Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 143 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







NGUYỄN ĐỨC HÙNG





NGUYÊN TẮC XÉT XỬ TRỰC TIẾP,
BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM










LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






HÀ NỘI – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






NGUYỄN ĐỨC HÙNG






NGUYÊN TẮC XÉT XỬ TRỰC TIẾP,
BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM



Chuyên ngành : Luật Hình sự
Mã số : 60 38 40




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ






HÀ NỘI – 2012

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………………… 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC
XÉT XỬ TRỰC TIẾP, BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA….6
1.1. Khái niệm “xét xử trực tiếp”, “xét xử bằng lời nói” và“xét xử liên tục” tại
phiên tòa. 6
1.1.1. Xét xử trực tiếp. 6
1.1.2. Xét xử bằng lời nói 11
1.1.3. Xét xử liên tục. 12
1.2 Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên
tục tại phiên tòa………………………………………………………….… 14
1.2.1. Cơ sở lý luận 14
1.2.2. Cơ sở thực tiễn. 19

1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa
phiên tòa 23
1.4. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng
lời nói và liên tục tại phiên tòa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam 25
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi BLTTHS 1988 có
hiệu lực thi hành. 25
1.4.2. Giai đoạn từ khi BLTTHS 1988 có hiệu lực thi hành đến nay 32
1.5. Sự thể hiện của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên
tòa trong Pháp luật tố tụng hình sự trên thế giới 35
1.5.1.Nguyên tắc xét xử trực tiếp và nguyên tắc xét xử bằng lời nói 35
1.5.2.Nguyên tắc xét xử liên tục 40

CHƢƠNG 2: NGUYÊN TẮC XÉT XỬ TRỰC TIẾP, BẰNG LỜI NÓI VÀ
LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM……………………………………………………………………………….43
2.1. Nội dung, phạm vi và yêu cầu của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói
và liên tục tại phiên tòa. 43
2.1.1. Nội dung nguyên tắc 43
2.1.2. Phạm vi của nguyên tắc 49
2.1.3. Yêu cầu của nguyên tắc 54
2.2. Một số nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự có liên quan đến nguyên
tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa 56
2.2.1. Nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án 56
2.2.2. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo 58
2.2.3. Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật 60
2.2.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. 62
2.2.5 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật 63
2.2.6 Nguyên tắc xét xử công khai. 64

2.2.7. Nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự. 65
2.3. Một số quy định bảo đảm thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói
và liên tục tại phiên tòa 66
2.3.1. Sự có mặt của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng tại
phiên tòa 66
2.3.2. Giới hạn của việc xét xử (Điều 196 BLTTHS 2003) 68
2.3.3. Biên bản phiên tòa (Điều 200 BLTTHS 2003) 69
2.4. Các quy định liên quan đến nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên
tục tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và phiên tòa hình sự phúc thẩm 70
2.4.1. Phiên tòa hình sự sơ thẩm 70
2.4.2. Phiên tòa hình sự phúc thẩm. 87

CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC XÉT
XỬ TRỰC TIẾP, BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA……….92
3.1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại
phiên tòa 92
3.1.1.Những kết quả đạt được. 92
3.1.2. Những hạn chế 95
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện nguyên
tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa. 101
3.2.1. Những nguyên nhân về lập pháp luật. 101
3.2.2. Những nguyên nhân về thi hành pháp luật: 103
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng, hiệu
quả thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa 107
3.3.1. Yêu cầu hoàn thiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại
phiên tòa 107
3.3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của nguyên tắc xét
xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa 109
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO





DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
BLTTHS 2003 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
BLTTHS 1989 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1989
CQĐT Cơ quan Điều tra
PLTTHS Pháp luật tố tụng hình sự
PLHS Pháp luật hình sự
HĐXX Hội đồng xét xử
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân Tố cao
TNHS Trách nhiệm hình sự
TTHS Tố tụng hình sự
TGTT Tham gia tố tụng
THTT Tiến hành tố tụng
VKSND Viện Kiểm sát nhân dân
VKSNDTC Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao
XHCN Xã hội chủ nghĩa




1
PHẦN MỞ ĐẦU


I. Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử vụ án tại phiên tòa là giai đoạn quan trọng nhất, là trung tâm của
TTHS. Trong giai đoạn này, với sự có mặt đầy đủ nhất của những người THTT và
người TGTT, Tòa án sẽ tiến hành cuộc điều tra công khai, trực tiếp xem xét khách
quan và đầy đủ nhất các chứng cứ của vụ án, làm sáng tỏ toàn bộ sự thật khách quan
của vụ án và ra phán quyết giải quyết vụ án. Các phán quyết của Tòa án là nhân
danh nhà nước, trực tiếp thể hiện thái độ của nhà nước đối với từng vụ án cụ thể,
góp phần thể hiện bản chất của nhà nước và pháp luật; có hiệu lực pháp lý bắt buộc,
tác động rất lớn đến quyền và lợi ích của các đương sự, đặc biệt là bị cáo – người
đang là đối tượng của việc buộc tội. Đồng thời, thông qua hoạt động xét xử tại
phiên tòa, tất cả những người có mặt tại phiên tòa có thể đánh giá được tính đúng,
sai trong hành vi của bị cáo và những người có liên quan đến vụ án, cũng như của
Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa.v.v ; nâng cao hiểu biết pháp
luật, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự nghiêm minh của pháp luật, đối với
Đảng và nhà nước. Chính vì vậy, Tòa án phải có những phương pháp xét xử khoa
học và hợp lý, theo những thủ tục chặt chẽ, để đảm bảo rằng “xét xử phải chính xác,
công minh trong việc vận dụng và áp dụng pháp luật… các bản án và quyết định
sau khi xét xử của Tòa án không có kẽ hở, gây nghi ngờ về sự thiếu công bằng của
pháp luật”. [104, tr.82]
Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa quy định
những phương pháp mà Tòa án (trực tiếp là HĐXX) có thể sử dụng để thực hiện
những nội dung và nhiệm vụ của hoạt động xét xử. Do đó, những nội dung của
nguyên tắc này sẽ quyết định đến trình tự, thủ tục xét xử, việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ tố tụng của HĐXX, Kiểm sát viên, bị cáo và những người khác tham gia
phiên tòa. Và vì vậy, việc quy định và thực hiện đúng đắn, hợp lý về nguyên tắc này
sẽ quyết định đến tính dân chủ, khách quan và chính xác của hoạt động xét xử tại

