Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nghiên cứu thiết kế và chế tạo máy trị liệu đa năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 107 trang )



i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ




NGUYỄN HỮU TƯ





NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ VÀ CHẾ TẠO MÁY TRỊ
LIỆU ĐA NĂNG




LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐIỆN TỬ VIỄN THÔNG







HÀ NỘI - 2008



i
Mục lục

Mục lục i
Thuật ngữ viết tắt ii
Danh mục hình vẽ v
Mở đầu 1
Chương I. Cơ sở y học của thiết bị trị liệu 3
1.1. Đại cương về châm cứu 3
1.1.1. Sơ lược về lịch sử châm cứu 3
1.1.2. Châm cứu và các loại bệnh 5
1.1.3. Nhận thức về châm cứu của đông y và tây y 7
1.1.4. Học thuyết kinh lạc và quan niệm về huyệt 8
1.1.5. Kỹ thuật châm cứu 20
1.2. Điện châm và siêu âm trị liệu 23
1.2.1. Cơ sở kỹ thuật điện châm 23
1.2.2. Cơ sở kỹ thuật siêu âm trị liệu 27
Chương II. Giới thiệu về họ vi điều khiển ATmega32 31
2.1. Tính năng của ATmega32 31
2.2. Tổng quan ATmega 32 33
2.2.1. Sơ đồ khối 33
2.2.2. Mô tả các chân 34
2.3. Bộ định thời/bộ đếm 8 bit với PWM 35
2.3.1. Tổng quan 35
2.3.2. Bộ đếm 36
2.3.3. Khối so sánh ra 37
2.3.4. Các chế độ hoạt động 38
2.3.6. Mô tả các thanh ghi 40
2.3.7. Chia tần trong bộ định thời/bộ đếm 0 và 1 42

2.4. Bộ định thời/bộ đếm 16 bit 43
2.4.1. Tổng quan 43
2.4.2. Khối đếm 45
2.4.3. Các chế độ hoạt động 46


ii
2.4.4. Các thanh ghi 47
2.5. Bộ chuyển đổi tương tự số - ADC 49
2.5.1. Tổng quan 49
2.5.2. Chia tần và thời gian chuyển đổi ADC 52
2.5.3. Thay đổi kênh và chọn tham chiếu 53
2.5.4. Kết quả chuyển đổi ADC 55
2.5.5. Các thanh ghi 55
2.6. Các cổng vào ra 58
2.6.1. Tổng quan 58
2.6.2. Các cổng với chức năng vào ra số 59
2.6.3. Thay đổi chức năng của chân. 60
2.6.4. Các thanh ghi 62
Chương III. Máy trị liệu đa năng CME 1.0 63
3.1. Các tính năng và thông số kỹ thuật 63
3.1.1 Giới thiệu về máy trị liệu đa năng CME 1.0 63
3.1.2. Các thông số kỹ thuật 64
3.2. Sơ đồ khối và hoạt động 64
3.2.1. Sơ đồ khối máy CME 1.0 64
3.2.2. Khối nguồn 65
3.2.2. Khối vi điều khiển 67
3.2.3. Khối điện châm 69
3.2.4. Khối siêu âm 71
3.2.5. Mạch in 73

3.3. Phần mềm điều khiển và vận hành máy 74
3.3.1. Phần mềm điều khiển 74
3.3.2. Vận hành máy 78
Kết luận 80
Tài liệu tham khảo 83
Phụ lục i
Phụ lục 1. Chương trình mã nguồn máy CME1.0 i
Thuật ngữ viết tắt


iii
Tên viết tắt
Tên tiếng Anh
Tên tiếng Việt
ADATE
ADC Auto Trigger Enable
Kích hoạt chế độ tự động khởi tạo
chuyển đổi ADC
ADCSRA
ADC Control and Status
Register A
Thanh ghi trạng thái và điều khiển
ADC
ADEN
ADC Enable
Kích hoạt ADC
ADIE
ADC Interrupt Enable
Kích hoạt ngắt ADC
ADIF

ADC Interrupt Flag
Cờ ngắt ADC
ADLAR
ADC Left Adjust Result
Hiệu chỉnh trái kết quả ADC
ADPS
ADC Prescaler Select Bits
Bit chọn tần số ADC
ADSC
ADC Start Conversion
Khởi tạo quá trình chuyển đổi
ADTS
ADC Auto Trigger Source
Nguồn tự động khởi tạo chuyển
đổi ADC
AMUX
ADC Multiplexer
Selection Register
Thanh ghi chọn hợp kênh bộ
chuyển đổi tơng-số
COM
Compare Output Mode
Chế độ ra so sánh
CTC
Clear Timer on Compare
Match
Xóa bộ đếm khi kết quả so sánh
bằng
DDR
Data Direction Register

