Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài bằng Tòa án - những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 162 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
- - -    - - -





LÊ QUANG MINH




PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI BẰNG TÕA ÁN - NHỮNG BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Hà Nội – 2012




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
- - -    - - -




LÊ QUANG MINH



PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƢỚC NGOÀI
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI BẰNG TÕA ÁN - NHỮNG BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số : 60 38 60



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







Hà Nội – 2012






MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
MỤC LỤC
CHƢƠNG 1-TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ
CÓ YTNN BẰNG TÕA ÁN ……… …… …………… …………………. 06
1.1. Khái quát về tranh chấp dân sự có YTNN …….…………………. 06
1.1.1. Khái niệm .……………………………………………….………06
1.1.2. Đặc điểm………… ……………………………………….…….14
1.1.3. Vai trò của việc giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN bằng Tòa án… 19
1.2. Cở sở pháp lý của việc giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN bằng
Tòa án ……………………………………………………………….……… 21
1.2.1. Điều ƣớc quốc tế …………………………………………………21
1.2.2. Tập quán quốc tế …………………………………….………… 26
1.2.3. Pháp luật quốc gia ………………………………………… … 28
1.3. Các nguyên tắc cơ bả của tố tụng dân sự quốc tế………………… 32
1.3.1. Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, an ninh quốc gia………… … 32
1.3.2. Tôn trọng quyền miễn trừ tƣ pháp của Nhà nƣớc nƣớc ngoài và
những ngƣời đƣợc hƣởng quyền miễn trừ tƣ pháp……………………………34
1.3.3. Bảo đảm quyền bình đẳng của các bên tham gia tố tụng… ….36
1.3.4. Nguyên tắc có đi có lại cùng có lợi………………………………38

1.3.5. Nguyên tắc Luật Tòa án (lex fori)……………………………… 39
KẾT LUẬN CHƢƠNG: ……………….……………… …… …….40

CHƢƠNG 2 – PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ NƢỚC VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI……….… 42
2.1. Giải quyết tranh chấp dân sự theo pháp luật quốc tế…….…………42
2.1.1. Công ƣớc La Hay về thỏa thuận lựa chọn tòa án 2005….…….…42


2.1.1.1. Khái quát chung về Công ƣớc La Hay 2005 về lựa chọn tòa án 42
2.1.1.2. Nội dung của Công ƣớc La Hay 2005 về lựa chọn tòa án …… 42
2.1.1.3. Những tác động khi tham gia Công ƣớc………….………… 45
2.1.2. Công ƣớc Rome về luật áp dụng với các nghĩa vụ hợp đồng năm
1980 và Quy tắc Rome I ngày 17/6/2008………………………………… … 46
2.1.2.1. Tổng quan về Công ƣớc Rome về luật áp dụng với các nghĩa vụ
hợp đồng năm 1980 và Quy tắc Rome ngày 17/6/2008………………… … 46
2.1.2.2. Nội dung của Công ƣớc Rome 1980 và Quy tắc Rome I……….47
2.1 3. Công ƣớc La Hay 1965 về tống đạt ra nƣớc ngoài giấy tờ tƣ pháp
và ngoài tƣ pháp trong lĩnh vực dân sự và thƣơng mại………………… ……52
2.1.3.1. Tổng quan về Công ƣớc La Hay 1965 về tống đạt ra nƣớc ngoài
giấy tờ tƣ pháp và ngoài tƣ pháp trong lĩnh vực dân sự và thƣơng mại……….52
2.1.3.2. Nội dung Công ƣớc La Hay 1965 về tống đạt ra nƣớc ngoài giấy
tờ tƣ pháp và ngoài tƣ pháp trong lĩnh vực dân sự và thƣơng mại…………….53
2.1.3.3. Những tác động khi tham gia hay không tham gia công ƣớc
LaHay 1965 về tống đạt ra nƣớc ngoài giấy tờ tƣ pháp và ngoài tƣ pháp trong
lĩnh vực dân sự và thƣơng mại………………………………………….….… 58
2.1.4. Công ƣớc La Hay ngày 18/3/1970 về thu thập chứng cứ ở nƣớc
ngoài trong lĩnh vực dân sự hoặc thƣơng mại……………………… ………60
2.1.4.1. Tổng quan về Công ƣớc La Hay 1970 về thu thập chứng cứ ở
nƣớc ngoài trong lĩnh vực dân sự và thƣơng mại……………………… … 60

2.1.4.2. Nội dung Công ƣớc…………………………………… …… 60
2.1.4.3. Những tác động khi tham gia công ƣớc…….…………… ….65
2.2. Giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN bằng Tòa án theo pháp luật
một số nƣớc……………………………………………………………… ….66
2.2.1. Pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN của CH Pháp… 66
2.2.1.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN của Pháp 66
2.2.1.2. Áp dụng pháp luật nƣớc ngoài của Toà án Cộng hoà Pháp…….72
2.2.1.3. Tƣơng trợ tƣ pháp ở Cộng hoà Pháp……………………….… 74


