Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

pháp luật việt nam về giải quyết tranh chấp hàng hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.54 KB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THỊ BÍCH HÒA



PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HÀNG HẢI


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
Mã số: 5.05.12



Người hướng dẫn : PGS.TS. Nguyễn Bá Diến





Hà Nội - 2005


1

MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Mục lục 1


Mở đầu 3
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận chung về pháp luật 7
giải quyết tranh chấp hàng hải
1.1 Một số khái niệm về pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải 7
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp hàng hải 7
1.1.2 Các loại tranh chấp hàng hải 7
1.1.3 Khái niệm pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải 13
1.2 Sơ lược về lịch sử giải quyết tranh chấp hàng hải ở Việt Nam
16
1.2.1 Vài nét về lịch sử giải quyết tranh chấp hàng hải 16
trên thế giới
1.2.2 Sơ lược về sự hình thành và phát triển của pháp luật
18
giải quyết tranh chấp hàng hải Việt Nam
1.3 Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật giải quyết tranh chấp 23
hàng hải
1.3.1 Tôn trọng quyền tự do định đoạt của các bên 24
1.3.2 Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và tự chứng minh 25
trong pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải
1.3.3 Nguyên tắc hoà giải 27
1.4 Các phương thức giải quyết tranh chấp hàng hải
27
1.4.1 Thương lượng 28
1.4.2 Hoà giải 29
1.4.3 Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài 31


2
1.4.4 Giải quyết tranh chấp bằng Toà án 33
Chƣơng 2. Thực trạng của pháp luật về giải quyết tranh chấp hàng hải 36

2.1 Thực trạng của Pháp luật các nước về giải quyết tranh chấp hàng hải 36
2.1.1 Giải quyết tranh chấp hàng hải bằng thương lượng, hoà giải 36
2.1.2 Giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp thay thế (ADR) 37
2.1.3 Giải quyết tranh chấp hàng hải bằng thủ tục Trọng tài 40
2.1.4 Giải quyết tranh chấp hàng hải bằng To à án 46
2.2 Thực trạng của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp hàng hải 56
2.2.1 Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải bằng 56
thương lượng và trung gian hoà giải
2.2.2 Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải 56
bằng Trọng tài
2.2.3 Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải 61
bằng Toà án
2.2.4 Những ưu điểm và hạn chế trong Pháp luật Việt Nam về 73
giải quyết tranh chấp hàng hải.
Chƣơng 3. Vấn đề thực hiện pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải 90
ở Việt Nam, phƣơng hƣớng hoàn thiện và một số giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải
ở nƣớc ta.
3.1 Thực trạng giải quyết tranh chấp hàng hải ở nước ta 90
3.2 Phương hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật 98
giải quyết tranh chấp hàng hải ở nước ta hiện nay
3.2.1 Phương hướng hoàn thiện 98
3.2.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết 103
tranh chấp hàng hải ở nước ta
Kết luận 117
Danh mục tài liệu tham khảo 121



3



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm vừa qua, cùng với việc hoàn thiện các đạo luật nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản, thiết yếu trong đời sống kinh tế xã hội như dân
sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật quy định về thủ tục tố tụng để giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể, chẳng hạn
như: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989; Pháp lệnh
công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án Nước
ngoài ngày 17/04/1993; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày
16/03/1994; Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng
tài nước ngoài ngày 14/09/1996 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động ngày 11/04/1996. Hiện nay, các pháp lệnh về tố tụng trên đã được thay thế
bởi Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự ban hành ngày 15/06/2004, có hiệu lực từ ngày
01/01/2005 nhằm thống nhất các quy định về giải quyết tranh chấp trong các lĩnh
vực: dân sự, kinh tế, thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động. Bên cạnh đó,
trong lĩnh vực thương mại, hàng hải nhiều đạo luật đã được ban hành như: Pháp
lệnh Trọng tài thương mại của UBTVQH ban hành ngày 25/02/2003 , Bộ Luật
Hàng Hải ban hành ngày 30/06/1990 với một số quy định điều chỉnh vấn đề giải
quyết tranh chấp hàng hải tại Điều 241, Điều 242- ChươngXVII. Các quy định
pháp luật về thủ tục nói trên đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết các tranh
chấp pháp sinh, góp phần làm ổn định các quan hệ xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà
nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường pháp chế
XHCN. Tuy nhiên, trước sự đổi mới và phát triển toàn diện của đất nước hiện nay
trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá, hội nhập kinh tế, quốc tế và khu
vực, các quy định pháp luật trên đã bộc lộ nhiều hạn chế nhược điểm, như không



4
đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ còn chồng chéo, mâu thuẫn, các quy định về tố
tụng hàng hải thiếu và chưa rõ ràng, cụ thể
Qua việc đối chiếu, rà soát các văn bản pháp luật quy định về giải quyết các
tranh chấp trên, cho thấy: trong lĩnh vực hàng hải, thiếu rất nhiều quy định về giải
quyết tranh chấp hàng hải như vấn đề thẩm quyền của Toà án đối với các tranh
chấp hàng hải, trình tự, thủ tục giải quyết đối với từng loại tranh chấp hàng hải,
hoặc như vấn đề bắt giữ, xử lý bắt giữ tàu nước ngoài ở Việt Nam tuy có quy định
trong Bộ luật Hàng hải nhưng chưa đầy đủ và chưa phù hợp với pháp luật quốc tế
về hàng hải, trình độ năng lực xét xử của đội ngũ Trọng tài, Toà án và chất lượng
xét xử các tranh chấp hàng hải còn hạn chế Thậm chí ngay trong bộ luật chuyên
ngành là Bộ luật Hàng hải chương giải quyết tranh chấp hàng hải cũng chỉ có hai
điều khoản(chương 17) và một số quy định về thời hiệu khởi kiện nằm rải rác ở các
điều trong Bộ luật. Tất cả sự hạn chế trên đã không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn
trong hoạt động hàng hải, chưa tương xứng với sự phức tạp của các tranh chấp
hàng hải đang diễn ra.
Hơn nữa, Việt Nam lại là một quốc gia ven biển có bờ biển khá dài: 3260 km,
hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam được chuyên chở bằng đường biển chiếm
hơn 90% tổng số hàng hoá xuất nhập khẩu, có hơn108 các cảng biển lớn, nhỏ được
xây dựng, với 23.335 m cầu, bến.
1
Các hoạt động khai thác và sử dụng biển trong
hàng hải ngày càng phát triển phong phú, đa dạng với những đặc thù riêng, đòi hỏi
cần được điều chỉnh bằng những quy định tố tụng riêng. Do vậy, việc thiếu các quy
định về giải quyết các tranh chấp nói trên đã phần nào cản trở các hoạt động khai
thác, sử dụng và quản lý biển nói chung cũng như hoạt động hàng hải nói riêng,
chưa đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động
hàng hải, gây nhiều khó khăn cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức có thẩm
quyền trong hoạt động áp dụng pháp luật vào việc giải quyết các tranh chấp hàng
hải.


