1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
CHU THỊ LAM GIANG
KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM VỚI TƯ CÁCH
LÀ MỘT YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
CHU THỊ LAM GIANG
KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM VỚI TƯ CÁCH
LÀ MỘT YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt
HÀ NỘI - 2012
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM
9
1.1.
Khái niệm, các dấu hiệu và phân loại khách thể của tội phạm
9
1.1.1.
Khái niệm khách thể của tội phạm
9
1.1.2.
Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
13
1.1.3.
Phân loại khách thể của tội phạm
16
1.2.
Các đặc điểm và ý nghĩa pháp lý hình sự của khách thể của tội phạm
19
1.2.1.
Các đặc điểm của khách thể của tội phạm
19
1.2.2.
Ý nghĩa pháp lý hình sự của khách thể của tội phạm
21
1.3.
Khách thể của tội phạm theo pháp luật hình sự của một số
nước trên thế giới
23
1.3.1.
Theo pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
23
1.3.2.
Theo pháp luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
25
1.3.3.
Theo pháp luật hình sự Liên bang Nga
26
1.3.4.
Theo pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển
28
Chương 2: YẾU TỐ KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM THEO PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
30
2.1.
Sự thể hiện yếu tố khách thể của tội phạm trong pháp luật hình
sự Việt Nam
30
4
2.1.1.
Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985
30
2.1.2.
Giai đoạn từ năm 1985 đến nay
34
2.2.
Thực tiễn áp dụng yếu tố khách thể của tội phạm trong giải
quyết các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
46
2.2.1.
Tình hình giải quyết các vụ án hình sự theo yếu tố khách thể
của tội phạm
46
2.2.2.
Những hạn chế, vướng mắc liên quan đến việc vận dụng yếu
tố khách thể của tội phạm trong giải quyết vụ án hình sự
49
2.2.3.
Nguyên nhân hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng yếu tố
khách thể của tội phạm
62
Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ YẾU TỐ KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH NÀY
66
3.1.
Hoàn thi ện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
yếu tố khách thể của tội phạm
66
3.1.1.
Sự cần thiết và yêu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về yếu tố khách thể của tội phạm
66
3.1.2.
Giải pháp hoàn thi ện các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về yếu tố khách thể của tội phạm
70
3.2.
Các gi ải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về yếu tố khách thể của tội phạm
76
3.2.1.
Hướng dẫn áp dụng thố ng nhấ t cá c quy đ ịnh của pháp luật
hình sự Việt Nam về yếu tố khách thể của tội phạm
76
3.2.2.
Các gi ải pháp khá c nh ằm nâng cao chất lượng áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về yếu tố khách thể
của tội phạm
79
KẾT LUẬN
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
83
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
CTTP
: Cấu thành tội phạm
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Các khách thể được bảo vệ tương ứng với loại tội phạm
trong BLHS năm 1985
35
2.2
Các khách thể được bảo vệ tương ứng với loại tội phạm
trong BLHS năm 1999
41
2.3
Bảng tổng hợp số liệu thống kê xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự từ năm 2000 đến 2011 của Tòa án nhân dân các cấp
47
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
2.1
Tỷ lệ vụ án theo loại khách thể bị xâm hại từ năm 2000
đến năm 2011
47
2.2
Số vụ xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự con người
đã xét xử sơ thẩ m từ năm 2000 đến năm 2011 của Toà án
nhân dân cá c cấ p
48
2.3
Số vụ án hình sự các tội phạm v ề ma túy đã xét xử sơ
thẩ m năm 2000 đến năm 2011 của Toà án nhân dân các cấp
49
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong mọi tình
huống, tạo ra môi trường xã hội ổn định phục vụ công cuộc phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân, giữ
vững kỉ cương pháp luật, sự nghiêm minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa… là
nhiệm vụ và mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Những mục tiêu trên
được cụ thể hóa thông qua Nghị quyết 09/NQ-CP về Chương trình quốc gia
phòng, chống tội phạm và Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg "Về việc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 09/NQ-CP về Chương trình quốc gia phòng, chống tội
phạm của Chính phủ từ nay đến năm 2010" ngày 08/11/2004.