2.2.2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN ở Hoa Kỳ….76
2.2.2.1. Hệ thống Toà án liên bang Hoa Kỳ…………………………….77
2.2.2.2. Hệ thống Toà án tiểu bang…………………………… ………80
2.2.2.3. Vấn đề xung đột thẩm quyền và áp dụng pháp luật…… ….….82
2.2.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nƣớc ngoài của
Cộng hoà Liên bang Nga………………………………………… ………….84
2.2.3.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN của Toà án
Liên bang Nga……………………………………………………… …….… 85
2.2.3.2. Áp dụng pháp luật nƣớc ngoài và TTTP của Liên bang Nga… 89
2.3. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam………… ………….…90
2.3.1. Khi đàm phán ký kết, gia nhập các Điều ƣớc quốc tế song phƣơng
và đa phƣơng về tố tụng dân sự quốc tế……………………….…………… 90
2.3.2. Khi ban hành hay sửa đổi các văn bản pháp luật quốc gia……….91
2.3.3. Cơ chế triển khai trên thực tiễn……………………….………… 93

CHƢƠNG 3 – GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƢỚC
NGOÀI TẠI TÕA ÁN VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP….……………… 94
3.1. Pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN tại Toà án ….94
3.1.1.Thẩm quyền xét xử tranh chấp dân sự có YTNN của Toà án Việt Nam 94
3.1.1.1. Ở Cấp độ quốc tế………………… ……………………….… 95

3.1.1.2. Ở Cấp độ quốc gia…….… ……………………………….… 98
3.1.2. Áp dụng pháp luật nƣớc ngoài và thực trạng áp dụng pháp luật nƣớc
ngoài trong giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN tại Tòa án Việt Nam….107
3.1.3. TTTP trong giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN ở Việt Nam.110
3.1.3.1. Nguyên tắc UTTP trong tố tụng dân sự Việt Nam………… 110
3.1.3.2. Thực hiện UTTP trong tố tụng dân sự Việt Nam…………… 111
3.1.4.3. Thực trạng UTTP và thực hiện UTTP của Tòa án Việt Nam…114
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự có
YTNN bằng Tòa án của Việt Nam……………………………………….….116
3.2.1. Yêu cầu……………………………………………………….…116


3.2.2. Định hƣớng………………………………………………… ….117
3.2.3. Các giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật về giải quyết tranh
chấp dân sự có YTNN bằng Toà án của Việt Nam……………………….… 118
3.2.3.1. Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền của Toà án…….……118
3.2.3.2. Hoàn thiện các quy định về giải quyết xung đột pháp luật và áp
dụng pháp luật nƣớc ngoài………… …………………………………….…121
3.2.3.3. Xúc tiến việc ký kết và gia nhập các Điều ƣớc quốc tế về giải
quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nƣớc ngoài…….…………………… … 123
3.2.3.4. Sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật có liên quan… …124
3.2.3.5. Xây dựng dự thảo Luật tƣ pháp quốc tế………………………125
3.2.3.6. Tăng cƣờng hiệu quả của cơ chế thực thi pháp luật………… 126

KẾT LUẬN CHUNG: …………………………………………….… 127
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………….……130
Phần Phụ lục……………… ………………………………………….133






DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
BLDS : Bộ luật dân sự
YTNN : Yếu tố nƣớc ngoài
TTTP : Tƣợng trợ tƣ pháp
UTTP : Ủy thác tƣ pháp


DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy tòa án ngạch tƣ pháp của Cộng Hòa
Pháp
Sơ đồ 2.2: Sơ đồ tổ chức hệ thống tòa án Liên Bang Hoa Kỳ
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ tổ chức hệ thống tòa án Việt Nam


MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay việc công dân các nƣớc định cƣ, sinh sống, học tập và lao động ở
nƣớc ngoài hay có quan hệ dân sự, thƣơng mại với bên nƣớc ngoài là rất phổ biến. Sự
giao thoa giữa các luồng giao dịch dân sự có yếu tố nƣớc ngoài này ngày càng đa
dạng, dẫn đến các tranh chấp phát sinh cũng gia tăng theo tỷ lệ tƣơng ứng.
Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, pháp nhân, tổ chức
mình khi tham gia vào các quan hệ tố tụng có yếu tố nƣớc ngoài, đồng thời đảm bảo sự
bình đẳng, công khai, minh bạch cho ngƣời nƣớc ngoài khi tham gia tố tụng tại các cơ
quan tài phán của nƣớc mình, các quốc gia phải ban hành các đạo luật về tố tụng dân