2
phiên tòa; cũng như việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức

và nhà nước.
Tuy nhiên, các quy định của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên
tục tại phiên tòa và các quy định có liên quan, cũng như việc thực thi chúng trên
thực tiễn vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc. Các quy định về nguyên tắc này
(Điều 184 BLTTHS 2003) đã khiến HĐXX có trách nhiệm chính trong việc chứng
minh, tích cực nhất trong việc xét hỏi, thẩm tra chứng cứ, không phù hợp với bản
chất của chức năng xét xử, yêu cầu khách quan, trung lập và công bằng cần phải có
của HĐXX; cũng như làm hạn chế sự chủ động, tích cực của các chủ thể thuộc bên
buộc tội và gỡ tội tại phiên tòa. Mặt khác, nguyên tắc xét xử liên tục tại phiên tòa đã
làm cho quá trình xét xử nhiều vụ án bị kéo dài một cách không cần thiết. Trong khi
đó, tư tưởng “án tại hồ sơ” vẫn còn tồn tại, nhiều HĐXX chưa coi trọng đúng mức,
không thực hiện chính xác các quy định và yêu cầu về việc xét hỏi, trực tiếp thẩm
tra chứng cứ, điều khiển phiên tòa và lắng nghe ý kiến tranh luận của các bên tại
phiên tòa, tác động tiêu cực đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn
của đề tài “Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa trong
Luật TTHS Việt Nam” vẫn là một yêu cầu mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, về nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên
tòa vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và đầy đủ, mà
chủ yếu nằm rải rác trong nội dung của các giáo trình, sách, các bài nghiên cứu
đăng tải trên các báo, tạp chí như: Bình luận Khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự,
PGS. TS Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân, năm 2004; Giáo trình Luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, năm
2004.v.v… Tuy nhiên, đa số các tài liệu nghiên cứu này mới chỉ đưa ra những nội
dung và yêu cầu cơ bản nhất của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục
tại phiên tòa; còn những vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc này vẫn chưa
được nghiên cứu và làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện. Do đó, việc tiếp tục

3

nghiên cứu, làm sáng rõ các vấn đề liên quan đến nguyên tắc này là rất cần thiết về
cả mặt lý luận và thực tiễn.
Chính vì vậy, việc chọn đề tài “Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và
liên tục tại phiên tòa trong Luật TTHS Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn thạc sỹ luật học là rất có ý nghĩa, có thể phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu
khoa học cũng như công tác thực tiễn.
III. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn sẽ làm sáng tỏ các vấn đề lý luận khoa học liên quan đến nguyên
tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa;
- Luận văn sẽ đưa ra những nhận định và đánh giá về thực tiễn thực hiện
nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa;
- Luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc xét xử trực tiếp,
bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa trong Luật TTHS Việt Nam, luận văn sẽ đi sâu
làm sáng tỏ các vấn đề sau:
- Các vấn đề lý luận chung của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và
liên tục tại phiên tòa như: Khái niệm, cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn; ý nghĩa pháp
lý và ý nghĩa chính trị - xã hội; nội dung, yêu cầu và phạm vi của nguyên tắc.
- Nội dung và sự thể hiện, những ưu điểm và hạn chế của nguyên tắc xét xử
trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa trong các quy định của PLTTHS Việt
Nam; cũng như quá trình áp dụng chúng trong thực tiễn.
- Làm rõ nguyên nhân của những hạn chế và vướng mắc trong việc thực hiện
nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa; đề ra một số kiến
nghị nhằm khắc phục các hạn chế và vướng mắc đó, góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả thực hiện nguyên tắc này trong hoạt động xét xử vụ án hình sự tại phiên tòa.




4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng và phạm vi nghiên cứu như sau:
- Các vấn đề lý luận chung về nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và
liên tục tại phiên tòa.
- Tập trung vào các quy định của BLTTHS 2003 về nguyên tắc xét xử trực
tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa, cũng như các quy định khác có liên quan
trong thủ tục xét xử hình sự sơ thẩm và xét xử hình sự phúc thẩm.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng
lời nói và liên tục tại phiên tòa trong hoạt động TTHS Việt Nam (từ khi BLTTHS
2003 có hiệu lực cho đến nay).
IV. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận văn sử
dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học
khác như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, suy luận lôgic.v.v…
V. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn
1. Trong nội dung của luận văn có những điểm mới về khoa học nhƣ sau:
- Phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật có liên quan đến nguyên tắc
xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa trong Luật TTHS Việt Nam.
- Phát hiện những đểm chưa phù hợp trong quy định của nguyên tắc xét xử
trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa, cũng như các quy định khác có liên
quan; từ đó mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị về mặt lập pháp và thực thi pháp luật,
để nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc này.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần làm rõ thêm các quan
điểm lý luận khoa học về nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại
phiên tòa trong Luật TTHS Việt Nam;

- Ngoài ra luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc
nghiên cứu và học tập khoa học Luật TTHS.

5
VI. Kết cấu luận văn.
Kết cấu của luận văn bao gồm: Lời nói đầu, 03 chương, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, cụ thể như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về nguyên tắc xét xử trực tiếp,
bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa;
- Chương 2: Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
- Chương 3: Thực tiễn thực hiện và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại
phiên tòa.





















