Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 92 trang )



1

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




L HONG HNG





THA THUN
PHN CHIA DI SN THA K




luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội - 2009





I HC QUC GIA H NI


2
KHOA LUẬT



LÃ HOÀNG HƢNG




THỎA THUẬN
PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Đăng Hiếu





Hµ néi - 2009







1
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Mở đầu
1

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về thỏa thuận phân chia di sản

thừa kế
6
1.1.
Khái niệm thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
6
1.2.
Nguyên tắc giao kết
10
1.2.1.
Nguyên tắc bình đẳng
10
1.2.2.
Nguyên tắc tự do ý chí
11
1.3.
Chủ thể thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
12
1.3.1.
Người thừa kế theo luật
12
1.3.1.1.
Xác định người thừa kế theo luật
12
1.3.1.2.
Người thừa kế thế vị
15
1.3.1.3.
Tư cách chủ thể của người thừa kế theo pháp luật
18
1.3.1.4.

Năng lực tham gia thỏa thuận phân chia di sản
19
1.3.1.5.
Ai là người trong số họ có quyền thỏa thuận
20
1.3.1.6.
Những người không được quyền hưởng di sản - Thỏa thuận
23
1.3.1.7.
Tuyên bố từ chối
33
1.3.2.
Người thừa kế theo di chúc
36
1.3.2.1.
Ai là người được thừa kế theo di chúc
36
1.3.2.2.
Tư cách chủ thể của người thừa kế theo di chúc
39


2
1.3.2.3.
Ai là người trong số họ có quyền thỏa thuận
39
1.3.2.4.
Những người không được quyền hưởng di sản - Thỏa thuận
40
1.3.2.5.

Nếu vắng mặt người được hưởng di sản theo di chúc
41
1.3.2.6.
Nếu có người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc
42
1.3.3.
Người được di tặng
43
1.4.
Đối tượng của thỏa thuận
43
1.4.1.
Phân chia từng phần và phân chia toàn bộ
52
1.4.2.
Phân chia theo giá trị và phân chia hiện vật
52
1.4.3.
Phạm vi về tài sản họ có thể thỏa thuận phân chia
53
1.4.4.
Tài sản nào không thể thỏa thuận phân chia hoặc bị hạn chế phân chia
54
1.4.4.1.
Di sản thờ cúng
54
1.4.4.2.
Di sản bị hạn chế phân chia do thủ tục hành chính
55

1.4.4.3.
Theo ý chí của người để lại di sản phân chia hiện vật cho từng người
thừa kế
55
1.4.4.4.
Trường hợp có người hưởng di sản chưa có hoặc mất năng lực hành vi
dân sự
56
1.4.4.5.
Trường hợp di sản là nguồn sống duy nhất của vợ, chồng người để lại di
sản
56
1.5.
Phương thức thỏa thuận
57
1.5.1.
Hình thức
57
1.5.2.
Thủ tục
58
1.5.3.
Giá trị pháp lý của thỏa thuận
58
1.5.4.
Làm thủ tục đăng ký sang tên
60
1.5.5.
Lệ phí
60

1.6.
Vấn đề phát sinh "người thừa kế mới"
61


3
1.7.
Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế vô hiệu
63

Chương 2: thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện về thỏa thuận
phân chia di sản thừa kế
65
2.1.
Thực tiễn thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
65
2.1.1.
Những sai sót, vướng mắc khi áp dụng pháp luật thừa kế
65
2.1.2.
Vấn đề phát sinh "người thừa kế mới"
66
2.1.3.
Việc bỏ sót người thừa kế khi thỏa thuận phân chia di sản
66
2.1.4.
Nguồn gốc của di sản
67
2.1.5.
Liên quan đến các thủ tục hành chính khi khai nhận thừa kế

68
2.1.6.
Từ chối nhận di sản
68
2.1.7.
Qui định về người phân chia di sản
69
2.1.8.
Di sản thờ cúng
69
2.1.9.
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
70
2.2.
Giải pháp hoàn thiện
71
2.2.1.
Việc bỏ sót người thừa kế khi thỏa thuận phân chia di sản
71
2.2.2.
Nguồn gốc của di sản
72
2.2.3.
Cha mẹ chuyển xuống hàng thừa kế thứ hai
73
2.2.4.
Liên quan đến các thủ tục hành chính khi khai nhận thừa kế
73
2.2.5.
Từ chối nhận di sản

73
2.2.6.
Qui định về người phân chia di sản
74
2.2.7.
Di sản thờ cúng
74
2.2.8.
Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế
74
2.2.9.
Một số kiến nghị khác
75

KẾT LUẬN
76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
78


4

PHỤ LỤC
81

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cả về phương diện lý luận và thực tiễn, thừa kế là một trong những

