Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Biện pháp xử lý nợ quá hạn ở Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.92 KB, 85 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới theo nghị quyết đại hội VI Đảng cộng
sản Việt Nam (1986) đến nay, chúng ta đã giành được những thành tựu hết sức
quan trọng cả về kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội và ngoại giao. Nền kinh tế
nước ta có những chuyển biến mạnh mẽ: tình trạng sản xuất đình đốn, rối ren
trong lưu thông đã đựoc khắc phục, đa số các doanh nghiệp lam ăn có lãi. Cơ
cấu các ngành kinh tế được chuyển đổi phù hợp với cơ chế mới. đời sống nhân
dân được nâng cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Lạm phát được
đẩy lùi từ mức lạm phát “phi mã” 774,7% năm 1986 đến nay chỉ còn ở mức
một con số. Như vậy, công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa rất quan trọng.
Những thành tựu đã đạt được ở trên có sự đóng góp hết sức quan trọng
của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Thực trạng đường lối đổi mới của Đảng, hệ
thống Ngân hàng Việt Nam bước đầu xây dựng được một hệ thống cơ chế điều
hành thích hợp với cơ chế mới, toàn ngành đã góp phần đẩy lùi lạm phát, ổn
định giá trị đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hệ thống Ngân hàng
Việt Nam còn bộc lộ nhiều yếu kém, tồn tại cần tập trung giải quyết. Trong đó,
tồn tại lớn nhất mà ngành ngân hàng đang dồn toàn tâm toàn lực để giải quyết
đó là vấn đề nợ quá hạn. Hiện nay, nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại
đang chiếm tỷ lệ cao trong tổng dư nợ tín dụng. Tính đến cuối năm 2000, tỷ lệ
nợ quá hạn của toàn hệ thống ngân hàng là 9,4%. Trong khi đó, việc xử lý nợ
quá hạn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc không xử lý dứt điểm đã ảnh hưởng
xấu đến hoạt động kinh doanh, an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại và
nền kinh tế.
Xuất phát từ thực trạng trên, để hệ thống ngân hàng tiếp tục phát huy vai
trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, vấn đề tiếp tục đổi

Website: Email : Tel : 0918.775.368


mới hoạt động của ngành ngân hàng Việt nam hiện nay đã trơ thành một yêu cầu
cấp bách.
Nợ quá hạn ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại của từng ngân hàng thương
mại, do đó việc đổi mới hoạt động ngân hàng được xác định phải thực hiên toàn
diện và sâu sắc, nhưng trước hết phải tập trung nâng cao được chất lượng tín
dụng, đặc biệt là phải tập trung giải quyết, giảm thấp tình trạng nợ quá hạn của
các ngan hàng thương mại. Đây là một trong những vấn đề bức xúc, gay cấn
phức tạp nhất và không thể giải quyết được ngay lập tức, do đó đòi hỏi các ngân
hàng thương mại phải xây dựng được một hệ thống chính sách, giải pháp đồng
bộ và có hiệu quả. Bên cạnh đó, do vấn đè nợ quá hạn không chỉ ảnh hưởng tới
các ngân hàng thương mại mà còn ảnh hưởng tới sự ổn định và tăng trưởng của
nền kinh tế, cho nên cũng cần có sự chỉ đạo của Chính phử và sự phối hợp của
các cơ quan ban ngành có liên quan.
Với mong muốn đóng góp phần vào giải quyết vấn đề nan giải trên, qua
quá trình học tập tại trường đại học Kinh tế quốc dân, qua thời gian thực tập tại
Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp, cùng với việc tham khảo các sách báo, tạp
chí chuyên ngành và được sự hướng dẫn của thầy cô giáo, tôi đã mạnh dạn
nghiên cứu chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Biện pháp xử lý nợ quá hạn ở Sở
giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp”.
Kết cấu của chuyên đề này bao gồm ba chương:
Chương I: Hoạt động của ngân hàng thương mại và nợ quá hạn ở các
Ngân hàng Thương mại.
Chương II: Thực trạng nợ quá hạn ở Sở giao dịch Ngân hàng Nông
nghiệp.
Chương III: Giải pháp và kiến nghị.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NỢ QUÁ HẠN Ở
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Lịch sử hình thành và phát triển
1.1.Lịch sử hình thành.
Lịch sử hình thành và phảt triển của ngân hàng thương mại gắn liền với
lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá kéo
theo sự phát triển của các ngân hàng thương mại, ngược lại các ngân hàng
thương mại cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển của nền kinh tế xã
hội.
Do có sự khác biệt về tiền tệ giữa các vùng kết hợp với sự lưu thông hàng
hoá đã làm xuất hiện nhu cầu đổi tiền. Đứng trước tình hình đó, các thương gia
và chủ hiệu vàng nhận thấy có thể thu được nhiều lợi nhuận từ hoạt động đổi
tiền, do đó họ đã tiến hành kinh doanh tiền tệ thông qua hoạt động đổi tiền. Họ
thực hiện kinh doanh tiền tệ bắng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ, và ngược lại. Lợi
nhuận thu được là từ chênh lệch giá mua bán.Các thương gia và chủ hiệu vàng
được gọi là các nhà kinh doah tiền tệ.
Các nhà kinh doanh tiền tệ thường là người giàu nên họ có két tốt để cất
giữ an toàn. Do yêu cầu cất trữ của các lãnh chúa, các nhà buôn… nhiều nhà
kinh doanh tiền tệ thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Vì nhờ giữ hộ tiền,
nên những người gửi tiền phải trả công cho những người giữ tiền, do đó hoạt
động nhận tiền gửi làm tăng thu nhập cho các nhà kinh doanh tiền tệ. Mặt khác,
việc cất trữ hộ làm tăng khả năng đa dạng hoá các loại tiền, tăng quy mô tài sản
của người kinh doanh tiền tệ. Vì vậy, đây là điều kiện để họ thực hiện việc thanh
toán hộ.
Thông qua hoạt động thực tiễn, các nhà kinh doanh tiền tệ nhận thấy
thường xuyên có người gửi tiền vào và người rút tiền ra, song tất cả người gửi

Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiền không rút tiền cùng một lúc nên đã tạo ra số dư thường xuyên. Do tính chất
vô danh của tiền, các nhà kinh doanh tiền tệ có thể sử dụng tạm thời một phần
tiền gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động cho vay tạo nên lợi nhuận lớn

cho các nhà kinh doanh tiền tệ, do vậy các nhà kinh doanh tiền tệ đều tìm cách
mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền.
Như vậy,các hoạt động đổi tiền, nhận giữ tiền, thanh toán hộ và cho vay
đã xuất hiện từ xa xưa và đến nay hầu như không thay đổi, được gọi tên là “nhà
ngân hàng”.
1.2.Lịch sử phát triển
- Đối với thế giới:
Các ngân hàng trên thế giới, nhìn chung phát triển trải qua bốn giai đoạn:
Đến thế kỷ XV xuất hiện hình thức ngân hàng đầu tiên. Ngân hàng thời
kỳ này được gọi là “ngân hàng thợ vàng” hoặc “ngân hàng thương gia tiền tệ”.
Các ngân hàng này ngoài những nghiệp vụ chính như kinh doanh vàng bạc,
buôn bán, họ còn phát triển thêm các dịch vụ ngân hàng như: đổi tiền, nhận giữ
tiền, thanh toán hộ và cho vay.
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII: Các ngân hàng thợ vàng, ngân hàng
thương gia lúc này phát triển thành các ngân hàng thực sự và hoạt động với ba
nghiệp vụ chính: nhận tiền gửi, thanh toán và cho vay. Đặc điểm của các ngân
hàng thời kỳ này là tất cả các ngân hàng đều có quyền phát hành giấy bạc của
mình vào lưu thông. Điều này đã gây ra sự hỗn loạn về thị trường tiền tệ.
Từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX: Việc tồn tại một số lượng lớn giấy
bac trong lưu thông đã cản trở sản xuất kinh doanh, và Chính phủ không kiểm
soát đưọac thị trướng tiền tệ. Vì vậy, Chính phủ ra luật hạn chế số lượng ngân
hàng phát hành, chỉ có những ngân hàng lớn mới được quyền phát hành giấy bạc
vào lưu thông. Lúc này, ngân hàng phát hành vẫn là các ngân hàng tư nhân.
Từ thế kỷ XX đến nay: Sau cuộc khủng hoảng 1929-1933, hhầu hết các
quốc gia đều quốc hữu hoá các ngân hàng phát hành tiền, hoặc quản lýphần lớn
cổ phần của các ngân hàng phát hành. Việc chọn lựa thống đốc ngân hàng do
Tổng thống hoặc Thủ tướng quyết định. Ngân hàng phát hành trở thành Ngân

Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng Trung ương giữ chức năng quản lý nhà nươc về tiền tệ, chịu sự kiểm soát

chặt chẽ của pháp luật. Hệ thống các ngân hàng thương mại và các trung gian tài
chính khác tập trung vào nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và chị sự quản lý của
ngân hàng Trung ương.
- Đối với Việt Nam:
Ngân hàng đầu tiên thành lập ở Việt Nam là ngân hàng Đông Dương,
thành lập theo sắc lệnh ngày 25/01/1875 của Tổng thống Pháp. Ngân hàng này
vừa giữ chức năng phát hành vừa giữ chức năng: nhận gửi, cho vay, thanh toán.
Ngân hàng Đông Dương vừa là công cụ phục vụ đắc lực chính sách thuộc địa
của Chính phủ Pháp ở các nứơc Đông Dương, vừa là công cụ bóc lột thậm tệ
nhân dân Đông Dương và làm giàu cho tư bản Pháp.
Đến ngày 6/5/1951, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra sắc
lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam với những nhiệm vụ
chính : Quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ; Quản lý
kho bạc nhà nước; Huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất và lưu thônghàng
hoá; Quản lý hoạt động kim dung bằng biện pháp hành chính; Quản lý ngoại hối
và các khoản giao dịch bằng ngoại tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Sau năm 1975, nước ta phải đối đầu với hàng loạt các thách thức lớn.
Ngân hàng nhà nước phải in tiền để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu cho các doanh
nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp. Lượng tiền cung ứng gia tăng trong
điều kiện sản lượng không tăng kịp đã đẩy lạm phát lên cao trong những năm
80. Tình trạng độc quyền trong hệ thống ngân hàng đã góp phần duy trì tình
trạng trì trệ trong các ngân hàng, làm giảm vai trò là trung gian tài cính hoạt
động vì mục tiêu hiệu quả kinh tế.
Đến thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoátập trung sang kinh tế
thị trường có sự quản lya của Nhà nước, hệ thống ngân háng Việt Nam đã có
những đổi mới đáng kể. Mô hình tổ chức của cá sự thay đổi căn bản đố là tách
biệt chức năng quản lýhoạt động tièn tệ, tín dụng với chức năng kinh doanh tiìen
tệ, đa dạng hoá các loại hình ngân hàng, từng bước xoá bỏ độc quyền, chuyển
sang cạnh tranh có sự quản lý của nhà nước. Kể từ đầu những năm 90, hệ thông


Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngann hàng thương mại đã không ngừng phát triển về các loại hình và nghiệp vụ
góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước.
Hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam là hệ thống ngân hàng hai cấp:
Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại. Hệ thống ngân hàng thương
mại gồm có: 04 ngân hàng thương mại nhà nước (ngân hàng ngoại thương,
Ngân hàng đầu tư phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và ngân hàng công
thương), 48 ngân hàng thương mại cổ phàn, 05 ngân hang liên doanh và 29 chi
nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra còn có 917 quỹ tín dụng nhân dân.
Như vậy, hệ thống ngân hàng phát triển theo chiều hướng ngày càng phù
hợp hơn với nhu cầu phát triển của nền kinh tế xã hội.
2. Khái niệm và phân loại
2.1.Khái niệm
Có rất nhiều khái niệm khá nhau về ngân hàng thương mại. Tuỳ từng
nước và từng thời điểm mà có các khái niệm về ngân hàng thương mại.
ở một số nước:
*ở Mỹ:
- Luật ngân hàng (những năm 80): Bất kỳ tổ chức nào cung cấp dịch vụ
nhận tiền gửi có giữ séc và cho vay đều được gọi là ngân hàng.
- Luật ngân hàng (những năm 90): Ngân hàng là một tổ chức tài chính
cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng ngất, đặc biệt là nhận tiền gửi,
tín dụng và thanh toán.
Có một số quan điểm khác cho rằng: Ngân hàng thương mại là một công
ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch
vụ tài chính.
*ở Pháp:
Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên
nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tièn mà
họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
*ở ấn Độ:

Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản ký thác đẻ cho vay hay tài

