Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 115 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ HẢI





TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ
BẢO VỆ RỪNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










Hà Nội - 2009


MỤC LỤC


Trang
Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU
1
Chương 1: LỊCH SỬ LẬP PHÁP VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ
KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
6
1.1. Lịch sử lập pháp của tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng từ năm 1945 đến năm 1975
6
1.2. Lịch sử lập pháp của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng từ năm 1975 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985
11

1.3. Lịch sử lập pháp của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999
16
Chương 2: TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO
VỆ RỪNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM
1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI PHẠM NÀY Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
20
2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng
20
2.1.1. Khái niệm của tội Vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng
20
2.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội Vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng
24
2.2. Phân biệt tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
với một số tội phạm khác
64
2.2.1. Phân biệt tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng (Điều 175) với tội Vi phạm các quy định về quản lý
rừng (Điều 176)
64
2.2.2. Phân biệt tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng (Điều 175) với tội Hủy hoại rừng (Điều 189)
66
2.2.3. Phân biệt tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng (Điều 175) với tội Vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối
với khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 191)

68
2.3. Tình hình tội phạm của tội Vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này ở
nước ta từ năm 2005 đến nay
70
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM
CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG
77
3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả phòng chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng
77
3.1.1. Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
phòng chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng
77
3.1.2. Cơ sở thực tiễn của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
phòng chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng
81
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ở nước ta
hiện nay
84
3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật
84
3.2.2. Giải pháp về tổ chức quản lý
94
3.2.3. Giải pháp về kinh tế - xã hội
98

3.2.4. Giải pháp về văn hóa - giáo dục
102
KẾT LUẬN
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
107





1
MỞ ĐẦU
1. Lời nói đầu
Rừng là một trong những nơi đầu tiên con người kiếm sống để tồn
tại. Trong lịch sử hình thành và phát triển, con người luôn biết dựa vào
rừng, tác động và khai thác rừng để duy trì sự sống. Tuy nhiên, trong quá
trình khai thác rừng, chính con người do cố ý hoặc vô ý đã làm cho rừng bị
cạn kiệt. Đất nước ta có điều kiện địa lý đặc thù là quốc gia vùng nhiệt đới
nên được thiên nhiên ưu đãi nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này. Đối với
nước ta, rừng không chỉ có ý nghĩa về môi trường sinh thái mà còn có ý
nghĩa quan trọng trong an ninh - quốc phòng. Trong gần một thế kỷ qua,
rừng Việt Nam bị suy thoái nặng nề. Những tác động của quá trình phát
triển, những ảnh hưởng của chiến tranh, của chất độc màu da cam đã khiến
diện tích rừng của Việt Nam chỉ còn khoảng 43% diện tích đất tự nhiên. Và
chúng ta đang phải đứng trước một thực trạng báo động đó là diện tích
rừng ngày càng bị thu hẹp nhanh chóng. Tốc độ khai thác rừng cao hơn gấp
nhiều lần so với tốc độ tái tạo rừng. Điều này dẫn đến con người phải đối
mặt với những hiện tượng thiên nhiên xảy ra thường xuyên trong những
năm gần đây như bão lũ, triều cường, khô hạn…, gây hậu quả nghiêm trọng

đến đời sống xã hội.
Tình trạng khai thác, chặt, phá, đốt rừng bừa bãi, nạn “lâm tặc”; khai
thác tài nguyên, khoáng sản trái phép, nạn “khai thác thổ phỉ”; săn bắt động
vật hoang dã, quí hiếm đang diễn ra ở nhiều địa phương trên toàn quốc; một
số loài động vật hoang dã, quí hiếm đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng
hoặc mất môi trường sống; tài nguyên đang cạn kiệt, nạn chặt phá rừng ở
nước ta đang diễn ra bức xúc. Theo Cục Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, tính đến hết tháng 12/2008, số vụ phá rừng trái phép tăng
14% so với cùng kỳ năm trước, gây thiệt hại 3.172,11 ha rừng, tăng gấp 02



2
lần so với mức 1.585,74 ha năm 2007 [61]. Những thảm họa này có thể hạn
chế, khắc phục được nếu không có những hành vi sai phạm của con người.
Mặc dù, trong các quy định pháp luật nói chung và pháp luật hình sự
nói riêng cho thấy, các nhà làm luật đã nhận thức được tính nguy hiểm của
loại tội phạm này, xác định phải tăng cường đấu tranh phòng chống loại tội
này nhưng những quy định của luật về tội phạm này chưa cụ thể, rõ ràng, còn
nhiều vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn, nhất là giai đoạn truy tố, xét xử.
Điều đó tạo ra tính thiếu thống nhất, làm cho việc áp dụng pháp luật đạt hiệu
quả không cao. Đây là vấn đề cần thiết phải nghiên cứu và tháo gỡ triệt để.
Làm thế nào để đấu tranh phòng chống có hiệu quả đối với tội Vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng? Thiết nghĩ cần phải có sự nghiên cứu
một cách nghiêm túc, có hệ thống về mặt lý luận đồng thời bám sát thực tiễn
để tìm hiểu về thực trạng, nguyên nhân, điều kiện của việc vi phạm, từ đó có
những giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm này có hiệu quả. Với những lý do đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Tội Vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong Luật Hình sự Việt
Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để nghiên cứu trong luận văn thạc

sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được quy định
tại Điều 175 BLHS năm 1999 là loại quy phạm viện dẫn. Vì vậy, bên cạnh
quy định trong BLHS, khi áp dụng loại tội phạm này còn được xem xét những
quy định trong Luật Hành chính, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng…
Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã được nghiên
cứu với tư cách là đề tài của các khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật học, thạc
sỹ luật học hoặc rải rác trên một số Tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành.
Trong lĩnh vực nghiên cứu, tội Vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng được đề cập trong: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Đại học