6
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC XÉT XỬ TRỰC
TIẾP, BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA

1.1. KHÁI NIỆM “XÉT XỬ TRỰC TIẾP”, “XÉT XỬ BẰNG LỜI NÓI”
VÀ “XÉT XỬ LIÊN TỤC” TẠI PHIÊN TÒA
1.1.1. Xét xử trực tiếp
Theo Từ điển Tiếng Việt, “trực tiếp” có nghĩa là “có quan hệ thẳng với đối
tượng tiếp xúc, không qua khâu trung gian; trái với gián tiếp.” [22, Tr.1349]; còn
“đối tượng” có nghĩa là “người, vật, hiện tượng mà con người nhằm vào trong suy
nghĩ, hành động.” [22, tr.442]. Từ đó, “trực tiếp” có thể hiểu là cách thức, phương
pháp tiến hành một công việc bằng cách tiếp xúc, tác động thẳng vào đối tượng cần
nghiên cứu hoặc tạo sự biến đổi, để đạt được những mục đích nhất định, không
thông qua các đối tượng và khâu trung gian. Do vậy, “xét xử trực tiếp” có thể hiểu
là cách thức, phương pháp tiến hành hoạt động xét xử, theo đó chủ thể thực hiện
hoạt động xét xử tiếp xúc và tác động thẳng vào đối tượng của hoạt động xét xử,
không thông qua đối tượng và khâu trung gian, nhằm đạt được các mục đích, nhiệm
vụ của hoạt động xét xử.
Theo quy định tại Điều 127 Hiến pháp năm 1992 và Điều 9 BLTTHS 2003
Tòa án là cơ quan xét xử của nhà nước, là chủ thể duy nhất có quyền thực hiện hoạt
động xét xử các vụ án hình sự. Xét xử ở nghĩa chung nhất là “Xem xét và xử các vụ
án” [22, tr. 1467]; cụ thể hơn là “hoạt động do Tòa án tiến hành theo pháp luật tố
tụng, trong đó Tòa án, sau khi nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện và đầy
đủ các tình tiết của vụ án, tiến hành giải quyết và xử lý vụ án bằng việc ra bản án
và các quyết định cần thiết có liên quan.” [43, tr. 418] Như vậy, xét xử hình sự là

hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án, nhằm giải quyết vụ án hình sự, bao gồm
hai nội dung cơ bản: (1) Tòa án phải xác định chính xác các sự kiện, tình tiết thực tế
đã xảy ra của vụ án hình sự; (2) Trên cơ sơ đó, Tòa án phải độc lập, khách quan dựa

7
vào các quy định của pháp luật, đánh giá về mặt pháp lý đối với những sự kiện, tình
tiết của vụ án, để xác định các vấn đề cần thiết cho việc giải quyết vụ án như: có
hay không có hành vi phạm tội? ai là người thực hiện hành vi phạm tội; lỗi, tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.v v… Nếu Tòa án kết luận bị cáo
là người có tội, thì Tòa án phải quyết định áp dụng các hình thức TNHS phù hợp,
tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, theo đúng các quy định
của PLHS và PLTTHS. Các bản án của Tòa án có tính chất là những phán quyết
cuối cùng, có hiệu lực bắt buộc chung đối với bị cáo và các chủ thể khác có liên
quan, cũng như toàn xã hội, trực tiếp thể hiện thái độ của nhà nước đối với vụ án.
Hoạt động xét xử “không phải chỉ đơn thuần áp dụng pháp luật mà trước khi
áp dụng pháp luật phải xác định được sự kiện. Sự kiện đó xảy ra như thế nào trong
quan hệ khách quan thì phải xác định đúng như vậy. ” [12, tr.66, 67] Xác định được
sự thật khách quan của vụ án là một nội dung và mục đích quan trọng của hoạt động
xét xử. Chỉ có dựa vào sự thật khách quan của vụ án, Tòa án mới có thể đưa ra được
những đánh giá pháp lý chính xác và toàn diện về các tình tiết của vụ án, cũng như
hành vi của bị cáo và các chủ thể khác, lấy đó làm căn cứ ra bản án hoặc quyết định
giải quyết vụ án.“Một phiên tòa công minh là một phiên tòa đào mãi đến chân lý
khách quan - Chân lý chính xác, phù hợp với các yếu tố hiện thực của thực tế khách
quan!” [57, tr.25]
Tuy nhiên, khi xét xử vụ án tại phiên tòa, các tình tiết của vụ án không phải
đang diễn ra một cách hiện hữu, để HĐXX và những người tham gia phiên tòa có
thể trực tiếp xem xét, đánh giá mà sự việc phạm tội đã xảy ra trong quá khứ. Do đó,
“Tòa án trong phiên tòa xét xử muốn tuyên án đối với bị cáo nào đó về tội danh cụ
thể được quy định trong BLHS mà họ đã phạm thì phải có những tài liệu được thu
thập theo đúng trình tự và thủ tục mà pháp luật quy định để chứng minh.” [110, tr.

75] Những tài liệu, thông tin làm căn cứ xác định các tình tiết của vụ án hình sự
được gọi là chứng cứ. “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự,
thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng
làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi

8
phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ
án.” (Điều 64 BLTTHS 2003)
Xét về bản chất chứng cứ là những thông tin chính xác, phản ánh đúng đắn
về các tình tiết thực tế đã diễn ra của vụ án, làm sáng tỏ các vấn đề cần phải chứng
minh trong vụ án hình sự. Chứng cứ luôn được phản ánh và lưu giữ trong những
nguồn nhất định, đó là: Vật chứng; lời khai của người làm chứng, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về
hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác (Điều 64 BLTTHS 2003).
Những nguồn chứng cứ trên là nơi chứa đựng những thông tin có thật, có liên quan
đến vụ án hình sự,“từ đó có thể tìm ra đối tượng được chủ thể sử dụng để chứng
minh” [99, tr.49]. Nói một cách khác, chứng cứ là nội dung phản ánh sự việc và
hiện tượng của vụ án, còn nguồn chứng cứ là hình thức chứa đựng các nội dung
đó.“Do đó, nếu không tìm được nguồn chứng cứ sẽ không thể có chứng cứ giải
thích, làm sáng tỏ các tình tiết và diễn biến của vụ án, kéo theo hậu quả là các cơ
quan tiến hành tố tụng sẽ đưa ra những kết luận không đúng, không chính xác và
không đầy đủ đối với vụ án hình sự.” [100]
Để xác định được các tình tiết của vụ án và ra phán quyết giải quyết vụ án,
Tòa án phải kiểm tra, đánh giá và sử dụng các chứng cứ. Do đó, đối tượng mà hoạt
động xét xử cần hướng tới để xác định các tình tiết của vụ án hình sự và ra phán
quyết giải quyết vụ án là các chứng cứ, được lưu giữ, phản ánh trong các nguồn của
chứng cứ. Cho nên, xét xử trực có nghĩa là Tòa án phải trực tiếp xem xét, kiểm tra
các chứng cứ của vụ án như: trực tiếp nghe lời khai của bị cáo, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người

