cho vay mà thay vì phải trả tất cả
khoản vay trong một lần thì khách hàng có thể chia nhỏ khoản nợ và trả đều
đặn trong những khoảng thời gian xác định.
- Cho vay gián tiếp: Điểm khác biệt lớn nhất của hình thức này so với
hình thức cho vay trực tiếp đó là có sự tham gia của một bên trung gian trong
quan hệ tín dụng. Ngân hàng thường áp dụng hình thức cho vay gián tiếp khi
ngân hàng khó có thể tự mình kiểm soát người vay hoặc các khách hàng ở
những địa bàn xa xôi, việc liên hệ gặp phải nhiều khó khăn. Vì thế, hình thức
cho vay gián tiếp không phổ biến bằng hình thức cho vay trực tiếp.
• Căn cứ vào phương thức tài trợ
- Chiết khấu thương phiếu: hình thức cho vay này ra đời từ rất sớm. Đây
là hình thức trao đổi trái quyền, bản chất là việc ngân hàng ứng trước một
khoản tiền nhất định cho người nắm giữ thương phiếu để sở hữu thương phiếu
chưa đến hạn. Nói chung hình thức này có mức độ đảm bảo cao hơn so với
cho vay.
- Cho vay: đây là hình thức cấp tín dụng thông qua việc ngân hàng
“nhường” quyền sử dụng một khoản vốn nhất định cho khách hàng với điều
kiện khách hàng phải hoàn lại khoản tiền đó sau một khoảng thời gian nhất
định bao gồm cả lãi. Đây là hình thức tài trợ phổ biến nhất của ngân hàng
nhưng cũng có độ rủi ro cao nhất.
- Bảo lãnh ngân hàng: là việc ngân hàng sử dụng uy tín của mình để cam
kết thực hiện nghĩa vụ tài chính cho khách hàng (người được bảo lãnh) cho
bên thứ ba (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện đúng cam
kết. Bảo lãnh thường được xếp vào nghiệp vụ ngoại bảng của ngân hàng.
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
15
Chuyên đề tốt nghiệp
- Cho thuê: đây là hình thức tín dụng trung và dài hạn, là hình thức mà
giao dịch tín dụng được thực hiện bằng hàng hoá cụ thể. Cho thuê có hai loại:
cho thuê vận hành và cho thuê tài sản tài chính, trong đó cho thuê tài sản tài

chính chiếm ưu thế hơn. Hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các doanh nghiệp
hạn hẹp về vốn có thể cải tiến, đổi mới công nghệ về phía người cho thuê họ
vẫn có quyền sử dụng đối với tài sản nên vẫn kiểm soát được tình hình sử
dụng tài sản này. Vì hoạt động này rất có lợi cho nền kinh tế nên nó rất thông
dụng ở các nước có nền kinh tế phát triển cũng như đang phát triển.
Hiện nay, trong các ngân hàng Việt Nam hình thức cho vay vẫn là chủ
yếu còn các hình thức còn lại đã từng bước phát triển hơn. Vì thế nhiệm vụ
của các ngân hàng trong thời gian này là cố gắng đẩy mạnh hoạt động cho vay
dựa trên những nền tảng sẵn có. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần chú ý mở
rộng và có chiến lược với các hình thức tại trợ tín dụng khác nhằm đa dạng
hoá sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của khách hàng.
• Căn cứ vào đối tượng tín dụng
Theo tiêu chí này thì tín dụng được chia làm hai loại:
- Tín dụng vốn lưu động: được cấp phát để hình thành vốn lưu động của các
tổ chức kinh tế như cho vay để dự trữ hàng hoá nhằm giúp doanh nghiệp bù
đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Hình thức tín dụng này được thể hiện
dưới dạng:
+ Cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất
+ Cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ
phiếu với thời hạn cho vay là ngắn hạn.
- Tín dụng vốn cố định: Là loại tín dụng được cấp phát để hình thành tài sản
cố dịnh. Loại này thường được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và
đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các công trình mới. Thời hạn
cho vay đối với loại này thường là trung và dài hạn.
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
16
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2. Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1. Khái quát về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Khái niệm DNNVV là một khái niệm chỉ mang tính chất tương đối, nó