sự trong đó có các quy phạm xác định địa vị tham gia tố tụng của các bên tranh chấp,
cách thức tiếp cận Tòa án cũng nhƣ trình tự thủ tục giải quyết vụ án, đặc biệt là giải
quyết sự xung đột về thẩm quyền hay xung đột pháp luật áp dụng là hai vấn đề thƣờng
xuyên đặt ra khi giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN. Bên cạnh đó, ký kết, gia nhập
các Điều ƣớc quốc tế nhằm cầu tƣơng thích giữa pháp luật quốc gia với các cam kết
mà quốc gia đã và sẽ tham gia cũng luôn đƣợc đặt ra một cách cấp thiết.
Đối với Việt Nam, qua nhiều năm thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã bọc
lộ những bật cập, tình trạng đó dẫn đến hạn chế các quá trình giao lƣu dân sự hay trực
tiếp là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng. Yêu cầu về sự
công bằng, khách quan, minh bạch trong tố tụng chƣa đƣợc đảm bảo đúng thực chất,
gây nên tâm lý e ngại khi giải quyết tranh chấp tại Tòa án Việt Nam. Quy định về thẩm
quyền xét xử vừa bó chặt lại vừa có nhiều lỗ hổng, chồng chéo, thẩm quyền theo sự
thỏa thuận của các bên chƣa đƣợc ghi nhận một cách rõ ràng nên thƣờng xuyên diễn ra
việc thay đổi thẩm quyền ngoài sự trù liệu của các bên tranh chấp, điều này đã phần
nào làm mất hiệu lực của điều khoản tranh chấp đã đƣợc thỏa thuận trong hợp đồng.
Thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam đƣợc quy định không trù liệu hết thực
tiễn và chƣa phù hợp với mục đích bảo vệ bảo lợi ích quốc gia, trật tự công cộng và
các lợi ích chính đáng của công dân và pháp nhân của Việt Nam. Thực tế pháp luật
nƣớc ngoài trong nhiều trƣờng hợp mặc dù đã đƣợc dẫn chiếu áp dụng nhƣng chƣa bao
giờ đƣợc áp dụng để giải quyết tranh chấp tại Tòa án Việt Nam. Tình trạng tồn động
án dân sự có yếu tố nƣớc ngoài do việc ủy thác tƣ pháp không thể thực hiện đƣợc tại
nhiều nƣớc hoặc do việc công nhận các giấy tờ tƣ pháp và ngoài tƣ pháp của các nƣớc


tại Việt Nam. Vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nƣớc
ngoài theo nguyên tắc "Có đi có lại" trên thực tiễn còn vƣớng mắc do pháp luật chƣa
định ra đƣợc thẩm quyền, trình tự cũng nhƣ thủ tục cho việc áp dụng, dẫn đến tình
trạng không thể thi hành tại Việt Nam rất nhiều bản án, quyết định có yêu cầu của bên
đƣợc thi hành án. Đặc biệt, cơ chế thực thi các quy định chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu
thực tiễn.

Việc Quốc hội Việt Nam ban hành BLTTDS sửa đổi bổ sung 2011 có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2012 cũng đã thể hiện đƣợc phần nào nhu cầu do Chƣơng trình
cải cách tƣ pháp nói chung mà Bộ Chính trị đã đặt ra. Tuy nhiên, khi nhìn lại các quy
định của Bộ luật về phần giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nƣớc ngoài đã cho
thấy phần này không hề có sự sửa đổi hay bổ sung gì. Do vậy nhu cầu nghiên cứu để
tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự có
YTNN cũng nhƣ ý nghĩa thực tiễn của Đề tài vẫn đƣợc đặt ra.
Với những hạn chế trên đã đặt pháp luật về tố tụng dân sự Việt Nam trƣớc yêu
cầu phải sửa đổi bổ sung nhằm đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tiễn hội nhập. Chiến lƣợc
cải cách tƣ pháp đã đƣợc Bộ chính trị thông qua và đang từng bƣớc đƣợc triển khai,
nhƣng vấn đề là đối với từng chế định pháp luật riêng biệt đều cần có những nghiên cứu
đánh giá chuyên sâu. Cụ thể pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN thì
chúng ta sửa đổi nhƣ thế nào, bổ sung những điểm gì, theo hƣớng nào để vừa đảm bảo
tính khả thi vừa đảm bảo tƣơng thích với pháp luật của nhiều nƣớc, tránh tình trạng sửa
đổi, bổ sung nhiều lần nhƣng vẫn không phát huy đƣợc hiệu quả trên thực tiễn. Chúng ta
cần chắt lọc những quy định, những mô hình hay cách thức triển khai từ những nƣớc
nào để vừa phù hợp với điều kiện của Việt Nam nhƣng vẫn đảm bảo tính pháp chế
XHCN? Đây là những câu hỏi đặt ra đòi hỏi sự nghiên cứu, phân tích kỹ lƣỡng trên cơ
sở đối chiếu với thực tiễn của các nƣớc tiên tiến và thực tế tại Việt Nam.
Xuất phát từ yêu cầu bức thiết nêu trên mà tác giả đã chọn đề tài "Pháp luật
quốc tế và pháp luật nước ngoài về giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước
ngoài - những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam" để làm đề tài luận văn tốt nghiệp.

2- Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mục đích: Nghiên cứu, phân tích làm rõ nét đặc thù trong giải quyết tranh
chấp dân sự có yếu tố nƣớc ngoài bằng Tòa án, yêu cầu khách quan của việc tiếp nhận


các vụ án tranh chấp dân sự quốc tế trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay. Đem lại
một cái nhìn tổng quan về pháp luật giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nƣớc ngoài

bằng Tòa án. Qua nghiên cứu một số Điều ƣớc quốc tế về tố tụng dân sự và pháp luật
tố tụng dân sự của một số nƣớc để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc
ký kết gia nhập các Điều ƣớc quốc tế và hoàn thiện các quy phạm pháp luật của Việt
Nam về giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN cũng nhƣ cơ chế áp dụng pháp luật
trên thực tiễn. Phân tích và tổng kết những mặt đã làm đƣợc, chỉ rõ những bất cập hạn
chế trong việc giải quyết tranh chấp dân sự quốc tế bằng Tòa án theo quy định của
pháp luật Việt Nam, để đề xuất phƣơng hƣớng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu giải quyết
tranh chấp dân sự có YTNN trong thời kỳ hội nhập.
- Nhiệm vụ của đề tài: Qua khảo cứu các Điều ƣớc quốc tế về giải quyết tranh
chấp dân sự và pháp luật của một số nƣớc, đề tài phải làm đƣợc những nhiệm vụ sau:
+ Đánh giá bƣớc đầu đƣợc những tác động khi tham gia các Điều ƣớc quốc tế
liên quan đến thực tiễn của các nƣớc;
+ Định dạng đƣợc các mô hình giải quyết tranh chấp dân sự từ các nƣớc thuộc
các hệ thống pháp luật khác nhau;
+ Rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình cải cách tƣ pháp
theo chiến lƣợc mà Bộ chính trị đã đƣa ra;
+ Lƣợng hóa đƣợc các văn bản pháp luật cần sửa đổi bổ sung để hoàn thiện cơ
chế giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nƣớc ngoài tại Tòa án Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu trong phạm vi pháp luật
về giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nƣớc ngoài theo thủ tục tố tụng tại Tòa án.
Tranh chấp dân sự đƣợc hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: Tranh chấp về dân sự; Tranh
chấp về Hôn nhân gia đình; Tranh chấp về Lao động; Tranh chấp về Thƣơng mại.
Đề tài không bao gồm nghiên cứu thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án và
việc công nhận, cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nƣớc ngoài theo quy định
tại Bộ luật tố tụng Dân sự Việt nam. Hay giải quyết tranh chấp thƣơng mại theo thủ
tục Trọng tài tại Việt Nam. Hơn nữa, với những giới hạn về thời lƣợng nghiên cứu
cũng nhƣ số lƣợng trang trong Đề tài luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ mới khái quát tổng
quan về pháp luật giải quyết tranh chấp dân sự có YTNN cũng nhƣ đánh giá thực tiễn
thi hành qua một số Điều ƣớc quốc tế về tố tụng dân sự quan trọng, liên quan trực tiếp
và pháp luật một số nƣớc đặc trƣng đại diện cho các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế



giới để rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Với pháp luật Việt Nam, đề
tài cũng chỉ mới bƣớc đầu nghiên cứu các quy phạm của luật thực định và thực tiễn
thực thi để xác định những bất cập trên cơ sở đối chiếu với pháp luật các nƣớc và xu
hƣớng quốc tế qua các Điều ƣớc quốc tế, chứ chƣa có điều kiện đi sâu vào từng loại án
cụ thể cũng nhƣ đánh giá chi tiết thực tiễn vận dụng quy định về thẩm quyền của Tòa
án Việt Nam cũng nhƣ việc áp dụng pháp luật.

3- Cơ sở phƣơng pháp luận
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở các phƣơng pháp chung của khoa học xã
hội, nhất là phƣơng pháp phân tích, tổng hợp và phƣơng pháp thống kê đồng thời kế
thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu khác của các tác giả trong và ngoài nƣớc
để làm rõ các nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.

4- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận văn sẽ đề xuất những giải pháp mang tính tổng thể, góp một phần nhỏ vào
tiến trình cải cách pháp luật Tố tụng dân sự của Việt Nam đặc biệt là BLTTDS sửa đổi
2011 của Việt Nam và cơ chế triển khai hoạt động giải quyết tranh chấp dân sự có yếu
tố nƣớc ngoài tại Tòa án Việt nam.
Đƣa ra một số luận cứ cho việc gia nhập các Điều ƣớc quốc tế trong lĩnh vực tố
tụng dân sự, nhƣ:
- Công ƣớc La Hay ngày 18/3/1970 về thu thập chứng cứ ở nƣớc ngoài trong
lĩnh vực dân sự hoặc thƣơng mại;
- Công ƣớc La hay 2005 về thỏa thuận lựa chọn Tòa án;
- Công ƣớc La Hay 1965 về tống đạt ra nƣớc ngoài giấy tờ tƣ pháp và ngoài tƣ
pháp trong lĩnh vực dân sự và thƣơng mại;
- Công ƣớc Lahay ngày 05/10/1961 về miễn yêu cầu hợp pháp hóa các văn bản
nhà nƣớc;
Thúc đẩy việc ký kết các Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp trong lĩnh vực dân sự với

một số nƣớc có đông ngƣời Việt nam định cƣ, làm ăn, sinh sống.
Qua việc đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết
tranh chấp dân sự có YTNN cũng nhƣ thực tiễn triển khai, đề tài đề xuất những giải
pháp sửa đổi một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan, nhƣ:


- Sửa đổi một số quy định của BLTTDS sửa đổi 2011 về thẩm quyền của Tòa
án liên quan đến thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng biệt, đề xuất hƣớng bổ sung
các quy định cụ thể về thẩm quyền theo sự lựa chọn của đƣơng sự và thẩm quyền
trong các tranh chấp dân sự có YTNN có một bên yếu thế;
- Sửa đổi một số quy định của BLDS 2005 về luật áp dụng, bổ sung thêm các
quy tắc xác định luật áp dụng trong những trƣờng hợp không có sự thỏa thuận lựa
chọn;
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức Toà án nhân dân, ban hành các quy chế liên
quan đến đạo đức nghề Thẩm phán nhằm nâng cao trách nhiệm đồng thời mở rộng sự
độc lập, sáng tạo trong công tác xét xử;
- Hƣớng dẫn cụ thể một số luật nhƣ: Luật quốc tịch 2008, Luật tƣơng trợ tƣ
pháp 2008.
- Bƣớc đầu ban hành dự thảo Luật Tƣ pháp quốc tế Việt Nam nhằm thống nhất
các quy phạm tƣ pháp quốc tế hiện đang nằm rãi rác ở nhiều văn bản pháp luật Việt
Nam, đáp ứng nhu cầu hội nhập trong thời kỳ mới.

5- Kết cấu của luận văn
Luận văn đƣợc xây dựng thành 3 chƣơng, gồm:
- Chƣơng 1: Tổng quan về giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nƣớc ngoài
bằng Tòa án
- Chƣơng 2: Pháp luật quốc tế và pháp luật một số nƣớc về giải quyết tranh
chấp dân sự có yếu tố nƣớc ngoài bằng Tòa án
- Chƣơng 3: Pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nƣớc ngoài tại
Tòa án Việt Nam - thực trạng và giải pháp.

KẾT LUẬN


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI BẰNG TÕA ÁN

1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1.1. Khái niệm
*Quan hệ dân sự
Quan hệ dân sự thƣờng đƣợc hiểu là quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức đƣợc
xác lập theo nguyên tắc tự nguyện, tự do ý chí và bình đẳng về địa vị pháp lý. Đối
tƣợng của quan hệ dân sự là quan hệ tài sản hay quan hệ nhân thân, làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ dân sự tƣơng ứng. Trong đó quan hệ tài sản là quan hệ kinh tế - xã
hội cụ thể thông qua việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt một tài sản nhất định theo
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tuân thủ quy luật giá trị. Tài sản thƣờng đƣợc hiểu
bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản - là quyền trị giá đƣợc bằng tiền
và có thể chuyển giao trong giao lƣu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Quan hệ nhân
thân bao gồm các quan hệ nhân thân không mang tính tài sản và quan hệ nhân thân
mang tính tài sản, là những quan hệ phát sinh từ quyền dân sự gắn liền với mỗi cá
nhân, tổ chức, không thể chuyển giao cho ngƣời khác, trừ trƣờng hợp đƣợc pháp luật
quy định. Mặc dù quan hệ dân sự là quan hệ xã hội đƣợc xác lập trên cơ sở tự do ý chí,
tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp lý, song để tạo sự ổn
định cho các giao lƣu dân sự, bảo vệ sự bình đẳng giữa các chủ thể luôn có những quy
định mang tính nguyên tắc trong các đạo luật của từng nƣớc để định hƣớng và điều
chỉnh các quan hệ dân sự đó. Thông thƣờng quan hệ dân sự nói chung đƣợc hiểu bao
gồm: quan hệ dân sự; hôn nhân gia đình; lao động; thƣơng mại.
Hoạt động dân sự diễn ra hàng ngày hết sức phong phú và đa dạng, đồng thời
cũng dẫn đến những tranh chấp, bất đồng không kém phần phức tạp. Khái niệm "dân
sự" thƣờng đƣợc hiểu theo nghĩa rộng hay hẹp là phụ thuộc vào quy định của từng