3
Luật Hà Nội); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Khoa luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội); Bình luận khoa học BLHS năm 1985 (Viện nghiên cứu khoa học
pháp lý - Bộ Tư pháp); Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS
Phần các tội phạm…
Đây là loại tội phạm gây hậu quả lâu dài, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
cuộc sống của con người, tuy nhiên, chưa có sự nghiên cứu mang tính hệ
thống đối với việc phòng, chống loại tội phạm này, về thực trạng, về những
vướng mắc bất cập trong áp dụng pháp luật khi xử lý. Những nghiên cứu nếu
có cũng chỉ là việc nghiên cứu riêng lẻ, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực
như: giá trị tài nguyên rừng, vai trò của rừng đối với môi trường sinh thái
hoặc những vi phạm cụ thể trong quản lý hành chính, những vụ việc cụ thể
khi bị đưa ra truy tố, xét xử. Vì vậy, cần phải có sự nghiên cứu một cách
nghiêm túc, có hệ thống, bám sát thực tiễn để tìm hiểu về thực trạng của việc
vi phạm để từ đó có những giải pháp cụ thể mang tính khả thi.
3. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu về một tội danh
cụ thể:
- Nghiên cứu lịch sử lập pháp về tội Vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội Vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
- Phân biệt Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng với
một số tội phạm khác.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng
chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên trong luận văn này, tác giả tập trung
giải quyết những nhiệm vụ chính sau đây:



4
- Nghiên cứu và phân tích lịch sử lập pháp về Tội Vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm
1945 đến nay.
- Phân tích và làm rõ khái niệm, dấu hiệu pháp lý của Tội Vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng, phân biệt tội phạm này với một số tội
phạm khác trong BLHS (176, 189, 191) nhằm áp dụng đúng đắn điều luật
trong thực tiễn xét xử.
- Khẳng định được mức độ nguy hiểm của tội phạm để có cách nhìn
đúng đắn về tình hình VPPL về khai thác và bảo vệ rừng cũng như đánh giá
đầy đủ những yếu tố làm cho tình hình tội Vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng đang diễn biến ngày càng phức tạp với hậu quả gây ra cho xã
hội ngày càng lớn qua đó nhằm đưa ra một số giải pháp khả thi, góp phần đấu
tranh phòng, chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng một

cách có hiệu quả.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật cũng như đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, trong
quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên
cứu truyền thống như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
- Nghiên cứu một cách hệ thống lịch sử lập pháp về tội Vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam từ
năm 1945 đến nay.
- Phân tích một cách sâu sắc khái niệm và những dấu hiệu pháp lý tội
Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, đồng thời phân biệt tội
phạm này với một số tội phạm khác có dấu hiệu pháp lý tương tự.



5
- Khái quát tình hình tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng và thực tiễn xét xử tội phạm này trong 5 năm qua (2005-2009).
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tội Vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng một cách có hiệu quả.
- Nội dung của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu,
tham khảo cho các nhà nghiên cứu khoa học luật hình sự, các nhà lập pháp,
cho các học viên, các sinh viên đang theo học tại các cơ sở đào tạo luật cũng
như tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Lịch sử lập pháp về tội Vi phạm các quy định về khai thác

và bảo vệ rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
Chương 2: Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong
BLHS Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử tội này ở nước ta hiện nay.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội Vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng.



6
Chương 1
LỊCH SỬ LẬP PHÁP VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH
VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
1.1. Lịch sử lập pháp của tội Vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng từ năm 1945 đến năm 1975
Năm 1945, sau khi giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa thành lập, chính quyền cách mạng non trẻ đứng trước nhiều công việc cấp
bách cần phải làm để khôi phục kinh tế, ổn định cuộc sống nhân dân. Trong đó,
rừng với giá trị nhiều mặt của mình, đã được nhà nước chú trọng bảo vệ, thể
hiện trong số những VBPL ban hành từ rất sớm. Những QHXH liên quan đến
việc quản lý bảo vệ rừng được nhà nước ta chú trọng điều chỉnh. Thông tư số
1303 BCN ngày 28/06/1946 của Liên bộ Nội vụ - Công nghiệp đã quy định
điều chỉnh những hành vi xâm hại đến rừng. Để bảo vệ rừng, Thông tư nêu rõ:
Sẽ tịch thu, truy tố và trừng phạt đối với những hành vi sau:
- Những ai chặt cây hay lấy bất cứ sản vật gì trong rừng mà
không có giấy phép của Sở Lâm chính và trốn tránh không trả những
món tiền khoán (nguyên gọi là thuế kiểm lâm).
- Những ai dù có giấy phép mà chặt những cây không đúng phân
tấc đã định.
- Những ai chặt cây cấm.

- Những ai làm than, củi, không có giấy phép hay có mà không
trả tiền bán khoán.
- Những ai mang lâm sản đi mà không có giấy má chứng minh
hẳn hoi.
- Những ai khai thác nhựa cây khi cây ấy chưa đủ kích thước đã
định, dù họ đã có giấy phép khai thác (giấy chỉ cho khai thác cây đủ
kích thước).