có thể thay đổi và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, trong từng thời kỳ, từng ngành cụ thể… Tại mỗi quốc gia trong các
giai đoạn khác nhau khái niệm DNNVV cũng có thể thay đổi sao cho phù hợp
với đường lối chính sách, chiến lược và khả năng hỗ trợ DNNVV của quốc
gia trong giai đoạn đó.
Hiện nay, phần lớn các nước đều sử dụng hai tiêu chí là vốn và số lao
động thường xuyên để xác định DNNVV. Tại Việt Nam, theo Nghị định
90/2001/NĐ – CP ngày 23/11/2001, DNNVV được xác định như sau:
“ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã
đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng kí kinh doanh
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động hàng năm không quá 300 người”.
Theo cách xác định DNNVV này, ở Việt Nam hiện nay có khoảng 80% các
doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm các DNNVV và trong khu vực kinh tế tư
nhân, các DNNVV chiếm khoảng hơn 96% về vốn và khoảng 99% về lao động.
1.2.2. Đặc điểm và vai trò của DNNVV
1.2.2.1. Đặc điểm của DNNVV
Các DNNVV có thể có nhiều loại cơ cấu tổ chức nhưng nhìn chung các
doanh nghiệp này thường thích hợp với cơ cấu tổ chức giản đơn. Thông
thường ở các doanh nghiệp này số lượng nhân viên ít và các nhân viên đôi khi
đảm nhận nhiều công việc trong cùng một lúc.
Quy mô và số lượng vốn của doanh nghiệp không quá lớn nên doanh
nghiệp dễ thay đổi trước sự biến động bất lợi từ môi trường kinh doanh, ứng
phó kịp thời với sự biến động của thị trường như doanh nghiệp có thể dễ dàng
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
17
Chuyên đề tốt nghiệp
chuyển hướng kinh doanh, thay đổi mặt hàng, địa bàn kinh doanh.
Ngành nghề kinh doanh đa dạng và phong phú, cơ bản tập trung vào các
ngành như thương mại, chế biến, xây dựng, dịch vụ, khách sạn, nhà hàng…
Đặc biệt, các DNNVV đã đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát triển các

ngành nghề truyền thống trong nước.
DNNVV là nơi thu hút lượng lao động lớn nhất, tạo nhiều công ăn việc
làm cho xã hội đồng thời góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng,
lãnh thổ.
Các DNNVV thường tập trung khai thác những khoảng trống thị trường,
mặt hàng mới, những đoạn thị trường mà doanh nghiệp lớn ít chú ý. Ngoài ra,
các DNNVV còn trợ giúp tích cực cho các doanh nghiệp lớn trong việc nhận
thầu và các hoạt động dịch vụ.
Đa phần DNNVV có tính tự chủ cao trong hoạt động sản xuất kinh
doanh bởi nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng chủ yếu là vốn tự có, vốn huy
động từ bên ngoài chiếm tỷ trọng nhỏ nên doanh nghiệp ít chịu sự chi phối
quản lý và chỉ đạo trực tiếp của Nhà nước.
Tuy nhiên, trình độ quản lý và tổ chức kinh doanh của chủ doanh nghiệp
còn chưa cao, cơ bản do yếu kém về mặt năng lực, chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm không được đào tạo cơ bản, kinh doanh còn mang tính gia đình, tính
chuyên nghiệp chưa cao.
Hiện nay đa số các DNNVV hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả
mong muốn mở rộng sản xuất kinh doanh đều trong tình trạng thiếu đất để
làm mặt bằng. Việc xin cấp đất, hoặc thuê đất của DNNVV bị cản trở nhiều
bởi hồ sơ, thủ tục khá phức tạp.
Với khả năng tài chính hạn chế, quy mô kinh doanh nhỏ dẫn đến khó
khăn cho doanh nghiệp trong việc huy động vốn trên thị trường. Khả năng tài
chính của doanh nghiệp thấp do chủ yếu dựa vào vốn tự có, doanh nghiệp
thường gặp khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất kinh
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
18
Chuyên đề tốt nghiệp
doanh, đặc biệt là các nguồn vốn trung và dài hạn. Nguyên nhân là do các
doanh nghiệp ngần ngại minh bạch tình hình kinh doanh với ngân hàng, khả
năng lập dự án còn kém, thuyết minh các phương án chưa tốt, không quen các