1
Báo cáo Tổng kết 13 năm thực hiện Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Bộ Giao thông Vận tải- Cục Hàng hải Việt Nam,
tháng 10/2003.


5
Xuất phát từ những lý do trên, việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp hàng hải ở nước ta là rất cần thiết. Nó mang ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra
một hành lang pháp lý vững chắc, thuận lợi cho việc thúc đẩy sự phát triển của hoạt
động khai thác sử dụng biển ở nước ta, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia các quan hệ pháp luật hàng hải đồng thời góp phần hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền, bảo vệ
vững chắc chủ quyền quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
a. Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của Pháp luật giải quyết
tranh chấp hàng hải, thực trạng của giải quyết tranh chấp hàng hải ở Việt Nam và
một số nước trên thế giới, luận văn đề xuất các quan điểm phương hướng, giải pháp
và kiến nghị cụ thể trong việc hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải ở
Việt Nam hiện nay.
b. Nhiệm vụ:
Với mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về giải quyết tranh chấp hàng hải, khái niệm
đặc trưng, các nguyên tắc của pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải trong hệ
thống pháp luật giải quyết tranh chấp chung, các phương thức giải quyết tranh chấp
hàng hải.
- Thực trạng của pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải cũng như tình
hình thực hiện việc giải quyết tranh chấp hàng hải hiện nay.
- Những quan điểm, phương hướng, giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm

hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải ở Việt Nam
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:


6
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về giải quyết
tranh chấp hàng hải như khái niệm, đặc trưng, các nguyên tắc, các phương thức
giải quyết tranh chấp hàng hải như thương lượng, hoà giải, trọng tài, toà án; nghiên
cứu về pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải của một số nước trên thế giới để từ
đó làm cơ sở lý luận cho luận văn. Mặt khác, luận văn cũng nghiên cứu thực trạng
về giải quyết tranh chấp của Việt nam và thế giới để làm cơ sở thực tiễn cho luận
văn. Qua đó, đưa ra các quan điểm, phương hướng hoàn thiện, giải pháp, các kiến
nghị cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải ở Việt
Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là cơ bản.
Bên cạnh đó, cũng kết hợp sử dụng phương pháp phân tích luật thực định và
phương pháp so sánh, đối chiếu, tổng hợp v.v.
5. Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm: Mở đầu; Phần nội dung gồm: 3 chương; Kết luận; Danh mục
tài liệu tham khảo. Cụ thể như sau:
Mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về pháp luật giải quyết tranh chấp
hàng hải
Chương 2: Thực trạng của pháp luật về giải quyết tranh chấp hàng hải
Chương 3: Vấn đề thực hiện pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải ở Việt
Nam, phương hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật giải quyết
tranh chấp hàng hải.
Kết luận
Danh mục các tài liệu tham khảo




7




Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HÀNG HẢI
1.1 Một số khái niệm về pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp hàng hải
1.1.1.1 Định nghĩa
Cho đến thời điểm này, chưa có một tài liệu, sách báo hay công trình nghiên
cứu khoa học pháp lý nào trong nước đề cập đến việc tìm hiểu định nghĩa cũng như
đặc điểm của pháp luật về giải quyết tranh chấp hàng hải. Lý giải cho điều này có
thể xuất phát từ thực tế chúng ta không có pháp luật tố tụng độc lập hoàn chỉnh
cho lĩnh vực hàng hải mà phải phụ thuộc các quy định tố tụng khác như quy định tố
tụng dân sự, tố tụng kinh tế,…Tuy nhiên, với những đặc thù riêng trong quan hệ
hàng hải, các tranh chấp phát sinh từ quan hệ đó cũng mang những nét hết sức
riêng biệt không giống như các loại tranh chấp khác, đòi hỏi cần phải có các quy
định pháp luật riêng để điều chỉnh, nhằm giải quyết hiệu quả những tranh chấp
hàng hải khi mà các quy định tố tụng khác không “đủ sức” để giải quyết. Do vậy,
vấn đề đặt ra là cần phải tìm hiểu một cách thấu đáo nội hàm khái niệm cũng như
đặc điểm của tranh chấp hàng hải. Làm sáng tỏ khái niệm tranh chấp hàng hải sẽ
giúp cho việc xây dựng các quy định tố tụng hàng hải phù hợp điều chỉnh các tranh
chấp hàng hải đó.
Tranh chấp hiểu theo nghĩa khái quát nhất là những xung đột, bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Các



8
tranh chấp trong xã hội rất phong phú và đa dạng. Chúng phát sinh trong nhiều lĩnh
vực khác nhau, giữa các loại chủ thể, từ những lý do khác nhau và vì những mục
đích không giống nhau.
Có nhiều cách phân loại tranh chấp theo các tiêu chí khác nhau: Căn cứ vào nội
dung cụ thể của tranh chấp mà chia thành tranh chấp hợp đồng, tranh chấp bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, tranh chấp
chứng khoán,v.v…Căn cứ vào tính chất của các quan hệ pháp luật làm phát sinh
tranh chấp mà chia thành tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế, tranh chấp lao
động, tranh chấp hành chính… Pháp luật Việt Nam không tách bạch tranh chấp
hàng hải thành một loại tranh chấp riêng biệt mà lại đồng nhất nó với tranh chấp
kinh tế, với tranh chấp dân sự và tranh chấp thương mại. Và cũng chính điều đó mà
trong thực tiễn, cơ quan tài phán đã áp dụng những quy định tố tụng chung của dân
sự, kinh tế để giải quyết các tranh chấp hàng hải. Vậy tranh chấp hàng hải là gì? Nó
có khác gì so với các tranh chấp khác không?
Dưới góc độ kinh tế có thể nói tranh chấp hàng hải là một dạng của tranh chấp
kinh tế, dưới góc độ dân sự thì tranh chấp hàng hải cũng có thể coi là tranh chấp
dân sự, đối với tranh chấp thương mại hay lao động, hành chính cũng vậy. Sở đĩ
như vậy là do xuất phát từ mối quan hệ giữa pháp luật hàng hải Việt Nam với pháp
luật quốc tế và các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam
2
. Giữa pháp luật
hàng hải Việt Nam và các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng như
pháp luật quốc tế luôn có mối quan hệ đan xen, biện chứng với nhau. Ví dụ: Tranh
chấp về hợp đồng mua bán tàu biển là tranh chấp hàng hải nhưng về tính chất cũng
có thể là tranh chấp kinh tế bởi hợp đồng này được ký kết trên cơ sở quy định của
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế; tranh chấp về đòi bồi thường thiệt hại do đâm va tàu
biển là tranh chấp hàng hải nhưng xét về bản chất lại là tranh chấp về bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng thuộc pháp luật dân sự. Hay tranh chấp về hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển vừa là tranh chấp thương mại, vừa là tranh chấp

2
Xem Luận án “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật Hàng hải Việt Nam” . Tiến sĩ
Nguyễn Thị Như Mai, Cục Hàng hải Việt Nam, Trang 57.