nƣớc nhƣng gì thì đây vẫn là quan hệ hay vụ việc liên quan đến chủ thể tƣ và đƣợc
điều chỉnh bởi hệ thống luật tƣ. Tuy nhiên, trong các quan hệ có chủ thể tƣ tham gia
không phải lúc nào cũng là quan hệ hay vụ việc có tính chất dân sự. Ví dụ: việc ngƣời
nƣớc ngoài đến nƣớc sở tại thực hiện các hành vi phạm tội (trộm cắp, lừa đảo ) ngƣời
bị hại có thể là ngƣời trong nƣớc, nhƣng quan hệ ở đây là quan hệ hình sự. Ngƣợc lại,


một quan hệ có chủ thể công nhƣ Nhà nƣớc nƣớc ngoài hay tổ chức quan tế nhƣng lại
mang tính chất dân sự. Ví dụ, việc một tổ chức quốc tế thuê trụ sở làm việc tại một căn
hộ của công dân nƣớc sở tại thì quan hệ này vẫn mang tính chất dân sự.
Điều 758 BLDS 2005 và khoản 2 Điều 405 BLTTDS của Việt Nam là hai quy
phạm quan trọng của Tƣ pháp quốc tế Việt Nam quy định về quan hệ dân sự có YTNN
và vụ việc dân sự có YTNN.
*Tranh chấp
Theo Từ điển Luật học Black do West Pud Co xuất bản năm 1991 (Black's Law
Dictionary) thì tranh chấp dân sự đƣợc hiểu là những mâu thuẫn, bất đồng (tranh cãi);
Sự mâu thuẫn về các yêu cầu hay quyền; sự đòi hỏi về quyền, yêu cầu hay đòi hỏi từ
một bên đƣợc đáp lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngƣợc của bên kia.
Tranh chấp là điều không thể tránh khỏi trong quan hệ dân sự nói chung và
quan hệ dân sự có YTNN nói riêng, một phần là các bên tham gia quan hệ thƣờng là
các chủ thể có quốc tịch khác nhau, cƣ trú ở những nƣớc khác nhau dẫn đến những
khác biệt về truyền thống pháp luật và tập quán sinh hoạt. Hơn nữa những điều kiện
ngoại cảnh khác cũng có thể gây ra những khó khăn không thể lƣờng trƣớc, đôi khi là
bất khả kháng cho các bên khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình [25] (Chẳng hạn
tình hình chính trị bất ổn định, chính sách pháp luật thay đổi ).
Đặc biệt, trong các giao dịch thƣơng mại quốc tế, mối quan hệ và sự toan tính
giữa các bên là rất phức tạp, các bên đều mong muốn đem lại cho mình nhiều lợi nhuận
nhất, hƣởng những điều kiện thuận lợi nhất nhƣng lại phải gánh chịu trách nhiệm ít nhất.
Chính điều này đã làm cho tính chất các vụ tranh chấp ngày càng trở nên phức tạp hơn.
Những khó khăn, khác biệt thậm chí mâu thuẫn trong quá trình quản lý, đặc biệt là hệ

thống pháp luật của các quốc gia khác nhau cũng có thể dẫn đến tranh chấp. Bởi lẽ pháp
luật của các nƣớc khác nhau luôn có những quy định khác nhau về địa vị pháp lý của
các bên tham gia, thẩm quyền xét xử Khi một quan hệ dân sự có YTNN phát sinh thì
cũng đồng thời chỉ ra có ít nhất hai hệ thống quy phạm pháp luật của hai nƣớc có thể
cùng tham gia điều chỉnh quan hệ đó. Hiện tƣợng này trong khoa học Tƣ pháp quốc tế
đƣợc gọi là xung đột pháp luật.
Trên thực tế, nội dung các quy định pháp luật của các nƣớc không bao giờ trùng
hay giống nhau ngay cả khi các nƣớc đó cùng một hệ thống pháp luật, cùng một kiểu
hình thái kinh tế - xã hội. Nếu có giống nhau hay thậm chí trùng nhau trong nội dung