vấn đề lớn nhất của pháp luật dân sự. Bộ luật Dân sự năm 2005 của Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã dành hẳn 04 chương gồm 57 điều để
nói về nó (chưa kể các điều luật liên quan đến việc thừa kế quyền sử dụng
đất); các nghiên cứu về thừa kế trong luật thực định luôn chiếm tỷ trọng cao
trong tổng "khối lượng" công trình nghiên cứu về luật học dân sự; thực tiễn
xét xử về dân sự cũng như thực tiễn công chứng xếp các vụ việc trong lĩnh
vực thừa kế vào loại công việc thường xuyên của cơ quan chức năng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển ngày
càng đa dạng của các quan hệ xã hội, tranh chấp về thừa kế có xu hướng gia
tăng về số lượng và phức tạp về nội dung, bởi vì giá trị của di sản thừa kế
không còn là tài sản thông thường phục vụ sinh hoạt tiêu dùng mà là quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, vốn đầu tư, cổ phiếu, trang trại, doanh
nghiệp… Trên địa bàn thành phố Hà Nội theo quan sát của tôi mỗi khi cơn sốt
đất tràn đến một quận, huyện nào đó thì ngay sau đó các vụ kiện về phân chia
di sản thừa kế tại quận, huyện đó tăng lên. 5 năm trước đây điểm nóng về kiện
phân chia di sản thừa kế là quận Tây Hồ, hiện nay điểm nóng là Từ Liêm và
theo suy đoán của tôi trong những năm tới các quận, huyện thuộc Hà Tây cũ
sẽ có số vụ kiện về thừa kế tăng lên rất nhanh.
Tranh chấp về phân chia di sản thừa kế có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân và trong nhiều trường hợp di sản thừa kế có giá trị lớn nhất là nhà đất.
Theo kinh nghiệm của bản thân tôi có những nguyên nhân chủ yếu sau:


5
- Trước hết đó là quan điểm về trưởng thứ, nam nữ trong gia đình
Việt Nam. Bố mẹ già thường ở với con trai trưởng và khi bố mẹ chết thì gần
như đương nhiên con trai trưởng sẽ tiếp tục quản lý, sử dụng và sở hữu di sản
của bố mẹ và có nghĩa vụ thờ cúng cha mẹ. Cho dù có hay không có di chúc
thì đương nhiên con trai cả sẽ được hưởng phần lớn nhất. Các con thứ, con
gái mặc dù cũng được hưởng di sản thừa kế nhưng thường được phần nhỏ

hơn.
- Một số Ủy ban nhân dân cấp xã khi làm thủ tục kê khai cấp Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất thì không thông qua các
thủ tục về khai nhận di sản thừa kế mà cấp trực tiếp Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà và quyền sử dụng đất cho người con cả đang trực tiếp ở trên ngôi
nhà, trên mảnh đất là di sản thừa kế đó.
Tuy nhiên, khi trình độ dân trí ngày càng tăng lên, cùng với các qui
định mới ngày càng rõ ràng của Bộ luật Dân sự năm 2005 những người thừa
kế khác (những người con thứ, con gái) ý thức được rằng họ cũng có quyền
bình đẳng trong việc phân chia di sản, đặc biệt là qui định về người được
hưởng di sản không phụ thuộc nội dung di chúc của Bộ luật Dân sự năm
2005.
Việc phân chia di sản thừa kế có thể được thực hiện tại Tòa án trong
trường hợp những người thừa kế không tự thỏa thuận được. Trong trường hợp
những người thừa kế thỏa thuận được thì việc phân chia di sản có thể thực
hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã, Phòng Tư pháp trực thuộc Ủy ban nhân dân
cấp huyện hoặc tại cơ quan Công chứng.
Từ khi Luật Công chứng ra đời và có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm
2007 các qui định về thỏa thuận phân chia di sản thừa kế ngày càng được qui
định cụ thể hơn.
Bên cạnh đó, các cơ quan thuế, cơ quan đăng ký sang tên sở hữu cũng
ngày càng ý thức một cách rõ ràng hơn tầm quan trọng của các qui định pháp


6
luật liên quan đến phân chia di sản thừa kế nên yêu cầu các văn bản về phân
chia di sản thừa kế không chỉ được lập thành văn bản với những người thừa
kế ký vào đơn thuần mà phải được công chứng, chứng thực để bảo đảm xác
định đúng, đủ những người thừa kế, đảm bảo về hình thức và nội dung.
Do vậy, yêu cầu phải tiến hành một nghiên cứu khoa học về Thỏa

thuận phân chia di sản thừa kế để trước hết hệ thống hóa các qui định của
pháp luật liên quan đến thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, cách vận dụng
các qui định này trong thực tế, phát hiện các bất cập trong việc áp dụng để từ
đó đề xuất những giải pháp nhằm làm cho việc thỏa thuận phân chia di sản
trước hết đúng về hình thức và nội dung, bảo đảm không bỏ sót người thừa
kế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các người thừa kế và những người
có quyền và nghĩa vụ liên quan.
2. Tình hình nghiên cứu
Thừa kế nói chung và thỏa thuận phân chia di sản thừa kế là một trong
những vấn đề thu hút sự chú ý và nghiên cứu của nhiều luật gia đã có nhiều
chương trình và đề tài nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể đến: Bình luận khoa
học về thừa kế, của Tiến sĩ Luật học Nguyễn Ngọc Điện - Trưởng Khoa luật Đại
học Cần Thơ, Nhà xuất bản Trẻ; Thừa kế - Qui định của pháp luật và thực
tiễn áp dụng của tác giả Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết - Trường Đại học luật Hà
Nội
Một số học viên cao học cũng đã chọn vấn đề thừa kế hoặc phân chia di
sản thừa kế làm đề tài cho luận văn khoa học của mình. Khóa 9 và khóa 10 Cao
học luật Đại học Quốc gia Hà Nội đã có 09 khóa luận liên quan đến thừa kế.
Tuy nhiên, các tài liệu trên chỉ đi sâu phân tích được một số khía cạnh
pháp lý của phân chia di sản thừa kế. Những tài liệu này chưa đi sâu phân tích
một cách toàn diện các nguyên tắc pháp lý, qui định pháp luật cũng như thực
trạng vấn đề thỏa thuận phân chia di sản thừa kế. Mà theo quan điểm của tôi,


7
thỏa thuận là hình thức phân chia di sản hiệu quả và tối ưu hơn các hình thức
phân chia di sản khác.
Bên cạnh đó, ngày 1/7/2007 Luật Công chứng chính thức có hiệu lực,
các tài liệu nói trên không còn tính cập nhật cần thiết của một tài liệu nghiên
cứu pháp luật nữa.