9
hàng hải. Tranh chấp về tiền lương của thuyền viên là tranh chấp hàng hải nhưng
cũng là tranh chấp lao động v.v Qua phân tích trên cho thấy, tranh chấp hàng hải
là loại tranh chấp kinh tế thương mại dân sự hiểu theo nghĩa rộng.
Bộ luật Hàng hải Việt Nam ban hành ngày 30 tháng 06 năm 1990 và các văn
bản pháp luật hàng hải có tính hướng dẫn khác cũng như Bộ luật tố tụng dân sự
được Quốc Hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua ngày 15/6/2004 không
định nghĩa thế nào là tranh chấp hàng hải. Đây là một trong những hạn chế của các
văn bản pháp luật hiện hành ở nước ta. Nhằm khắc phục hạn chế trên của bộ luật
cũ, dự thảo cuối cùng của Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 1990 sửa đổi đã đưa ra
định nghĩa hết sức khái quát về tranh chấp hàng hải như sau: “Tranh chấp hàng
hải là các tranh chấp phát sinh liên quan đến hoạt động hàng hải”.
Các hoạt động hàng hải ở đây theo quy định của Bộ luật Hàng hải năm 1990 là
“các quan hệ pháp luật phát sinh từ các hoạt động liên quan đến việc sử dụng tàu
biển vào các mục đích kinh tế, nghiên cứu khoa học- kỹ thuật, văn hoá, thể thao, xã
hội và công vụ nhà nước” (Điều1). Định nghĩa tranh chấp hàng hải mà Dự thảo đã
đưa ra là hợp lý. Bởi định nghĩa đã nêu lên một cách khái quát nhất về tranh chấp
hàng hải, phản ánh đầy đủ các loại tranh chấp hàng hải theo nghĩa rộng như đã
phân tích ở trên, điều này cũng phù hợp với thực tiễn tranh chấp hàng hải đang diễn
ra hiện nay.
1.1.1.2 Đặc điểm
Bản chất của tranh chấp hàng hải là các xung đột về quyền và nghĩa vụ pháp lý

của các chủ thể khi tham gia hoạt động hàng hải. Điều đó có nghĩa là nếu có những
xung đột quyền và nghĩa vụ xảy ra không liên quan đến hoạt động hàng hải thì
không phải là tranh chấp hàng hải. Tuy nhiên, có những tranh chấp vừa liên quan
đến lĩnh vực hàng hải, vừa liên quan đến lĩnh vực khác. Hoặc có những loại tranh
chấp hàng hải chỉ có trong lĩnh vực hàng hải mà không thể có ở những lĩnh vực
khác. Sở dĩ như vậy vì tranh chấp hàng hải có những đặc thù riêng. Điều này được
thể hiện qua những đặc điểm cơ bản sau đây:


10
- Tranh chấp hàng hải là những tranh chấp phát sinh từ hoạt động hàng hải như
tranh chấp về vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, tranh chấp về cứu hộ, tranh
chấp về lai dắt tàu biển…
- Tranh chấp hàng hải phát sinh từ nhiều nhóm quan hệ pháp luật khác nhau.
Tranh chấp hàng hải là một loại tranh chấp dân sự kinh tế thương mại hiểu theo
nghĩa rộng như đã trình bày ở trên. Do vậy, những tranh chấp này không chỉ liên
quan đến quan hệ pháp luật hàng hải mà còn liên quan đến lĩnh vực dân sự như
quan hệ sở hữu, cầm cố, thế chấp tàu biển, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…;
liên quan đến lĩnh vực kinh tế như quan hệ hợp đồng mua bán tàu biển, đóng tàu ;
liên quan đến lĩnh vực lao động như hợp đồng lao động giữa chủ tàu và thuyền
viên…; liên quan đến hoạt động quản lý hành chính như quan hệ giữa các cơ quan
quản lý nhà nước trong việc cấp phép cho tàu ra vào cảng, công bố cảng biển, đăng
ký tàu biển và thuyền viên; liên quan đến quan hệ quốc tế như quan hệ giữa các
quốc gia liên quan đến tàu biển hoạt động tại các vùng biển quốc tế v v.
-Tranh chấp hàng hải phát sinh từ các khiếu nại hàng hải. Có thể nói khiếu nại
hàng hải là một đặc trưng rất riêng của pháp luật Hàng hải. Nhằm bảo vệ quyền lợi
chính đáng của mình, người có quyền lợi bị vi phạm đưa ra những khiếu nại yêu
cầu người gây thiệt hại cho mình phải giải quyết khiếu nại đó. Khiếu nại hàng hải
có thể phát sinh từ một hoặc nhiều vấn đề như tổn thất hoặc thiệt hại do hoạt động
của tàu gây ra; tử vong hoặc thương tật xảy ra; các hoạt động cứu hộ; thiệt hại liên

quan đến hợp đồng thuê tàu, hợp đồng vận chuyển hàng hoá, hành khách; tổn thất
chung v.v…
- Tranh chấp hàng hải phát sinh từ hoạt động hàng hải liên quan đến nhiều
mục đích khác nhau. Các hoạt động hàng hải không chỉ liên quan đến mục đích
kinh tế sinh lợi nhuận mà còn liên quan đến mục đích phi lợi nhuận khác như
nghiên cứu khoa học- kỹ thuật, các mục đích văn hoá, thể thao, xã hội. Và các
tranh chấp hàng hải phát sinh từ các quan hệ trên cũng không nằm ngoài các mục
đích đó. Đây là một đặc trưng rất quan trọng trong tranh chấp hàng hải nhằm giúp


11
cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết có thể phân biệt đâu là quan hệ hàng hải
mang yếu tố kinh tế, đâu là quan hệ hàng hải mang yếu tố xã hội, phi kinh tế để từ
đó đưa ra quyết định tài phán phù hợp. Trong khi đó, trong tranh chấp dân sự, các
chủ thể tham gia các quan hệ dân sự nhằm thoả mãn các lợi ích tiêu dùng, sinh
hoạt trong đời sống là chính không vì mục đích lợi nhuận. Trong tranh chấp kinh
tế, các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế xuất phát từ lợi ích kinh tế để tìm kiếm
lợi nhuận.
- Đặc trưng tiếp theo là tranh chấp hàng hải mang nhiều yếu tố nước ngoài.
Khác với các quan hệ pháp luật dân sự hay kinh tế, các yếu tố nước ngoài chiếm
phần lớn trong các quan hệ pháp luật hàng hải. Điều này có thể giải thích từ những
lý do sau:
Thực tiễn hoạt động và khai thác biển của các quốc gia có biển trên thế giới
cho thấy, tiềm năng kinh tế biển đem lại cho các quốc gia này nhiều nguồn lợi to
lớn trong đó có nguồn lợi từ hoạt động khai thác hàng hải. Việt Nam nằm trong số
các quốc gia nói trên, các nguồn lợi kinh tế biển đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc tăng trưởng GDP của đất nước. Hơn 90% hàng hoá xuất nhập khẩu được
vận chuyển bằng đường biển, Việt Nam lại có quan hệ làm ăn với nhiều đối tác
nước ngoài, hiện nay Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn140 quốc gia trên
thế giới và quan hệ đầu tư với hơn 70 nước, vùng lãnh thổ