Ngày 06/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1217/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phòng,
chống tội phạm giai đoạn 2012-2015. Theo đó, mục tiêu nhằm tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý nhà nước với công tác phòng, chống tội
phạm; giữ vững kỷ cương pháp luật, nâng cao ý thức tuân thủ, tôn trọng pháp
luật của các cấp, các ngành và trong cộng đồng dân cư, trong các cơ quan,
đơn vị doanh nghiệp, nhà trường, gia đình và toàn xã hội; chủ động phòng
ngừa, tích cực tấn công trấn áp, truy quét các loại tội phạm, tập trung ở các
tuyến, địa bàn, lĩnh vực trọng điểm, phức tạp; kiềm chế và làm giảm sự gia tăng
của tội phạm, nhất là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, tội
phạm mới, tạo môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân
dân. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1236/QĐ-TTg
ngày 10/9/2012 về việc "Phê duyệt Kế hoạch tổng kết thi hành Bộ luật hình
sự năm 1999". Theo đó, việc tổng kết này nhằm đánh giá một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ thực tiễn 11 năm thi hành Bộ luật hình sự (BLHS)
8
năm 1999, từ đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLHS, góp phần đáp ứng
yêu cầu mới của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, bảo đảm ổn định lâu dài, thúc đẩy phát triển của đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến
phức tạp, không chỉ gia tăng về số vụ, số người phạm tội mà tính chất và mức
độ của tội phạm cũng nhiều thay đổi, đặc biệt là nhiều tội phạm xâm phạm
đến những quan hệ xã hội được BLHS xác lập và bảo vệ trong nhiều trường
hợp mang tính đa dạng, phức tạp và khó xác định dẫn đến việc định tội danh
và quyết định hình phạt còn gặp khó khăn, vướng mắc, chưa đúng pháp luật,
dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan, sai người vô tội. Để phân biệ t những
quan hệ xã hội được BLHS xác lập và bảo vệ, bị tội phạm xâm hại; sự thể
hiện những quan hệ xã hội ấy trong BLHS như thế nào và những nguyên nhân
của việc áp dụng chưa đúng trong thực tiễn định tội danh đối với yếu tố khách
thể của tội phạm ra sao, cần những giải pháp góp phần hoàn thiện chúng… thì
việc nghiên cứu đề tài liên quan đến yếu tố khách thể của tội phạm có ý nghĩa
lý luận thực tiễn và quan trọng. Bởi lẽ, khách thể của tội phạm là mộ t trong
bố n yếu tố cấ u thà nh củ a tội phạm. Khách thể của tội phạm bao giờ cũng là
một hoặc nhiều quan hệ xã hội được Nhà nước xác định bảo vệ bằng pháp luật
hình sự. Dựa vào khách thể của tội phạm, chúng ta xác định được hành vi nguy
hiểm cho xã hội do con người thực hiện có phải là tội phạm hay không? Khách
thể củ a tộ i phạ m cũ ng là một trong những cơ sở không thể thiế u để xác định
tính nguy hiểm của tội phạm đó, góp phần vào quá trình cải cách tư pháp thắng
lợi và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù còn tồn tại những thiếu sót về mặt lập pháp cũng như khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn vận dụng, nhưng về phương diện lý luận, có
thể nó i rằ ng yếu tố khách thể của tội phạm vẫn chưa được quan tâm, nghiên
cứ u một cách đúng mức, đầ y đủ để tìm ra giải pháp khắc phục toàn diện
9
những vấn đề đó. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách chuyên sâu, toàn diện ở cấp độ một cuốn sách chuyên khảo, một
luận văn thạc sĩ hay một luận án tiến sĩ về đề tài này.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, khách thể của tội
phạm mới chỉ được nghiên cứu chung trong cấu thành tội phạm (CTTP) với
tư cách là một yếu tố của CTTP.
* Dưới góc độ sách chuyên khảo, có thể kể đến các công trình khoa
học tiêu biểu sau: 1) "Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần
chung)", của GS.TSKH Lê Văn Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2)
"Cấu thành tội phạm: Lý luận và thực tiễn", Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004; và
3) "Tội phạm và cấu thành tội phạm", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2006,
2008, của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa.
* Dưới góc độ giáo trình, sách tham khảo, nội dung này được đề cập
như là một chương trong các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật ở nước ta hiện
nay như: 1) "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung)", của Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, do GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên; 2) "Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung)", của Đại học Cần Thơ xuất bản
năm 2003, do TS. Phạm Văn Beo chủ biên; 3) "Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Tập I)", của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2007, do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên; 4) "Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam (Phần chung)", của Khoa Luật, Đại học Huế, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2005, do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên; v.v
Tuy nhiên, do không phải là nghiên cứu chuyên sâu về khách thể của
tội phạm trong các giáo trình, sách tham khảo này thường chỉ khái quát một
cách tóm lược lý luận về khách thể của tội phạm và chủ yếu tập trung phân
tích nội dung yếu tố này qua các quy định của BLHS.
* Dưới góc độ thực tiễn, khách thể của tội phạm cũng được nghiên cứu
với tư cách là một trong các căn cứ định tội danh, nội dung được phản ánh
10
trong một số công trình như: 1) "Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn mẫu và
500 bài thực hành", của GS.TSKH. Lê Cảm và TS. Trịnh Quốc Toản, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2010; hoặc: "Giáo trình Lý luận chung về định tội danh",
của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2011. Tuy
nhiên, các sách này chỉ đánh giá vai trò của khách thể của tội phạm trong hoạt
động định tội danh và thông qua những bài tập tình huống cụ thể để học viên
rèn luyện kỹ năng định tội danh.