làm chứng; trực tiếp xem xét vật chứng; trực tiếp xem xét hiện trường hoặc địa
điểm có liên quan đến vụ án; trực tiếp xem xét kết luận giám định và biên bản về
hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Bên cạnh đó, với vai trò và vị trí của chức năng xét xử là “người trọng tài
công minh”, “người bảo vệ công lý”, Tòa án còn phải tạo điều kiện cho những

9
người tham gia phiên tòa thực hiện các quyền tố tụng (quyền đưa ra và trình bày
chứng cứ, tài liệu và đồ vật; đưa ra ý kiến và yêu cầu). Do đó, xét xử trực tiếp còn
có nghĩa Tòa án phải trực tiếp lắng nghe và xem xét các ý kiến và yêu cầu của
những người tham gia phiên tòa, để có được những “dữ kiện” cần thiết, giúp Tòa án
xác định đúng và đầy đủ các tình tiết, cũng như các vấn đề khác của vụ án.
Trên cơ sở kết quả của việc trực tiếp kiểm tra các chứng cứ và trực tiếp lắng
nghe, đánh giá các ý kiến, yêu cầu của những tham gia phiên tòa, Tòa án xác định
các tình tiết của vụ án; đánh giá tính chất pháp lý của các tình tiết của vụ án, hành vi
của bị cáo và những có liên quan trong vụ án, để ra phán quyết giải quyết vụ án theo
đúng sự thật khách quan của vụ án và các quy định của pháp luật. Do đó, phán
quyết của Tòa án chỉ có thể căn cứ vào các chứng cứ và ý kiến đã được Tòa án trực
tiếp xem xét tại phiên tòa. Nếu Tòa án căn cứ vào các chứng cứ và ý kiến chưa được
trực tiếp xem xét tại phiên tòa, để ra phán quyết giải quyết vụ án, thì tức là Tòa án
đã không thực hiện đúng những những nội dung và yêu cầu của phương pháp xét xử
trực tiếp.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn và do nhiều cơ
quan tiến hành (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án). Mỗi một gia đoạn
có những nhiệm vụ và yêu cầu riêng, phù hợp với chức năng của từng cơ quan.
Trong các giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố, CQĐT và VKSND tiến hành thu
thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, xây dựng và tập hợp chúng trong hồ sơ vụ án.
Đồng thời, các cơ quan này cũng đã đưa ra những nhận định và kết luận về các
chứng cứ và các tình tiết của vụ án. Tuy nhiên, chúng là kết quả của hoạt động thu
thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ của CQĐT và VKSND, không phải là kết quả

của hoạt động xét xử của Tòa án. Do đó, nếu Tòa án chỉ căn cứ vào kết quả đó để
xét xử và ra phán quyết giải quyết vụ án, thì sẽ không phải là xét xử trực tiếp mà là
hình thức xét xử gián tiếp, thông qua đối tượng trung gian là hồ sơ vụ án và khâu
trung gian là giai đoạn điều tra và truy tố.
Từ những phân tích trên, có thể thấy xét xử trực tiếp là phương pháp xét xử
có nhiều khác biệt, thậm chí đối lập với phương pháp xét xử bút lục. Theo Từ Điển

10
luật học xét xử bút lục là:“Thủ tục xét xử đặc biệt có thể đuợc áp dụng ở cấp phúc
thẩm, theo đó giải quyết những vụ án đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng (bị cáo đề
nghị giảm án, xin được hưởng án treo, hoặc xin giảm mức bồi thường…) được tiến
hành căn cứ vào hồ sơ vụ án mà không cần phải mở phiên tòa. Tác dụng của thủ
tục xét xử bút lục là đẩy nhanh tiến độ xét xử, hạn chế tình trạng án tồn đọng.”
[109, tr.873] Phương pháp, cách thức xét xử bút lục đã và đang tồn tại trong
PLTTHS Việt Nam như: tại thủ tục rút gọn ở cấp phúc thẩm (thông tư số 19 –
TATC ngày 02/10/1974 của TANDTC); thủ tục xét xử phúc thẩm đối với quyết
định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; thủ tục xét xử giám đốc thẩm và xét xử tái
thẩm (BLTTHS 1989 và BLTTHS 2003).
Sự khác biệt và đối lập của phương pháp xét xử bút lục so với xét xử trực
tiếp là rất rõ nét: (1) Tòa án không phải trực tiếp xác định các tình tiết của vụ án
bằng cách trực tiếp và bằng lời nói kiểm tra các chứng cứ. Do đó, phiên tòa không
bao gồm các thủ tục xét hỏi và tranh luận, mà được tiến hành dưới hình thức một
phiên họp không công khai của HĐXX; Tòa án xác định các tình tiết, các vấn đề
của vụ án và ra phán quyết giải quyết vụ án trên cơ sở các chứng cứ và tài liệu có
trong hồ sơ vụ án; (2) Việc những người TGTT tham gia phiên tòa không phải là
bắt buộc. Tòa án chỉ triệu tập họ khi xét thấy cần thiết và khi họ vắng mặt, Tòa án
vẫn có thể tiến hành xét xử, ngay cả khi không có bất kỳ người TGTT nào có mặt.
Mỗi phương pháp xét xử trên đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định.
Nếu xét xử trực tiếp bảo đảm được tính công khai, dân chủ và toàn diện cao của
hoạt động xét xử; thì xét xử bút lục thường diễn ra không công khai, quyền tham gia