3
. Vì thế mà khó có thể
tránh được các tranh chấp xẩy ra giữa các đối tác với nhau. Mặt khác, tranh chấp
phát sinh từ các tai nạn hàng hải, các tổn thất về hàng hoá, người và tàu biển không
chỉ xẩy ra tại vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam mà còn có thể xảy ra tại
vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia khác hoặc tại công hải quốc tế, hoặc đối
với vấn đề trục vớt tài sản chìm đắm, tranh chấp phát sinh từ việc xác định quyền

3
“ Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay”. TS. Đào Văn Hội. Nhà XB
Chính trị quốc gia, 2004, trang 201.



12
sở hữu đối với tài sản được trục vớt không chỉ liên quan đến một quốc gia mà còn
có thể liên quan đến quốc gia khác
1.1.2 Phân loại các tranh chấp hàng hải
Phân loại tranh chấp hàng hải là việc sắp xếp các tranh chấp hàng hải có quan
hệ gần gũi nhau thành từng nhóm, mỗi nhóm được đặc trưng bởi một hay một số
dấu hiệu pháp lý nào đó. Việc phân loại tranh chấp hàng hải không chỉ có ý nghĩa
về khoa học mà còn có ý nghĩa sâu sắc về thực tiễn. Phân loại chính xác các tranh
chấp hàng hải tạo ra những thuận lợi nhất định cho việc nghiên cứu, để chỉ ra bản
chất của các loại tranh chấp hàng hải, từ đó định hướng cho việc xây dựng và hoàn
thiện cơ chế giải quyết chúng. Xây dựng những tiêu chí phân loại nhất định theo
phương pháp khoa học có thể giúp cho hoạt động giải quyết tranh chấp hàng hải
được tiến hành nhanh chóng, chính xác, tôn trọng sự thật khách quan. Ý nghĩa lớn
nhất của việc phân loại này là tạo điều kiện lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp phù hợp, xác định chính xác thẩm quyền giải quyết tranh chấp của cơ quan tài
phán và thủ tục áp dụng để giải quyết các tranh chấp hàng hải. Hơn nữa, việc phân

loại các tranh chấp hàng hải giúp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải
quyết tranh chấp hàng hải ở nước ta hiện nay.
Có nhiều cách phân loại tranh chấp hàng hải dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.
Tuy nhiên có ba cách phân loại chủ yếu sau:
Căn cứ vào yếu tố hợp đồng của tranh chấp hàng hải có thể phân loại tranh
chấp hàng hải thành hai loại: tranh chấp trong hợp đồng và tranh chấp ngoài hợp
đồng
4
.
Tranh chấp trong hợp đồng là hiện tượng phát sinh khi có sự vi phạm về quyền
và nghĩa vụ của các bên, cơ sở phát sinh tranh chấp là sự vi phạm về quyền và
nghĩa vụ đã được quy định trong hợp đồng. Ví dụ như tranh chấp giữa người mua
và người bán trong hợp đồng mua bán tàu biển, hoặc tranh chấp giữa người vận
chuyển và người thuê vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá v.v…

4
“Sổ tay Pháp luật Hàng hải”. Nhà xuất bản Giao thông Vận tải, năm 2003, trang 321


13
Tranh chấp ngoài hợp đồng phát sinh giữa các bên không tham gia ký kết hợp
đồng hoặc giữa một trong hai bên ký hợp đồng với một bên thứ ba không ký hợp
đồng. Trong trường hợp này, hợp đồng không phải là căn cứ để quy trách nhiệm
cho người vi phạm. Để xác định trách nhiệm của bên vi phạm , căn cứ vào hành vi
vi phạm của bên gây thiệt hại, mức độ thiệt hại xảy ra, yếu tố lỗi, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các sự kiện bất khả kháng (nếu có)…Chẳng hạn:
tranh chấp về bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do ô nhiễm dầu từ tàu biểnv.v
- Căn cứ vào nhân tố nước ngoài trong tranh chấp hàng hải có thể chia tranh
chấp hàng hải thành tranh chấp hàng hải có yếu tố nước ngoài và tranh chấp hàng
hải không có yếu tố nước ngoài.

Tranh chấp hàng hải có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh giữa một
bên là các cá nhân, tổ chức Việt Nam và một bên là cá nhân, tổ chức nước ngoài
hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ có tranh chấp phát sinh ở nước
ngoài hoặc tài sản liên quan đến tranh chấp đó ở nước ngoài. Ví dụ: tranh chấp phát
sinh từ việc ký kết hợp đồng hàng hải giữa các bên khi việc ký kết này thực hiện ở
nước ngoài nhưng nơi thực hiện hợp đồng lại ở Việt Nam và các bên đã thoả thuận
áp dụng luật Việt Nam hoặc Toà án hay Trọng tài Việt Nam để giải quyết.
Ngoài ra, dựa trên nội dung các khiếu nại hàng hải, tranh chấp hàng hải có thể
chia thành các tranh chấp cụ thể như: tranh chấp về tổn thất, thiệt hại đối với người,
tài sản, hàng hoá, tàu biển; tranh chấp về hoạt động cứu hộ, tranh chấp về hợp đồng
vận chuyển hàng hoá, hành khách; tranh chấp về hợp đồng thuê tàu; tranh chấp về
hợp đồng mua bán tàu biển; tranh chấp về tổn thất chung; tranh chấp về lai dắt tàu
biển; tranh chấp về hoa tiêu hàng hải; tranh chấp về tiền lương thuyền viên, thuyền
trưởng; tranh chấp về phí bảo hiểm; tranh chấp về quyền sở hữu hoặc chiếm hữu
tàu biển v.v…
Tóm lại, sự phân chia trên có tính chất tương đối, bởi có những loại tranh chấp
hàng hải khó có thể xác định được là thuộc về loại tranh chấp nào? tranh chấp dân
sự, thương mại hay kinh tế do sự thiếu rõ ràng của các quy định pháp luật chuyên