* Dưới góc độ các bài báo khoa học, khách thể của tội phạm còn
được đề cập đến trong một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành
luật như: 1) "Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm (trên cơ
sở những nội dung của Bộ luật hình sự năm 1999)", của GS.TSKH. Lê Cảm,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7, 8/2005; 2) "Đối tượng tác động của các tội xâm
phạm sở hữu", của TS. Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
8/1997; 3) "Bàn về mối quan hệ giữa cấu thành tội phạm và tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự" của TS. Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Khoa học, Đại
học Quốc gia Hà Nội, chuyên san Kinh tế - Luật, số 1/2005; v.v
* Dưới góc độ luận án, luận văn thạc sĩ luật học, cho đến nay, mới
có một số luận văn thạc sĩ đi sâu vào yếu tố mặt chủ quan của tội phạm
(Nguyễn Thị Nhuần, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010), mặt
khách quan của tội phạm (Nguyễn Mai Phương, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2011) hoặc chủ thể của tội phạm (Lê Đăng Doanh, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2005). Các luậ n văn này chỉ dừng lại ở cấp độ mộ t phầ n
như là các bài viết về khách thể của tội phạm hoặ c đề cập đến với tư cách là
nội dung liên quan đế n luậ n văn . Có thể nói rằng cho đến nay chưa có luận
văn thạc sĩ nào đề cập đến đúng tên gọi yếu tố này - khách thể của tội phạm.
Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: "Khách thể của tội phạm với tư cách là một
yếu tố cấu thành tội phạm trong luật hình sự Việt Nam" để làm luận văn
thạc sĩ của mình .
11
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến yếu tố khách
thể của tội phạm, trên cơ sở đó tìm ra giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật
Việt Nam về khách thể của tội phạm và nâng cao hiệu quả áp dụng chúng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt được cách mục đích trên, luận văn phải thực hiện những nhiệm
vụ sau đây:
1) Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về khách thể của tội phạm
như: xây dựng khái niệm khoa học về khách thể của tội phạm, xác định các
dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm, phân loại các khách thể của tội
phạm, tìm ra các đặc điểm cơ bản của khách thể của tội phạm, phân tích ý
nghĩa pháp lý hình sự của yếu tố này; nghiên cứu tham chiếu quy định về
khách thể của tội phạm trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
2) Phân tích quá trình hình thành, phát triển và nội dung quy định về
yếu tố khách thể của tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945
đến nay.
3) Phân tích tình hình đá nh giá yếu tố khách thể của tội phạm trong
giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam theo BLHS năm 1999; đánh giá tình hình
và chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong đá nh giá yếu tố khách thể và
nguyên nhân của chúng.
4) Từ kết quả nghiên cứu trên, đề xuất các giải pháp hoàn thiện các
quy định về khách thể của tội phạm trong pháp luật hình sự nước ta, hướng
dẫn áp dụng những quy định này trong thực tiễn cũng như kiến nghị một số
giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của chúng.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào những vấn đề sau:
12
4.1. Về nội dung
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về khách thể của phạm;
phân tích quá trình phát triển và nội dung quy định liên quan đến khách thể
của tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam cũng như đánh giá tình hình
thực tiễn áp dụng yếu tố này trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự ở nước
ta, làm rõ những nguyên nhân của tình hình đó. Trên cơ sở những nghiên cứu
này, đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định về khách thể của tội phạm
trong pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy
định này.
4.2. Về thời gian và không gian
Đối với các quy định pháp luật Việt Nam về khách thể của tội phạm,
luận văn giới hạn nghiên cứu trong khoảng từ năm 1945 đến nay. Đối với
thực tiễn áp dụng những quy định này, luận văn tổng hợp và đánh giá số liệu
xét xử trên toàn quốc trong thời gian từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực thi
hành (năm 2000) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu đề tài
5.1. Cơ sở lý luận
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về
Nhà nước và pháp luật, về tội phạm và hình phạt; những thành tựu của các
ngành khoa học như: Triết học, Luật hình sự, Tội phạm học
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tài liệu, phương pháp tổng hợp,
đồng thời ứng dụng những thành tựu của khoa học luật hình sự, tố tụng hình
13
sự, tội phạm học, xã hội học pháp luật; v.v trong các công trình của các nhà
khoa học-luật gia ở trong và ngoài nước. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng trung
thực các số liệu thống kê của các cơ quan áp dụng pháp luật, các sách tham
khảo, tạp chí chuyên ngành để làm rõ những tri thức khoa học liên quan đến
đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về
khách thể của tội phạm như: xây dựng khái niệm khoa học về khách thể của
tội phạm, xác định các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm, phân loại
các khách thể của tội phạm, tìm ra các đặc điểm cơ bản của khách thể của tội
phạm, phân tích ý nghĩa pháp lý hình sự của yếu tố này; nghiên cứu,so sá nh
vớ i quy định về khách thể của tội phạm trong pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới. Ngoài ra, trên cơ sở phân tích tình hình vận dụng yếu tố khách
thể của tội phạm trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam theo BLHS năm
1999; đánh giá tình hình và chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng
yếu tố khách thể và nguyên nhân của chúng, luận văn còn đề xuất các giải
pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự liên quan đến yếu tố
khách thể của tội phạm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo và có thể sử dụng để
nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp
những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn
áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam liên quan đến yếu tố khách thể của
tội phạm, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợ i í ch củ a Nhà nướ c và quyề n , lợ i ích hợ p
pháp của cá nhân, tổ chứ c.