các quy định, nhƣng do cách giải thích và áp dụng các điều khoản sẽ dẫn đến sự khác
nhau. Ví dụ nhƣ BLDS của Bỉ hầu nhƣ áp dụng toàn bộ các điều khoản của BLDS
Cộng Hòa Pháp 1804 nhƣng do cách giải thích và áp dụng không giống nhau, nên việc
áp dụng ở Bỉ và Pháp càng trở nên khác nhau.
Sự phức tạp trong việc áp dụng pháp luật để điều chỉnh cũng có thể gây ra
những trở ngại cho việc thực hiện các giao dịch dân sự cũng dẫn đến tranh chấp.
Chẳng hạn nhƣ, một hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai thƣơng nhân Anh và Pháp,
đƣợc ký kết tại Đức, hàng đƣợc xếp xuống tàu của Ấn Độ tại cảng Đan Mạch chuyển
đến Việt Nam. Vậy vấn đề đặt ra là pháp luật nƣớc nào đƣợc chọn để điều chỉnh quan
hệ hợp đồng nói trên khi phát sinh tranh chấp? Để giải quyết đƣợc tranh chấp trong khi
hợp đồng giữa các bên không có thỏa thuận về điều khoản luật áp dụng, vấn đề "chọn
luật" phải đƣợc đặt ra. Tuy nhiên, chọn luật phải dựa trên những nguyên tắc nhất định
chứ không thể tùy tiện. Xung đột pháp luật chỉ xảy ra trong quan hệ dân sự có YTNN
nên để giải quyết xung đột này Tƣ pháp quốc tế của các nƣớc đã vận phƣơng pháp đặc
thù là phƣơng pháp xung đột dựa trên nền tảng các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến
một hệ thống quy phạm thực chất nhất định của một quốc gia để giải quyết tranh chấp.
Thực tế, đôi khi vẫn xảy ra trƣờng hợp Tòa án không chọn đƣợc Luật thực chất để áp
dụng bởi chƣa có quy phạm xung đột trong lĩnh vực đó. Lúc này Tòa án cần xem xét
hệ thống luật pháp của nƣớc mình để tìm ra các quy định cần thiết giải quyết vụ việc.

Điều này cho thấy rằng tính chất rất đặc thù và riêng biệt của quy phạm xung đột, nó
không đảm bảo có đƣợc một phán quyết nhất quán đối với một vụ việc nếu đƣợc Tòa
án các nƣớc khác nhau giải quyết. Nhƣ vậy, phƣơng pháp xung đột cũng bộc lộ những
hạn chế của nó khiến các bên đƣơng sự cố gắng hƣớng quan hệ của mình vào phạm vi
điều chỉnh của một hệ thống pháp luật có lợi hơn cho mình - tức lẫn tránh pháp luật.
Đặc biệt đối với các nƣớc thuộc hệ thống luật đƣợc xây dựng trên nền tảng án lệ thì
việc áp dụng phƣơng pháp này càng trở nên phức tạp hơn mà ngày bản thân các bên
đƣơng sự cũng không lƣờng trƣớc đƣợc hết.
Từ những nguyên nhân nêu trên, có thể khẳng định rằng tranh chấp dân sự có
YTNN là không thể tránh khỏi, là yếu tố mang tính khách quan của thời đại. Vì vậy,
yêu cầu đặt ra là phải có giải pháp giải quyết một cách thỏa đáng các tranh chấp đó,
nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên đƣơng sự, lợi ích quốc gia và cũng nhƣ
giữ vững đƣợc trật tự quan hệ dân sự quốc tế.


*Yếu tố nƣớc ngoài
Các nƣớc trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm "yếu tố
nƣớc ngoài" trong quan hệ dân sự. Để xác định YTNN trong một quan hệ dân sự hay
vụ việc dân sự cụ thể ngƣời ta thƣờng dựa vào một trong ba dấu hiệu, đó là, thứ nhất
khi quan hệ dân sự có ít nhất một bên là chủ thể nƣớc ngoài (Chủ thể); Thứ hai, khách
thể của quan hệ đó là tài sản hoặc quyền tài sản và quyền nhân thân đƣợc thực thi ở
nƣớc ngoài hoặc đƣợc xác lập theo luật nƣớc ngoài; Thứ ba, sự kiện pháp lý làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ dân sự đó xảy ra ở nƣớc ngoài. Việc nhận diện
YTNN trong quan hệ dân sự là hết sức cần thiết. Không ít trƣờng hợp xác định không
đúng dẫn đến việc giải quyết các vấn đề phát sinh trên thực tiễn là rất khó khăn. Do
vậy, đây chính là những dấu hiệu phân biệt đối tƣợng điều chỉnh giữa Tƣ pháp quốc tế
với Luật dân sự nói chung.
Khi nói đến yếu tố chủ thể, một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để xác
định tƣ cách chủ thể trong quan hệ dân sự là vấn đề quốc tịch. Về mặt lý luận, quốc
tịch của một cá nhân thể hiện sự lệ thuộc của cá nhân đó vào một nƣớc nhất định, là