14
ngành. Đơn cử như tranh chấp về hợp đồng hoa tiêu, hợp đồng cứu hộ, hợp đồng
lai dắt, những tranh chấp trên thuộc tranh chấp dân sự hay thương mại? vấn đề này
đang còn bỏ ngỏ, cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
1.1.3 Khái niệm pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải
Cũng giống như tranh chấp hàng hải, hiện nay chưa có một công trình khoa
học pháp lý cũng như một văn bản pháp luật nào ở Việt Nam đưa ra khái niệm về
pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải. Tuy vậy, từ những phân tích khái niệm,
đặc điểm của tranh chấp hàng hải ở phần trên đồng thời dựa trên những vấn đề lý
luận của pháp luật Hàng hải mà TS. Nguyễn Thị Như Mai đã nghiên cứu. Theo

quan điểm của tác giả: pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải là tổng hợp các
phương thức, cách thức quy định bởi pháp luật trong nước và Điều ước quốc tế
được áp dụng để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích giữa các
bên nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, pháp nhân, Nhà nước
và các chủ thể khác.
Các phương thức được sử dụng để giải quyết tranh chấp hàng hải hiện nay bao
gồm: thương lượng, hoà giải, trọng tài và toà án. Mặt khác, do tranh chấp hàng hải
phát sinh từ nhiều nhóm quan hệ pháp luật khác nhau như đã phân tích ở trên, nên
tuỳ thuộc vào nội dung, tính chất của tranh chấp đó biểu hiện loại quan hệ pháp
luật nào mà áp dụng quy phạm hình thức có liên quan đến quan hệ pháp luật đó để
giải quyết. Ví dụ như: tranh chấp hàng hải có liên quan đến dân sự, lao động, kinh
tế hay lao động, nếu trong pháp luật hàng hải chuyên ngành không có quy định về
thủ tục giải quyết thì sẽ áp dụng các quy định tố tụng trong Bộ luật Tố tụng Dân sự
để giải quyết; hoặc tranh chấp hàng hải có liên quan đến lĩnh vực hành chính sẽ áp
dụng các quy định về thủ tục trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính
Từ quan điểm trên đây, tác giả cho rằng pháp luật về giải quyết tranh chấp
hàng hải ngoài việc chứa những đặc điểm chung của pháp luật giải quyết tranh
chấp nói chung còn có những đặc điểm hết sức riêng biệt, cụ thể:


15
Thứ nhất, trong pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải, các khiếu nại hàng
hải được bảo đảm thực hiện bởi lệnh bắt giữ tàu biển của Toà án còn gọi là thủ tục
tiền tố tụng. Trong giải quyết tranh chấp hàng hải, nhằm bảo đảm cho các khiếu
nại hàng hải, trước khi khởi kiện ra Toà án hay Trọng tài, đương sự có thể yêu cầu
Toà án áp dụng biện pháp bảo đảm, cụ thể là ra quyết định bắt giữ tàu biển. Yêu
cầu này có thể tiến hành song song với việc khiếu nại hàng hải.
Như vậy khác với tố tụng dân sự, bắt giữ tàu biển trong hàng hải không chỉ là
biện pháp bảo đảm dân sự thông thường chỉ áp dụng trong quá trình tố tụng, nhằm

bảo đảm cho phán quyết của Toà án hay Trọng tài mà nó còn là một biện pháp bảo
đảm cho các khiếu nại hàng hải trước khi tiến hành tố tụng tại Toà án hay Trọng
tài. Hơn nữa, việc bắt giữ tàu biển theo yêu cầu của đương sự trong hàng hải phải
tiến hành theo một trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ từ thẩm quyền bắt giữ, thủ tục
bắt giữ, giải phóng tàu cho đến thủ tục bán đấu giá tàu biển. Ngoài ra, theo pháp
luật của một số nước như Trung Quốc, để đảm bảo các khiếu nại hàng hải,Toà án
còn có thẩm quyền áp dụng biện pháp cầm giữ hàng hóa.
Thứ hai, bắt giữ tàu biển và giải quyết tranh chấp liên quan đến việc bắt giữ
đó có thể được tiến hành bằng hai Toà án khác.nhau. Ví dụ: lệnh bắt giữ tàu để
đảm bảo một khiếu kiện hàng hải do một Toà án nước ngoài thực hiện nhưng tranh
chấp phát sinh từ khiếu kiện đó có thể được giải quyết bởi Toà án Việt Nam. Trong
khi đó, trong giải quyết tranh chấp dân sự kinh tế, các tranh chấp này chỉ có thể
được giải quyết bởi một Toà án duy nhất, khi vụ việc đã được giải quyết bởi một
phán quyết hay bản án có hiệu lực pháp luật của toà án thì không thể thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án khác.
Thứ ba, pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp hàng hải chịu nhiều ảnh
hưởng của pháp luật, tập quán nước ngoài và Điều ước quốc tế. Các quan hệ
thương mại hàng hải ngày càng phát triển và mở rộng giữa các nước trên thế giới.
Xu thế hội nhập quốc tế kéo các nước lại gần nhau hơn. Dẫn đến sự du nhập văn
hoá, tư tưởng giữa các nước với nhau trong đó có pháp luật. Sự hiểu biết về văn


16
hoá, pháp luật và tập quán của các quốc gia trên thế giới cũng ngày càng tăng lên,
đã có sự áp dụng pháp luật nước này vào trong hoàn cảnh thực tiễn của nước kia.
Nếu như trước kia các Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế còn xa lạ đối với các
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, giờ đây nó đã được chấp nhận và trở
nên quen thuộc hơn trong việc ký kết các hợp đồng có yếu tố nước ngoài và đặc
biệt là trong hoạt động xây dựng pháp luật. Điều này thể hiện rất rõ trong các hợp
đồng thương mại hàng hải quốc tế. Trong các hợp đồng này, ngoài nội dung chính

ra nó còn nhờ vào các nguồn luật khác đó là: tập quán, án lệ, luật quốc tế và luật
quốc gia. Khi giải quyết tranh chấp, Toà án hoặc Trọng tài phải áp dụng luật nước
ngoài, tập quán nước ngoài đã được các bên thoả thuận, lựa chọn hoặc phải áp
dụng Điều ước quốc tế có liên quan nếu Điều ước đó đã có hiệu lực tại Việt Nam.