14
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về khách thể của tội phạm
Chương 2: Yế u tố khách thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về yếu tố khách thể của tội phạm và những số giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định này.
15
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM
1.1. KHÁI NIỆM, CÁC DẤU HIỆU VÀ PHÂN LOẠI KHÁCH THỂ CỦA
TỘI PHẠM
1.1.1. Khái niệm khách thể của tội phạm
Trong khoa học pháp lý ở nước ta, khách thể của tội phạm thườ ng
đượ c đặ t lên hà ng đầ u trong bố n yếu tố CTTP. Từ điển Luật học của Viện
Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) định nghĩa khách thể của tội phạm và ý nghĩa
của nó trong mô tả về "Yếu tố cấu thành tội phạm" như sau:
Những yếu tố pháp lý đặc trưng của những tội phạm cụ thể
được quy định trong Luật hình sự. Tổng hợp các yếu tố ấy là cấu
thành tội phạm. Mặc dù mỗi tội phạm có thể khác nhau về tính chất
và mức độ thể hiện, nhưng trong tất cả các tội phạm có thể rút ra
được bốn yếu tố cấu thành chung nhất mà bất kỳ một tội phạm nào
cũng phải có, đó là: khách thể của tội phạm; mặt khách quan của
tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm; chủ thể của tội phạm. Khách
thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Nếu
quan hệ xã hội không bị xâm hại thì không có hành vi nguy hiểm
cho xã hội và tất yếu không có tội phạm. Do đó, khi đề cập đến tội
phạm thì trước tiên cần phải xác định quan hệ xã hội mà luật
hình sự bảo vệ bị xâm hại [60, tr. 581].
Tuy nhiên, quan điểm lý luận về các yếu tố CTTP và khách thể của tội
phạm như trên thườ ng chỉ xuất hiện ở các nước có nền pháp luật thuộc kiểu
pháp luật xã hội chủ nghĩa. Theo tác giả Nelu Dorinel Popa (Tiến sĩ luật, sĩ
quan cảnh sát thuộc Bộ Hành chính và Nội vụ Rumani):
16
Vào giữa thế kỷ XX, học thuyết xã hội chủ nghĩa và những
lý thuyết của chủ nghĩa duy vật được đề cao trong luật hình sự Xô
viết đã ảnh hưởng đến khoa học hình sự Rumani. Do xuất phát từ
quan điểm duy vật về tội phạm, yếu tố khách thể bị xâm hại đã
chiếm một vai trò quyết định.
Do ảnh hưởng đó khoa học hình sự Rumani đã cấu trúc tội
phạm theo các yếu tố: một khách thể tương ứng với quan hệ xã
hội bị tác động bởi tội phạm, một mặt khách quan đề cập đến sự
kiện thực tế, một chủ thể được xác định là cá nhân thực hiện hành
vi và một mặt chủ quan đề cập đến việc thực hiện hành vi một cách
có lỗi [94, tr. 121].
Như vậy, trong lý luận pháp luật xã hội chủ nghĩa, khách thể của tội
phạm là một thành tố bắt buộc, có vai trò quyết định trong việc cấu tạo nên tội
phạm. Khách thể của tội phạm là một khái niệm trừu tượng vì nó được xác
định là những quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Ở các nước theo hệ thống
Thông luật (Common law), yếu tố trừu tượng đó không được đề cập trong các
thành tố của tội phạm (elements of crime).
Theo luật pháp của Hoa Kỳ, "một yếu tố tội phạm là một trong tập hợp
các yếu tố phải được chứng minh để kết tội một bị cáo về một tội phạm" [99].
Các yếu tố đó bao gồm: trạng thái tâm thần (Mens rea), xử sự (Actus reus), sự
phù hợp (Concurrence), quan hệ nhân quả (Causation). Thuật ngữ Mens rea
đề cập đến những vấn đề như mục đích, ý định phạm tội, hình thức lỗi. Actus
reus là yếu tố hành vi ứng xử mà theo pháp luật Hoa Kỳ đó phải là hành vi
hành động hoặc không hành động trái pháp luật. Concurrence chỉ đến sự phù
hợp giữa trạng thái tâm thần với hành vi xử sự, tức là người có hành vi phạm
tội phải có ý định, mong muốn phạm tội ấy. Causation là yêu cầu về quan hệ
nhân quả giữa hành vi với thiệt hại xảy ra [99].