phiên tòa, đưa ra và trình bày chứng cứ, ý kiến và yêu cầu của những người TGTT
bị hạn chế; Nếu xét xử trực tiếp rất phức tạp, kéo dài quá trình giải quyết vụ án, thì
xét xử bút lục lại đơn giản, đẩy nhanh quá trình giải quyết v ụ án.
Căn cứ vào những phân tích trên, chúng tôi đưa ra nội dung của khái niệm
về xét xử trực tiếp tại phiên tòa như sau: “Xét xử trực tiếp tại phiên tòa là phương
pháp, cách thức tiến hành hoạt động xét xử được quy định trong Luật TTHS, theo
đó Tòa án phải xác định các tình tiết của vụ án bằng cách trực tiếp kiểm tra các

11
chứng và lắng nghe ý kiến của những người tham gia phiên tòa. Bản án của Tòa án
chỉ được dựa trên các chứng cứ và ý kiến đã được trực tiếp xem xét tại phiên tòa.”
1.1.2. Xét xử bằng lời nói
“Lời nói” là một người bạn đồng hành không thể thiếu của con người, gắn
liền với con người và xã hội loài người từ thủa bình minh của nhân loại cho đến
nay. Theo Từ điển Tiếng Việt, “lời nói” là “những gì con người nói trong một hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể”; “sản phẩm cụ thể của hoạt động ngôn ngữ, trong mối quan
hệ đối lập với ngôn ngữ.” [22, tr.756]; còn ngôn ngữ học định nghĩa lời nói là
“những chuỗi âm thanh khác nhau nhằm truyền đạt những thông tin cụ thể” mà
mỗi thành viên trong cộng đồng phát ra trong giao tiếp. [70, tr.147]
“Lời nói” là hình thức và phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ nói của con
người, giúp con người có thể bày tỏ nhận thức, tư tưởng, ý chí và nguyện vọng với
người khác; đồng thời, tiếp nhận được các thông tin đó từ người khác, giúp người
nói và người nghe có thể giao tiếp với nhau. Thông thường hình thức giao tiếp bằng
lời nói là hình thức giao tiếp trực tiếp giữa người nói và người nghe (người nói và
người nghe phải tiếp xúc với nhau, có thể luân phiên trong vai trò của người nói và
người nghe), được tiến hành bằng cách thức đối đáp, nghe, trình bày và phản hồi
thông tin giữa người nói và người nghe (hỏi – đáp, tranh luận…).
Do đó, “xét xử bằng lời nói” được hiểu là các thành viên HĐXX (chủ thể
thực hiện hoạt động xét xử) sử dụng “lời nói” làm phương tiện, phương pháp của
hoạt động xét xử. Thông qua hoạt động giao tiếp bằng lời nói tại phiên tòa, HĐXX

phải thực hiện những nội dung của hoat động xét xử, đó là: xem xét, đánh giá các
chứng cứ, xác định các tình tiết của vụ án; đánh giá tính chất phát lý đối với hành vi
của bị cáo và những người TGTT; cũng như ra phán quyết giải quyết vụ án theo quy
định của pháp luật.
Xét xử bằng lời nói là cách thức để xét xử trực tiếp. Tòa án không thể trực
tiếp kiểm tra các chứng cứ, nếu không trực tiếp nghe lời trình bày của bị cáo, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

12
đến vụ án, người làm chứng, người giám định về các chứng cứ và các tình tiết của
vụ án.
Mặt khác, chỉ bằng lời nói, những người tham gia phiên tòa mới có thể trực
tiếp trình bày chính xác và đầy đủ nhất về những tình tiết vụ án; những nhận xét,
đánh giá của họ về các chứng cứ và đưa ra các yêu cầu; cũng như trực tiếp tranh
luận với nhau, làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án tại phiên tòa. Thông qua đó,
HĐXX sẽ có những thông tin cần thiết, để kiểm tra, đánh giá đầy đủ nhất về các
chứng cứ, xác định chính xác các tình tiết của vụ án và giải quyết vụ án một cách
chính xác và toàn diện.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra nội dung khái niệm “xét xử bằng
lời nói tại phiên tòa” như sau: “Xét xử bằng lời nói tại phiên tòa là cách thức,
phương pháp tiến hành hoạt động xét xử được quy định trong Luật TTHS mà theo
đó, Tòa án sử dụng lời nói làm phương tiện để trực tiếp xem xét, kiểm tra các chứng
cứ, xác định các tình tiết của vụ án và ra phán quyết giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật.”
1.1.3. Xét xử liên tục
“Liên tục” có nghĩa là: “nối tiếp nhau thành một quá trình không bị gián
đoạn.” [22, tr.733] Từ đó, “liên tục” có thể hiểu là cách thức, phương pháp tiến
hành một công việc mà các hoạt động diễn ra nối tiếp nhau theo một trình tự nhất
định, không bị gián đoạn, từ khi bắt đầu đến khi kết thúc công việc đó. Do vậy, “xét
xử liên tục tại phiên tòa” có nghĩa là Tòa án tiến hành các hoạt động xét xử tại phiên

tòa đối với một vụ án mà không bị gián đoạn, từ khi bắt đầu đến khi kết thúc việc
xét xử.
BLTTHS 2003 quy định hoạt động xét xử của Tòa án tại phiên tòa bao gồm
nhiều hoạt động và theo những trình tự, thủ tục rất chặt chẽ: Mở đầu là thủ tục bắt
đầu phiên tòa, tiếp đến là thủ tục xét hỏi, rồi đến thủ tục tranh luận, bị cáo nói lời
sau cùng, sau đó là nghị án và cuối cùng là tuyên án. Mỗi thủ tục trên lại bao gồm
nhiều hoạt động cụ thể như: Chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử,
thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người được triệu tập đã có mặt, chủ tọa