1.2 Sơ lƣợc về lịch sử giải quyết tranh chấp hàng hải
1.2.1 Vài nét về lịch sử giải quyết tranh chấp hàng hải trên thế giới:
Cùng với sự hình thành và phát triển của pháp luật nội dung về hàng hải, pháp
luật về giải quyết tranh chấp hàng hải trên thế giới cũng theo đó mà hình thành và
phát triển đến ngày nay, đáp ứng phần lớn nhu cầu cần được điều chỉnh bằng pháp
luật của các quan hệ hàng hải đã và đang diễn ra sôi động nhưng phức tạp. Điều đó
cũng cho thấy sự tồn tại của pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải là sự cần thiết
tất yếu.
Pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải trên thế giới bắt nguồn từ hình thức sơ
khai đầu tiên là các tập quán hàng hải ra đời từ những năm 2000 đến 160 trước
Công nguyên. Sau đó các tập quán hàng hải được phát triển thành luật thành văn
với đạo luật đầu tiên là Bộ luật Hammurabi của người Babilon. Những năm 900
trước Công nguyên, Luật dân sự Rhodian ra đời và được những người dân của đảo
Rhodes áp dụng. Trong thời kỳ này, các quy định về giải quyết tranh chấp hàng hải


17
còn khá đơn giản do tính chất sơ khai, ít phức tạp của các quan hệ hàng hải lúc đó.
Tuy vậy, cũng đã có sự phân biệt giữa các quy định tố tụng hàng hải với các quy
định tố tụng dân sự. Năm 1966, toà án Tối cao Mỹ đã thông qua sửa đổi Quy tắc
Tố tụng Dân sự nhằm thống nhất giữa quy định tố tụng hàng hải và quy định tố
tụng dân sự, lúc này các tranh chấp hàng hải và tranh chấp dân sự được áp dụng bởi
Quy tắc Tố tụng Dân sự trên.
Sự ra đời của Bộ Luật Hammurabi của người Babilon và Luật biển Rhodian đã

dẫn đến sự ra đời một bộ luật hàng hải và kèm theo đó là toà án Hàng hải đã được
hình thành. Từ năm 1000 sau Công nguyên, hàng hải thương mại đã phát triển ở
Trung Đông, Kênh đào Anh và ở Biển Bắc. Lúc đầu, ở khu vực này luật biển và
luật thương mại được áp dụng một cách độc lập ở từng cảng để xét xử các tranh
chấp mà chưa có sự áp dụng thống nhất. Sau đó người ta mới bắt đầu tiến hành
biên soạn bộ luật hàng hải. Một số luật quan trọng được xây dựng trong thời kỳ này
là Tablets of Amalfi gần Naples; Consolate de Mare của Barcelona; Luật Wisby
(một cảng ở hòn đảo ngoài khơi Thuỵ Điển); Luật Rolls của Oleron v.v… Từ khi
những luật này được giới thiệu lần đầu ở Anh cho đến năm 1360, không có một toà
án nào thực hiện xét xử các tranh chấp hàng hải. Sau năm 1360, Toà án ở các cảng
biển đã xét xử các tranh chấp ở khu vực cảng của mình và thời gian xét xử thường
phụ thuộc vào đặc điểm của từng cảng, ví dụ như do ảnh hưởng của dòng thuỷ
triều ở mỗi cảng khác nhau nên toà án thường quy định những ngày xét xử nhất
định ở bờ biển vào lúc thuỷ triều cao. Các quan chức của toà án không phải là
người xét xử chuyên nghiệp nhưng các quan chức thương mại ở các cảng thì lại là
những người chuyên nghiệp. Và thời kỳ này, Luật Oleron đã trở thành luật được
các toà án và các luật sư ở địa phương áp dụng chung. Sau một thời gian, số lượng
các vụ xét xử về cướp biển tăng, đòi hỏi phải có một cơ quan xét xử hàng hải riêng
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xét xử các vụ tranh chấp này. Kết quả là dẫn


18
đến việc thành lập một cơ quan giải quyết tranh chấp hàng hải mà bắt đầu là toà án
hàng hải
5
.
Năm 1873, Toà án Hàng hải tối cao đã được hợp nhất với các toà án khác của
Anh thành Toà án tư pháp tối cao. Toà án tư pháp tối cao có các ban thực hiện việc
xét xử các tranh chấp với mục đích giải quyết công việc hiệu quả hơn, các thẩm
phán của Toà án tối cao đều có thẩm quyền, trách nhiệm xét xử như nhau. Kết quả

của việc hợp nhất các toà án đã giải quyết được các mâu thuẫn giữa toà án lệ và toà
hàng hải vì từ đó các loại tranh chấp đều được thụ lý bởi cùng một thẩm phán trong
cùng một ban của Toà án tối cao. Giới hạn về thẩm quyền của Toà án hàng hải
trước kia chỉ được xét xử các vụ kiện phát sinh từ các nguyên nhân chỉ “liên quan
đến biển” đã bị xoá bỏ, đồng thời quy định về địa điểm và chủ thể cũng bị huỷ bỏ.
Năm 1970, một Toà án Hàng hải đã được thành lập như là một bộ phận của Toà án
tối cao của Nữ hoàng Anh. Xét xử về hàng hải hiện nay được áp dụng một phần từ
luật thành văn và một phần từ kinh nghiệm xét xử của Toà án Hàng hải tối cao.
Có thể nói trong lịch sử pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải trên thế giới.
Pháp luật giải quyết tranh chấp hàng hải của Anh có một bề dày lịch sử đáng kể, sự
tồn tại và phát triển của Luật Hàng hải Anh đã ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển
của Luật hàng hải của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, góp phần
dựng lên một bức tranh phong phú, đa dạng về lịch sử giải quyết tranh chấp hàng
hải trên thế giới.
1.2.2 Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển của pháp luật giải quyết
tranh chấp hàng hải Việt Nam
Do sự chi phối bởi các điều kiện kinh tế- xã hội, hoàn cảnh lịch sử nên pháp
luật giải quyết tranh chấp hàng hải Việt Nam ra đời muộn hơn so với pháp luật nội
dung hàng hải. Thời kỳ trước năm 1945, mặc dù pháp luật hàng hải Việt Nam đã

5
Luận án tiến sĩ: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật hàng hải Việt Nam” của
Nguyễn Thị Như Mai, năm 2004 (trang 93 - 98)


19
hình thành nhưng vẫn còn dưới dạng sơ khai, đơn giản. Do vậy, pháp luật giải
quyết tranh chấp hàng hải ở nước ta cũng chưa được định hình một cách rõ ràng.
Tiếp sau đó là thời kỳ nhà nước Việt Nam chống lại sự xâm lược của thực
dân Pháp từ năm 1945 đến năm 1954, thời kỳ kháng chiến chống Đế quốc Mỹ từ