thủ tục và cách thức tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng.
Các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn khi cạnh tranh trên
thị trường đa phương do không có chiến lược kinh doanh dài hạn, công nghệ
ứng dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh còn lạc hậu và đặc biệt là thiếu
thông tin về thị trường. Các DNNVV chủ yếu tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ
trong thị trường nội địa, chưa mở rộng ra thị trường nước ngoài vốn đa dạng
và nhiều tiềm năng.
1.2.2.2. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số
vai trò tương đồng như sau:
• Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các DNNVV thường chiếm tỷ
trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở Việt Nam chỉ
xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là trên 95%). Vì thế, đóng
góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể.
• Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các
DNNVV là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều
chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có
được sự ổn định. Vì thế, DNNVV được ví là thanh giảm sốc cho nền
kinh tế.
• Làm cho nền kinh tế năng động: vì DNNVV có quy mô nhỏ, nên dễ
điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.
• Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: DNNVV
thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp
ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
19
Chuyên đề tốt nghiệp
• Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường
đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì DNNVV lại có

mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu
ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
1.2.3. Khó khăn của DNNVV khi tiếp cận tín dụng ngân hàng
Các doanh nghiệp hiện nay đang đứng trước tình trạng thiếu vốn để đầu
tư sản xuất kinh doanh trong khi ngân hàng lại ứ đọng vốn, khó giải ngân.
Điều này tạo nên khó khăn lớn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV
khi muốn tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Nguyên nhân trước hết là do tài sản của các DNNVV còn lạc hậu, đa
phần doanh nghiệp sử dụng những công nghệ sản xuất cũ nên giá trị không
cao. Chính điều này cản trở doanh nghiệp đi vay vốn khi giá trị tài sản đảm
bảo thấp, doanh nghiệp không thể vay theo đúng nhu cầu vốn mà mình cần.
Thêm vào đó, do dây chuyền sản xuất chậm đổi mới, sản phẩm của doanh
nghiệp không cạnh tranh được trên thị trường nên kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh không cao. Khi DNNVV lập hồ sơ xin vay vốn của ngân hàng,
chính kết quả không tốt này khiến ngân hàng e ngại về khả năng trả nợ của
doanh nghiệp nên khó lòng chấp nhận hồ sơ vay vốn. Như vậy, có thể thấy
rằng sự lạc hậu trong công nghệ và hoạt động sản xuất đã trở thành chướng
ngại lớn với DNNVV khi tiếp cận vốn vay từ ngân hàng.
Ngoài ra, hoạt động sản xuất kinh doanh của đa số các DNNVV đều là
hoạt động sản xuất manh mún, chộp giật không có những kế hoạch phát triển
cụ thể trong tương lai. Cùng với đó, ý thức chấp hành pháp luật trong kinh
doanh chưa được các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc khiến các ngân hàng
chưa tin tưởng cho vay vốn. Do vậy, muốn tiếp cận được vốn từ ngân hàng,
các DNNVV cần có sự thay đổi trong hoạt động của mình.
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Một nguyên nhân nữa có thể kể đến là do các doanh nghiệp thiếu minh
bạch trong tài chính, dẫn đến sự tín nhiệm của ngân hàng dành cho doanh
nghiệp thấp nên ngân hàng khó giải ngân các món vay cho doanh nghiệp.