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ nội dung, cơ sở lý luận
và thực tiễn của các quy định về thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
Trên cơ sở phân tích các quan điểm hiện hành và thực tiễn pháp lý về
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, tác giả đề xuất hướng hoàn thiện các quy
định về thỏa thuận phân chia di sản thừa kế nhằm bảo đảm cho việc thỏa
thuận phân chia di sản thừa kế chính xác về hình thức và nội dung.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu:
- Những yếu tố và nội dung cấu thành chế định thỏa thuận phân chia
di sản thừa kế, mối quan hệ tương tác của chế định này với các quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Công chứng…
- Những tồn tại, vướng mắc khi áp dụng những quy định về thỏa
thuận phân chia di sản thừa kế trong thực tế, phương hướng và cách thức khắc
phục.
- Đề xuất một số ý kiến về việc ban hành các quy định pháp luật liên
quan đến thỏa thuận phân chia di sản thừa kế.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước, những qui định


8
trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Công chứng năm 2007 về vấn đề thỏa
thuận phân chia di sản thừa kế. Nội dung của luận văn được nêu và phân tích
dựa trên cơ sở các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn,
các tài liệu hướng dẫn tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp duy
vật biện chứng. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: phân tích, tổng

hợp và so sánh.
5. Điểm mới và ý nghĩa của luận văn
- Đây là công trình nghiên cứu có tính chất bình luận khoa học đối
với các quy định của luật dân sự liên quan tới vấn đề thỏa thuận phân chia di
sản thừa kế.
- Luận văn đã phát hiện được những kẽ hở, và sự bất hợp lý của các
quy định về thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, nêu ra những giải pháp nhằm
hoàn thiện chế định
- Trên cơ sở nghiên cứu khoa học thực trạng thỏa thuận phân chia di
sản thừa kế, luận văn đã đề xuất những giải pháp giải quyết những bất cập khi
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của những người thừa kế và những người có quyền nghĩa vụ liên quan.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện về thỏa thuận
phân chia di sản thừa kế.


9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ THỎA THUẬN PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ

Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế có phải là một hợp đồng dân sự?
Để xác định thỏa thuận phân chia di sản có phải là một hợp đồng dân
sự hay không cần xác định xem thỏa thuận phân chia di sản có những đặc
điểm cơ bản của một hợp đồng dân sự hay không xét từ khái niệm, nguyên tắc

giao kết, chủ thể, đối tượng của thỏa thuận, hình thức, nội dung của thỏa
thuận, địa điểm, thời điểm giao kết, hiệu lực của thỏa thuận.
1.1. KHÁI NIỆM THỎA THUẬN PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ
Phân chia theo nghĩa kỹ thuật của từ ngữ là một tập hợp các hoạt động
nhằm chấm dứt tình trạng có quyền chung của nhiều người trên một hoặc
nhiều tài sản. Phân chia di sản, trong quan niệm của luật học phương Tây, giả
định có ít nhất hai người có quyền hưởng di sản và có những quyền lợi cùng
tính chất trên một hoặc nhiều tài sản thuộc di sản. Nói cách khác, chỉ có phân
chia nếu trước đó tồn tại giữa những người có liên quan một tình trạng có
quyền chung - có thể là sở hữu chung, hưởng hoa lợi chung,…; và việc phân
chia có tác dụng chấm dứt tình trạng đó.
Di sản thừa kế là phần di sản còn lại sau khi đã thanh toán nghĩa vụ
của người chết để lại và các chi phí liên quan đến di sản.
Việc phân chia di sản liên quan đến một số người. Nó không hẳn có
thể được thực hiện bất kỳ lúc nào; và khi được thực hiện, thì nó chịu sự chi
phối của một loạt các quy tắc liên quan đến cả hình thức và nội dung.
Việc phân chia di sản thừa kế có thể được thực hiện tại tòa án hoặc do
những người thừa kế thỏa thuận. Thông thường các tranh chấp về thanh toán


10
và phân chia di sản không đưa ra Tòa án nhân dân mà các bên tranh chấp tự
giải quyết bằng nhiều con đường hòa giải khác nhau: anh chị em thuyết phục
nhau rồi thỏa thuận hoặc nhờ trưởng họ, hội đồng gia tộc hoặc nhờ người có
uy tín hiểu biết về pháp luật… giúp đỡ viết biên bản cùng ký tên. Bất đắc dĩ
những người thừa kế mới đưa đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân và đó
thường là những tranh chấp phức tạp, thời điểm mở thừa kế đã quá lâu, người
thừa kế thuộc hàng thứ nhất có người đã chết…
Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, khi trình độ dân trí ngày một tăng
lên cùng với sự tư vấn của các luật sư, thì những người thừa kế sẽ ngày càng