Thanh ghi hớng dữ liệu
FOC
Force Output Compare
Cỡng bức so sánh ra
FPWM
Fast PWM
PWM nhanh
ICES
Input Capture Edge Select
Chọn sờn xung vào
ICNC
Input Capture Noise
Canceler
Bộ triệt nhiễu lu trữ lối vào
ICR
Input Capture Register
Thanh ghi lu giữ lối vào
OCF
Output Compare Flag
Cờ so sánh ra
OCF
Output Compare Match
Flag
Cờ so sánh bằng
OCIE
Output Compare Match
Interrupt Enable
Kích hoạt ngắt khi bằng tại nối ra
so sánh
OCR

Output Compare Register
Thanh ghi so sánh ra
PCPWM
Phase Correct PWM
PWM đúng pha
PDIP
Plastic Dual-Inline
Package
Vỏ nhựa 2 hàng chân
PFCPWM
Phase and Frequency
Correct PWM
PWM đúng pha và tần số
PWM
Pulse Width Modulation
Điều chế độ rộng xung
REFS
Reference Selection Bits
Các bit chọn tham chiếu
SFIOR
Special Function IO
Register
Thanh ghi vào ra chức năng đặc
biệt
SREG
Status Register
Thanh ghi trạng thái


iv

TCCR
Timer/Counter Control
Register
Thanh ghi điều khiển bộ định
thời/bộ đếm
TCNT
Timer/Counter Register
Thanh ghi bộ đếm
TIFR
Timer/Counter Interupt
Flag Register
Thanh ghi cờ ngắt bộ đếm
TIMSK
Timer/Counter Interupt
Mask Register
Thanh ghi mặt nạ ngắt bộ đếm
TOIE
Timer/counter Overflow
Interrupt Enable
Kích hoạt ngắt tràn bộ đếm
TOV
Timer/Counter Overflow
Tràn bộ đếm/bộ định thời
TQFP
Thin Quad Flat Pack
Vỏ mỏng 4 hàng chân
UBRR
USART Baud Rate
Register
Thanh ghi tốc độ Baud USART

UCSR
USART Control and
Status Register
Thanh ghi trạng thái và điều khiển
USART
UDR
USART I/O Data Register
Thanh ghi dữ liệu vào ra USART
USART
Universal Synchronous
and Asynchronous serial
Receiver and Transmitter
Bộ phát thu đồng bộ và không
đồng bộ
WGM
Waveform Generation
Mode
Chế độ tạo dạng sóng
WHO
World Health
Organization
Tổ chức y tế thế giới






v
Danh mục hình vẽ

Hình 1. 1. Kinh Phế (Lung) 9
Hình 1. 2. Kinh Đại trường (Large Intestine) 10
Hình 1. 3. Kinh Vị (Stomach) 10
Hình 1. 4. Kinh Tỳ (Spleen) 11
Hình 1. 5. Kinh Tâm (Heart) 11
Hình 1. 6. Kinh Tiểu trường (Small Intestine) 12
Hình 1. 7. Kinh Bàng quang (Urinary Bladder) 13
Hình 1. 8. Kinh Thận (Kidney) 13
Hình 1. 9. Kinh Tâm bào (Pericardium) Hình 1. 10. Kinh Tam tiêu (Triple
Heater) 14
Hình 1. 11. Kinh Đởm (Gall Bladder) 15
Hình 1. 12. Kinh Can (Liver) 15
Hình 1. 13. Hình ảnh dây thần kinh tại huyệt vị 19
Hình 1. 14. Hình ảnh chụp fMRI tại huyệt vị 19
Hình 1. 15. Nguyên nhân gây bệnh và chữa trị nhờ châm cứu 20
Hình 1. 16. Một số loại kim châm cứu 22
Hình 1. 17. Kỹ thuật cứu bằng ngải 23
Hình 1. 18. Đường cong cường độ xung và độ rộng xung. 26
Hình 1. 19. Máy điện châm của viện trang thiết bị y tế - Việt Nam 26
Hình 1. 20. Máy điện châm của Trung Quốc 26
Hình 1. 21.Máy DT20 của Italy 29
Hình 1. 22. Máy SI190 của Hà Lan 29
Hình 1. 23. ST10A của Hàn Quốc 30
Hình 2. 1. Sơ đồ chân của ATmega32 32
Hình 2. 2. Sơ đồ khối ATmega 32 34
Hình 2. 3. Sơ đồ khối bộ đếm/định thời 8 bit. 35
Hình 2. 4. Sơ đồ khối bộ đếm 36
Hình 2. 5. Sơ đồ khối bộ so sánh ra. 37
Hình 2. 6. Biều đồ thời gian chế độ CTC 39