Ở Anh, để cấu thành một tội phạm thậm chí chỉ yêu cầu hai yếu tố
trạng thái tâm thần và hành vi phạm tội - Mens rea và Actus reus.
17
Việc xác định một tội phạm cụ thể theo quy định của Thông
luật (Common law) đặt ra yêu cầu về hai yếu tố: trạng thái tâm
thần và hành vi phạm tội. Công tố viên phải chứng minh cả hai yếu
tố trên để thẩm phán hoặc bồi thẩm đoàn thừa nhận sự tồn tại của
chúng. Nếu điều này không chứng minh được thì theo pháp luật
Anh, người bị buộc tội sẽ được tha bổng vì mọi người được coi là
vô tội cho đến khi bị chứng minh có tội [90, tr. 14].
Như vậy, ở các nước thuộc kiểu pháp luật Anh - Mỹ, yếu tố khách thể
của tội phạm không được đề cập trong CTTP. CTTP trong luật hình sự các
nước này chỉ nhấn mạnh tới yếu tố hành vi khách quan và yếu tố lỗi trong mặt
chủ quan. Điều này khác biệt với kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa - nơi mà
khách thể của tội phạm là một thành tố bắt buộc, có vai trò quyết định trong
việc cấu tạo nên tội phạm.
Lý luận về các yếu tố CTTP, trong đó có khách thể của tội phạm là
những khái niệm của khoa học luật hình sự Việt Nam hiện đại. Chúng mới
được đưa tới Việt Nam khoảng những năm 60-70 của thế kỷ trước bởi các nhà
khoa học Liên Xô [11, tr. 341]. Do tiếp thu nên quan điểm của các nhà khoa
học Việt Nam về khách thể của tội phạm về cơ bản là thống nhất về nội dung
và bản chất pháp lý.
PGS.TS. Kiều Đình Thụ viết: "Khách thể của tội phạm là những quan
hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại" [47, tr. 140].
Còn GS. TSKH. Lê Cảm cho rằng: "Khách thể của tội phạm là quan
hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội
phạm nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc có thể gây nên) thiệt
hại đáng kể nhất định" [8, tr. 24].
Đơn giản hơn, khi đề cập đến khách thể của tội phạm với tư cách một căn
cứ định tội danh, GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng: "Khách thể là thành phần
18
không thể thiếu trong bất kỳ một tội phạm nào. Đó là quan hệ xã hội được Luật
hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của hành vi phạm tội" [85, tr. 95]; v.v…
Như vậy, cơ bản các quan điểm nói trên đều thống nhất ở các điểm:
1) Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội; 2) Quan hệ xã hội đó được
luật hình sự bảo vệ (nhằm tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm) và 3) Quan
hệ xã hội đó bị tội phạm xâm hại( có thể gây thiệt hại hoặc có thể đe doạ gây
thiệ t hạ i).
Tác giả thống nhất với các điểm cơ bản trong quan niệm về khách thể
của tội phạm nói trên vì những căn cứ sau:
Thứ nhất, khách thể của tội phạm chắc chắn phải là các quan hệ xã
hội. Sở dĩ khẳng định như vậy là vì khách thể là "đối tượng chịu chi phối, tác
động của đối tượng gây ra hành động" [88, tr. 786]. Khách thể của tội phạm
phải là đối tượng chịu chi phối, tác động của tội phạm. Trong khi đó bản chất
tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội nên đối tượng mà tội phạm chi
phối, tác động, gây nguy hiểm chính là các quan hệ xã hội.
Thứ hai, khách thể của tội phạm phải là các quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ. Các quan hệ xã hội là đối tượng bảo vệ của pháp luật nói
chung chứ không riêng luật hình sự. Những hành vi xâm hại đến các quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ được gọi chung là vi phạm pháp luật: "Vi phạm
pháp luật là hành vi trái pháp luật xâm hại tới các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ do các chủ thể có năng lực hành vi thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý gây hậu quả thiệt hại cho xã hội" [80, tr. 145];
Các loại vi phạm pháp luật được phân biệt với nhau chính bởi nhóm
quan hệ xã hội mà chúng xâm hại. Bởi vậy một hành vi nhất định phải xâm
hại tới các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì mới trở thành vi phạm
pháp luật hình sự (tội phạm), nếu hành vi ấy xâm hại các quan hệ xã hội được
các ngành luật khác bảo vệ thì nó sẽ là vi phạm pháp luật trong lĩnh vực pháp
luật tương ứng.
19
Thứ ba, khách thể của tội phạm phải là các quan hệ xã hội bị tội phạm
xâm hại. Nếu quan hệ xã hội không bị xâm hại thì không có hành vi nguy
hiểm cho xã hội và tất yếu không có tội phạm.
Tuy thống nhất với các quan điểm trên về khái niệm khách thể của tội
phạm nhưng chúng tôi cho rằng khái niệm này còn cần phải thể hiện vai trò,
vị trí của khách thể trong mối quan hệ với CTTP vì nếu không có mối quan hệ
này thì việc xác định khách thể của tội phạm là vô nghĩa.