7
- Những ai đặt những doanh nghiệp, hay chế tạo lâm sản, lò than,
vôi, gạch, xưởng củi… trong rừng hay cách rừng từ hai cây số trở lên
mà không có giấy phép.
- Những ai đốt nương không có giấy phép hay đốt những miền
mà tập tục ấy bị cấm ngặt…
- Những ai đốt rừng hay gây những vụ cháy rừng [55].
Như vậy, dù chỉ mang tính sơ khai nhưng Thông tư 1303/BCN đã điều
chỉnh nhiều loại hành vi, thể hiện sự đánh giá cao về nguồn tài nguyên rừng
và đặt ra nhiệm vụ phải bảo vệ chúng. Trong tình hình của đất nước ta giai
đoạn 1945-1946, việc quy định phải bảo vệ rừng có ý nghĩa rất quan trọng.
Nó là cơ sở nền móng để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp
luật điều chỉnh những QHXH trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Tuy ra đời sớm nhưng Thông tư 1303/BCN không được thực hiện trong
thực tiễn do bối cảnh toàn quốc kháng chiến bước vào cuộc chiến đấu chín
năm chống thực dân Pháp. Nhưng qua đó, chúng ta cũng nhận thức được rằng
việc bảo vệ tài nguyên rừng luôn là vấn đề cấp thiết trong mọi thời kỳ và luôn
được quan tâm của Nhà nước ta.
Trong công cuộc kháng chiến, rừng càng tỏ rõ vai trò quan trọng của nó
đối với an ninh quốc phòng. Vì vậy, ngày 08/7/1952 Thủ tướng Chính phủ đã

ra Nghị định số 181/TTg nghiêm cấm đốt phá rừng để bảo vệ đường giao
thông, trong đó quy định rõ “cấm không được đốt phá rừng trên những sườn
núi ở sát cạnh đường”. Ngay sau khi hoàn thành cuộc kháng chiến chống
Pháp, ngày 03/10/1955 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 596-
TTg ban hành việc vi phạm điều lệ, Điều 13, điểm c quy định: “những vụ
phạm pháp có tính chất phá hoại sẽ do Tòa án xét xử theo hình luật”.
Như vậy, việc điều chỉnh những QHXH liên quan đến lĩnh vực bảo vệ
rừng bằng chế tài hình sự được hình thành rất sớm trong các VBPL do Nhà



8
nước ta ban hành, nó được phát triển trong từng thời kỳ và là vấn đề luôn
được Nhà nước ta quan tâm. Điều này càng củng cố trong giai đoạn từ năm
1955-1958, nhiều văn bản có liên quan đến rừng đã được ban hành và cao
nhất, việc quy định rừng là tài sản của Nhà nước đã được quy định cụ thể
trong Hiến pháp năm 1959.
Điều 12 Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
quy định “các hầm mỏ, sông ngòi và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên
khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân”.
Như vậy, từ những quy định riêng lẻ chủ yếu phục vụ an ninh quốc
phòng, vai trò giá trị nhiều mặt của rừng đã được chính thức ghi nhận trong
Hiến pháp. Điều này có ý nghĩa to lớn bởi nó là cơ sở pháp lý quan trọng nhất
để ban hành các VBPL, điều chỉnh cụ thể các QHXH liên quan đến lĩnh vực
bảo vệ rừng và cũng chính là cơ sở để xây dựng hệ thống các cơ quan chức
năng quản lý chuyên ngành phục vụ cho công tác đấu tranh phòng chống
những loại tội phạm xâm hại đến rừng, bảo vệ có hiệu quả nguồn tài nguyên
quý giá này cho đất nước.
Giai đoạn này, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai. Ở
miền Bắc, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có sứ mạng thực hiện hai

nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
đồng thời tiến hành cuộc đấu tranh chống Mỹ, ngụy ở miền Nam, tiến tới
giải phóng hoàn toàn đất nước. Lúc này, hệ thống pháp luật kiểu mới của
chúng ta đang trong quá trình tiền xây dựng. Hệ thống văn bản chủ yếu gồm
Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946 và 1958), các sắc lệnh, pháp lệnh, nghị
định, chỉ thị, thông tư… nhưng chưa có nhiều các đạo luật và bộ luật. Trong
lĩnh vực bảo vệ rừng, Nhà nước đã bước đầu ban hành một số VBPL quan
trọng để điều chỉnh việc quản lý hoạt động khai thác lâm sản và bảo vệ rừng.
Đáng chú ý là các văn bản: Quyết định số 72/TTg ngày 07/7/1962 của Thủ



9
tướng Chính phủ về thành lập Khu rừng quốc gia Cúc Phương. Đây là khu
bảo tồn thiên nhiên đầu tiên được Nhà nước công nhận. Tiếp đó, Hội đồng
Chính phủ ra Nghị định số 39/CP ngày 05/4/1963 ban hành Điều lệ tạm thời
về săn, bắt chim, thú rừng. Đây là một văn bản quan trọng kịp thời tạo cơ sở
pháp lý để bước đầu quản lý, bảo vệ các loài động vật rừng ở nước ta, trong
đó có nhiều loài có ích, hiếm và quý khỏi sự săn bắt tràn lan trái phép dẫn
đến nguy cơ bị tiêu diệt.
Ngày càng đánh giá cao vai trò quan trọng của rừng trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội và an ninh quốc phòng. Kiên quyết hơn, nhằm bảo vệ có
hiệu quả tài nguyên rừng, phát triển một bước trong lập pháp, ngày 06/9/1972,
Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định việc bảo vệ
rừng. Đây là văn bản có tính pháp lý cao đầu tiên được ban hành trực tiếp quy
định về việc quản lý, bảo vệ rừng và khai thác, sử dụng các nguồn lợi từ rừng
ở Việt Nam, điều chỉnh nhiều mối quan hệ trong lĩnh vực bảo vệ rừng nhằm
“bảo vệ rừng và phát triển tài nguyên phong phú của rừng, phát huy tác dụng
to lớn của rừng trong việc giữ nguồn nước và điều tiết nước, giữ đất, chống
xói mòn, chống cát bay, điều hòa khí hậu, hạn chế tác hại của gió, bão lũ, lũ