nhận ra những ưu điểm của việc thỏa thuận phân chia di sản thừa kế và thỏa
thuận phân chia di sản sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tương lai.
Sau đây là một số lý do:
Việc phân chia tại tòa có những nhược điểm sau:
- Tâm lý: Vô phúc đáo tụng đình. Gia đình có bố hoặc mẹ mới chết
mà các con đã kiện nhau ra tòa để chia di sản là gia đình vô phúc.
- Mất đoàn kết trong gia đình: Sau khi anh chị em kiện ra Tòa để phân
chia di sản thì sau đó dù ai thắng ai thua, quan hệ giữa anh chị em sẽ ít nhiều bị
sứt mẻ, thậm chí nhiều trường hợp không muốn nhìn mặt nhau. Di sản thừa kế
nếu là mảnh đất hoặc căn nhà thì khi phân chia anh chị em vẫn sống gần nhau,
nếu không giải quyết tốt tranh chấp thì rất có thể sẽ phát sinh mâu thuẫn mới từ
những vấn đề rất nhỏ như: hàng rào, mái ranh, ô văng… Mất đoàn kết trong gia
đình gây mất trật tự công cộng, thậm chí có nhiều trường hợp phải xử lý hình sự.
- Chi phí: Bao gồm: Án phí: tính theo % giá trị tài sản và tài sản càng
lớn thì án phí càng lớn, chưa kể các chi phí khác như chi phí thuê luật sự, chi
phí đi lại, chi phí để thu thập đủ các giấy tờ chứng minh.
- Thời gian: một vụ kiện về thừa kế thường kéo dài nhiều tháng, thậm
chí nhiều năm, đặc biệt là những vụ phức tạp cần nhiều giấy tờ và xác minh


11
nhiều tình tiết liên quan. Những vụ kiện thừa kế đi qua các phiên tòa sơ thẩm,
phúc thẩm thậm chí giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
- Thủ tục thi hành án kéo dài và phức tạp vì trong nhiều trường hợp
trước khi di sản được phân chia những người thừa kế đã sống trong ngôi nhà là
di sản thừa kế nhiều năm và ít nhiều cũng có đóng góp vào việc sửa chữa ngôi
nhà.
Trong khi đó thỏa thuận phân chia có nhiều ưu điểm hơn:
- Giữ được đoàn kết trong gia đình
- Phân chia trên cơ sở tương thân tương trợ. Nếu như một trong các

người thừa kế có hoàn cảnh kinh tế khá hơn có thể nhường một phần hoặc
nhường toàn bộ phần thừa kế của mình cho người thừa kế khác khó khăn hơn
hoặc có nhiều trường hợp người có điều kiện kinh tế khá hơn xin hưởng toàn
bộ thừa kế và hỗ trợ các đồng thừa kế khác một số tiền thỏa đáng.
- Đối với các tài sản không thể phân chia hoặc việc phân chia sẽ làm
mất giá trị của tài sản như đồ cổ thì việc thỏa thuận để một người hưởng vật
này và người khác hưởng vật khác hoặc một số tiền là hợp lý nhất.
- Đối với diện tích nhà đất quá nhỏ thì việc chia đều mảnh đất cho
tất cả các thừa kế là không hiệu quả. Ví dụ: Thửa đất 20m2 nếu chia đều cho
4 người con thì mỗi người chỉ được 5m
2
quá nhỏ để làm nhà, chi bằng 3
người nhường cho người còn lại và người còn lại đó có thể trả tiền hoặc
nhường một phần quyền thừa kế đối với di sản khác cho những người thừa kế
kia.
- Liên quan đến các thủ tục hành chính như:
+ Vấn đề người Việt Nam định cư ở nước ngoài có được quyền sở hữu
nhà tại Việt Nam các qui định của Luật Đất đai, Luật Nhà ở còn chưa cụ thể,
nên việc áp dụng tại một số địa phương như Hà Nội còn gặp khó khăn cho
nên trong trường hợp có người thừa kế đang định cư ở nước ngoài để đơn


12
giản về thủ tục người thừa kế định cư ở nước ngoài thường nhường phần thừa
kế của mình cho những người thừa kế khác đang ở trong nước.
+ Liên quan đến hạn mức đất được phép tách thửa. Theo Quyết định
26/2008/QĐ-UBND ngày 28/5/2008 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
Khoản 1 Điều 3: Thì diện tích đất được phép tách thửa không nhỏ hơn
30m
2

/thửa. Vì vậy trong trường hợp diện tích đất nhỏ hơn 30m
2
thì các đồng
thừa kế khi làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế phải đứng tên đồng sở hữu
nhà, sử dụng đất hoặc phải nhường cho một trong các người thừa kế đứng tên
sở hữu.
- Chi phí ít hơn: Lệ phí công chứng Văn bản thỏa thuận phân chia tại
thời điểm hiện nay cũng tính theo giá trị tài sản nhưng ít hơn rất nhiều án phí
tại Tòa án.
- Qui định của pháp luật dân sự về những người thừa kế không phụ
thuộc nội dung di chúc.
Quyền định đoạt của người lập di chúc sẽ bị hạn chế trong trường hợp
có người thừa kế không phụ thuộc nội dung của di chúc theo Điều 669 Bộ luật
Dân sự năm 2005. Hơn nữa việc xác định thế nào là hai phần ba suất của một
người thừa kế theo pháp luật không phải lúc nào cũng là một việc rễ ràng. Vì
vậy, theo tôi, thỏa thuận phân chia di sản là cách giải quyết hợp lý, hợp tình
và hiệu quả nhất trong trường hợp này.
Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được qui định tại Phần thừa kế
trong Bộ luật Dân sự và tại Luật Công chứng năm 2007, Điều 49: Công
chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản:
1. Những người thừa kế theo luật hoặc theo di chúc mà trong
di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì
họ có quyền yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản.