Tóm lại, từ các lý do trên , dưới góc độ khoa học tác giả xin đưa ra
khái niệm khách thể của tội phạm như sau: Khách thể của tội phạm - yếu tố
cấu thành bắt buộc của mọi tội phạm là các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm nhưng bị tội phạm xâm hại đến và
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại.
1.1.2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Theo GS. TSKH Lê Văn Cảm, "dấu hiệu của CTTP là đặc điểm chung
về mặt lập pháp cụ thể của các thuộc tính điển hình và chủ yếu hơn cả, đặc
trưng cho tội phạm đó" [11, tr. 345]. Trong các dấu hiệu của CTTP, có dấu
hiệu bắt buộc là đặc trưng cho tất cả các CTTP, có dấu hiệu tùy nghi, có thể
có ở CTTP này mà không có ở CTTP khác. Theo đó, yếu tố khách thể trong
CTTP có ba dấu hiệu: khách thể - dấu hiệu bắt buộc; đối tượng của tội phạm
và người bị hại (nạn nhân) của tội phạm - các dấu hiệu tùy nghi.
a. Dấu hiệu khách thể trong khách thể của tội phạm: Như đã xác định
ở trên, khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm, bị tội phạm xâm hại.
Khách thể của tội phạm có ba loại: khách thể chung, khách thể loại và
khách thể trực tiếp. Nội dung này sẽ được xem xét cụ thể hơn ở phần sau.
b. Dấu hiệu đối tượng của tội phạm: Quan hệ xã hội là một phạm trù
trừu tượng, rộng lớn, không hiện hữu, cụ thể. Người ta chỉ có thể nhìn nhận
20
những quan hệ đó thông qua các bộ phận của nó như: Các chủ thể của quan hệ
xã hội; hoạt động của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội hay trạng thái của
các chủ thể trong quan hệ xã hội; các vật, hiện tượng thuộc thế giới khách
quan có khả năng thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của chủ thể tham gia quan
hệ xã hội. Con người không thể "nhìn" thấy sự tác động của tội phạm lên
quan hệ xã hội mà chỉ có thể đánh giá sự tác động ấy trên các bộ phận của
quan hệ xã hội. Theo đó, "đối tượng của tội phạm là những bộ phận của
khách thể của tội phạm mà khi tác động tới bộ phận này, tội phạm đã gây nên
thiệt hại hoặc đe dọa gây nên thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ" [47, tr. 145].
CTTP của các loại tội phạm cụ thể khác nhau. Đối tượng tác động của
tội phạm có vị trí, vai trò cụ thể không giống nhau:
- Đối tượng của tội phạm có thể căn cứ định tội danh đối với những
CTTP mà luật hình sự quy định đối tượng tác động của tội phạm là một dấu
hiệu bắt buộc. Ví dụ đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả: nếu hàng
giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh thì cấu
thành tội được quy định ở Điều 157 của BLHS (Tội sản xuất, buôn bán hàng
giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); nếu hàng
giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật, giống cây trồng, vật nuôi thì cấu thành tội ở Điều 158 (Tội sản xuất, buôn
bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo
vệ thực vật ); nếu hàng giả là hàng hóa thông thường khác thì hành vi cấu
thành tội ở Điều 156 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả).
- Đối tượng tác động của tội phạm có thể là căn cứ để phân biệt hành
vi bị coi là tội phạm với hành vi không bị coi là tội phạm. Ví dụ: Hành vi buôn
bán những mặt hàng nhà nước cấm kinh doanh mới cấu thành tội quy định tại
Điều 166 BLHS năm 1999: Tội buôn bán hàng cấm. Đối tượng tác động của tội
phạm ở đây là "hàng cấm", là dấu hiệu bắt buộc của tội buôn bán hàng cấm.
21
- Đối tượng tác động của tội phạm là cơ sở để phân biệt các tội phạm
có nội dung cấu thành gần giống nhau. Ví dụ: theo Điều 231 BLHS năm
1999 quy đinh về tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh
quốc gia thì đối tượng tác động của tội phạm là công trình phương tiện giao
thông vận tải, thông tin liên lạc, hệ thống tải điện, chất đốt, công trình thủy
lợi hoặc công trình quan trọng khác về an ninh quốc phòng, kinh tế, khoa học
kỹ thuật, văn hóa xã hội do Chính phủ quy định . Nếu tài sản bị hủy hoại
không phải là các đối tượng trên thì hành vi không cấu thành tội này mà cấu
thành tội hủy hoại tài sản ở Điều 143 BLHS năm 1999.