lụt, hạn hán, nhằm phục vụ công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa,
củng cố quốc phòng và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần làm cho
nước nhà giàu mạnh” (Trích phần mở đầu của Pháp lệnh). Pháp lệnh này gồm
5 chương, 26 điều. Trong đó, Chương II gồm 13 điều quy định về những biện
pháp bảo vệ rừng. Cần lưu ý rằng 13 điều thuộc Chương II ngoài việc quy định
những hành vi cấm không được làm, pháp lệnh còn quy định cụ thể những việc
được làm đối với cư dân vùng có rừng phù hợp với tập quán sinh hoạt.
Những hành vi bị cấm gồm:
- Cấm phá rừng.
- Cấm chặt cây rừng trái với các điều quy định của Nhà nước
(khai thác).



10
- Cấm săn bắt chim muông, thú rừng.
- Cấm phá rừng, đốt rừng để làm nương rẫy.
- Cấm đốt lửa trong rừng.
- Cấm thả rông gia súc ở những khu rừng non, rừng mới trồng.
- Những hành vi (có thể) được phép làm bao gồm:
- Đốt lửa trong rừng và ven rừng để sinh hoạt, sản xuất, xây
dựng hoặc phục vụ chiến đấu.
- Nhân dân những xã có rừng được kiếm củi khô trong rừng để dùng
và được thu nhặt lâm sản phụ theo quy định của Tổng cục lâm nghiệp.
- Nhân dân những xã nơi có rừng cần lấy gỗ để sửa chữa nhà,
làm nhà hoặc để dùng vào những việc cần thiết thì phải được cơ quan
lâm nghiệp từ cấp huyện trở lên xét và cho phép [63].
Pháp lệnh cũng quy định nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền hạn của cá nhân
tổ chức trong việc bảo vệ rừng khi có xảy ra cháy rừng. Như vậy, lần đầu tiên
những quy định về việc bảo vệ rừng đã được hình thành một cách có hệ thống,

cụ thể, phù hợp với những điều kiện khách quan, tạo cơ sở pháp lý quan trọng
cho việc áp dụng pháp luật bảo vệ có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên rừng.
Song song với việc quy định những biện pháp bảo vệ rừng, Điều 16 Pháp lệnh
đã quy định việc thành lập lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng gọi là Kiểm lâm
nhân dân. Lực lượng này được tổ chức thành hệ thống từ cấp huyện trở lên,
đảm bảo thực hiện công tác bảo vệ rừng đến từng khu rừng.
Pháp lệnh cũng quy định cụ thể việc thưởng phạt bằng các chế tài từ
Điều 19 đến Điều 24. Trong đó, Điều 22 nói rõ những trường hợp phải bị truy
cứu TNHS.
Kẻ nào vi phạm một trong những điều ghi ở Chương I của Pháp
lệnh này hoặc tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép lâm sản, gây
thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng hoặc đã bị xử phạt mà còn vi phạm thì
sẽ bị truy tố trước TAND và có thể bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm
và phạt tiền từ 200 đến 2000 đồng, hoặc một trong hai hình phạt đó.



11
Cố ý hủy hoại tài nguyên rừng hoặc cố ý làm trái nguyên tắc,
chính sách, chế độ thể lệ về bảo vệ rừng, gây thiệt hại đến tài nguyên
rừng; thiếu tinh thần hoặc vô ý làm cháy rừng hay là có những hành
động khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài nguyên rừng thì bị xử phạt
theo Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN, ngày 21
tháng 10 năm 1970.
Cố ý phá hoại tài nguyên rừng vì mục đích phản cách mạng thì bị
xử phạt theo Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30 tháng
10 năm 1967.[63]
Như vậy, các chế tài nghiêm khắc của luật hình sự đã được áp dụng để
điều chỉnh nhiều loại hành vi xâm hại đến rừng. Tuy đã có Pháp lệnh làm cơ
sở pháp lý nhưng thực tiễn đây là giai đoạn cả nước ta đang dồn sức người,

sức của cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, do vậy,
những quy định của Pháp lệnh chưa được cụ thể hóa và chưa được thực hiện
sâu rộng trên phạm vi cả nước.
1.2. Lịch sử lập pháp của tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng từ năm 1975 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985
Sau ngày đất nước thống nhất, chúng ta bắt tay vào việc tập trung xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Lúc này, việc xây dựng một hệ
thống luật pháp XHCN thống nhất, hoàn chỉnh và phù hợp là một nhiệm vụ có
ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trong đó, lĩnh vực pháp luật về bảo vệ rừng đã
được Nhà nước ban hành nhiều VBPL có ý nghĩa. Đáng chú ý nhất là Thông tư
số 3984-LN/KL ngày 15/10/1977 của Bộ Lâm nghiệp hướng dẫn việc xử phạt
hành chính đối với các vi phạm luật lệ và bảo vệ rừng. Đây là Thông tư hướng
dẫn cụ thể hóa Pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng cả về phân hóa nhóm hành
vi vi phạm và định lượng xử lý hành chính, xác định ranh giới giữa xử lý hành
chính và truy cứu TNHS. Thông tư chia làm 4 phần, phần I về mục đích, yêu
cầu của việc xử phạt hành chính; phần II về nội dung của việc xử phạt hành