Website: Email : Tel : 0918.775.368
trợ và đầu tư.
*ở Thổ Nhĩ Kỳ:
Ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm hữu hạnthiết lập nhằm mục
đích nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hốiđoái, nghiệp vụ công hối
phiếu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác.
b)ở Việt Nam:
Sắc lệnh 018 CT/LDGCQL/SL ngày 20/10/1969 của chính quyền Sài Gòn
cũ định nghĩa: Ngân hàng thương mại là mọi xí nghiệp công hay tư lập kể cả chi
nhánh hay phân cục ngân hàng ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động thường
xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài chính với
tiền ký thác nhậ của tư nhân, của xí nghiệp hay cơ quan công quyền.
Pháp lệnh ngâng hàng ngày 23/5/1990 của Hội đồng nhà nước Việt Nam
xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh dónh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương
tiện thanh toán.
Điều 20, Luật ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là một loại
hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động khác có liên quan đặc biệt là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán.
Mặc dù các khái niệm về ngân hàng thương mại là khác nhau, nhưng nhìn
chung ngân hàng thương mại là một đơn vị kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ với ba nghiệp vụ chính là nhậ gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh
toán.
2.2.Phân loại
Ngân hàng thương mại được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau:
*Căn cứ theo hình thức sở hữu:

Ngân hàng thương mại nhà nước.
Ngân hàng thương mại cổ phần.
Ngân hàng thương mại liên doanh.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
*Căn cứ theo tính chất hoạt động:
Ngân hàng chuyên doanh.
Ngân hàng đa năng.
*Căn cứ theo thị trường:
Ngân hàng bán buôn.
Ngân hàng bán lẻ.
*Căn cứ theo hình thức tổ chức:
Ngân hàng phụ thuộc.
Ngân hàng độc lập.
3. Chức năng của ngân hàng thương mại
- Trung gian tài chính:
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức
trong nền kinh tế:
Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu
dùng và đầu tư vượt quá thu nhập. Họ là những người cần bổ sung vốn.
Các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại
của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để
tiết kiệm.
So với tín dụng trực tiếp thì ngân hàng với chức năng trung gian tài chính
đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm,
đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu
tư), từ đó mà khuyến khích đầu tư.
- Tạo phương tiện thanh toán:
Do ngân hàng có thể phát hành séc hoặc cho vay bằng bút tệ nên ngân

hàng có khả năng tạo phương tiện thanh toán.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận
thấy nấu họ có được ssó dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả
để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Khi ngân hàng cho vay, số dư
trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể

Website: Email : Tel : 0918.775.368
dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các
ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.
- Trung gian thanh toán:
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá
và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện cà tiết kiệm chi phí,
ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như : thanh toán
bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…cung cấp mạng lưới thanh toán
điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân
hàng còn thực hiện thnah toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương
hoặc các trung tâm thanh toán. Các trung tâm thanh toán quốc tế cũng được thiết
lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua ngân hangf.
4. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
- Huy động vốn:
Do đặc điểm của ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt
hoath động kinh doanh bằng tiền của người khác, nên hoạt động huy động vốn
được coi là một trong những hoạt động đầu vào chủ yếu cho việc kinh doanh của
ngân hàng thương mại.
Huy động vốn đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới hoạt động của ngân
hàng, do đó các ngân hàng tìm mọi cách để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong
dân cư và các tổ chức kinh tế. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyê n
quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng
nguồn tiền cuả ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và

đẻ có nguồn tiền cá chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực
hiệnnhiều hình thức huy động khác nhau: nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn
và các loại tiền gửi khác nhau. Đồng thời phát hành những giấy tờ có giá cũng
góp phần không nhỏ vào hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.
- Hoạt động tín dụng:
Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, do đó các ngân hàng thương mại
không chỉ huy động vốn mà còn phải sử dụng vốn huy động được để cho vay và

Website: Email : Tel : 0918.775.368
đầu tư vào các tài sản có sinh lời.
Hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng được đa dạng hoá
từ hình thức đầu tư đến loaị hình công việc với thời hạn và điều kiện khác nhau
nhằm thu lợi nhuận tối đa trên cơ sở đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân
hàng với mục đích cuối cùng là an toàn và sih lời.
- Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
Để giảm chi phí lưu thông và tăng mức độ an toàn thuận tiện cho các
doanh nghiệp trong quan hệ kinh doanh ngân hàng thực hiện chức năng làm
trung gian thanh toán cho các doanh nghiệp. Dịch vụ thanh toán của các ngân
hàng gồm: dịch vụ cung ứng các phương tiện thanh toán, dịch vụ thanh toán
trong nước và quốc tế, dịch vụ thu chi hộ, chuyển tiền nhanh và thừc hiện các
thanh toán khác do ngân hàng Nhà nước quy định.
Hoạt động này ngoài việc đem lại thu nhập cho ngân hàng còn có tác
dụng thu hút khách hàng gửi tiền vào tài khoản ngân hàng, từ đó thu hút khách
hàng cho các hoạt động chính.
Trong các hoạt động cơ bản trên thì thu nhập từ hoạt động tín dụng của
các ngân hàng thương mại Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của
các ngân hàng, trong đó khoản cho vay đống vai trò quan trọng nhất quyết định
hiệu quả trong hoạt động ngân hàng. Nhưng hoạt động tín dụng cũng là hoạt
động có độ rủi ro lớ nhất trong hoạt động ngân hàng, do vậy vấn đề đặt ra là
ngân hàng phải quản lý tất các khoản cho vay, tránh tình trạng mất cân đối dẫn

tới sự sụp đổ của ngân hàng. Như vậy, chất lượng hoạt động tín dụng quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương mại hiện nay.
II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Khái niệm và phân loại tín dụng ngân hàng
- Khái niệm
Tín dụng xuất phát từ chữ La Tinh Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín
nhiệm.
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn .
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụngmột lượng giá trị,

Website: Email : Tel : 0918.775.368
dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó
hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng thể hiện quan hệ giữa các tổ
chức tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân.
Trong mối quan hệ này, tín dụng đóng vai trò trung gian cho nên ngân
hàng vừa là người cho vay, vừa là người đi vay.
Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ, bao gồm tiện
mặt và bút tệ trong đó bút tệ là chủ yếu. Tín dụng ngân hàng là tín dụng thương
mại có quan hệ chặt chẽ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Vì đối tượng vay mượn
chủ yếu là tiền tệ, do đó tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng rất linh hoạt
và có nhiều ưu thế nổi bật.
- Phân loại
Có nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng khác nhau tuỳ theo yêu cầu
của khách hàng và mục tiêu quản lý của khách hàng:
+ Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường
được dùng để cho vay bbổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của các doanh
nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân.
Tín dụng trung hạn: Là tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm dùng để cho

vay vốn mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây
dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng
để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
+ Căn cứ vào hình thức:
Chiết khấu thương phiếu: Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tưong ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng
để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ).
Cho vay: Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ

Website: Email : Tel : 0918.775.368
khách hàngcủa mình.
Cho thuê: Là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng theo
những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc
lẫn lãi cho ngân hàng.
+ Căn cứ vào tài sản đảm bảo:
Tín dụng có tài sản đảm bảo: Là loại tín dụng mà người nhận tín dụng
cam kết về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng
trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng.
Tín dụng không có tài sản đảm bảo: là loại tín dụng được cấp cho các
khách hàng có uy tín, thường là khách hànglàm ăn thường xuyên có lãi, tình
hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay
tương đối nhỏ so với vốn của người vay.
+ Căn cứ vào rủi ro:
Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như: khách hàng chậm tiêu thụ, tiíen độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng
gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…

Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn.
Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
- Vai trò tín dụng ngân hàng đối với ngân hàng:
Hoạt động kinh doanh cơ bản nhất của ngân hàng thương mại là hoạt
động tín dụng. Đây là hoạt động thường xuyên nhất, mang lại lợi nhuận lớ nhất
cho ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng
thu nghiệp vụ của ngân hàng. Nhưng, đây cũng là hoạt động có độ rủi ro cao. Vì
vậy, việc hạn chế rủi ro tín dụng hay nâng cao chất lượng tín dụng đóng vai trò
hêtswcs quan trọng, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của một ngâ hàng.
Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng có thể điều hoà vốn vì ngân

Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng không thể chỉ nhận tiền gửi mà không cho vay hay đầu tư. Cũng thông qua
hoạt động tín dụng, ngân hàng hạn chế rủi ro về vốn, rủi ro thanh khoản…Hoạt
động tín dụng giúp ngân hàng mở rộng và củng cố mối quan hệ với khách hàng
lâu năm, tìm kiếm thêm khách hàng mới, mở rộng thêm các loại hình kinh
doanh, dịch vu khác như: bảo lãnh, thanh toán , chuyển tiền, giữ hộ…
Trình độ quản lý, năng lực về nghiệp vụ của cán bộ nhân viên ngân hàng
cũng được nâng lên thông qua hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng còn góp
phần nâng cao vị thế, uy tín, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Chính vì tín dụng có vai trò quan trọng đối với ngân hàng, cho nên các
ngân hàng không ngừng mở rộng và hoàn thiện nghiệp vụ tín dụng đảm bảo an
toàn và lợi ích của ngân hàng.
- Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với người đi vay:
Trong nền kinh tế thị trường, vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp hầu
như đều nhỏ hơn nhu cầu sử dụng vốn trong hoạt động của doanh nghiệp. Có
nhiều kênh cung cấp vốn, nhưng tín dụng ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn

chủ yếu cho những người thiếu vốn, nhất là ở những nước mà thị trường tài
chính chưa phát triển mạnh như ở Việt Nam. Nguồn vốn đi vay ngân hàng vẫn
chiếm tỷ trọng lớn và quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng đã trở thành một kênh cung cấp vốn tin cậy cho các nhu cầu
của những người thiéu vốn mà không tốn nhiều công sức, chi phí, thời gian cho
việc tìm kiếm như khi tự bản thân đi tìm.
Nguồn vốn vay ngân hàng là nguồn vốn mà khách hàng tiếp cận ở mọi
nơi, mọi lúc với các điều kiện và phương thức thanh toán phong phú đa dạng,
giúp cho họ tranh thủ được các cơ hội sản xuất kinh doanh. Vốn vay ngân hàng
là một trong những nguồn vốn sẵn có rẻ nhất và linh hoạt nhất, có thể đáp ứng
nhu cầu vốn lớn và có thời hạn dài cho các khách hàng. Các khoản vay ngân
hàng trở thành “chất bôi trơn” cho các hoạt động của khách hàng và làm cho
hoạt động của khách hàng có hiệu quả hơn, vì họ không những trả gốc và lãi cho
ngân hàng, mà còn chịu sự kiểm tra giám sát và nhậ được sự tư vấn của ngân
hàng trong quá trình sử dụng vốn vay cũng như trong các hoạt động sản xuất

Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh doanh của mình.
- Vai trò của tín dụng ngân hàn đối với nền kinh tế:
Tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền
kinh tế. Tín dụng ngân hàng điều hoà vốn từ nơi chưa có nhu cầu sử dụng sang
nơi có nhu cầu sử dụng cho qúa trình sản xuất kinh doanh. Tín dụng ngân hàng
thúc đẩy sản xuất và lưu thông phát triển, góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản
xuất mở rộng. Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn là công cụ điều hoà lưu thông
tiền tệ, và thông qua đó điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng có liên quan chặ chẽ với tất cả các lĩnh vực của nền
kinh tế. Các hình thức tín dụng ngày càng đa dạng nhằm thoả mãn nhu cầu về
vốn của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy quan trọng đẻ doanh nghiệp
tổ chức sử dụng vố có hiệu quả nhất, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nhà nước sử dụng vốn tín dụng như một công cụ quan trọng để thúc đẩy

sản xuất phát triển, kiểm soát kinh tế, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật, củng cố hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế…
Tín dụng ngân hàng còn là đòn bẩy quan trọng để thúc đẩy quá trình hình
thành và mở rộng các quan hệ giao lưu kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư vốn ra
nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
III. NỢ QUÁ HẠN
1. Khái niệm
Hoạt động tin dụng là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong cơ cấu tài sản của ngân hàng thương mại, và đem lại phần lợi nhuận lớn
nhất cho ngân hàng thương mại. Nhưng đây cũng là hoạt động luôn luôn chứa
đựng nguy cơ rủi ro. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn liền với việc không thu
được nọ khi đến hạn. Việc phát sinh nợ quá hạn là điều khó có thể tránh khỏi,
nhưng nếu nợ quá hạn phát sinh quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn đến tình trạng mất
khả năng thanh toán của ngân hàng thương mại. Vậy, thế nào là nợ quá hạn?
Theo quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho
vay vốn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng quy điịnh rõ: Nợ quá hạn trong

Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh doanh của ngân hàng là hiện tượng khách hàng không có khả năng trả nợ
đúng hạn mà đã cam kết trả trong khế ước vay trước đây. Nếu không được điều
chỉnh kỳ hạn nợ, hoặc được gia hạn nợ thì số nợ đến hạn phải chuyển sang nợ
quá hạn, và khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn đối với số tiền trả chậm.
Cũng có quan điểm cho rằng: Nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng là hiện
tượng đến thời hạn thanh toán khoản nợ, người đi vay không có khả năng thực
hiện ngay nghĩa vụ của mình đối với người cho vay.
Như vậy, có thể thấy nợ quá hạn thực chất là một khoản tín dụng được cấp
ra nhưng không thể thu hồi được ddúng theo thoả thuận. Nợ quá hạn được xác
định theo công thức:
2. Phân loại