13
Trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản, người được
hưởng di sản có thể tặng cho toàn bộ hoặc một phần quyền hưởng
di sản của mình cho người thừa kế khác.
4. Văn bản thỏa thuận phân chia di sản đã được công chứng

là một căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc
chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản cho người được
hưởng di sản [6].
Từ những lập luận trên, đối chiếu với khái niệm hợp đồng dân sự tại
Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005, theo tôi: Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
thỏa mãn yêu cầu về khái niệm của một hợp đồng dân sự bởi thỏa thuận phân
chia di sản thừa kế là sự thỏa thuận giữa những người thừa kế về việc chấm
dứt tình trạng sở hữu chung đối với di sản thừa kế.
1.2. NGUYÊN TẮC GIAO KẾT
Quyền thừa kế là một chế định của Bộ luật Dân sự nên việc thừa kế
phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản mà bộ luật đã qui định. Bên cạnh đó, với
tư cách là một chế định riêng nên quyền thừa kế cũng có những nguyên tắc
riêng của mình. Tuy nhiên, các nguyên tắc này không được trái với nguyên
tắc chung của Bộ luật Dân sự. Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế vừa phải
tuân theo những nguyên tắc chung của Bộ luật Dân sự về thỏa thuận vừa phải
tuân theo các nguyên tắc riêng của thừa kế, bao gồm các nguyên tắc chính
sau:
1.2.1. Nguyên tắc bình đẳng
Nguyên tắc bình đẳng được quy định cụ thể tại Điều 632 Bộ luật Dân
sự năm 2005. Đây là sự cụ thể hóa nguyên tắc bình đẳng đã được quy định
trong Điều 8 của Bộ luật Dân sự, đồng thời cũng là sự cụ thể hóa nguyên tắc
bình đẳng trước pháp luật của công dân đã được Hiến pháp qui định. Nội


14
dung của nguyên tắc bình đẳng về quyền thừa kế của cá nhân đã được qui
định trong Bộ luật Dân sự bao gồm:
- Cha, mẹ có quyền ngang nhau trong việc hưởng di sản của con
Điều 676 Bộ luật Dân sự đã xếp cha, mẹ cùng đứng hàng thứ nhất để
hưởng di sản của con khi con chết trước cha, mẹ. Cũng trong điều luật này, tại

Khoản 2 đã qui định những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản
ngang nhau. Vì vậy, khi thỏa thuận phân chia di sản cha, mẹ bình đẳng và
ngang quyền nhau.
- Các con có quyền ngang nhau trong việc hưởng di sản của bố mẹ
Điều 676 và Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2005 qui định các con
được hưởng một phần di sản bằng nhau khi thừa kế di sản của bố, mẹ để lại
mà không phân biệt con trai hay con gái, con đẻ hay con nuôi, con chính hôn
hay con ngoại hôn. Vì vậy, khi thỏa thuận phân chia di sản mỗi người con có
thể mang quyền nhận di sản của mình ra thỏa thuận bình đẳng với những
người con khác cũng như những người thừa kế khác.
- Những người thân thích khác của người chết được hưởng di sản của
người đó một cách ngang nhau nếu họ cùng một hàng thừa kế.
Theo qui định tại điểm b, c, khoản 1 và Khoản 2 Điều 676 Bộ luật
Dân sự năm 2005 thì ông, bà có quyền ngang nhau khi hưởng di sản của cháu
mà không phân biệt ông hay bà, ông bà nội hay ông bà ngoại. Các cháu không
phân biệt cháu nội, cháu ngoại, cháu trai, cháu gái luôn có quyền ngang nhau
khi hưởng di sản thừa kế của ông hoặc bà ở hàng thừa kế thứ hai Những
người này đều bình đẳng với nhau khi thỏa thuận phân chia di sản thừa kế.
- Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc đều bình đẳng
với nhau khi thỏa thuận phân chia di sản thừa kế.
1.2.2. Nguyên tắc tự do ý chí


15
Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận đã được qui định
trong Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2005 là một trong những nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự thể hiện rõ nét đặc thù của quan hệ dân sự. Nguyên tắc
tôn trọng quyền định đoạt của các bên trong quan hệ thừa kế là sự cụ thể hóa
nguyên tắc cơ bản được quy định trong Điều 4 của Bộ luật Dân sự. Đối với
việc thỏa thuận phân chia di sản thì nguyên tắc quan trọng nhất thể hiện sự tự

do ý chí là: Tôn trọng ý chí tự nguyện của người thừa kế. Theo nguyên tắc cơ
bản của Bộ luật Dân sự, các chủ thể trong quan hệ dân sự luôn được tự
nguyện khi thiết lập và thực hiện các quan hệ mà họ tham gia. Vì vậy, trong
quan hệ thừa kế, pháp luật nước ta cũng cho phép chủ thể được hưởng thừa kế
có quyền bằng ý chí của mình quyết định sự lựa chọn: nhận hay không nhận
di sản thừa kế. Nguyên tắc này được qui định trong Điều 642 Bộ luật Dân sự.
Những người thừa kế cũng có thể thỏa thuận người này nhận phần di sản này
người khác nhận phân di sản khác, người nhận phần di sản nhiều hơn, người
nhận phần di sản ít hơn, người nhận tiền, người nhận hiện vật, người từ chối
nhận di sản, người nhận toàn bộ di sản.
Từ những phân tích trên có thể kết luận: Thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế cũng cần phải tuân theo các nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự qui
định tại Điều 389 Bộ luật Dân sự.
1.3. CHỦ THỂ THỎA THUẬN PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ
Khi đủ điều kiện để hưởng di sản thì "kể từ thời điểm mở thừa kế,
những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại"
trong đó có quyền thỏa thuận phân chia di sản thừa kế. Khác với chủ thể của
hợp đồng là hai bên, trong thỏa thuận phân chia di sản thừa kế có nhiều chủ
thể tham gia. Những chủ thể này thường có quan hệ với nhau hoặc hôn nhân,
hoặc nuôi dưỡng, hoặc huyết thống, hoặc quen biết nhau.