vi
Hình 2. 7. Sơ đồ khối bộ đếm 16 bit 44
Hình 2. 8. Sơ đồ khối đếm 46
Hình 2. 9. Sơ đồ khối ADC 50
Hình 2. 10. Tự động khởi tạo chuyển đổi ADC 52
Hình 2. 11. Bộ chia tần ADC 53
Hình 2. 12. Giản đồ tương đương chân vào/ra 58
Hình 2. 13. Cổng vào/ra số 59
Hình 3. 1. Máy CME 1.0 dạng dàn trải 64
Hình 3. 2. Sơ dồ khối máy trị liệu CME1.0 65
Hình 3. 3. Sơ đồ mạch nguồn 15V, 12V và 5V 65
Hình 3. 4. Mạch nguồn 30V 67
Hình 3. 5. Mạch vi điều khiển 68
Hình 3. 6. Dạng xung đều cho điện châm 69
Hình 3. 7. Dạng xung ngắt quãng cho điện châm 69
Hình 3. 8. Dạng xung co dãn cho điện châm 70
Hình 3. 9. Mạch điện châm 70
Hình 3. 10. Dạng tín hiệu điện châm ra điện cực. 71
Hình 3. 11. Tín hiệu 1MHz ra từ vi điều khiển 72
Hình 3. 12. Mạch khuếch đại công suất tín hiệu siêu âm. 73
Hình 3. 13. Mạch điện máy CME1.0 74
Hình 3. 14. Mạch điện máy CME1.0 khi có màn hình 74



1
Mở đầu
Ngày nay, Y - Dược - Trang thiết bị Y tế là ba bộ phận cơ bản của ngành
y tế. Trong đó, trang thiết bị đã là một thành phần không thể thiếu trong ngành y

tế. Trong mọi lĩnh vực thăm khám và điều trị, trang thiết bị là yếu tố quan trọng,
quyết định hiệu quả, chất lượng của công tác y tế, hỗ trợ tích cực cho người thày
thuốc trong công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
ở nước ta, trang thiết bị y tế được Nhà nước, Chính phủ và Bộ Y tế quan
tâm. Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chính sách quốc gia về trang thiết bị y tế
giai đoạn 2002-2010 theo quyết định số 130/2002/QĐ-TTg ngày 04 tháng 10
năm 2002. Với mục tiêu của chính sách quốc gia là:
1. Đảm bảo đủ trang thiết bị y tế cho các tuyến theo quy định của Bộ Y tế.
2. Từng bước hiện đại hoá trang thiết bị cho các cơ sở y tế nhằm nâng cao
chất lượng chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
3. Phấn đấu đến năm 2010 đạt trình độ kỹ thuật về trang thiết bị y tế
ngang tầm các nước trung bình, tiến tiến trong khu vực.
4. Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên ngành để khai thác sử dụng,
bảo dưỡng, sửa chữa và kiểm chuẩn trang thiết bị y tế.
5. Phát triển công nghiệp trang thiết bị y tế nhằm nâng cao dần tỷ trọng
hàng hoá sản xuất trong nước và tiến tới tham gia xuất khẩu.
Trên thế giới, công nghệ thiết bị y tế đã phát triển vượt bậc. Nhiều loại
thiết bị cho các chuyên khoa đã được ứng dụng những công nghệ hiện đại, trở
thành yếu tố quan trọng, quyết định trình độ công nghệ y học. Các nước như
Mỹ, Nhật, Đức và Trung Quốc đã trở thành những trung tâm công nghệ thiết bị
y tế và trở thành những nước sản xuất và xuất khẩu thiết bị y tế lớn.
Tại Việt Nam, công nghiệp sản xuất trang thiết bị y tế còn hạn chế. Hiện
chỉ có một số ít cơ sở nghiên cứu và sản xuất thiết bị y tế nhưng chủng loại thiết


2
bị được sản xuất cũng chưa phong phú, chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu
cầu của cả nước.
Thiết bị trị liệu là một loại thiết bị y tế, hiện đang dần phổ biến trong các
bệnh viện từ trung ương đến các trạm y tế xã. Được sử dụng cho mục đích điều

trị, nâng cao sức khỏe người bệnh và có nhiều ứng dụng trong lâm sàng.
Với mục đích phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe người dân, góp phần
nhỏ vào ngành công nghiệp nghiên cứu, chế tạo và sản xuất thiết bị y tế của Việt
Nam, đề tài của luận văn được chọn là " Nghiên cứu thiết kế và chế tạo máy
trị liệu đa năng". Thiết bị được nghiên cứu chế tạo còn có thể trở thành mô
hình học tập cho sinh viên Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật Thiết bị Y tế.
Nội dung của đề tài được chia thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở y học của thiết bị trị liệu. Mở đầu bằng giới thiệu về
lịch sử hình thành châm cứu, tác dụng của châm cứu và các khái niệm cơ bản
trong châm cứu. Tiếp đó là cơ sở kỹ thuật của phương pháp điện châm và siêu
âm trị liệu trình bày cơ chế và yêu cầu kỹ thuật của thiết bị trị liệu tích hợp điện
châm và siêu âm.
Chương 2: Giới thiệu họ vi điều khiển ATmega32. Chương này sẽ trình
bày chi tiết về vi điều khiển ATmega 32 như bố trí chân, cấu trúc phần cứng,
nguyên lý hoạt động của các khối như bộ đếm, bộ chuyển đổi ADC, các cổng
vào ra. Đồng thời cũng giới thiệu các thanh ghi của các khối này giúp người đọc
tiện theo dõi ở phần lập trình vi điều khiển.
Chương 3: Máy trị liệu đa năng CME1.0. Căn cứ vào yêu cầu đặt ra ở
chương 1 cho máy trị liệu và cơ sở hoạt động của vi điều khiển ATmega32 ở
chương 2, chương 3 giới thiệu phương pháp xây dựng thiết bị trị liệu đa năng
CME1.0. Đồng thời phân tích hoạt động của các mạch điện máy trị liệu và giới
thiệu về phần mềm lập trình cho vi điều khiển.