Nhiều doanh nghiệp vẫn biết rằng muốn nâng cao năng lực tài chính doanh
nghiệp thì việc thông qua các báo cáo kiểm toán là tối ưu nhất, vì đây là công
cụ kiểm tra tài chính cần và có thể làm tốt chức năng kiểm tra, đánh giá và
xác nhận thông tin tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, hầu hết các doanh
nghiệp nhỏ và vừa vẫn chưa thực hiện kiểm toán.
Đa số các ngân hàng đều nhận định cho DNNVV vay rủi ro cao vì vậy
luôn yêu cầu các tài sản thế chấp. Chính điều này gây ra khó khăn cho
DNNVV khi muốn tiếp cận với tín dụng ngân hàng. Hầu hết các DNNVV gặp
khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn để sản xuất kinh doanh. Một
thống kê của Vụ Tín dụng, Ngân hàng Nhà nước ngày 29/9/2009 công bố,
mới có 50% số doanh nghiệp ngoài quốc doanh (163 nghìn doanh nghiệp) có
quan hệ tín dụng với ngân hàng và tổng dư nợ tín dụng chiếm 27,3% dư nợ
tín dụng của nền kinh tế. Như vậy, có đến 50% doanh nghiệp ngoài quốc
doanh (mà lượng DNNVV chiếm đại đa số) còn phải tự xoay xở từ thị trường
không chính thức với hệ quả khôn lường.
Các ngân hàng e ngại về “tư cách” vay vốn, về năng lực trả nợ của
DNNVV. Vì hầu hết khối doanh nghiệp này là thành phần kinh tế tư nhân nhỏ
lẻ, trình độ quản lý còn nhiều hạn chế. Chính vì những điều này mà DNNVV
gặp rất nhiều trở ngại khi muốn vay vốn từ các ngân hàng để phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.3 Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng
1.3.1 Khái niệm về chất lượng tín dụng
Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại, tín dụng là hoạt động
đem lại nguồn thu nhập lớn nhất nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ và rủi ro
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
21
Chuyên đề tốt nghiệp
cao. Hoạt động tín dụng của ngân hàng vốn dựa phần nhiều vào sự tin tưởng
của ngân hàng vào khách hàng. Ngay cả khi ngân hàng tiến hành phân tích
một cách kỹ lưỡng trong quá trình xem xét một khoản vay thì những phán

đoán về tương lai. Vì thế rủi ro là một điều khó tránh được, khi những rủi ro
tín dụng xảy ra, ảnh hưởng của nó có thể rất trầm trọng. Trước hết thu nhập
của ngân hàng sẽ bị giảm sút dẫn đến tình hình tài chính của ngân hàng gặp
nhiều khó khăn. Sau đó là uy tín của ngân hàng sẽ bị “ sứt mẻ”, nếu nghiêm
trọng thì rủi ro này sẽ đe dọa đến sự tồn tại của ngân hàng và có thể tạo ra
hiệu ứng lan truyền trong toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại.
Vì thế chất lượng tín dụng luôn là một trong những vấn đề được quan
tâm hàng đầu của ngân hàng và các cơ quan quản lý. Để tiếp cận với khái
niệm chất lượng tín dụng có thể theo nhiều phương diện, cơ sở khác nhau tùy
vào mục đích và chủ thể xem xét.
Nhìn chung, có thể hiểu: Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng kịp thời,
hợp lý những yêu cầu về vốn của khách hàng đảm bảo cho sự phát triển của
ngân hàng và sự phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
Quan niệm trên cho ta thấy chất lượng tín dụng không chỉ ảnh hưởng tới bản
thân ngân hàng mà còn có mối quan hệ tới các bên liên quan trong quan hệ tín
dụng và đặc biệt là có sự gắn kết với nền kinh tế. Mỗi một đối tượng lại nhận
diện chất lượng tín dụng ở những khía cạnh khác nhau:
- Ngân hàng: Xét trên góc độ ngân hàng thì chất lượng tín dụng tốt có
nghĩa là phạm vi và quy mô tín dụng phải phù hợp với tiềm lực của ngân
hàng, một mặt đảm bảo nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi đúng hạn. Mặt khác,
phải tạo được ưu thế cạnh tranh cho ngân hàng trên thị trường.
- Khách hàng: Chất lượng uy tín tốt đối với khách hàng là sự phù hợp
với nhu cầu, mục đích sử dụng của khách hàng, thủ tục đơn giản, kỳ hạn và
lãi suất phù hợp với đặc điểm lĩnh vực hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Ngoài ra, chất lượng tín dụng còn thể hiện ở khía cạnh mở rộng được khách
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
22
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng một cách có hiệu quả nhất.
- Nền kinh tế – xã hội: Chất lượng tín dụng phải đảm bảo lưu thông hàng