Nợ quá hạn được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau để làm căn cứ
xây dựng kế hoạch thu hồi vốn trong từng trường hợp cụ thể . Sau đây là một số
phương pháp phân chia thường được áp dụng nhất:
2.1. Căn cứ vào thời gian quá hạn:
Nợ quá hạn dưói 180 ngày.
Nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày
Nợ quá hạn trên 360 ngày.
2.2. Căn cứ vào khả năng thu hồi:
Nợ quá hạn thông thường đòi đủ 100%.
Nợ quá hạn khó đòi, khả năng thu hồi không đủ và phải kéo dài.
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.
2.3. Căn cứ vào thành phần kinh tế:
Nợ quá hạn của các doanh nghiệp nhà nước.
Nợ quá hạn của các doanh nghiệp tư nhân.
Nợ quá hạn của các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Nợ quá hạn của các hộ cá thể.

Tổng số tiền quá hạn
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nợ quá hạn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.4. Căn cứ theo biện pháp bảo đảm tiền vay:
Nợ quá hạn có boả lãnh của bên thứ ba.
Nợ quá hạn còn vật tư, còn hàng hoá tồn kho chơ bán và có tài sản hình
thành từ vốn vay.
Nợ quá hạn có tín chấp.
Nợ quá hạn có xác nhận của cấp chủ quản.
Nờ quá hạn có người thừa kế hợp pháp theo pháp luật trả thay.
2.5. Căn cứ theo thời hạn khoản vay:

Nợ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn.
Nợ quá hạn của các khoản vay trung dài hạn.
2.6. Căn cứ theo nguyên tệ:
Nợ quá hạn theo VND.
Nợ quá hạn theo ngoại tệ.
2.7. Căn cứ thro nguyên nhân phát sinh
Nợ quá hạn do lỗi người vay : yếu kém về trình độ quản lý, khả năng cạnh
tranh, do người vay cố tình không trả nợ…
Nợ quá hạn do lỗi của người cho vay: thường bao giờ cũng gắn với lỗi
người vay (sự đồng tình, thông đồng).
3. Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn
Nợ quá hạn là vấn đề cấp thiết hiện nay mà các ngân hàng thương mại
đang dồn toàn tâm toàn lực để giả quyết. Để hạn chế tối đa tỷ lệ nợ quá hạnở các
ngân hàng thương mại hiện nay thì cần thiết phải tìm ra nguyên nhân phát sinh
nợ quá hạn để có biện pháp khặc phục. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra nợ quá
hạn, song, nhìn chung chúng có thể được xếp vào các loại nguyên nhân chính
sau đây:
3.1. Nguyên nhân khách quan
3.1.1. Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Sự tồn tại và phát triển của khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng. Hiệu quả và chất lượng của các khoản tín dụng dựa trên sơ sở

Website: Email : Tel : 0918.775.368
phương hướng sản xuất kinh doanh cuả người vayvốn. Hiệu quả kinh tế của
người đi vay ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng thu
được gốc và kãi tiền cho vay hay không phụ thuộc chủ yếu vào người vay vốn
sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả hay không. Khách hàng sử
dụng vốn của ngân hàng gặp rui ro điều tất nhiên là ngân hàng chịu hậu quả dây
chuyên.
Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích:

Khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng không đúng với mục đích đã đưa
ra trong đơn xin vay vốn. Khách hàng có thể sử dụng vốn vay vào kinh doanh
không đúng đối tượng, sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư trung và dài hạn vào tài
sản cố định, hoặc đã có đủ tiền trả ngân hàng nhưng chưa đến hạn trả nợ, hoặc
đã có tiền nhưng chưa đủ trả ngân hàng, khách hàng sử dụng tiền đó vào hoạt
động kinh doanh khác và gặp rủi ro.
Khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng kém:
Do trình độ tổ chức, quản lý hoạt động kinh doanh của giám đốc doanh
nghiệp kém,thiếu kinh nghiệm kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nên khi
lập phương án có những tính toans không hợp lý. Ban giám đôc không đánh giá,
phân tích những biến động và xu hướng phát triển của thị trường nên không
tranh thủ thời cơ và bị động trước sự thay đổi của môi trường kinh tế, không tìm
ra hướng đi cho doanh nghiệp của mình. Doanh nghiệp bị thua lỗ, dự án bị đổ
vỡ, nguồn trả nợ ngân hàng bị đe doạ.
Khả năng kém thích nghi với môi trường cạnh tranh:
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế luôn luôn phải cạnh tranh
với nhau. Cạnh tranh tồn tại một cách khách quan trên mọi lĩnh vực kinh tế- xã
hội. Nếu doanh nghiệp nào thắng trong cạnh tranh thì sẽ tồn tại và phát triển,
còn ngược lại doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ và phá sản. Khi doanh nghiệp không có
chính sách chiến lược cạnh tranh hợp lý, không tận dụng được thời cơ, không
nắm bắt được nhu cầu thị trường thì doanh nghiệp sẽ không thể đứng vững được
trong cạnh tranh. Khi xuất hiện khả năng này ngân hàng thu được nợ từ các
doanh nghiệp rất thấp.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khách hàng cố tình lừa đảo:
Có nhiều khách hàng “cố tình” đưa ra các hồ sơ hợp pháp , các dự án có
hiệu quả để dược vay vốn ngân hàng. Khách hàng dùng cùng một tài sản thế
chấp để vay vốn nhiêu ngân hàng, khi đẫ được vay vốn thì sử dụng cho các mục
đích cá nhân, hoặc bỏ trốn, hoặc lúc đầu khách hàng vay và trả nợ nghiêm chỉnh,