3
Chương I. Cơ sở y học của thiết bị trị liệu
1.1. Đại cương về châm cứu
1.1.1. Sơ lược về lịch sử châm cứu
Căn cứ theo sách y học Trung Hoa (Nội kinh tố vấn luận) và tài liệu của

Thừa Đạm Am, một Châm cứu gia trứ danh Trung Quốc, thì khoa châm cứu là
một phương pháp chữa bệnh thời tối cổ của nước này cách đây hơn 5.000 năm.
Người thượng cổ vì sự sống quá thô sơ nên phần nhiều bị ngoại tà xâm
nhập làm thịt nhức, gân co. Khi có bệnh chỉ biết dùng lửa để hơ và dùng đá nhọn
để châm chích (thạch khí thời đại). Cách trị liệu này dần dần đúc kết thành khoa
châm cứu ngày nay.
Do kinh nghiệm sống thời thượng cổ, vì cuộc sống đơn giản của loài
người thời đó nên việc trị bệnh cũng đơn giản, có khi chỉ lấy tay ấn vào huyệt,
xoa mạnh vào vùng kinh lạc tập trung, hay hơ ấm những nơi đó cũng lành bệnh
được. Phương pháp trị bệnh rất giản dị như án ma, suy nả, quất thử, huân úy,
tẩm dục, đồ hoán, phu triêm, xuy thông, điều nhập, đạo dẫn, châm cứu, chà bóp,
sửa lận xương gân, cạo gió, bắt gió xông giác, tắm, thoa rưới, đặt dán, thổi thụt,
nhét hậu môn, thông khoan bằng thuốc hay các chất giúp cho thông đại tiện,
châm đốt vào các kinh lạc của các kinh huyệt.
Tất cả các phương pháp trên chỉ có châm cứu là quan hệ nhất. Các
phương pháp khác chỉ có tính cách phụ trợ, giải quyết tạm thời chứ không thể
lành bệnh hẳn được.
Từ khi có văn tự, sự ghi chép và kinh nghiệm về khoa châm cứu được hệ
thống hoá có quy củ. Trải qua hàng ngàn năm với các kinh nghiệm được bổ
xung không ngừng làm cho khoa châm cứu trở nên cực kỳ tinh vi thần diệu.
Khoa này bắt đầu thịnh hành từ năm 1277 ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản
và Việt Nam.


4
Từ đó ngoài những châm cứu gia, các Đông y sư cũng dùng châm cứu để
làm trợ liệu cho thang dược, thu thập rất nhiều kết quả khả quan ngoài sức tưởng
tượng.
Đến thế kỷ thứ XVII có một số nhà khoa học Phương Tây bắt đầu nghiên
cứu về khoa này, làm cho khoa châm cứu đươc phát triển rộng ra. Phong trào

này đã đưa khoa châm cứu tiến thêm một bước khá dài.
Hiện nay khoa châm cứu đã được thế giới chú ý, cả Tây y cũng tiến hành
nghiên cứu phối hợp trị liệu cho các bệnh nhân. ở Pháp, Đức, Nhật, Hàn Quốc,
Trung Quốc… đều có thành lập các viện châm cứu, các y viện chuyên trị bệnh
bằng khoa này, thu thập hàng ngàn luận án để tổng kết phổ và biến kinh nghiệm.
Hội châm cứu quốc tế 3 năm họp một lần, xuất bản tạp chí ra hàng tháng (R.I.A)
được phát hành rộng rãi. ở Mỹ, châm cứu cũng đang phát triển rộng rãi. Theo
thống kê của Viện y học quốc gia Hoa Kỳ (NIH), tính đến năm 2007, có khoảng
1,4% người lớn ở Mỹ sử dụng châm cứu trong trị bệnh.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng nhận thấy sự phát triển mạnh mẽ của
châm cứu. Từ những năm 1970 đã tổ chức các hội nghị về châm cứu, thực hiện
nhiều nghiên cứu về châm cứu học và cũng đã công bố nhiều báo cáo về tác
dụng của châm cứu trong điều trị bệnh.
ở Việt Nam, châm cứu học được ứng dụng từ rất lâu đời. Từ thời Thục An
Dương Vương đã có Thôi Vỹ dùng châm cứu để cứu người. Các thời sau đều có
các danh y sử dụng châm cứu để chữa bệnh như Trâu Canh, Tuệ Tĩnh thế kỷ
XIV. Thời nhà Hồ thế kỷ XV có Nguyễn Đại Năng viết cuốn "Châm cứu tiệp
hiệu diễn ca". Nguyễn Trực giới thiệu châm cứu trong nhi khoa. Thế kỷ XVIII
có Hải Thượng Lãn Ông.
Sau cách mạng tháng 8, châm cứu Việt Nam càng phát triển mạnh mẽ. Từ
1949 đến 1950, sau khi dự Hội nghị châm cứu Quốc tế về, Bác sĩ Nguyễn Văn
Ba đã chuyển hướng chữa bệnh bằng khoa châm cứu. Bác sĩ Nguyễn Văn Ba,
nghiên cứu nhiều về Đông y và châm cứu, trong việc trị bệnh hằng ngày Bác sĩ