Mức độ gây thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra với đối tượng tác
động của tội phạm được luật hình sự quy định sẽ là căn cứ để phân biệt hành
vi được coi là tội phạm với hành vi không được coi là tội phạm. Ví dụ: Hành
vi phải gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản mới cấu thành tội vô ý gây thiệt
hại nghiêm trọng đến tài sản quy định tại Điều 145 BLHS năm 1999, còn nếu
chưa gây thiệt hại nghiêm trọng thì không phải là tội phạm.
c. Dấu hiệu nạn nhân trong khách thể của tội phạm: Ở Việt Nam
trong những năm gần đây, vấn đề nạn nhân của tội phạm đã bắt đầu được
nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học, còn trong khoa học luật hình sự thì đây
vẫn là một vấn đề bị bỏ ngỏ. Trong thực tế, khi có tội phạm xảy ra, "ai là
người phạm tội" mới là tình tiết được quan tâm nhất.
Theo TS. Trần Hữu Tráng, "Nạn nhân của tội phạm là cá nhân hay tổ
chức phải chịu những thiệt hại trực tiếp về tính mạng, sức khỏe, tinh thần,
tình cảm, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hành vi phạm
tội gây ra" [61, tr. 58].
Thông qua việc gây tổn hại cho nạn nhân, tội phạm đã xâm hại quan hệ
xã hội được luật hình sự bảo vệ. Ví dụ như làm nạn nhân bị thương, bị chết có
nghĩa là tội phạm đã xâm hại đến sức khỏe, quyề n số ng của con người; làm nạn
nhân bị mất tài sản có nghĩa là tội phạm đã xâm hại đến quan hệ sở hữu v.v
22
Nạn nhân là dấu hiệu không bắt buộc trong yếu tố khách thể của tội
phạm. Có những tội phạm, dấu hiệu nạn nhân được thể hiện rõ ràng như các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, sở hữu Cũng có
những tội phạm, dấu hiệu nạn nhân không được thể hiện rõ nhưng không phải
là tội phạm ấy không có nạn nhân. Ví dụ hành vi gây rối trật tự công cộng làm
ảnh hưởng tới môi trường sống yên bình, ổn định của dân cư, như vậy rõ ràng
dân cư ở khu vực bị gây rối là những nạn nhân bị tổn hại.
Là một dấu hiệu tùy nghi nên vai trò của dấu hiệu nạn nhân của tội
phạm thể hiện trong các CTTP khác nhau:
- Nạn nhân của tội phạm có thể là dấu hiệu định tội danh khi nó là
dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Ví dụ đối với tội ngược đãi hoặc hành hạ ông
bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình thì nạn
nhân nhất định phải là cá nhân có quan hệ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con,
cháu, hoặc người có công nuôi dưỡng với người phạm tội; đối với tội: Tội
xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, nạn nhân nhất định phải là nữ giới;
đối với tội giao cấu với trẻ em, chắc chắn nạn nhân phải là trẻ em; v.v…
- Nạn nhân của tội phạm cũng có thể là dấu hiệu phân biệt tội phạm có
những biểu hiện gần giống nhau. Ví dụ, giữa tội giết người và giết con mới đẻ.
Ngoài ra, nạn nhân của tội phạm còn có thể là yếu tố (tình tiết) tăng
nặng hoặc yếu tố (tình tiết) giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Phạm tội
đối với trẻ em, phụ nữ có thai… là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;
Phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần do hành vi trái
pháp luật của người bị hại (thái độ của nạn nhân) là tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam.
1.1.3. Phân loại khách thể của tội phạm
Dựa trên mức độ khái quát của các quan hệ xã hội, khoa học luật hình
sự đã chia khách thể thành ba loại:
23
a. Khách thể chung của tội phạm. "Khách thể chung của tội phạm là
tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại và được luật hình sự
bảo vệ" [2, tr. 105]. Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng đều gây phương hại
đến khách thể chung bởi vì nếu không thì hành vi đó không trái pháp luật hình
sự, không bị coi là tội phạm. Hơn nữa, mỗi một tội phạm khi xâm hại đến lĩnh
vực quan hệ xã hội này hay quan hệ xã hội khác được luật hình sự bảo vệ
cũng có nghĩa là xâm hại đến tổng thể, đến hệ thống các quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ.
Việc xác định các quan hệ xã hội được coi là khách thể chung của tội
phạm hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà lập pháp. Tất nhiên,
việc xác định đó phải dựa trên nền tảng là chính sách hình sự của nhà nước;
phản ánh và phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
b. Khách thể loại của tội phạm. "Khách thể loại của tội phạm là nhóm
quan hệ xã hội có cùng tính chất được một nhóm các quy phạm pháp luật
hình sự bảo vệ và bị một nhóm tội phạm xâm hại" [2, tr. 106]. Trong thực tiễn
đấu tranh phòng chống tội phạm, có những nhóm quan hệ xã hội có đặc trưng
và tính chất cùng loại, có mối liên hệ với nhau tạo thành một bộ phận nhất
định trong hệ thống các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự
xâm hại của tội phạm.