13
phiên tòa kiểm tra căn cước của những người đó và giải thích cho họ biết quyền và
nghĩa vụ tại phiên tòa;.v.v… Do đó, “xét xử liên tục tại phiên tòa” là khi đã bắt đầu
xét xử một vụ án, Tòa án phải thực hiện các hoạt động xét xử đối với vụ án đó liên
tục, từ khi bắt đầu phiên tòa đến khi tuyên án. Việc nghị án cũng là hoạt động xét xử
nên cũng phải được tiến hành liên tục và nối tiếp ngay sau khi bị cáo nói lời sau cùng.
Vì Tòa án, trực tiếp là HĐXX phải liên tục xét xử đối với một vụ án nên các
thành viên HĐXX phải giải quyết dứt điểm từng vụ án, khi chưa giải quyết xong vụ
án đang giải quyết, thì họ không được tham gia tố tụng đối với vụ án khác. Họ chỉ
có thể tiến hành xét xử đối với vụ án khác, khi vụ án đang giải quyết được giải
quyết xong theo quy định của pháp luật. Có như vậy, hoạt động xét xử của Tòa án
mới đảm bảo được tính liên tục, không bị ngắt quãng hay gián đoạn.
Tuy nhiên, hoạt động xét xử vụ án hình sự là quá trình rất phức tạp, nhất là
đối với các vụ án lớn, có nhiều vấn đề cần chứng minh, số lượng bị cáo, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án đông.v.v Đối với các vụ án này, để thực hiện chính xác và đầy đủ các
thủ tục xét xử theo quy định của pháp luật, cũng như làm sáng tỏ tất cả các tình tiết
của vụ án cần một thời gian xét xử dài, có thể là nhiều ngày, đến cả tuần hoặc lâu
hơn. Do đó, các thành viên HĐXX và những người tham gia phiên tòa cần có thời
gian nghỉ ngơi theo quy luật sinh học (nghỉ trưa, nghỉ qua đêm ) và quy định của
pháp luật (ngày thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ hoặc vì một lý do khách quan

khác.v.v…). Vì vậy, tính liên tục trong hoạt động xét xử không thể mang ý nghĩa
tuyệt đối mà phải loại trừ sự gián đoạn trong những khoảng thời gian nêu trên.
Tại phiên tòa, các thành viên HĐXX phải trực tiếp kiểm tra, đánh giá các
chứng cứ, xác định chính xác các tình tiết của vụ án và tính chất pháp lý trong hành
vi của bị cáo và những người có liên quan đến vụ án. Mỗi một hoạt động, thủ tục tố
tụng tại phiên tòa đều có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong việc chứng minh sự
thật khách quan của vụ án. Các thành viên HĐXX chỉ có thể có được những nhận
định, đánh giá chính xác và toàn diện về các chứng cứ, xác định đúng đắn các tình
tiết của vụ án, khi họ chứng kiến và nắm bắt đầy đủ mọi diễn biến tại phiên tòa. Nếu

14
vì một lý do nào đó, các thành viên HĐXX không chứng kiến, không nắm bắt được
một hoặc một số diễn biến của phiên tòa, thì đều có nguy cơ dẫn đến việc họ có
những nhận định, đánh giá không đúng hoặc không đầy đủ về các chứng cứ, xác
định không chính xác các tình tiết của vụ án, dẫn đến sai lầm trong việc ra phán
quyết giải quyết vụ án. Do đó, Thẩm phán và Hội thẩm phải liên tục có mặt và nắm
bắt đầy đủ mọi diễn biến tại phiên tòa. Chỉ khi đó, họ mới có đầy đủ các dữ liệu cần
thiết, để xác định chính xác và toàn diện sự thật khách quan của vụ án và ra phán
quyết giải quyết vụ án một cách đúng đắn. Do đó, xét xử liên tục còn có nghĩa là sự
tham gia tố tụng liên tục của các thành viên HĐXX tại phiên tòa.
Chính vì vậy, theo chúng tôi khái niệm “xét xử liên tục tại phiên tòa” có
những nội dung sau: “Xét xử liên tục tại phiên tòa là cách thức, phương pháp của
hoạt động xét xử được quy định trong Luật TTHS mà theo đó, Tòa án phải liên tục
tiến hành các thủ tục tố tụng tại phiên tòa, từ khi bắt đầu đến khi xét xử xong đối
với từng vụ án, trừ thời gian nghỉ theo quy định của pháp luật. Các thành viên
HĐXX phải tham gia xét xử liên tục, phải xét xử xong một vụ án mới có thể tham
gia tố tụng đối với vụ án khác.”
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGUYÊN TẮC XÉT XỬ
TRỰC TIẾP, BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA
1.2.1. Cơ sở lý luận

Trong các quốc gia dân chủ, văn minh và tiến bộ, quyền con người, những“
giá trị nhân văn cao quý và thiêng liêng đối với mỗi con người, mỗi quốc gia và
cộng đồng nhân loại…” [35, tr. 5, 6] phải được tôn trọng và bảo vệ đầy đủ. Hoạt
động xét xử của Tòa án là một cơ chế bảo vệ quyền con người hữu hiệu và quan
trọng nhất. Bởi vì, Tòa án là biểu hiện thiêng liêng của công lý, sự bình đẳng và
công bằng xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con
người.“Tòa án là nơi đầu tiên và trước nhất mà người dân trong cậy để giữ gìn
quyền con người”. [17].
Hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm, có vai trò quyết định trong toàn
bộ quá trình TTHS. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền tuyên bố một người là có