5
Ba thường trị bằng châm cứu và thuốc Bắc. Bác sĩ Hoàng Mộng Lương tuy
chuyên về Tây y nhưng cũng áp dụng phương pháp trị liệu của khoa châm cứu.
Đông Y sư cũng nhiều người có công nghiên cứu về châm cứu và có
nhiều kinh nghiệm về thuật này. ở Miền Nam có cụ Lê Chí Thuần, một Lão y sư

có tên tuổi. ở Huế có Lão y sư Trần Tiển Hy, Thái Y Nguyễn Văn ái cũng là bậc
Lão Y, Lão Nho, nghiên cứu và áp dụng lâu năm khoa này.
Hiện nay, Chương trình châm cứu được giảng dạy chính thức ở các cấp
đào tạo y tế. Viện châm cứu Việt Nam được thành lập. Hội châm cứu Việt Nam
có trên 20.000 hội viên trên khắp đất nước. Nhiều thầy thuốc châm cứu Việt
Nam được mời đi điều trị và giảng dạy tại nhiều nước trên thế giới.
Tháng 11 năm 1999, Hội nghị châm cứu thế giới đã họp tại Việt Nam.
Việt Nam được nhìn nhận là một nước có nền châm cứu phát triển, có nhiều
đóng góp cho châm cứu thế giới. Châm cứu ở Việt Nam ngày càng phát triển
mạnh mẽ và được ứng dụng rộng dãi trong điều trị nhiều loại bệnh. Bộ Y tế
cũng đã đưa ra nhiều phác đồ điều trị bệnh sử dụng châm cứu như phục hồi chức
năng, điều trị khớp, cai nghiện
1.1.2. Châm cứu và các loại bệnh
Khoa châm cứu là thuật trị bệnh rất khoa học, dựa vào kinh lạc, cơ điểm
của từng tạng phủ, từng hệ thống một của thần kinh của mỗi bộ phận trong
người, đúng với nguyên tắc cấu tạo của cơ thể học.
Nói đến châm cứu đa số còn quan niệm là nó chỉ trị được một số bệnh
như đau lưng, nhức đầu, đau bụng, tê bại, thủng trướng hay trúng phong, kinh
giản… Sự thật, những bậc tiền bối của chúng ta từ trước cũng như các châm y
hiện đại của Pháp, Đức, Nhật, Trung Quốc đều đã dùng châm cứu đối phó với
vô số bệnh tật. Trong Châm cứu Đại thành hay tạp chí của Hội Châm cứu Quốc
tế (Revue international de acupuncture) sẽ thấy, trừ những bệnh về ngoại
thương, thì không có mấy chứng bệnh mà người ta không thể trị bằng khoa


6
châm cứu được. Cổ nhân có nói “vạn bệnh nhất châm” tức là tất cả các bệnh đều
có thể chữa bằng châm cứu.
Trước đây người phương tây (Âu châu) có quan niệm chỉ dùng riêng cho
bệnh thuộc về nhiều loại quan năng gây ra. Sau này nhờ sự gia công nghiên cứu