Đúng với tên gọi, khách thể loại có vai trò quan trọng trong việc phân
loại, phân nhóm tội phạm. Nó là cơ sở để BLHS xây dựng các chương trong
phần các tội phạm một cách hợp lý và khoa học.
c. Khách thể trực tiếp của tội phạm. "Khách thể trực tiếp của tội phạm là
quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm PLHS bảo vệ bị một loại tội phạm
trực tiếp xâm hại" [47, tr. 145]. Các tội phạm được quy định trong cùng một
chương phần các tội phạm (có cùng khách thể loại) bao giờ cũng xâm hại đến
khách thể loại của chúng. Tuy nhiên, từng tội phạm trong một chương đó không
phải luôn xâm hại cùng khách thể trực tiếp. Điều đó có nghĩa là mỗi tội phạm có
24
khách thể trực tiếp riêng của nó. Thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại đối với khách thể trực tiếp mà tội phạm đã gây phương hại đến khách
thể chung và khách thể loại của tội phạm. Ví dụ: Tội giết người xâm hại khách
thể trực tiếp là "tính mạng con người", thông qua đó xâm hại khách thể loại là
"tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người", khách thể loại này là một
trong các nhóm quan hệ xã hội thuộc hệ thống khách thể chung của tội phạm.
Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều khách thể nhưng không phải
lúc nào tất cả các khách thể đó đều được xem là khách thể trực tiếp. Khách
thể trực tiếp khi đó là quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể hiện được
đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Ví dụ: Hành vi trộm cắp
dây điện thoại đang sử dụng vừa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu vừa gây
thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc. Nhưng rõ ràng, thiệt hại cho an toàn
thông tin liên lạc mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm của hành vi phạm
tội. Do đó, hành vi phạm tội phải được xác định tại Điều 231 BLHS năm 1999
(tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia) chứ không
phải Điều 138 BLHS (tội trộm cắp tài sản).
Cũng có trường hợp tội phạm xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ, mà mỗi quan hệ xã hội đều chứa đựng đầu đủ bản chất
nguy hiểm của hành vi nhưng sự tổng hợp các thiệt hại gây ra hoặc đe dọa
gây ra cho tất cả các quan hệ xã hội mới thể hiện được đầy đủ bản chất của tội
phạm đó. Ví dụ: Hành vi cướp tài sản vừa xâm hại đến quan hệ nhân thân,
vừa xâm hại đến quan hệ sở hữu. Tổng hợp hai quan hệ này mới phản ánh đầy
đủ bản chất của hành vi cướp tài sản.
Khách thể trực tiếp là cơ sở thể hiện rõ nhất bản chất của tội phạm cụ
thể. Việc xác định đúng khách thể trực tiếp là căn cứ để định tội danh chính
xác và áp dụng đúng quy phạm pháp luật hình sự.
Việc phân loại khách thể của tội phạm thành khách thể chung, khách
thể loại và khách thể trực tiếp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cả hoạt
động xây dựng và áp dụng pháp luật. Tuy nhiên mối quan hệ giữa các loại
25
khách thể ở đây là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, có sự thống nhất
chặt chẽ chứ không tách biệt, độc lập. Trong khách thể chung có khách thể
loại, trong khách thể loại có khách thể trực tiếp và ngượ c lạ i , khách thể trực
tiếp thuộc về khách thể loại, khách thể loại cũng thuộc về khách thể chung.
1.2. CÁC ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA PHÁP LÝ HÌNH SỰ CỦA KHÁCH
THỂ CỦA TỘI PHẠM
1.2.1. Các đặc điểm của khách thể của tội phạm
Với tư cách là một yếu tố CTTP, khách thể của tội phạm mang những
đặc điểm chung của các yếu tố CTTP như sau:
Thứ nhất, khách thể của tội phạm bắ t buộ c phải được quy định trong
pháp luật hình sự thực định
Là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, do vậy khách thể
của tội phạm bắ t buộ c phải được xác định bởi luật hình sự. Chỉ có những quan
hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ thì mới là khách thể của tội phạm. Một
hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi BLHS quy định nó là tội phạm, vì vậy các
yếu tố cấu thành của hành vi ấy không thể nằm ngoài quy định của BLHS.
Thứ hai, chỉ khi nào xác định được hành vi thỏa mãn yếu tố khách thể
của tội phạm thì mới có thể khẳng định hành vi ấy là tội phạm
Cùng với các yếu tố CTTP khác, hành vi phải thỏa mãn dấu hiệu
khách thể của tội phạm thì mới bị coi là tội phạm. Hành vi phải xâm hại đến
một quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ thì nó mới có tính trái
pháp luật hình sự và bị luật hình sự đe dọa áp dụng biện pháp trừng phạt.
Thứ ba, khách thể của tội phạm là một khái niệm khoa học trừu tượng
chứ không phải chế định hay quy định pháp luật cụ thể
Khách thể của tội phạm cũng như các yếu tố cấu thành khác của tội
phạm đều được các nhà lý luận nghiên cứ u trong khoa học luật hình sự. Không
có pháp luật thực định của một quốc gia nào trên thế giới định nghĩa hay mô