16
Chủ thể thỏa thuận phân chia di sản thừa kế trước hết phải là người
được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
1.3.1. Ngƣời thừa kế theo luật
1.3.1.1. Xác định người thừa kế theo luật
Người thừa kế theo luật là người được hưởng di sản của người chết để
lại theo qui định của pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là con
người cụ thể (cá nhân) và phải là cá nhân có một trong ba mối quan hệ (Hoặc

hôn nhân, hoặc nuôi dưỡng, hoặc huyết thống) với người để lại di sản. Điều
635 Bộ luật Dân sự năm 2005 đã qui định về người thừa kế như sau: "Người
thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh
ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người
để lại di sản chết" [5].
Theo qui định của Điều luật trên, cá nhân chỉ được coi là người thừa
kế khi cá nhân đó:
Thứ nhất, phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế
Với đặc trưng cơ bản của thừa kế là sự tiếp nối về sở hữu tài sản giữa
người còn sống với người đã chết nên người tiếp nhận di sản phải là người
còn sống. Sẽ vô nghĩa nếu tài sản được dịch chuyển từ một người chết này
sang một người chết khác. Thuật ngữ "còn sống" phải được hiểu trên bình
diện rộng bởi có thể có một người đã chết trên thực tế nhưng vẫn được coi là
"còn sống vào thời điểm mở thừa kế". Chẳng hạn, vào thời điểm phân chia di
sản, có người thừa kế đã chết nhưng nếu vào thời điểm mở thừa kế người đó
vẫn đang sống thì họ được coi là còn sống và sẽ được hưởng di sản. Tuy
nhiên, phần di sản mà họ được hưởng sẽ được coi là di sản mà họ để lại và sẽ
được chia cho những người thừa kế của họ. Mặt khác, cũng có trường hợp,
những người thừa kế không hiện diện vào thời điểm mở thừa kế do mất tích


17
nhưng họ chưa bị tuyên bố chết hoặc đã bị tuyên bố chết nhưng ngày được coi
là đã chết của họ được xác định sau ngày mở thừa kế thì họ vẫn được coi là
còn sống vào thời điểm mở thừa kế và sẽ được hưởng di sản. Phần di sản mà
người này được hưởng sẽ trở thành một phần trong di sản của chính họ kể từ
ngày họ bị coi là đã chết theo quyết định tuyên bố chết của Tòa án.
Trong trường hợp người thừa kế bị tuyên bố chết trước thời điểm
người để lại di sản chết nhưng họ lại còn sống và trở về trước khi di sản của
người chết được phân chia thì họ vẫn được coi là còn sống và sẽ được hưởng

di sản. Tuy nhiên, để được hưởng di sản, họ phải yêu cầu Tòa án hủy quyết
định tuyên bố chết đối với họ.
Thứ hai, phải thành thai trước khi người để lại di sản chết nếu sinh ra
và còn sống sau thời điểm mở thừa kế.
Cá nhân không thể hưởng thừa kế (tiếp nhận di sản) được nếu sinh ra
nhưng không còn sống. Mặc dù vậy, như thế nào là "sinh ra và còn sống" là
một vấn đề khá nhạy cảm. Nếu một người sinh ra và sống bình thường thì
việc hưởng thừa kế của họ sẽ được xác định bình thường như những người
khác. Tuy nhiên, đối với một người sinh ra và chết thì ranh giới để xác định là
còn sống hay đã chết sẽ khá là phức tạp vì đôi khi ranh giới đó chỉ là một
khoảnh khắc nhất định, trong khi hai tình trạng trên sẽ có hai hậu quả pháp lý
hoàn toàn khác nhau: Nếu được coi là còn sống thì đứa trẻ sẽ được hưởng
phần di sản mà người đã chết để lại cho nó và phần di sản đó sẽ được coi là di
sản của chính đứa trẻ để lại. Như vậy, phần di sản này sẽ thuộc về những
người thừa kế của đứa trẻ.
Để xác định chính xác tình trạng "còn sống" hay "đã chết" đối với một
đứa trẻ sinh ra rồi mới chết cần căn cứ vào qui định của hai điều luật sau đây
trong Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng
ký hộ tịch:


18
Điều 20. Khai sinh cho trẻ em sinh ra rồi mới chết: "Trẻ em sinh ra
sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết, thì cũng phải đăng ký khai sinh theo
qui định của Nghị định này, nếu chết trước khi sinh (chết lưu) hoặc sinh ra mà
sống chưa được 24 giờ, thì không phải đăng ký khai sinh".
Điều 29. Đăng ký khai tử cho trẻ em sinh ra rồi mới chết: "Trẻ em
sinh ra mà sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết thì vừa phải đăng ký khai
sinh, vừa phải đăng ký khai tử".
Theo tinh thần của hai điều luật trên thì một đứa trẻ sinh ra sống được