của các châm gia nhất là ở Nhật (Thời Minh Trị có nhiều Châm y đặt vấn đề
khoa học hoá khoa châm cứu) người ta đã chứng minh rằng châm cứu còn trị
được cả những chứng bệnh có vi trùng như sốt rét rừng, dịch tả. Những bệnh về
thời khí, kinh niên nội tạng bị hư hao ít nhiều như dạ dày bị trụt, cả những bệnh
sở quan đến tinh thần, si ngốc, điên cuồng Những bệnh về tâm lý như đau
nhức ở mặt vì lúc nhỏ bị nhiều sợ sệt khổ tâm (theo y án của Bác sĩ Kalma trong
R.I.A số tháng 7, 8, năm 1959). Đau đầu, ói mửa vì gặp điều trái ý hay nổi giận
dữ (theo y án của Bác sĩ Rebuelto trong tạp chí R.I.A tháng 4 năm 1951). Tuy
nhiên, có những loại bệnh như ung thư, giang mai thì châm cứu chỉ đóng vai phụ
trợ cho thuốc mà thôi.
Nói chung, châm cứu đối với các loại bệnh đều giải quyết được nhất là
những bệnh thâm nhiễm lâu ngày thì tác dụng của châm cứu rất nhanh. Phần trợ
liệu của thang dược đối với châm cứu cần trong trường hợp cơ thể suy yếu.
Ngược lại phần trợ liệu châm cứu đối với thang dược lại rất cần cho những
trường hợp bệnh trạng quá nguy kịch mà dùng thuốc mạnh của thang dược vẫn
giải quyết rất chậm. Y học ngày này đã thống kê một số chỉ định dùng châm cứu
chữa bệnh như sau:
- Bệnh tâm - thần kinh: tâm căn suy nhược, đau thần kinh ngoại biên (đau thần
kinh hông, thần kinh liên sườn, thần kinh tam thoa), tê liệt thần kinh (liệt mặt,
liệt chi, liệt nửa người).
- Bệnh tim mạch: rối loạn nhịp tim, co thắt mạch vành, cơn tăng huyết áp, hạ
huyết áp, choáng.
- Bệnh hô hấp: viêm amidan cấp, viêm thanh quản, ho do viêm phế quản, khó
thở do hen, khản tiếng, mất tiếng.


7
- Bệnh tiêu hoá: nôn, nấc, ỉa chảy do rối loạn tiêu hoá, cơn đau do viêm loét dạ
dạy-tá tràng, táo bón, đầy bụng chậm tiêu, trĩ giai đoạn I, II, sa trực tràng.
- Bệnh tiết niệu, sinh dục: bí đái cơ năng, tiểu đêm nhiều, đái dầm, thiểu năng

sinh dục, di tinh, liệt dương, rối loạn kinh nguyệt, thống kinh.
- Bệnh ngũ quan: đau răng, ù tai, giảm thích lực, điếc, câm, giảm thị lực, viêm
mũi, rối loạn tiền đình, mẩn ngứa mề đay.
- Đau sưng các cơ khớp hoặc teo cơ, cứng khớp.
- Châm giảm đau, gây tê phẫu thuật.
Trong báo cáo của WHO trong việc thử nhiệm châm cứu trong điều trị
trên 15 nhóm bệnh, đã thống kê được hơn 100 loại bệnh có thể sử dụng châm
cứu. Trong đó một số loại bệnh điều trị bằng châm cứu có hiệu quả cao hơn so
với sử dụng các phương pháp khác.
1.1.3. Nhận thức về châm cứu của đông y và tây y
Đông y là một khoa học cổ truyền của phương đông. Trước sự tiến bộ
mạnh mẽ của Tây y, nếu đông y không có một cơ sở lý luận, một kinh nghiệm
trị liệu căn bản thực tế đem lại sức khoẻ cho loài người thì đã bị Tây y thay thế
từ lâu.
Đông y đặt mình trên cơ sở toàn là khí hoá cho nên dù lập luận theo
phương pháp mới của Tây y: giải phẫu, sinh lý chẩn đoán, dược vật v.v. . chúng
ta cũng gặp toàn là khí hoá.
Sự thật thì Đông y và Tây y mỗi bên có một nguyên lý, học thuyết khác
nhau. Tuy nhiên, vì mục đích phục vụ cho nhân loại thì Đông y và Tây y có thể
phối hợp mỗi bên một phương pháp sẽ giúp cho nhận loại rất nhiều lợi ích.
Đi theo giải phẫu sinh lý con người, chữa bệnh bằng cách dùng vật thể
thay cho bộ phận của cơ thể hư, Tây y đã đạt đến trình độ cao theo nguyên tắc lý
thuyết của họ nhưng vẫn chưa hoàn toàn thắng bệnh tật.


8
Hiện nay một số Bác sĩ đã thấy y học ở Đông phương ngành khí hoá y hệt
thuyết Hypocrate nên đã chú tâm nghiên cứu. Tây y có định hướng tìm hiểu kinh
nghiệm của Đông y, Đông y sử dụng thiết bị máy móc hỗ trợ của Tây y, hai nền
y học đó đang dần dung hòa.

1.1.4. Học thuyết kinh lạc và quan niệm về huyệt
1.1.4.1. Học thuyết Kinh lạc
Học thuyết Kinh lạc, cũng như những học thuyết Âm dương, Ngũ hành,
Tạng phủ, Dinh, Vệ, Khí, Huyết… là một trong những học thuyết cơ bản của y
học cổ truyền. Học thuyết Kinh lạc đóng vai trò rất lớn trong sinh bệnh lý học
cũng như trong điều trị của y học cổ truyền.
Kinh lạc là những đường vận hành khí huyết. Những con đường này chạy
khắp cơ thể, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, cả bên trong (ở các tạng phủ)
lẫn bên ngoài. Học thuyết kinh lạc đã quy nạp được một hệ thống liên hệ chặt
chẽ giữa tất cả các vùng của cơ thể thành một khối thống nhất, thể hiện đầy đủ
các học thuyết Âm dương, Tạng phủ, Ngũ hành, mối liên quan trong ngoài- trên
dưới…
Hệ kinh lạc bao gồm:
- Mười hai kinh chính:
+ 3 kinh âm ở tay (Thủ tam âm): Thái âm Phế, Thiếu âm Tâm và
Quyết âm Tâm bào.
+ 3 kinh dương ở tay (Thủ tam dương): Dương minh Đại trường,
Thiếu dương Tam tiêu và Thái dương Tiểu trường.
+ 3 kinh âm ở chân (Túc tam am): Thái âm Tỳ, Thiếu âm Thận và
Quyết âm Can.
+ 3 kinh dương ở chân (Túc tam dương): Dương minh Vị, Thái
dương Bàng quang và Thiếu dương đởm.