12
chính; phần III về các hành động vi phạm và mức độ xử phạt hành chính; phần
IV về việc thi hành xử phạt hành chính.
Trong toàn bộ nội dung của Thông tư 3984-LN/KL, phần thứ III là
phần được xây dựng chi tiết, nên cụ thể nhóm hành vi và định lượng tương
ứng cùng mức hình phạt, phần thứ III điều chỉnh những loại hành vi sau:
I. Phá rừng trái phép:
1. Được phép phá rừng những đã tùy tiện sử dụng trái phép lâm
sản hoặc bỏ lâm sản bị hư hỏng tại rừng.
2. Phá trái phép vào rừng kinh tế, hoặc phá vượt diện tích được phép.
3. Phá trái phép vào rừng khoanh nuôi bảo vệ.

4. Phá trái phép vào rừng cấm.
II. Khai thác, chặt cây rừng trái phép.
1. Vi phạm quy định kỹ thuật khai thác rừng.
2. Được phép chặt cây, khai thác rừng, nhưng đã vi phạm chế độ
nộp tiền nuôi rừng.
3. Chặt cây lấy lâm sản không có giấy phép hoặc giấy phép
không hợp lệ, hoặc lấy vượt khối lượng, sai chủng loại cho phép hay là
vi phạm vào nhóm gỗ không được khai thác sử dụng.
4. Chặt cây, lấy lâm sản trái phép trong rừng đang khoanh nuôi
bảo vệ.
5. Chặt cây, lấy lâm sản trái phép thuộc các loại thực vật quý hiếm.
6. Chặt cây, lấy lâm sản trái phép trong rừng cấm.
III. Phát, đốt rừng để làm nương rẫy:
1. Phát đốt rừng kinh tế.
2. Phát đốt rừng khoanh nuôi bảo vệ.
3. Phát đốt rừng cấm hoặc rừng có các lại thực vật quý hiếm
mọc tập trung.



13
IV. Gây cháy rừng
1. Được phép đốt lửa trong rừng nhưng đã vi phạm các quy định
về phòng cháy và chữa cháy rừng.
2. Đốt lửa trái phép gây cháy rừng kinh tế.
3. Gây cháy rừng khoanh nuôi bảo vệ.
4. Vi phạm các quy định cấm đốt lửa.
5. Gây cháy rừng cấm hoặc rừng có các loại thực vật quý hiếm
mọc tập trung.
V. Chăn thả gia súc trái phép vào rừng.

1. Chăn thả tự do gia súc vào rừng.
2. Thả rông gia súc vào những khu rừng non, rừng mới trồng
hoặc mới dặm cây con.
VI. Săn bắt trái phép chim, muông thú hoang dã.
1. Săn bắt không có giấy phép hoặc buôn bán vận chuyển chim
thú đã săn bắn trái phép.
2. Săn bắt trái phép trong mùa cấm, hoặc khu vực cấm săn, hoặc
dùng những phương tiện cấm dùng để săn bắt chim thú, hoang dã.
3. Săn bắt trái phép các loài chím thú quý hiếm cấm săn.
4. Săn bắt trái phép trong rừng cấm.
VII. Vi phạm chế độ phòng trừ sâu bệnh phá hại rừng.
VIII. Tàng trữ, mua bán, vận chuyển và sử dụng trái phép lâm sản.
1. Vi phạm chế độ nộp tiền nuôi rừng.
2. Mua bán, vận chuyển, sử dụng trái phép lâm sản.
3. Tàng trữ, mua bán, vận chuyển và sử dụng những lâm sản đã
khai thác trái phép [56].
Như vậy, một đặc điểm dễ nhận ra là Thông tư 3984/LN-KL tuy chỉ
điều chỉnh tám nhóm hành vi song trong mỗi nhóm có sự phân hóa nhỏ thêm
dựa vào đối tượng tác động. Tương ứng với từng hành vi một Thông tư



14
3984/LN-KL quy định mức định lượng cụ thể từ tối thiểu đến tối đa để xử
phạt hành chính. Ví dụ: Với hành vi thuộc mục III1: Phát đốt rừng kinh tế, có
thể bị phạt từ 11 đồng đến 200 đồng nếu phát đốt rừng kinh tế.
a. Rừng gỗ từ 0,7ha trở xuống; rừng tre nứa từ 1,5ha trở xuống.
b. Nếu là rừng tốt thì rừng gỗ: từ 0,5ha trở xuống, rừng tre nứa từ 1ha
trở xuống.
Thông tư 3984/LN-KL tại khoản 3 mục IX, phần III cũng quy định đường