24 giờ trở lên thì được coi là "sinh ra và còn sống" và sẽ là người được hưởng
di sản mà người chết để lại. Nếu sinh ra mà chết ngay hoặc sống nhưng chưa
đủ 24 giờ đồng hồ thì bị coi là "sinh ra nhưng đã chết" và không phải là người
thừa kế được hưởng di sản.
Mục đích của việc quy định "phải thành thai trước khi người để lại di
sản chết" là nhằm xác định tính huyết thống giữa người sinh ra sau thời điểm
mở thừa kế với người đã chết, theo đó để xác định đứa trẻ sinh ra sau thời
điểm người để lại di sản chết có phải là con của họ hay không. Nếu sinh ra
sau và thành thai sau thời điểm người để lại di sản chết thì giữa họ không có
quan hệ huyết thống nên đứa trẻ đó không phải là người thừa kế theo luật của
người để lại di sản. Ngược lại, nếu đứa trẻ sinh ra sau nhưng đã thành thai
trước khi người để lại di sản chết thì đứa trẻ đó được xác định là con của
người để lại di sản và đương nhiên sẽ là người thừa kế theo pháp luật của
người để lại di sản (trừ trường hợp có người khác xin xác định là cha của đứa
trẻ đó và đã được Tòa án thừa nhận bằng một bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật).
1.3.1.2. Người thừa kế thế vị
Điều 677 Bộ luật Dân sự năm 2005 đã quy định về thừa kế thế vị như sau:


19
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn
sống; nếu cháu chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại
di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt
được hưởng nếu còn sống [5].
Như vậy, trong quy định này pháp luật chỉ liệt kê về các trường hợp
thừa kế thế vị. Vậy thì thế vị là gì? Theo nghĩa Hán - Việt thì từ "thế" có
nghĩa là "thay vào", từ "vị" có nghĩa là "ngôi thứ", "ngôi vị", "vị trí". Trong

cuốn "Từ điển giải thích thuật ngữ luật học" của Trường Đại học Luật Hà Nội
do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 1999 có định nghĩa: "Thừa
kế thế vị là thừa kế bằng việc thay thế vị trí để hưởng thừa kế" [24]. Mặt
khác, theo qui định của điều luật trên thì thừa kế thế vị chỉ được đặt ra khi đã
thỏa mãn năm điều kiện:
Thứ nhất, người thế vị phải là người ở đời sau (con thế vị cha, mẹ
nhưng cha mẹ không được thế vị con).
Thứ hai, thừa kế thế vị chỉ đặt ra khi người được thế vị chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản (con người để lại di sản chết
trước hoặc chết cùng thời điểm người để lại di sản)
Thứ ba, người thế vị phải còn sống vào thời điểm người được thế vị
chết hoặc nếu sinh ra và còn sống sau thời điểm người được thế vị chết thì
phải thành thai trước thời điểm người được thế vị chết.
Từ sự phân tích trên có thể đi đến định nghĩa như sau: Thừa kế thế vị
là việc con thay thế vị trí của cha hoặc mẹ để hưởng thừa kế của ông nội, bà
nội, hoặc ông ngoại, bà ngoại đối với phần di sản mà cha, mẹ được hưởng nếu
còn sống nhưng cha đã chết trước ông nội, bà nội hoặc mẹ đã chết trước ông


20
ngoại, bà ngoại, đồng thời cũng là việc con thay thế vị trí của cha hoặc mẹ để
hưởng thừa kế của cụ đối với phần di sản mà cha, mẹ được hưởng nhưng cha,
mẹ đã chết trước hoặc cùng một thời điểm với cụ.
Các trường hợp thừa kế thế vị
- Cháu thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của ông, bà
Trong trường hợp cha đẻ chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với
ông nội thì khi ông nội chết, con sẽ thay thế vị trí của cha để hưởng thừa kế từ
di sản mà ông nội để lại đối với phần di sản mà cha mình được hưởng nếu còn
sống. Nếu cha đẻ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với bà nội thì khi bà nội
chết, con được thay thế vị trí của cha để hưởng thừa kế từ di sản mà bà nội để

lại đối với phần di sản mà cha mình được hưởng nếu còn sống.
Trong trường hợp mẹ đẻ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông
ngoại thì khi ông ngoại chết, con sẽ thay thế vị trí của mẹ để hưởng thừa kế từ
di sản mà ông ngoại để lại đối với phần di sản mà mẹ mình được hưởng nếu
còn sống.
Ngoài ra, thừa kế thế vị được xét trên tổng thể về sự đan xen huyết
thống với nuôi dưỡng giữa người để lại di sản với con, cháu của người đó nên
khi xác định cháu có được thế vị hay không, cần theo ba căn cứ sau:
Thứ nhất, nếu giữa các đời đều có quan hệ huyết thống (A sinh ra B
và B sinh ra C) thì đương nhiên cháu sẽ được thế vị trong mọi trường hợp nếu
có đủ các điều kiện đã xét ở phần trên.
Thứ hai, nếu quan hệ giữa các đời đều là nuôi dưỡng (A nhận nuôi B và
B nhận nuôi C) thì đương nhiên thế vị không được đặt ra trong mọi trường
hợp.


21
Thứ ba, nếu có sự đan xen cả huyết thống lẫn nuôi dưỡng giữa các đời
thì cần xác định theo các trường hợp sau: (theo Điểm B Phần 5 Nghị quyết
02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)
- Nếu quan hệ giữa đời thứ nhất và đời thứ hai là nuôi dưỡng nhưng
quan hệ giữa đời thứ hai và đời thứ ba lại là huyết thống (A nhận nuôi B và B
sinh ra C) thì được thừa kế thế vị. Trường hợp này cũng được áp dụng đối với
con riêng của vợ, của chồng nếu con riêng với mẹ kế, bố dượng được thừa
nhận là có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con.
- Nếu quan hệ giữa đời thứ nhất với đời thứ hai là huyết thống nhưng
quan hệ giữa đời thứ hai với đời thứ ba lại là nuôi dưỡng (A sinh ra B và B
nhận nuôi C) thì không đương nhiên được thừa kế thế vị, nghĩa là có thể được
thế vị nếu được người để lại di sản coi như cháu ruột.
- Chắt thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của cụ