năm 1954 đến năm 1975. ở hai thời kỳ này, chúng ta vừa tiến hành kháng chiến
chống thực dân, đế quốc xâm lược vừa tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, nền kinh tế chủ yếu dựa vào sự viện trợ của các nước láng giềng, chịu ảnh
hưởng lớn của cơ chế tập trung, bao cấp. Mặc dù pháp luật hàng hải cũng đã phát
triển thêm một nấc thang mới dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật
chẳng hạn như các quy định về quản lý hành chính nhà nước liên quan đến lĩnh
vực hàng hải, các quy định về hoạt động vận tải biển mang nặng tính kế hoạch,
hành chính như: quy định việc ký kết hợp đồng vận tải theo kế hoạch được giao,
tuyến đường vận chuyển, giá cước vận tải, mức thưởng phạt…Tuy nhiên, trong
thời kỳ này pháp luật hàng hải đã phù hợp với sự phát triển của vận tải biển và nền
kinh tế tập trung bao cấp.
Mặt khác, trong giai đoạn từ năm 1964 đến năm 1968, khi mà Đế quốc Mỹ tấn
công miền Bắc, ngành hàng hải tập trung vào nhiệm vụ vừa tiếp nhận hàng hoá
viện trợ, vừa bốc xếp vận chuyển chi viện cho miền Nam, phục vụ cho kháng
chiến. Do đó, các văn bản pháp luật hàng hải chủ yếu là các văn bản về thành lập
các đơn vị vận tải phục vụ thời chiến. Cũng chính từ thực hiện việc vận chuyển
hàng hoá theo nhiệm vụ được giao theo chế độ bao cấp mà vận tải biển thời kỳ này
các tranh chấp hàng hải ít diễn ra hoặc diễn ra trong phạm vi hẹp, các tranh chấp
này chủ yếu mang yếu tố nước ngoài, tức là có sự tham gia của ít nhất một bên là
tổ chức, cá nhân là người nước ngoài. Tuy nhiên, “yếu tố nước ngoài” này phần lớn
chỉ bó hẹp trong khối các nước XHCN khi nước ta nhận sự giúp đỡ vật chất từ các
nước này để phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài của đất nước.
Xuất phát từ tính chất đặc thù riêng của ngành hàng hải, đồng thời nhằm đáp
ứng nhu cầu về giải quyết tranh chấp đối với những hợp đồng chuyên biệt, những


20
tranh chấp đặc thù trong lĩnh vực thương mại, hàng hải. Chính phủ nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam đã ban hành Nghị định số 59/CP ngày 30 tháng 4 năm 1963
thành lập trọng tài Ngoại thương và Nghị định số 153/CP ngày 15 tháng 10 năm

1964 quyết định thành lập Trọng tài Hàng hải. Trọng tài ngoại thương và Trọng tài
Hàng hải là Tổ chức phi Chính phủ được thành lập bên cạnh Phòng thương mại và
Công nghiệp Việt Nam. Các tổ chức trọng tài này có thẩm quyền xét xử các tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương, thuê tàu, vận chuyển hàng hoá
quốc tế, đại lý tàu biển, cứu hộ tàu biển, đâm va giữa các tàu biển với nhau, giữa
tàu biển và tàu sông có quốc tịch khác nhau, bảo hiểm hàng hoá , khi có một bên
hay các bên tham gia là người nước ngoài hoặc các tổ chức kinh doanh nước ngoài.
Tuy nhiên, do sự chi phối của hoàn cảnh hiện tại nên những tranh chấp hàng hải có
yếu tố nước ngoài này ít xẩy ra. Khi xảy ra tranh chấp, các tổ chức kinh tế của Việt
Nam và các đối tác nước ngoài thường giải quyết bằng thương lượng như giao
thêm hàng, giảm giá hàng v.v…Có đưa ra trọng tài thì vụ tranh chấp cũng thường
được giải quyết bằng thương lượng hoà giải dưới sự giúp đỡ của Uỷ ban Trọng tài.
Đối với các tranh chấp hàng hải trong nước, trong thời kỳ này không có một
văn bản pháp luật nào quy định riêng về tố tụng hàng hải. Các tranh chấp hàng hải
trong nước được coi như là các tranh chấp kinh tế nói chung, các quy định của hợp
đồng hàng hải thuộc phạm vi điều chỉnh của hợp đồng kinh tế, không có sự tách
bạch riêng giữa tố tụng hàng hải với tố tụng kinh tế và tố tụng dân sự. Do vậy, việc
giải quyết tranh chấp hàng hải được giải quyết bởi một tổ chức duy nhất là Hội
đồng Trọng tài kinh tế. Tổ chức này cũng đảm nhận chức năng xét xử các tranh
chấp kinh tế khác.
Nhằm mục đích tăng cường pháp chế và nâng cao vai trò quản lý nhà nước
trong lĩnh vực ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo tinh thần Nghị quyết số 20
và 22 của Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 10/03/1975, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 75/CP (ngày 14/4/1975) kèm theo Điều lệ về Tổ chức và hoạt
động của Hội đồng trọng tài kinh tế. Theo Nghị định này, trọng tài kinh tế được
thành lập với tư cách là một cơ quan nhà nước có chức năng quản lý công tác hợp


21
đồng kinh tế, mà trọng tâm là giữ vững kỷ luật nhà nước trong việc ký kết và thực

hiện hợp đồng, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm phát sinh.
Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Chủ trương này đã được cụ thể
hoá thành các chính sách, các văn bản pháp luật thể hiện sự mở cửa, mong muốn
được hợp tác với các nước trên thế giới trên mọi lĩnh vực của Việt Nam, phục vụ
cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Xuất phát từ đây, các quan hệ thương
mại, kinh tế, các quan hệ với các đối tác nước ngoài ngày càng phát triển, đa dạng.
Vì thế các tranh chấp thưong mại, tranh chấp hàng hải trong thời kỳ này xuất hiện
ngày càng nhiều chứa nhiều sự phức tạp hơn, đã phản ánh phần nào sự chuyển đổi
của nền kinh tế đất nước trong thời kỳ mới.
Để đảm bảo sự vận hành của cơ chế kinh tế mới, đảm bảo quyền tự do kinh
doanh của các chủ thể, một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra phải đổi mới
quy định của pháp luật về chế độ hợp đồng kinh tế và đi liền với nó là cơ chế giải
quyết tranh chấp phát sinh. Vì vậy, ngày 25/09/1989, Hội đồng nhà nước ban hành
Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế và sau đó, ngày 10/01/1989 ban hành Pháp lệnh về
trọng tài kinh tế. Pháp lệnh về trọng tài kinh tế có những đổi mới căn bản về tổ
chức, phân cấp thẩm quyền và thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế. Tuy nhiên,
về tổ chức trọng tài kinh tế vẫn là cơ quan nằm trong hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước, được tổ chức ở 3 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện. Về chức năng, chủ yếu là
quản lý công tác hợp đồng kinh tế.
Cùng với việc đổi mới nội dung quy định về trọng tài kinh tế nhà nước, sự ra
đời của Bộ Luật Hàng hải Việt Nam năm 1990 đã đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng trong hoạt động lập pháp của nước ta nói chung và trong lịch sử phát triển
của ngành hàng hải Việt Nam nói riêng. Đây là một đạo luật chuyên ngành đầu tiên
của Việt Nam, chứa các quy phạm rất tiến bộ, phù hợp với pháp luật và tập quán
quốc tế. Ngoài việc điều chỉnh nội dung các quan hệ hàng hải, Bộ luật cũng đã
chứa một số quy định về tố tụng hàng hải như nguyên tắc áp dụng luật nước ngoài,