lối xử lý đối với các hành vi vi phạm có mức độ tác hại đã gây ra vượt quá mức
độ xử phạt hành chính đã hướng dẫn trên đây, thì sẽ khởi tố về hình sự.
Điều đáng chú ý là từ mục I đến mục VIII các hành vi đều được định
lượng, không có hành vi nào được nêu dưới dạng chung chung thuộc dạng
gây hậu quả nghiêm trọng. Những quy định của Thông tư số 3984/LN-KL là
cơ sở pháp lý quan trọng để truy cứu TNHS người có hành vi xâm hại đến
rừng. Thực tế dựa vào Thông tư 3984/LN-KL nhiều hành vi vi phạm đã bị xử
lý, hạn chế được phần nào tình trạng khai thác bừa bãi trái phép cây rừng, góp
phần bảo vệ được tài nguyên rừng, hình thành và nâng cao ý thức của người
dân trong việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường sống.
Tuy nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ta sau năm 1975
bước vào thời kỳ vô cùng khó khăn. Hậu quả do chiến tranh để lại rất nặng
nề. Mặt khác, cơ chế quản lý thời chiến không còn phù hợp trong tình hình
mới. Do vậy, nhiều ngành kinh tế đã không được định hướng phát triển phù
hợp. Những văn bản QPPL ban hành không điều chỉnh có hiệu quả các
QHXH trong tình hình mới. Thông tư 3984/LN-KL cũng bộc lộ những hạn
chế của nó. Điều dễ thấy nhất là phạm vi điều chỉnh của Thông tư không theo
kịp với diễn biến của tình hình tội phạm. Nhiều hành vi nguy hiểm khác
không chỉ xâm phạm đến cây rừng mà cả đến đất rừng và các yếu tố có liên
quan. Đào đãi vàng, thải chất độc hại v.v… là những hành vi xâm hại nghiêm
trọng đến rừng, ảnh hưởng rất xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội chưa



15
được đề cập. Sau hàng loạt các VBPL được ban hành đã bổ sung cho Thông
tư 3984/LN-KL, Nhà nước ta đã có những đánh giá mới về thực trạng vi
phạm, về mức độ nguy hiểm của những loại hành vi xâm hại đến rừng thể
hiện trong các văn bản như: Chỉ thị số 124-CT/TM ngày 03/9/1981 của Bộ
Tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam về việc bảo vệ rừng, nghiêm

cấm phá rừng; Chỉ thị số 21 VP/Th ngày 21/05/1983 của Bộ Lâm nghiệp về
tăng cường quản lý vật tư gỗ; Chỉ thị số 332/CT ngày 02/12/1983 của Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng về chủ động phòng cháy, chữa cháy rừng trong mùa
hanh khô hàng năm; Nghị định số 160-HĐBT ngày 10/12/1984 của Hội đồng
Bộ trưởng về việc thống nhất quản lý các loại đặc sản rừng; Thông tư số
01TT/LB ngày 18/01/1984 của Liên Bộ Tài chính - Lâm nghiệp - Ủy ban Kế
hoạch nhà nước về việc quản lý và sử dụng tiền nuôi rừng; Thông tư số 23-
LN/KL ngày 08/10/1984 của Bộ Lâm nghiệp hướng dẫn xử lý bằng biện pháp
hành chính đối với các hành vi đầu cơ, buôn lậu, tàng trữ, vận chuyển, kinh
doanh trái phép lâm sản. Do vậy, hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ
rừng đã được đưa vào BLHS năm 1985 bằng tội danh cụ thể. Đây là cơ sở
pháp lý quan trọng để điều chỉnh các QHXH trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng góp phần quan trọng cho công tác đấu tranh phòng và chống loại tội
phạm này.
Nhìn chung, việc điều chỉnh những QHXH trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ rừng bằng luật hình sự giai đoạnh từ năm 1945 đến trước khi có BLHS
năm 1985 có những đặc điểm sau:
Việc xử lý hành vi vi phạm không được quy định trong một điều luật
độc lập mà việc xử lý thường viện dẫn các tội danh khác trên cơ sở xác định
mục đích là yếu tố quan trọng để xác định tội danh.
Giai đoạn trước năm 1975, việc quy định và xử lý bằng hình sự đối với
những hành vi vi phạm thuộc loại tội này nhằm mục đích chính là phục vụ
công cuộc kháng chiến và chính do những điều kiện khách quan nên trong



16
thực tiễn ít áp dụng luật hình sự để xử lý đối với hành vi vi phạm thuộc loại
tội này. Những quy định của luật hình sự điều chỉnh loại tội này còn ít, chưa
điều chỉnh nhiều loại hành vi vi phạm.

1.3. Lịch sử lập pháp của tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999
Trong giai đoạn này, Nhà nước đã ban hành nhiều VBPL để điều
chỉnh việc khai thác, kiểm soát lâm sảm và xử lý vi phạm quy định về khai
thác và bảo vệ rừng. Chỉ thị số 34/CNR ngày 28/12/1985 của Bộ Lâm
nghiệp về chấn chỉnh việc khai thác, cung cấp gỗ; Thông tư số 02 - TT/LB
ngày 13/01/1986 của Liên Bộ Lâm nghiệp - Bộ Nội vụ về công tác bảo vệ
rừng và quản lý vật tư lâm sản; Thông tư số 23 TT/LB ngày 21/10/1986 của
Liên bộ VKSNDTC- Lâm nghiệp về mối quan hệ phối hợp giữa hai ngành
Kiểm soát và Lâm nghiệp trong việc phòng, chống các vi phạm, tội phạm về
quản lý và bảo vệ rừng.
Đặc biệt, trong giai đoạn này, BLHS ra đời năm 1985 là một bước tiến
lớn trong công tác lập pháp của Nhà nước ta. Những tội xâm phạm đến rừng
được quy định theo nhiều tội danh cụ thể trong BLHS năm 1985. Ví dụ như:
Điều 181 “Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng”; Điều 194
“Tội vi phạm các quy định về phòng cháy chữa cháy”; Điều 216 “Tội vi
phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam
thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên, trực tiếp điều chỉnh
nhóm hành vi liên quan đến việc khai thác trái phép và vi phạm các quy định
về quản lý và bảo vệ rừng được quy định và chủ yếu điều chỉnh bằng Điều
181 thuộc chương VII BLHS.
Điều 181 trực tiếp điều chỉnh nhiều loại hành vi, từ khai thác trái phép
đến vi phạm các quy định về quản lý rừng hay săn bắt trái phép động vật
hoang dã v.v…
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện dưới các dạng hành vi sau:



17
- Khai thác trái phép cây rừng.