+ Trong trường hợp ông nội, bà nội chết trước người để lại di sản là
cụ, cha cũng đã chết trước người để lại di sản nhưng chết sau ông, bà nội thì
chắt được hưởng phần di sản mà cha mình được hưởng nếu còn sống vào thời
điểm người để lại di sản chết.
+ Trong trường hợp ông, bà ngoại chết trước người để lại di sản là cụ,
mẹ cũng đã chết trước người để lại di sản nhưng chết sau ông, bà ngoại thì
chắt được hưởng phần di sản mà mẹ mình được hưởng nếu còn sống.
+ Trong trường hợp ông, bà và cha, mẹ đều chết cùng thời điểm với
người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha, mẹ mình được
hưởng nếu còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
+ Trong trường hợp ông, bà chết trước người để lại di sản, cha, mẹ
chết sau ông, bà nhưng chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt


22
được hưởng phần di sản mà cha, mẹ mình được hưởng nếu còn sống vào thời
điểm mở thừa kế.
1.3.1.3. Tư cách chủ thể của người thừa kế theo pháp luật
Pháp luật về thừa kế của nước ta không qui định điều kiện về tư cách
chủ thể của người thừa kế, trong khi, người thừa kế là một bên chủ thể trong
quan hệ thừa kế và theo nguyên lý chung thì khi tham gia quan hệ giao dịch
dân sự, các chủ thể phải có đủ tư cách (bao gồm năng lực hành vi và năng lực
pháp luật). Tuy nhiên, điều kiện về tư cách chủ thể không đặt ra đối với người
thừa kế bởi những lý do sau đây:
Thừa kế là sự dịch chuyển di sản từ người đã chết sang người còn
sống trong đó di sản mà người thừa kế được hưởng phải là những tài sản hiện
còn sau khi thanh toán các nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại (nếu có)
nên người hưởng di sản, thực chất là người có quyền mà không phải gánh vác
nghĩa vụ (dù trong khoản 1 Điều 637 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định:
"người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản

do người chết để lại" [5], nhưng trách nhiệm này đã được người quản lý di
sản thực hiện trước khi chia di sản cho người thừa kế). Vì vậy, việc hưởng
quyền không cần điều kiện về năng lực chủ thể.
Nếu di sản đã được chia cho người thừa kế khi chưa thanh toán nghĩa
vụ về tài sản do người chết để lại thì người hưởng di sản có nghĩa vụ phải
thực hiện nghĩa vụ đó tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà họ đã
nhận. Trong trường hợp này, nếu người thừa kế không có hoặc chưa đủ năng
lực hành vi thì người đại diện theo pháp luật (cha, mẹ, hoặc người giám hộ)
của họ sẽ thay họ dùng phần tài sản đó để thực hiện nghĩa vụ. Như vậy, người
thừa kế không cần phải có điều kiện về năng lực chủ thể.
Cũng giống như quyền sở hữu, quyền thừa kế là một quyền tuyệt đối.
Nếu trong quyền sở hữu, ai là người có tài sản một cách hợp pháp thì người


23
đó là chủ sở hữu của tài sản bất luận họ có năng lực hành vi hay không thì
trong thừa kế, ai là người được người chết chuyển dịch di sản thừa kế thì
người đó là người thừa kế, bất luận họ có năng lực hành vi hay không.
Tóm lại, để được hưởng di sản, người thừa kế nói chung phải đáp ứng
được các điều kiện mà pháp luật đã quy định. Tuy nhiên, người thừa kế không
bắt buộc phải có năng lực chủ thể mới được hưởng di sản.
1.3.1.4. Năng lực tham gia thỏa thuận phân chia di sản
Người tham gia thỏa thuận phân chia di sản trước hết phải là người
được hưởng di sản sau đó phải là người có năng lực hành vi dân sự. Vì quan
hệ thừa kế rất phức tạp, người tham gia thỏa thuận phân chia di sản thừa kế
phải ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình hoặc hiểu được những quyền và
nghĩa vụ này khi được công chứng viên hoặc người có thẩm quyền, có trình
độ hiểu biết pháp luật giải thích. Tài sản thỏa thuận phân chia đa dạng, giá trị
khác nhau, có tài sản mang giá trị vật chất, có tài sản mang giá trị tinh thần.
Việc thỏa thuận phân chia mang đến hậu quả pháp lý vì vậy cần thận trọng

khi quyết định. Như đã phân tích ở trên điều kiện về năng lực hành vi không
đặt ra đối với người được hưởng thừa kế, tuy nhiên, theo tôi để bảo đảm
quyền lợi cho những người thừa kế đặc biệt là những người không có đủ năng
lực hành vi dân sự: như người chưa đủ 18 tuổi hay người mất năng lực hành
vi dân sự thì những người này không thể trực tiếp tham gia vào việc thỏa
thuận phân chia di sản. Những người không có năng lực hành vi dân sự hoặc
mất năng lực hành vi dân sự có thể tham gia vào việc phân chia di sản thừa kế
thông qua vai trò của người đại diện hợp pháp của họ, tuy nhiên, việc này
phải được giám sát một cách chặt chẽ để bảo đảm quyền lợi của những người
này. Việc đại diện phải tuân thủ các qui định của Bộ luật Dân sự, đặc biệt là
qui định người giám hộ không được mang tài sản (phần thừa kế) của người
được giám hộ tặng cho người khác (khoản 2 Điều 69 Bộ luật Dân sự) và qui

×