15
tội hay vô tội, các phán xét của Tòa án có tính chất là những quyết định giải quyết
vụ án cuối cùng, thể hiện công lý và sự công bằng, cũng như bản chất của nhà nước
và pháp luật. Do đó, hoạt động xét xử vụ án hình sự không thể tách rời việc bảo vệ
quyền con người, nhất là các quyền của người bị buộc tội. Việc xét xử vụ án hình sự
không chỉ nhằm xác định và xử lý người phạm tội mà còn có mục đích minh oan
cho người vô tội, chống lại sự vi phạm quyền con người trong TTHS. Do đó, Tòa án
phải thực sự là người trọng tài công minh, khách quan và công bằng trong đánh giá
những căn cứ buộc tội và căn cứ gỡ tội, đảm bảo kẻ phạm tội sẽ bị trừng phạt, sự
buộc tội vô căn cứ và trái pháp luật sẽ bị bác bỏ, người vô tội sẽ được minh oan.
Quyền được xét xử công bằng là một quyền con người căn bản, quyền của
người bị buộc tội trong vụ án hình sự và của các bên trong vụ án phi hình sự, được
ghi nhận và bảo vệ trong nhiều văn kiện pháp lý về nhân quyền, bao gồm nhiều
quyền cụ thể như quyền được xét xử công khai, quyền bình đẳng trước Tòa án,
quyền được suy đoán vô tội, quyền được bào chữa.v.v ; được thể hiện tập trung
nhất tại Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của
Liên Hợp Quốc: “Mọi người đều bình đẳng trước Tòa án và cơ quan tài phán. Mọi
người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án có thẩm
quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về

lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ
của người đó trong các vụ kiện dân sự…”. Tất cả những người bị buộc tội có quyền
tiếp cận với Toà án. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền ra bản án quyết định về sự
buộc tội trong vụ án hình sự, thông qua thủ tục tố tụng khách quan và hợp lý. Các
quốc gia có nghĩa vụ thành lập Tòa án có thẩm quyền để xác định và phán quyết về
sự buộc tội hình sự đối với con người. “Nếu có tình huống một cá nhân không tiếp
cận được với Tòa án, thì có nghĩa là quốc gia đã không đảm bảo được, một cách
chính thức hay không chính thức, quy định của Điều 14 ” [30]
Người bị buộc tội có quyền tham dự điều trần công bằng và công khai trước
Tòa án có thẩm quyền, độc lập và khách quan để xác định tội phạm hình sự mà họ
bị cáo buộc phù hợp với pháp luật. Trước hết, sự công bằng, bình đẳng thể hiện ở sự

16
ngang bằng về quyền giữa các bên trong tố tụng tại phiên tòa. Các bên buộc tội và
gỡ tội phải có quyền như nhau trong việc xem xét, đánh giá các chứng cứ, đưa ra
chứng cứ, quan điểm, yêu cầu trước Tòa án. Người bị buộc tội được quyền có
những đảm bảo tối thiểu để thực hiện quyền bào chữa như: tự bào chữa hoặc nhờ
người bào chữa, được thông báo về bản chất và lý do buộc tội mình; được thẩm vấn
hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội mình, và được mời người làm
chứng gỡ tội cho mình tới phiên toà và thẩm vấn họ tại toà với những điều kiện
tương tự như đối với những người làm chứng buộc tội mình; được có phiên dịch
miễn phí.v.v Quyền bào chữa tại phiên tòa là nền tảng pháp lý bảo vệ quyền con
người của người bị buộc tội, bảo đảm người bị buộc tội không bị kết tội một cách
độc đoán, một chiều, tạo nên sự cân bằng, khách quan, toàn diện và chính xác cho
hoạt động xét xử.
Sự công bằng trong xét xử còn đòi hỏi hoạt động xét xử phải diễn ra công
khai và minh bạch. “Tất cả các xét xử vụ hình sự liên quan tới luật pháp phải được
thực hiện trên nguyên tắc tranh tụng công khai tại phiên tòa. Phiên tòa công khai
đảm bảo sự minh bạch của các thủ tục tố tụng và do đó có ý nghĩa quan trọng để
bảo vệ lợi ích của các nhân và của toàn xã hội” [30]. Tòa án chỉ có quyền xử kín,

không cho phép sự tham gia của tất cả hay một phần công chúng vì những lý do đạo
đức, trật tự công cộng, an ninh quốc gia, hoặc khi cần thiết để bảo đảm tính riêng tư
của các bên.v.v Trong trường hợp xử kín thì phán quyết và các phát hiện, chứng cứ
và lý giải pháp lý của Tòa án cần được công khai.
Nguyên tắc xét xử công bằng có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc suy đoán
vô tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội là một thành tựu pháp lý vĩ đại, nền tảng vô cùng
quan trọng để bảo vệ quyền con người, đảm bảo sự khách quan và công bằng trong
TTHS nói chung và trong hoạt động xét xử nói riêng. Điều 11 Tuyên ngôn thế giới
về quyền con người năm 1948 ghi nhận: “Bất kỳ một người nào bị cáo buộc trong
việc thực hiện tội phạm đều có quyền được coi là chưa có tội khi lỗi của họ chưa
được chứng minh bằng một phiên tòa công khai theo một thủ tục do pháp luật quy

17
định và tại phiên tòa đó họ được hưởng tất cả các bảo đảm cần thiết cho việc bào
chữa của mình.”
Nguyên tắc này khẳng định quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc
tội. Người bị buộc tội là những người bị tình nghi thực hiện tội phạm, không phải
người có tội. Họ được quyền coi là vô tội trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử,
đến khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án, đó cũng là nghĩa vụ pháp
lý của các cơ quan THTT và toàn xã hội. Chỉ bản án đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án mới là cơ sở pháp lý để khẳng định một người là có tội và phải chịu TNHS.
Do đó, các tài liệu, chứng cứ và kết luận của CQĐT và cơ quan Công tố không thể
là những nhận định và phán quyết cuối cùng về vụ án. Cho dù các tài liệu, chứng cứ
và kết luận của CQĐT và cơ quan Công tố trong hồ sơ đã chính xác, đầy đủ đến đâu
và miền tin nội tâm của HĐXX về việc phạm tội của người bị buộc tội lớn như thế
nào, thì về mặt pháp lý họ vẫn là người vô tội đến khi có phán quyết cuối cùng, thể
hiện trong bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Bất kỳ ai, kể cả Tòa án cũng
không được căn cứ vào các chứng cứ và kết luận của CQĐT và cơ quan Công tố để
khẳng định sự có tội của người bị buộc tội và đối xử với họ như người có tội. Tại
phiên tòa, HĐXX phải đối xử với bị cáo như người vô tội, không được có định kiến