- Săn bắt trái phép chim thú.
- Có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý và
bảo vệ rừng. Hành vi khác ở đây được quy định theo các văn bản hướng dẫn
dưới luật. Đó có thể là hành vi vi phạm các quy định về phòng cháy chữa
cháy, về phòng trừ sâu bệnh…
Những hành vi trên đây chỉ bị truy cứu TNHS khi gắn với một trong
những dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà
còn vi phạm.
Hậu quả nghiêm trọng được đánh giá kết hợp giữa thiệt hại vật chất với
hậu quả về kế hoạch quản lý và bảo vệ rừng (như: Gây cháy rừng lớn và kéo
dài, làm mất giống thú, chim đang cần gây lại…) nếu không có dấu hiệu gây
hậu quả nghiêm trọng thì dấu hiệu đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm là
dấu hiệu bắt buộc để CTTP [62].
Về mặt chủ quan tội phạm có thể được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý,
chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai có năng lực TNHS, đủ độ tuổi luật định.
Điều 181 có hai khung hình phạt: Khung cơ bản quy định mức hình
phạt từ cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến
ba năm. Khung 2 là khung tăng nặng quy định hình phạt từ hai năm đến mười
năm nếu phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Hình phạt bổ sung không được quy định trong Điều 181 mà được quy
định tại một điều luật riêng (Điều 185) bao gồm các loại: phạt tiền; cấm đảm
nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định.
Như vậy, lần đầu tiên trong BLHS, hành vi khai thác trái phép cây rừng
và vi phạm các quy định về bảo vệ rừng đã được điều chỉnh bằng một điều
luật cụ thể. Tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa đối với loại tội phạm này
đã được nâng cao. Trong ý thức của quần chúng khái niệm về một tội phạm
khi có hành vi xâm phạm đến tài nguyên rừng đã được định hình cụ thể.




18
Không còn sự mơ hồ theo dạng rừng là của tự nhiên bất cứ ai cũng có thể xâm
hại để phục vụ nhu cầu cuộc sống của riêng mình.
Tiếp sau việc quy định tội phạm trong luật hình sự, sau năm 1985,
nhiều văn bản luật quan trọng điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực bảo vệ
rừng đã được ban hành nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ nguồn tài
nguyên này. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng với 19 chương, 54 điều được ban
hành vào ngày 19/8/1991 là cơ sở quan trọng để tạo ra khung pháp lý nhằm cụ
thể hóa việc điều chỉnh các QHXH trong lĩnh vực này. Ngăn chặn nạn phá
rừng, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, tạo sự ổn định trong việc khai thác
các lợi ích của rừng phục vụ đời sống xã hội.
Trong số những VBPL được ban hành trong thời kỳ này ngoài Luật
Bảo vệ và Phát triển rừng, còn hai văn bản khác đóng vai trò rất quan trọng
trong việc ngăn chặn nạn phá rừng, cụ thể hóa các hành vi, định lượng để xử
lý có phân biệt gữa xử phạt hành chính và truy cứu TNHS. Đó là Chỉ thị số
90/CT ngày 19/3/1992 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng về thực hiện những
biện pháp cấp bách để chặn đứng nạn phá rừng và Nghị định số 14/CP ngày
05/12/1992 của Chính phủ ban hành quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
Trong Chỉ thị số 90/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quy định
“Đình chỉ ngay việc cấp giấy phép xuất khẩu các loại gỗ tròn, gỗ xẻ, thu hồi
ngày các giấy phép đã cấp” và quyết định cho Bộ Lâm nghiệp ta lệnh đóng
cửa rừng ở những khu vực cần thiết, đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra
trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng. Chỉ thị này là một quyết định đúng đắn,
ngăn chặn nạn phá rừng trên diện rộng với số lượng lớn vì lợi dụng vào sự
hợp pháp của giấy phép khai thác. Nạn phá rừng buộc phải quay lại chủ yếu
với phương thức nhỏ lẻ, thủ công. Bên cạnh đó, Nghị định số 14/CP ngày
05/12/1992 cùng Thông tư số 09/LN-KL ngày 01/6/1993 của Bộ Lâm nghiệp
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 14/CP đã cụ thể hóa các hành vi vi phạm