22

hoặc tập quán hàng hải nước ngoài hoặc chọn trọng tài, tòa án ở nước ngoài, trong
các quan hệ hợp đồng nếu một bên tham gia là tổ chức, cá nhân nước ngoài…Việc
cho phép áp dụng nguyên tắc này để thể hiện sự tiến bộ “vượt bậc” của Bộ luật so
với các bộ luật khác cùng ban hành lúc bấy giờ. Các quy phạm tố tụng khác cũng
được quy định như: quy định về thời hiệu khởi kiện của các hợp đồng hàng hải,
quy định về nguyên tắc bắt giữ tàu biển và thẩm quyền của toà án trong việc bắt
giữ tàu biển. Việc ban hành một số quy định tố tụng hàng hải trên tuy chưa thật đầy
đủ nhưng đã tạo cơ sở pháp lý khá vững chắc cho các tổ chức trọng tài, toà án có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hàng hải. Cho đến nay, các quy định trên vẫn
còn hiệu lực.
Sau khi Bộ Luật Hàng hải Việt Nam được ban hành nhằm đảm bảo sự thống
nhất về mặt pháp luật đồng thời cũng qua tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về tổ
chức và hoạt động của hai tổ chức trọng tài phi chính phủ, ngày 28/4/1993, Thủ
tướng Chính phủ ban hành quyết định số 204/TTg về thành lập Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam, đặt bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên
cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài Ngoại thương và Hội đồng trọng tài Hàng hải.
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam lúc đầu chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế như: Hợp đồng đầu tư, tín dụng, du
lịch, ngân hàng, chuyển giao công nghệ, bảo hiểm, vận chuyển hàng hoá… Ngày
16/02/1996, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 114/TTg về việc mở
rộng thẩm quyền của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Theo quyết định này,
Trung tâm có thêm chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh
doanh trong nước.
Trước những đòi hỏi khách quan về đa dạng hoá các hình thức và phương thức
giải quyết tranh chấp trong kinh doanh phù hợp với đặc điểm của cơ chế thị trường,
cũng như nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập với quốc tế và khu vực,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/CP ngày 05/09/1994 về tổ chức và hoạt
động của Trọng tài kinh tế tồn tại dưới dạng các Trung tâm trọng tài kinh tế.



23
Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay sự tồn tại song song của tổ chức trọng
tài trên với những thẩm quyền riêng biệt đã không còn phù hợp với xu thế hội nhập
hiện nay, hơn nữa việc tồn tại hai hình thức trọng tài là Trung tâm trọng tài quốc tế
và các Trung tâm trọng tài kinh tế theo Nghị định số 116/CP với các quy tắc tố
tụng riêng, đã tạo ra sự khác biệt giữa hai loại hình trọng tài trên đồng thời cũng tạo
nên sự bất bình đẳng giữa các chủ thể trong việc lựa chọn các phương thức trọng
tài để giải quyết tranh chấp. Để khắc phục hạn chế trên, ngày 25/03/2003, Uỷ ban
thương vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài Thương mại (có hiệu lực từ
ngày 01/07/2003) nhằm thống nhất hai bản quy tắc của hai trung tâm trọng tài trên,
tạo ra một thẩm quyền xét xử chung cho các tổ chức trọng tài kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế mới, sự tồn tại của Trọng tài kinh tế với tư cách là một
cơ quan có chức năng quản lý nhà nước – con đẻ của cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, không còn phù hợp
6
. Sự phát triển đa dạng của các loại hình kinh tế trong
đó có lĩnh vực hàng hải cùng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế có hình
thức sở hữu khác nhau dẫn đến sự thay đổi cả về hình thức, tính chất hợp tác và đi
liền nó là nội dung tranh chấp. Phương pháp giải quyết tranh chấp trong kinh tế do
vậy đòi hỏi cũng phải được đổi mới. Vì lý do đó, ngày 28/12/1993, tại kỳ họp thứ
tư, Quốc hội khóa IX đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ
chức Toà án nhân dân. Theo đó, Tòa án kinh tế với tư cách là một Toà chuyên
trách trong hệ thống Toà án nhân dân được hình thành, có chức năng xét xử các
tranh chấp kinh tế. Đồng thời, hệ thống Trọng tài kinh tế nhà nước được giải thể.
Tiếp theo đó, ngày 16/3/1994, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh thủ
tục giải quyết kinh tế. Như vậy, ở thời kỳ này, chúng ta cũng không có hệ thống toà
án Hàng hải riêng như ở một số nước trên thế giới, do vậy các tranh chấp kinh tế
hàng hải do toà án kinh tế giải quyết và tố tụng của các tranh chấp này được điều
chỉnh bởi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế. Bên cạnh đó, một số
tranh chấp hàng hải có tính chất dân sự được giải quyết bởi Toà Dân sự nằm trong


6
Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà nội. Nhà XB Đại học Quốc gia Hà nội, năm
2001, trang 303.


24
cơ cấu của Toà án nhân dân, là cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự. Trình tự, thủ tục giải quyết các tranh
chấp loại này được điều chỉnh bởi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
năm 1989.
Gần đây, nhằm thống nhất các quy định trong việc giải quyết mọi tranh chấp
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, thương mại và lao động đồng thời khắc phục
những nhược điểm, hạn chế của các văn bản pháp luật tố tụng kinh tế, dân sự và lao
động… Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành Bộ luật tố tụng
Dân sự ngày 15/06/2004 tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động xét xử các
tranh chấp hiện nay của Toà án.
Như vậy, bên cạnh cơ quan tài phán nhà nước ta là Toà kinh tế, Toà Dân sự,
ở nước ta hiện đang tồn tại hai song song hai tổ chức tài phán phi Chính phủ là
Trung tâm trọng tài quốc tế đặt tại Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam và
các Trung tâm trọng tài kinh tế. Về cơ bản sự tồn tại của các phương thức giải
quyết tranh chấp kinh tế hàng hải trên là phù hợp với thực tiễn khách quan, đáp ứng
phần nào nhu cầu giải quyết tranh chấp của các chủ thể khi phát sinh các tranh
chấp hàng hải
1.3 Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật giải quyết tranh chấp
hàng hải
Nguyên tắc cơ bản của pháp luật nói chung là những quy định mang tính khái
quát, những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt hệ thống pháp luật đó, các nội
dung tiếp sau chỉ là sự cụ thể hoá các quan điểm chỉ đạo này. Cũng như các hoạt
động giải quyết tranh chấp khác, trong quá trình giải quyết tranh chấp hàng hải,

Toà án, trọng tài phải tuân thủ các nguyên tắc chung về tố tụng được quy định
trong Hiến pháp, Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2004, Luật Tổ chức Toà án nhân dân
năm 2002 sửa đổi, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại. Cụ thể đó là các nguyên tắc:
nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa; Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử công khai, xét xử tập thể

×