9
- Tám mạch khác kinh (kì kinh bát mạch): Nhâm mạch, Đốc mạch, Xung
mạch, Đới mạch, Âm duy, Dương duy, Âm kiểu, Dương kiểu.
- Mười bốn lạc và đại lạc của Tỳ.
- Mười hai kinh cân nối các đầu xương ở tứ chi với phủ tạng.
- Mười hai kinh biệt tách ra từ 12 kinh chính

- Phần phụ thuộc gồm: tạng phủ, 12 kinh cân, 12 khu da.
Dưới đây là những hình ảnh mô tả về lộ trình một số đường kinh chính
trong hệ thống kinh lạc.

Hình 1. 1. Kinh Phế (Lung)


10

Hình 1. 2. Kinh Đại trường (Large Intestine)

Hình 1. 3. Kinh Vị (Stomach)


11

Hình 1. 4. Kinh Tỳ (Spleen)

Hình 1. 5. Kinh Tâm (Heart)


12

Hình 1. 6. Kinh Tiểu trường (Small Intestine)


13


Hình 1. 7. Kinh Bàng quang (Urinary Bladder)


Hình 1. 8. Kinh Thận (Kidney)


14

Hình 1. 9. Kinh Tâm bào (Pericardium) Hình 1. 10. Kinh Tam tiêu (Triple
Heater)


15


Hình 1. 11. Kinh Đởm (Gall Bladder)

Hình 1. 12. Kinh Can (Liver)


16
Theo Đông y, cơ thể con người được cấu tạo bởi: ngũ tạng, lục phủ, phủ
khác thường, ngũ thể (da, lông, gân, cơ, móng), các màng (cách mô, màng phổi,
màng tim, màng bụng, màng treo), ngũ quan, cửu khiếu, tinh, khí, thần và kinh
lạc. Mỗi thành phần cấu tạo đều đảm trách một chức năng sinh lý của cơ thể. Tất
cả những chức năng sinh lý này dù được chỉ huy bởi những thành phần khác
nhau, riêng biệt nhưng lại liên hệ mật thiết với nhau và tạo nên tính thống nhất
của cơ thể. Tình trạng "cơ thể thống nhất" này thực hiện được là nhờ vào hệ kinh
lạc.
Có thể nói, kinh lạc là nơi tuần hoàn của khí huyết để nuôi dưỡng toàn
thân, duy trì hoạt động sống bình thường của cơ thể. Bên trong thì nuôi dưỡng
tạng phủ, bên ngoài thì nuôi dưỡng chân tay xương khớp, làm cơ thể thành một

khối thống nhất.
Về bệnh lý, có thể xem kinh lạc là đường xâm nhập của ngoại tà vào các
tạng phủ. Ngược lại, bệnh ở tạng phủ có thể mượn hệ kinh lạc để biểu hiện ra
bên ngoài. Thông thường, biểu hiện của bệnh tật phụ thuộc vào thể chất của
người bệnh (chính khí) và độc lực của tác nhân gây bệnh (tà khí), nhưng bắt
buộc bệnh tật sẽ được biểu hiện bởi các triệu chứng đặc thù của kinh lạc mà nó
mượn đường.
Về chẩn đoán, nhờ vào kinh lạc, người thày thuốc có thể biết được biểu
hiện của bệnh tật, kiểm soát các hệ thống chức năng của cơ thể, từ đó xác định
được vị trí bệnh, phân biệt được trạng thái hư thực của bệnh và dự đoán các biến
chứng có thể xảy ra.
Trong điều trị, kinh lạc có vai trò dẫn thuốc cũng như dẫn truyền những
kích thích của châm cứu đến những tạng phủ bên trong. Tính dẫn truyền những
phương tiện điều trị của hệ kinh lạc là cơ sở của việc chọn huyệt theo lý luận
đường kinh.