khi tạo được lòng tin của ngân hàng thì sử dụng vốn vay vào mục đích khác.
Nếu ngân hàng không phát hiện kịp thời thì đây sẽ là nguyên nhân phát sinh các
khoản nợ khó đòi hay mất vốn.
Ngoài ra, còn có một ssó khách hàng muốn vay vốn ngân hàng nhưng lại
không muốn trả nợ cho ngân hàng, mặc dù có khả năng trả nợ ngân hàng. Đó là
một hành động có chủ ý. Loại nguyên nhân này được xềp vào loại nguyên nhân
rủi ro về tư cách, đạo đức của người vay. Rủi ro đạo dức cũng là một vấn đề do
thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Bên cho vay có
thể không biết, tát cả những gì mà họ cần biết về khách hàng để dưa ra quyết
định đúng đắn. Đây là nguyên nhân khá quan trọng gây ra nợ quá hạn và rủi ro
tín dụng cho ngân hàng. Trong những trường hợp này, phần lớn ngân hàng cần
phải có sự can thiệp, giúp đỡ của pháp luật.
3.1.2. Nguyên nhân khác:
Một trong những nguyên nhân khách quan làm phát sinh nợ quá hạn là sự
biến động về kinh tế. Việt nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường chưa được bao lâu, nên nhiều doanh nghiệp vẫn chưa
thích ứng được với cơ chế thị trường. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ, phá sản và như vậy tất yếu sẽ gây ra nợ quá hạn đối với
ngân hàng. Quy luật phát triển kinh tế mang tính chất chu kỳ, lúc thịnh vượng
kinh tế phát triển nhanh, doanh nghiệp sẵn có khả năng chi trả. Lúc suy thoái,
sản xuất kinh doanh đình đốn sẽ làm cho mọi hoạt động doanh nghiệp gặp khó
khăn, thậm chí không trả được nợ ngân hàng gây tình trạng nợ quá hạn.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, quy luật cạnh tranh diễn ra hết sức
quyết liệt. Hàng hoá của nhiều doanh nghiệp Việt nam không đủ sức cạnh tranh
với háng hoá nước ngoài. Bên cạnh đó, những thay đổi thường xuyên về nhu cầu

Website: Email : Tel : 0918.775.368
và thị hiếu của người tiêu dùng làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
diễn ra hết sức khó khăn, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Môi
trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, cơ chế chính sách cơ chế chính sách thường

xuyên thay đổi, hệ thống pháp lý không đồng bộ, điều này ít nhiều ảnh hưởng
đến hoạt động của ngân hàng. Ví dụ, việc sắp xếp lại các doanh nghiệp bằng
biện pháp giải thể, sáp nhập, cổ phần hoá không đồng bộ với việc chuyêbr và
nhận các món nợ ngân hàng sang đơn vị mới nên dễ gây ra tình trạng nợ quá hạn
do những khoản nợ đó vô chủ, và không có ai có trách nhiệm trả nợ.
Sự biến động kinh tế chính trị trong khu vực và trên thế giới làm ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời có thể dẫn đến sự thay đổi
chính sách, điều đó đã làm ảnh hưởng đến chất lượng các khoản tín dụng.
Thiên tai, địch hoạ là rủi ro bất khả kháng của ngân hàng và khách khi
thực hiện một hợp đồng vay. Khi rủi ro này xảy ra sẽ có ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh nghiệp, kéo theo ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Nếu rủi ro xảy ra lớn đòi hỏi phải có thời gian để ổn định sản xuất kinh
doanh mới có khả năng trả nợ, hoặc thậm chí không thể khắc phục được. Tuy
nhiên, cả ngân hàng và khách hàng đều có biện pháp dự phòng khắc phục một
cách tốt nhất, nên nợ quá hạn xảy ra do nguyên nhân này thường không nhiều.
Nợ quá hạn còn phát sinh do cơ chế chính sách của ngân hàng Nhà nước
Việt nam chưa đầy đủ. Ngân hàng nhà nước cho phép một doanh nghiệp được
vay vốn của nhiều ngân hàng thương mại, hoặc nhiều chi nhánh của một ngân
hàng thương mại nhưng khác tỉnh. Từ đó các ngân hàng thương mại cùng cho
một doanh nghiệp vay vốn mà không biết nhau, dẫn đến việc khách hàng đảo
nợ, vay tiền của ngân hàng này trả nợ ngân hàng kia, và cuối cùng là việc tranh
chấp giữa các ngân hàng thương mại với nhau khi khách hàng không trả nợ.
3.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Ngân hàng thiếu một chính sách rõ ràng, nhất quán hoặc chính sách tín
dụng không phù hợp với thực trạng nền kinh tế-xã hội. Chính sách tín dụng
ohải được hiểu thê nghĩa đầy đủ, bao gồm định hướng chung trong việc cho vay,
chính sách khách hàng, ngành nghề được ưu tiên… Chính sách tín dụng của một

Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngân hàng là kim chỉ nam cho hoạt động tía dụng của ngân hàng đó. Khi chính

sách tín dụng không đầy đủ, đúng đắn và thống nhất, nó sẽ tạo ra định hướng
lệch lạc cho hoạt động tín dụng dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối
tượng, thiếu hiệu quả, tạo ra kẽ hở cho người vay và các đối tượng khác lợi
dụng, dẫn đến rủi ro tín dụng.
Ngân hàng chưa thực sự chú trọng vào mục tiêu của khoản vay, tính toán
không đầy đủ chính xác, dẫn đến quyết định sai lầm trong cấp tín dụng. Việc
đánh giá vè người vay, khoản vay chưa đúng mức, hoắc quá chủ quan tin tưởng
vào người vay, từ đó coi nhẹ khâu kiểm tra, không kiểm tra toàn diện về tình
hình tài chính, phi tài chính của người vay, quá coi trọng tài sản thế chấp, bảo
lãnh (coi là đảm bảo chắc chắn trong mọi trường hợp rủi ro), từ đó coi nhẹ tính
khả thi và khả năng hoàn vốn của bản thân dự án.
Cán bộ tín dụng ngân hàng chưa được dào tạo đầy đủ, không am hiểu về
khía cạnh kinh tế- kỹ thuật của dự án, của ngành kinh doanh của ngân hàng đầu
tư, không đủ năng lực them định một cách đầy đủ khoa hoạ về dự án đầu tư dẫn
đén xác định sai hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của người vay. Việc không
am hiểu về pháp luật cũng có thể dẫn đén các khoản vay không đảm bảo được
quyền lợi cho ngân hàng khi xảy ra tranh chấp trước pháp luật.
Ngân hàng thiếu thông tin tín dụng hoặc thông tin tín dụng không chính
xác, kịp thời , chưa có phân loại khách hàng , thiếu hệ thống phân tích , đánh
giá khách hàng một cách đầy đủ , khách quan , đúng đắn .Việc thiếu thông tin sẽ
dẫn đến nảy sinh vấn đề sự lựa chọn đối nghịch trước khi xảy ra giao dịch.Chọn
lựa đối nghịch xảy ra khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết
cục không mong muốn (đối nghịch ) tức là những rủi ro không trả được nợ , họ
lại tích cực tìm vay nhất và do vậy họ có nhiều khả năng được vay nhất. Người
cho vay do sự lựa chọn đối nghịch dẫn đến có thể những người bị từ chối không
cho vay lại là những người trả được nợ, ngược lại những người được vay lại có
phương án liều lĩnh , do vậy họ đã bị thất bại và không trả được nợ .
Một bộ phận cán bộ ngân hàng yếu kém về năng lực , phẩm chất , lợi
dụng vị trí công tác để trục lợi , tham ô, thậm chí làm trái nguyên tắc gây nên nợ