coi bị cáo là người có tội và khẳng định trước kết quả xét xử. HĐXX chỉ có thể kết
luận bị cáo là người có tội và áp dụng TNHS đối với họ tại phòng nghị án, sau khi
hành vi phạm tội của họ đã được chứng minh đầy đủ thông qua thủ tục tố tụng công
khai, dân chủ và công bằng tại phiên tòa.
Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội, người bị buộc tội có quyền
nhưng không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Cơ quan THTT và người
THTT có nghĩa vụ làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án một cách khách quan và đầy
đủ. Mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội phải được giải thích theo hướng có
lợi cho họ, không chứng minh được hành vi phạm tội của người bị buộc tội đồng
nghĩa với sự vô tội của người đó, “ai buộc tội thì người đó phải chứng minh là có
tội” [72, tr.75]. Do vậy, Tòa án muốn tuyên bị cáo có tội thì Tòa án phải chứng
minh được rằng phán quyết đó là có căn cứ và hợp pháp. “Sẽ không có một bản án

18
chính xác, giải quyết triệt để, toàn diện các vấn đề của vụ án hình sự nếu chỉ dựa
vào suy luận chủ quan, định kiến của HĐXX và các cơ quan THTT”. [18, tr.5]
Do đó, Tòa án phải trực tiếp kiểm tra đầy đủ các chứng cứ, lập luận và yêu
cầu của các bên, xác định chính xác các tình tiết của vụ án, ra phán quyết phù hợp
với sự thật khách quan của vụ án và quy định của pháp luật mà không bị chi phối
bởi bất kỳ một định kiến hay tác động nào. Nếu Tòa án tin vào hồ sơ vụ án, coi bị
cáo là người có tội, ấn định trước kết quả của việc xét xử, thì Tòa án sẽ không thể
khách quan, công bằng trong việc xem xét các chứng cứ và ý kiến của bên buộc tội
và bên bào chữa. Khi đó, “xét xử chỉ là việc Tòa án đi tìm lời giải cho một bài toán
có sẵn đáp số là một người có tội và bắt họ vào tù” [19, tr.39]. Hoạt động xét xử sẽ
chỉ còn là hình thức, các quyền tố tụng của bị cáo và những người tham gia phiên
tòa sẽ chỉ là hư quyền, vi phạm nguyên tắc xét xử công bằng và nguyên tắc suy
đoán vô tội.
Chính vì vậy, để bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình
sự, Tòa án phải có những cách thức và phương pháp xét xử phù hợp, đảm bảo cho
các quyền con người, nhất là quyền của người của người bị buộc tôi có thể được

thực hiện đúng đắn và đầy đủ. Đó chỉ có thể là cách thức, phương pháp xét xử trực
tiếp và bằng lời nói. Bởi vì, phương pháp và cách thức này sẽ tạo ra những điều
kiện thuận lợi nhất cho những người tham gia phiên tòa thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng, nhất là quyền bào chữa của người bị buộc tội; đảm bảo được tính
công khai, độc lập, khách quan, công bằng và chính xác của hoạt động xét xử. Qua
đó, Tòa án có thể thực hiện đúng đắn nhất chức năng là “vị trọng tài công minh”
giữa bên buộc tội và bên bào chữa, bảo vệ vững chắc các quyền con người, nhất là
quyền của người bị buộc tội.
Tại phiên tòa, hoạt động nhận thức chân lý khách quan của vụ án và ra phán
quyết giải quyết vụ án của HĐXX là quá trình hết sức phức tạp, bao gồm hoạt động
thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng các chứng cứ, cũng như xem xét các ý kiến
và yêu cầu. Quá trình này vừa dựa trên các quy luật của nhận thức biện chứng,“từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn….

19
đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.”
[26 tr.345], vừa phải tuân thủ các quy định của PLHS và PLTTHS, ý thức pháp luật
và miền tin nội tâm của các thành viên HĐXX. “Trong đó, có những tình tiết buộc
tội, có tình tiết gỡ tội, những lời khai, những lý lẽ của tất cả các bên tham gia tranh
luận…. đều phải được xem xét” [44, tr.210]. Có thể thấy, “lao động xét xử là lao
động sáng tạo, tư duy ở trình độ cao của người Thẩm phán và Hội thẩm ” [32,
tr.42] Do đó, Thẩm phán và Hội thẩm cần có tinh thần trách nhiệm và sự tập trung
cao độ mới có thể kiểm tra, đánh giá và sử dụng các chứng cứ và ý kiến một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ nhất.
Như vậy, quyền được xét xử công bằng, công khai và minh bạch trước một
Tòa án có thẩm quyền của người bị buộc tội; quy luật của nhận thức biện chứng;
yêu cầu về tính chính xác, khách quan và toàn diện của hoạt động xét xử; nhiệm vụ
để bảo vệ vững chắc các quyền con người của Tòa án là cơ sở lý luận của nguyên
tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa. Chỉ khi Tòa án thực hiện
đầy đủ và đúng đắn những nội dung và yêu cầu của nguyên tắc này, thì các quyền

của con người trong TTHS nói chung và tại phiên tòa nói riêng mới có thể được
thực hiện và bảo vệ đúng đắn và đầy đủ.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong lịch sử TTHS Việt Nam, hoạt động xét xử chủ yếu được giao cho Tòa
án thực hiện. Điều này được ghi nhận từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và các
Hiến pháp tiếp theo là Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm
1992. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành, chức năng và thẩm
quyền xét xử chỉ thuộc về Tòa án.“Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân
địa phương, các Tòa án quận sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 127 Hiến pháp năm
1992). Điều 72 Hiến pháp và Điều 9 BLTTHS hiện hành cũng khẳng định “Không
ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật.” Do đó, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử, xem
xét, đánh giá việc buộc tội, ra bản án phán xét hành vi của người bị buộc tội có

×