17
Hệ kinh lạc, với vai trò chức năng như trên, được xem là hệ thống giải
phẫu-sinh lý của y học cổ truyền. Đóng vai trò cơ bản, quan trọng trọng trong hệ
thống lý luận YHCT và chỉ đạo trong mọi chuyên khoa của YHCT.
1.1.4.2. Khái niệm về huyệt trong y học cổ truyền
Theo y học cổ truyền, Huyệt là nơi thần khí hoạt động vào - ra; nó được
phân bố khắp phần ngoài cơ thể.
Có thể định nghĩa huyệt là nơi khí của tạng phủ, của kinh lạc, của cân cơ
xương khớp tụ lại, toả ra ở phần ngoài cơ thể. Nói cách khác, huyệt là nơi tập
trung cơ năng hoạt động của mỗi tạng phủ, kinh lạc…Huyệt nằm ở một vị trí cố
định nào đó trên cơ thể người. Việc kích thích tại những huyệt vị này (bằng
châm hay cứu) có thể làm những vị trí khác hay bộ phận của một nội tạng nào
đó có sự phản ứng nhằm đạt được những kết quả điều trị mong muốn.

Huyệt không những có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động sinh lý và các
biểu hiển bệnh lý của cơ thể mà còn giúp chẩn đoán và phòng chữa bệnh một
cách tích cực.
Theo đông y, huyệt vị có nhiều tác dụng. Về sinh lý, huyệt có quan hệ
chặt chẽ với kinh mạch và tạng phủ mà nó phụ thuộc. Về bệnh lý, huyệt là cửa
ngõ xâm lấn của các nguyên nhân gây bệnh từ bên ngoài. Khi sức đề kháng của
cơ thể bị suy giảm thì các nguyên nhân xấu bên ngoài dễ xâm lấn vào cơ thể qua
các cửa ngõ này. Mặt khác, bệnh của các tạng phủ kinh lạc cũng được phản ánh
ra ở huyệt: đau tự nhiên, ấn vào đau, màu sắc thay đổi, hình thái thay đổi. Dựa
vào những thay đổi này mà huyệt còn có tác dụng chẩn đoán bệnh.
Huyệt còn là nơi tiếp nhận các kích thích khác nhau. Tác động nên huyệt
với một lượng kích thích phù hợp có thể làm điều hoà được những rối loạn bệnh
lý, tái lập lại hoạt động sinh lý bình thường của cơ thể. Tác dụng điều trị này của
huyệt tuỳ thuộc vào quan hệ giữa huyệt và kinh lạc tạng phủ. Ví dụ, huyệt của
phế có tác dụng với chứng khó thở, ho… Huyệt của kinh Vị có tác dụng với
chứng đau bụng.


18
Với kinh nghiệm và thực tế điều trị được tích luỹ lâu đời, kết hợp với các
quy luật triết học phương đông (âm dương, ngũ hành) ứng dụng vào y học, các
thầy thuốc đã phân tích tổng hợp để hình thành lý luận kinh lạc, có quan hệ chặt
chẽ với hệ thống phân loại huyệt. YHCT chia ra 3 loại huyệt chính:
- Huyệt A thị hay còn gọi là huyệt Thống điểm hay Thiên ứng. Huyệt A
thị không có vị trí cố định, chỉ xuất hiện khi có bệnh. Lấy điểm đau làm huyệt.
Tác dụng chữa chứng đau cấp rất tốt.
- Huyệt ngoài kinh: là những huyệt không thuộc 14 kinh mạch chính.
- Huyệt thuộc kinh mạch: là các huyệt nằm trên 12 kinh chính và 2 mạch
Nhâm, Đốc. Các huyệt này chia ra làm 8 nhóm huyệt là: Nguyên, Lạc, Du ở
lưng, Mộ, Khích, Hội, Tổng, Ngũ du.

Theo thống kê có tổng cộng 670 huyệt của đường kinh chính trong đó 618
huyệt kép (đối xứng ở hai bên cơ thể) nằm trên 12 kinh chính và 52 huyệt đơn
nằm trên 2 mạch nhân đốc. Có khoảng 200 huyệt ngoài kinh. Trong đó có 49
huyệt đơn, 300 huyệt kép, tất cả có 349 huyệt có tên.
Từ năm 1982, WHO đã thống nhất được 361 huyệt kinh điển. Tài liệu
chuẩn về tên của 361 huyệt đã được WHO tái bản lần 2 năm 1993 với tên của
các loại huyệt bằng nhiều thứ tiếng. Cho đến năm 2007, WHO cũng đã định
nghĩa 14 kinh với 361 huyệt, 8 kinh phụ với 48 huyệt, 14 đường châm trên đầu
và một vài huyệt khác.
1.1.4.3. Quan điểm về kinh lạc và huyệt trong giải phẫu
Các nhà khoa học trước đây chỉ công nhận sự hiện hữu của kinh lạc và
huyệt vị châm cứu về mặt hiệu quả trị liệu và về mặt điện sinh vật.
Trên cơ thể sống, ở những vùng da mà các nhà châm cứu học đã mô tả có
lộ trình đường kinh thì điện trở da và trở kháng luôn thấp hơn vùng da xung
quanh và tại những nơi có mô tả là huyệt thì điện trở da còn thấp hơn nữa. Còn
độ dẫn điện của các vùng huyệt tăng lên đáng kể.

×