Website: Email : Tel : 0918.775.368
quá hạn và thiệt hại cho ngân hàng .
Ngân hàng thiếu một cơ cấu theo dõi , quản lý rủi ro , chưa có hệ thống đo
lường , phân tán rủi ro theo tong loại khách hàng , ngành nghề hoặc địa bàn. Hệ
thống kiểm tra , kiểm soát yếu kém , lỏng lẻo không kịp thời phát hiện , chấn
chỉnh và sửa chữa các sai sót trong hoạt động kinh doanh nói chung và họat
động tín dụng nói riêng.
4. Ảnh hưởng của nợ qúa hạn
Nợ qúa hạn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại là hiện
tượng khách quan nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng của một ngân
hàng , và là một trong một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của một
ngân hàng. Tuy nhiên nợ quá hạn không chỉ dừng lại trong phạm vi ngân hàng .
Nếu nợ qúa hạn quá cao , sẽ trở thành vấn đề nghiêm trọng , gây ra những hậu
qủa không lường đến không những cho bản thân ngân hàng đó , mà còn ảnh
hưởng đến cả hệ thống ngân hàng , quyền lợi của người gửi tiền và toàn bộ nền
kinh tế .
- Ảnh hưởng của nợ qúa hạn đối với ngân hàng
+ Nợ quá hạn làm giảm hiệu quả huy động vốn :
Nợ quá hạn phát sinh đồng nghĩa với việc một phần vốn kinh doanh của
ngân hàng tồn đọng trong các khoản nợ này . Việc tồn đọng này làm cho ngân
hàng mất đi cơ hội làm ăn khác có thể đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, hay
một phần vốn kinh doanh của ngân hàng bị tồn đọng trong các khoản nợ này, và
nó làm giảm vòng quay vốn của ngân hàng. Nói cách khác, nợ qúa hạn phát sinh
đã làm giảm doanh số cho vay của ngân hàng,từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng
vốn.
Nợ quá hạn làm giảm lợi nhuận: Thu nhập của ngân hàng chủ yếu phát
sinh từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Đồng thời, nguồn vốn của ngân hàng
chủ yếu từ nguồn vốn huy động phải trả chi phí hu động vốn. Do vậy, khoản vay
không thu hồi được dẫn đến một bộ phận tài sản của ngân hàng đóng băng làm
giảm thu nhập mà vẫn phải trả chi phí huy động vốn.

Nợ quá hạn làm giảm khả năng thanh toán:

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các khoản nợ quá hạn phát sinh làm thay đổi khách hàng cũng như nguồn
thanh toán tiền. Hơn nữa tỷ lệ nợ qúa hạn trên tổng dự nợ cao dẫn đến tình trạng
mất khả năng thanh toán của ngân hàng.Nếu khách hàng nắm được dấu hiệu này
sẽ ồ ạt đến rút tiền, và ngân hàng.
Nợ quá hạn làm giảm uy tín của ngân hàng :
Do ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng tiền của người khác,
nên tỷ lệ nợ qúa hạn của ngân hàng cao, tức là chất lượng tín dụng của ngân
hàng không cao, có thể ảnh hưởng đến tính thanh toán của ngân hàng. Điều này
sẽ làm cho khách hàng không còn tin tưởng vào hiệu quả hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, dẫn tới việc giảm đáng kể các quan hệ giao dịch của ngân hàng.
Nợ quá hạn làm tăng nguy cơ phá sản:
Đây là ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của nợ qúa hạn đối với hoạt động
ngân hàng. Nếu nợ qúa hạn ở mức độ cao không sớm được hạn chế sẽ dẫn tới
hàng loạt các ảnh hưởng xấu nêu trên, và sẽ dẫn tới đỉnh điểm là sự phá sản của
ngân hàng.
Nợ quá hạn làm giảm tốc độ chu chuyển vốn:
Trong nền kinh tế hiện đại, hầu hết các hoạt động thanh toán giao dịch của
khách hàng chủ yếu dựa vào vay vốn ngân hàng. Do vậy, tình trạng nợ qúa hạn
dây dưa khó đòi của khách hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp quan hệ của khách hàng
với ngân hàng, làm giảm tốc độ luân chuyển vốn của khách hàng.
Lãi suất nợ qúa hạn quy định bằng 150% mức lãi suất cho vay. Như vậy
nếu một doanh nghiệp phát sinh nợ qúa hạn sẽ làm tăng chi phí hoạt động lên,
Diều đó càng làm tăng gánh nặng trả nợ ngân hàng.
Việc phát sinh nợ quá hạn sẽ làm khách hàng mất uy tín đối với ngân
hàng. Vậy mà, trong hoạt động của minh, khách hàng rất cần có quan hệ với
ngân hàng. Nợ quá hạn phát sinh là vật cả lớn gây ra khó khan cho khách hàng.
Sé không còn có một ngân hàngân hàng nào muốn duy trì quan hệ lâu dài với

doanh nghiệp có tỷ lệ nợ qúa hạn cao, bởi đây chính là tín hiệu nói lên hoạt động
có hiệu qủ của doanh nghiệp.
- Ảnh hưởng của nợ qúa hạn đối với nền kinh tế

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hệ thống ngân hàng tài chính là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và chứa
đựng nhiều rủi ro, chỉ cần một tổn thương nhỏ cũng có thể gây nên những xáo
trộn lớn trong quá trình điều hành nền kinh tế.
Nợ quá hạn gây ra sức ép lạm phát:
Nợ quá hạn ở mức độ cao sẽ dẫn đến sự khan hiếm vốn một cách giả tạo.
một khối lượng lớn vốn tồn đọng trong các khoản nơ quá hạn dấn đến tiền trong
lưu thông giảm sút, gây sức ép tăng cung tiền mà hậu qủa là lạm phát.
Nợ quả hạn làm đình trệ sản xuất:
Nợ qúa hạn còn ảnh hưởng lớn đến việc lưu thông tín dụng, làm cho vốn
bị un tắc, không đến được nơi cần vốn để phát triển hoạt động sản suất kinh
doanh, gây đình đốn, anh r hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế.
Nợ qúa hạn làm khủng hoảng hệ thống tài chính tiền tệ ngân hàng,khủng
hoảng kinh tế:
Ngân hàng là kênh chủ yéu, thực hiện huy động và cho vay phát triển kinh
tế, hoạt động ngân hàng là hoạt động khinh tế mang tính xã hội cao, anh rhưởng
về chất lượng hoạt động ngân hàng mang tinh day chuyền. Tỷ lệ nợ qúa hạn cao,
nều khong dược kịp thời có biện pháp quản lý và xử lý se gây ra thua lỗ cho
ngân hàng. Hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư, do vậy bị thu hẹp, ảnh
hưởng tiều cực đến sự tăng trưởng của nền kinh tế, đồng thời trực tiếp làm
khung r hoảng kinh tế xã hội.
Các dấu hiệu của khoản nợ có vấn đề:
Trong thực tế có nhiều dấu hiệu biểu hiện một khoản vay có nguy cơ quá
hạn . Tuy nhiên, khong có mô hình nhất định nào về các biến cố thường xuyên
xảy ra để có thể kết luận khoản vay khó được hoàn trả. Mặc dù vậy, trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại, có thể dựa vào một số đấu hiệu sau để