hóa và tiền tệ thông suốt, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng
với phát triển kinh tế – xã hội, tạo điều kiện tập trung mọi nguồn lực vào
những ngành mũi nhọn, giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm.
Ngân hàng thương mại trước hết là một doanh nghiệp, hoạt động vì
mục tiêu lợi nhuận, nhưng không thể theo đuổi lợi nhuận bằng mọi giá. Tính
hệ thống cao trong ngành ngân hàng sẽ khiến cho các cơ quan quản lý có
những qui định rất chặt chẽ trong hoạt động ngân hàng, điều này đảm bảo cho
hoạt động ngân hàng được an toàn và hiệu quả, tránh những nguy cơ rủi ro
lớn dẫn đến khủng hoảng trong ngân hàng. Vì thế chất lượng tín dụng luôn là
một trong những khía cạnh được kiểm soát chặt chẽ, các ngân hàng phải tuân
thủ những quy định về mức độ an toàn như tỷ lệ nợ quá hạn, khả năng thanh
khoản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ trích lập dự phòng… Một số chỉ tiêu đã trở
thành thông lệ quốc tế. Mức độ cạnh tranh ngày càng gay bắt buộc các ngân
hàng một mặt phải tuân theo những qui định này, mặt khác phải chủ động
đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Việc nâng cao chất lượng tín
dụng là một nhu cầu cấp bách đặt ra cho các ngân hàng thương mại và chỉ khi
nào giải quyết được vấn đề này thì ngân hàng mới có được nền tảng và cơ sở
đảm bảo cho sự phát triển bền vững sau này.
1.3.2 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ẩn chứa nhiều rủi ro một phần do ngân hàng không
thể dự đoán chính xác những khả năng có thể xảy ra. Việc phân tích khách
hàng trong hiện tại chỉ có thể là cơ sở để dự đoán về khả năng hoàn trả trong
tương lai. Nhưng do hoạt động của ngân hàng cũng như của doanh nghiệp
chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường xung quanh vì thế ngân hàng vô hình
chung sẽ là những người cùng phải gánh chịu hậu quả nếu như có rủi ro xảy
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
23
Chuyên đề tốt nghiệp
ra đối với doanh nghiệp.
Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng hay bất cứ lĩnh vực nào cũng vậy,