19
trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng. Trong số 13 loại hành vi vi phạm đã
được xác định, từ phá rừng trái phép, khai thác rừng trái phép đến săn bắt
động vật rừng, gây thiệt hại cho đất rừng v.v… được quy định gắn liền với
mức định lượng cụ thể để xử phạt hành chính. Ví dụ: Khai thác rừng trái phép
nhóm gỗ I hoặc gỗ quý hiếm có khối lượng từ 0,5 đến 1 m3 sẽ bị phạt tiền từ
500.000đ đến 2.000.000đ.
Tại Điều 6 Thông tư só 09/LN-KL quy định: Đối với những vụ vi phạm
có nhiều tình tiết tăng nặng gây hậu quả nghiêm trọng vượt phạm vi xử phạt
vi phạm hành chính hoặc đương sự hành hung người thi hành công vụ thì tùy
từng trường hợp cụ thể, cơ quan kiểm lâm chuyển sang tiến hành khởi tố, điều
tra vụ án theo thẩm quyền pháp luật quy định hoặc lập hồ sơ chuyển sang
Viện KSND hoặc Cơ quan điều tra cùng cấp để đề nghị truy cứu TNHS.
Đây chính là những quy định cụ thể để vận dụng Điều 181 xử lý các
hành vi vi phạm. Thực tế Điều 181 đã góp phần rất lớn trong công tác đấu
tranh phòng chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Nhìn chung, giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi có BLHS năm 1999,
đây là giai đoạn có nhiều VPPL được ban hành có liên quan đến rừng. Những
văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta hoàn thiện hơn những
quy phạm điều chỉnh có hiệu quả các QHXH trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ
rừng trong tương lai. Không thể có những bước phát triển mới trong lĩnh vực
lập pháp nếu như không có những căn cứ làm nền tảng. Những VBPL có liên
quan đến rừng được ban hành trong giai đoạn từ 1985 đến trước 1999 do vậy
có ý nghĩa và vai trò rất lớn đối với đời sống xã hội.








20
Chương 2
TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN
XÉT XỬ TỘI PHẠM NÀY Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của tội Vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng
2.1.1. Khái niệm tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
Bảo vệ rừng được nhận thức từ rất lâu trên thế giới, song vấn đề này
được tập trung giải quyết cả ở tầm quốc gia và quốc tế chủ yếu nửa sau thế kỷ
XX. Những hậu quả nghiêm trọng của việc tàn phá rừng ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tự nhiên, xã hội và con người, đặc biệt phải kể đến là nạn lũ lụt, xói
mòn đất,… việc đấu tranh với những hành vi tàn phá rừng chưa thu được hiệu
quả cao, cùng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, cần phải đặt ra
cơ chế bảo vệ rừng có hiệu quả hơn. Trong giới hạn của một quốc gia, một
trong những mắt xích chủ yếu của cơ chế này là chính sách hình sự đối với
hành vi xâm hại rừng.
Nền tảng của chính sách hình sự về bảo vệ rừng của Việt Nam đã được
ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp đã khẳng định “các
hầm mỏ, sông ngòi và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp
luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân”.
Chính sách hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ rừng đã thể hiện rõ nét
bằng việc chính thức ghi nhận loại tội phạm này trong BLHS Việt Nam năm
1985 và gần đây nhất là BLHS năm 1999 được cụ thể hóa trong các tội danh
cụ thể, bao gồm Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Điều
175); Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng (Điều 176); Tội Hủy hoại

rừng (Điều 189); Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý



21
hiếm (Điều 190); Tội vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với khu bảo tồn
thiên nhiên (Điều 191).
Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được xếp trong
Chương XVI - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Trước khi tìm hiểu
khái niệm tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ta cần hiểu rõ
khái niệm trật tự quản lý kinh tế và các tội xâm phạm trật tự kinh tế.
Trật tự quản lý kinh tế có thể hiểu là các QHXH đảm bảo cho sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế đó là “nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN” (Điều 115 Hiến pháp năm 1992).
Việc xác định một cách đầy đủ và chính xác nội hàm khái niệm trật tự
quản lý kinh tế ở Điều luật này có ý nghĩa quan trọng trong việc quy định giới
hạn các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tạo cơ sở pháp lý cho việc
áp dụng các biện pháp bảo vệ trật tự quản lý kinh tế, đấu tranh phòng, chống
các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Để hiểu rõ hơn khái niệm tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng, chúng ta cũng cần phải hiểu khái niệm các tội xâm phạm trật tự quản
lý xã hội. Theo Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần 2), Trường Đại học
Luật Hà Nội: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của
Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân qua việc vi phạm
quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế [59].
Như vậy, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế xâm phạm đến các
QHXH đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tội Vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là một trong những tội xâm

phạm đến các QHXH đó. Hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng là hành vi khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm



22
các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng hoặc vận chuyển,
buôn bán gỗ trái phép.
Điều 175 BLHS năm 1999 quy định:
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị
kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt
tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam
giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a. Khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm
các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, nếu không
thuộc trường hợp quy định tại Điều 189 của Bộ luật này.
b. Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép, nếu không thuộc trường
hợp quy định tại Điều 153 và Điều 154 của Bộ luật này.
2. Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến
hai mươi triệu đồng.
Được tách từ tội Vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng tại
Điều 181 BLHS năm 1985, do nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, tội
Vi phạm các quy định và khai thác rừng tuy vẫn cấu tạo thành hai khung
hình phạt nhưng các tình tiết là yếu tố định tội và yếu tố định khung hình
phạt có nhiều thay đổi; quy định tình tiết làm ranh giới phân biệt giữa hành
vi vi phạm với hành vi phạm tội; quy định cụ thể các hành vi vi phạm về
khai thác và bảo vệ rừng; hình phạt bổ sung được quy định ngay cùng một

điều luật.
Việc tách Điều 181 thành các tội độc lập là hết sức cần thiết. Nó đảm
bảo cho việc điều chỉnh các QHXH một cách cụ thể tránh tình trạng hiểu thế

×