xem xét khả năng tài chính của người vay có thể dẫn tới nợ qúa hạn :
Tính khả thi của dự án thấp, sản phẩm làm ra có dấu hiệu bão hoà.
Thu nhập của người vay không ổn định, công việc thay đổi thường xuyên.
Người vay cố tình trì hoãn việc nộp các báo cáo tài chính cho ngân hàng :
bằng việc phân tích các báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng có thể tìm ra những

Website: Email : Tel : 0918.775.368
yếu kém của các doanh nghiệp.
Quan hệ với ngân hàng giảm: Khác hàng có thái độ trì hoãn, lưỡng lự khi
đưa các cán bộ tín dung đi thăm cơ sở sản xuất kinh doanh.
Gia tăng bất thường hàng tồn kho, khoản nợ thương mại, khoản phải thu:
Điều này nói lên hàng hoá của doanh nghiệp sản xuất ra tiêu thụ chem. Và phải
khất nợ nhiều. Tình trạng này thường xuất hiện khi sản phẩm của doanh nghiệp
giảm sút về chất lượng, hay không còn thích hợp với thị hiều tiêu dùng gây ứ
đọng hàng hoá làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Hoãn trả lãi vay ngân hàng chậm hơn thoả thuận đã quy định: điều này
nói lên khả năng thanh toán giảm, hay sự chây ì của doanh nghiệp đối với việc
thanh toán cho ngân hàng.
Hoạt động sản xuất kinh doanh có biẻu hiên không lành mạnh mất uy tín
với thị trường, bạn hàng, nhà tài trợ, nợ thuế nợ tiền hàng tăng, giá cổ phiếu
giảm, đối tác tự ý huỷ bỏ hợp đồng kinh doanh, cơ quan báo chí đưa tin về tình
hình không lành mạnh…
Ban lãnh đạo của doanh nghiệp có thay đổi, mất đoàn kết, tạo ra không
khí bất ổn, thiếu tin tưởng trong nội bộ hoặc các đối tac, nhà tài trợ…
Thiên tai địch hoạ xảy ra với mức độ nghiêm trong cũng là một dấu hiệu
cho thấy khách hàng sẽ bị ảnh hưởng lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình, đòi hỏi có thời gian để phục hồi, thậm chí không thể phục hồi được
nều khách hàngông có sự giúp đỡ từ phía Nhà Nước.
Cơ chế chính sách có thay đổi theo chiều hướng bất lợi.

Trên đây là một số dấu hiệu báo hiệu các khoản vay có nguy cơ quá hạn.
để giảm thấp tỷ lệ nợ qúa hạn, đòi hỏi các ngân hàng phải xem xet kỹ các dấu
hiệu này nhằm có biện pháp điều chỉnh ngăn chặn khả năng phát sinh các khoản
nợ quả hạn.
5. Xử lý nợ quá hạn
Nợ qúa hạn là một vấn đề tồn tại, khuyết điển về nghiệp vụ của ngành
ngân hàng. Khi vay vốn mất khả năng thanh toán thì ngân hàng phải gánh chịu

Website: Email : Tel : 0918.775.368
rủi ro về kinh tế thậm chí còn liên quan đế trách nhiệm về pháp luật. Nền kinh tế
càng phát triển hoạt động tín dụng ngân hàng mở rộng, khối lượng tín dụng ngân
hàng ngày càng lơn thì nợ qúa hạn càng tăng về số tuyệt đối và tương đối. Do
đó, nợ qúa hạn được đặt ra như một vấn đề cấp bách, đòi hỏi các ngân hàng phả
nhanh chóng đưa ra những biện pháp hữu hiệu để xử lý nhằm làm lành mạnh
hoạt động kinh doanh. Sau đây là một số biện pháp phổ biến được áp dụng.
- Đối với các khoản nợ qúa hạn thông thường:
Một khoản nợ quá hạn không có nghĩa là mất tất cả. nhiệm vụ quan trọng
và đầu tiên trong việc xở lý những món nợ này là ngân hàng cần tạo ra bầu
không khí tin tưởng lẫn nhau giưa ngân hàng và người vay, tạo ra thái độ sẵn
sàng trả nơ của người vay.
+ Gia hạn nợ:
Gia hạn nợ thực chất việc kéo dài thời gian trả nợ sau thời điểm cam kết
trả nợ trong khế ước nhận nợ. Việc gia hạn nợ có thể tiến hành trước ngày đáo
hạn của khoản vay, nếu doanh nghiệp có đơn xin gia hạn. nếu vì lý do nào do
đến ngày dáo hạn của khoản vay, khách hàng không có đơn xin gia hạn thi hiển
nhiên bị chuyển thành nợ qúa hạn, nhưng sau đó nếu có đơn và ngân hàng xét
they có lý do hợp lý, khoản nợ qúa hạn sẽ được chuyển thành nợ thông thương
chịu lãi suất gia hạn. các khoản nợ này thường xảy ra ở các doanh nghiệp có
trình độ chuyên môn cao, nhạy bén với cơ chế thị trường, và có khả năng điều
chỉnh hoạt động kinh doanh đẻ có thế thu hồi vốn hoàn trả khoản vay cho ngân

hàng.
+ Khai thác:
Khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoản cho
vay được trả một phần hay toàn bộ mà không dùng các công cụ pháp lý để thu
nợ.
Trong trường hợp khách hàng là người có ý thức trách nhiệm đối với món
nợ, nhưng đang thức sự gặp khó khăn về tài chính thì ngân hàng có thể xem xét
xử lý bằng biện pháp khai thác, nghĩa là người vay tự khắc phục các khó khăn
về tài chính, và hoàn trả món nợ cho ngân hàng càng nhanh càng tốt. Đây là biện

×