một mức lợi nhuận hứa hẹn càng lớn thì nguy cơ rủi ro tiềm ẩn cũng khá cao.
Chấp nhận rủi ro là một trong những vấn đề đã trở nên quen thuộc đối với
doanh nghiệp. Hoạt động trong lĩnh vực tài chính với những đặc thù riêng biệt
buộc các ngân hàng đứng trước những rủi ro đe dọa không ít, vì thế để giảm
bớt những rủi ro có thể xảy ra với mình, các ngân hàng thương mại không còn
cách nào khác là phải kiểm soát chặt chẽ hiệu quả của các hoạt động của
mình, tất nhiên vấn đề chất lượng tín dụng lại càng không thể bỏ qua.
Như vậy có thể khẳng định rằng không bao giờ cơ thể loại bỏ được hết
rủi ro trong hoạt động tín dụng, tuy nhiên vấn đề là phải dự đoán và có các
biện pháp phòng ngừa, cảnh báo, ngăn chặn để giảm đến mức tối đa nguy cơ
rủi ro cũng như những hậu quả mà nó gây ra.
Nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với bản
thân ngân hàng mà nó còn đem lại những mặt tích cực cho khách hàng và
toàn bộ nền kinh tế.
1.3.2.1 Đối với ngân hàng:
Ngân hàng thương mại (NHTM) trước hết là một doanh nghiệp có tổ
chức và bộ máy riêng, có thu nhập và chi phí. Nhưng nó lại là một loại hình
kinh doanh đặc biệt, đó là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Những
sản phẩm của ngân hàng mang tính đặc thù cao. Vì thế mục tiêu hoạt động
của ngân hàng là lợi nhuận, lợi nhuận cao và bền vững luôn là cái đích mà các
NHTM hướng tới. Tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân
hàng thông qua lãi vay. Như vây bên cạnh hoạt động đầu tư và cung cấp dịch
vụ khác, hoạt động cho vay đảm bảo thu lợi nhuận lớn cho ngân hàng để bù
đắp những chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra trong quá trình hoạt động. Vì vậy,
muốn tăng thu nhập ngân hàng không thể không chủ ý đến hoạt động tín
dụng. Chất lượng tín dụng tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng tăng thu nhập,
sự an toàn trong hoạt động tín dụng là cơ sở để ngân hàng mở rộng quy mô
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21
24
Chuyên đề tốt nghiệp

tín dụng. Sự mở rộng một cách bền vững sẽ tạo đà cho sự tăng trưởng ổn định
của ngân hàng.
Hiện nay, mặc dù trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị
trường tài chính, nhưng bất kỳ một ngân hàng nào cũng phải chú trọng đến
vấn đề chất lượng tín dụng song song với việc quy mô tín dụng không ngừng
tăng trưởng. Hoạt động cho vay có tính chất phức tạp vì chức năng cho vay
đóng vai trò cơ bản đối với ngân hàng, và mức độ rủi ro ở từng khoản vay có
nhiều khác biệt. Vì thế , ngân hàng phải đánh giá thu nhập mà hoạt động này
mang lại cũng như những rủi ro cảu các khoản vay đồng thời có sự so sánh
tương đối giữa thế mạnh của ngân hàng trong việc triển khai các loại hình cho
vay khác nhau.
Trước hết, nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng có điều
kiện mở rộng quy mô tín dụng, tăng thị phần. Mặt khác, khi chất lượng tín
dụng được nâng cao sẽ góp phần giúp cho ngân hàng tăng khả năng cung cấp
dịch vụ. Chúng ta đã biết tất cả các hoạt động trong NHTM có mối quan hệ
hữu cơ với nhau. Vì thế khi xem xét tác dộng của việc nâng cao chất lượng tín
dụng ngân hàng chúng ta phải đặt nó trong mối tương quan này. Tín dụng có
hiệu quả cao sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có thể mở rộng huy động vốn,
đồng thời tăng cường giới thiệu với khách hàng những dịch vụ mới, hiện đại
mà ngân hàng cung cấp.
Thứ hai, việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giải quyết tốt mối quan
hệ giữa an toàn và sinh lợi. Do ngân hàng có thể giảm bớt những thiệt hại có
thể xảy ra, giảm bớt những chi phí nghiệp vụ và chi phí quản lý. Bên cạnh đó,
nguy cơ về rủi ro tín dụng cũng được giảm thiểu đến mức chấp nhận được.
Không những vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giúp giảm thiểu
những phiền hà mà khách hàng phải gánh chịu khi muốn vay ngân hàng. Điều
này sẽ góp phần thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng.
Thứ ba, chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ giúp cho ngân hàng
thực hiện và duy trì tình hình tài chính lành mạnh. Đây là cở sở quan trọng
Trần Thu Thuỷ Lớp: Tài chính doanh nghiệp 21

25

×