tiền đề pháp lý bắt buộc để cá nhân đó đƣợc hƣởng các quyền và thực hiện nghĩa vụ
công dân đối với quốc gia mà họ có quốc tịch. Đồng thời, cá nhân đó phải chịu sự chi
phối, quản lý, tác động về mọi mặt của nhà nƣớc mà mình mang quốc tịch.
Công dân một nƣớc khi tham gia vào bất cứ quan hệ dân sự nào cũng đòi hỏi
phải có năng lực chủ thể, tức phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy
định của nƣớc mà họ mang quốc tịch. Năng lực chủ thể của các cá nhân trƣớc tiên
đƣợc xác định trên cơ sở các quy định của pháp luật mà ngƣời đó có quốc tịch.
Trong tƣ pháp quốc tế, khái niệm ngƣời nƣớc ngoài là khái niệm khá cơ bản và là
dấu hiệu để phân biệt với các quan hệ dân sự khác. Khái niệm ngƣời nƣớc ngoài đƣợc
tiếp nhận khá sớm trong khoa học pháp lý ở nƣớc ta. Ngay sau khi giành đƣợc độc lập
8/1945, trong tuyên ngôn về chính sách của Chính phủ liên hiệp lâm thời ngày
01/01/1946, Hồ chủ tịch đã nêu rõ "làm cho các nƣớc công nhận nền độc lập của Việt
Nam, thân thiện với kiều dân ngoại quốc, nhất là Hoa kiều " Từ đó, khái niệm "Ngƣời
nƣớc ngoài đƣợc sử dụng nhiều trong các văn bản pháp luật khác của nƣớc ta. Trong
Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 không đƣa ra định nghĩa cụ thể về ngƣời nƣớc
ngoài, nhƣng tại khoản 1 Điều 2 khi giải thích về thuật ngữ "quốc tịch nƣớc ngoài" thì
Luật có quy định: "Quốc tịch nƣớc ngoài là quốc tịch của một nƣớc khác không phải là


Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Định nghĩa trên của ta cũng phù hợp với pháp
luật của nhiều nƣớc trên thế giới. Ví dụ: Luật Quốc tịch Vƣơng Quốc Anh năm 1981
định nghĩa: "Ngoại kiều là những ngƣời không phải là công dân của khối thịnh vƣợng
chung, cũng không phải là những ngƣời đƣợc nƣớc Anh bảo hộ, cũng không phải là
công dân của nƣớc Cộng hòa AiLen". Còn theo Từ điển pháp luật Anh - Việt thì "Ngoại
kiều là ngƣời mà theo pháp luật của một nƣớc, không phải là công dân của nƣớc đó.
Ngƣời này không có năng lực dân sự, chẳng hạn nhƣ không có quyền đi bầu cử".
Ngƣời nƣớc ngoài còn bao gồm cả ngƣời không quốc tịch. Theo Luật Quốc tịch
Việt Nam năm 2008 thì: Ngƣời không quốc tịch là ngƣời không có quốc tịch Việt nam
và cũng không có quốc tịch nƣớc ngoài". Từ những khái niệm trên có thể thấy, khái
niệm ngƣời nƣớc ngoài đƣợc hiểu là ngƣời có quốc tịch nƣớc ngoài nhƣng không có

quốc tịch Việt Nam bao gồm ngƣời có quốc tịch nƣớc ngoài và ngƣời không quốc tịch.
Các khái niệm trên đây đƣợc thống nhất sử dụng khi nghiên cứu tƣ cách chủ thể của
những ngƣời tham gia quan hệ dân sự có YTNN. Nhƣ vậy, để tham gia vào quan hệ
dân sự có YTNN, ngƣời nƣớc ngoài phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự, trƣớc tiên là theo pháp luật mà ngƣời đó là công dân hoặc pháp luật của nƣớc
mà ngƣời đó cƣ trú nếu ngƣời đó không có quốc tịch.
Pháp luật Việt nam cũng nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới đều lấy dấu hiệu quốc
tịch để xác định phạm vi các quan hệ hay vụ việc dân sự thuộc phạm trù điều chỉnh
của tƣ pháp quốc tế nƣớc mình. Bên cạnh dấu hiệu chủ thể, để xác định một quan hệ
dân sự có YTNN cũng cần xem xét đến dấu hiệu khách thể của quan hệ, cụ thể gồm:
- Tài sản: khi nói đến tài sản liên quan đến quan hệ ở nƣớc ngoài ngƣời ta
thƣờng chú ý đến quy chế pháp lý của tài sản, quyền của các bên đối với tài sản cụ thể
đó. Điều này có nghĩa rằng pháp luật nƣớc ngoài cũng có thể đƣợc áp dụng để điều
chỉnh quan hệ liên quan đến tài sản. Nhƣng vấn đề cơ bản ở đây là hiểu nhƣ thế nào về
tài sản. Theo quy định tại Điều 163 BLDS Việt nam 2005 thì tài sản "bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản", và quyền tài sản theo Điều 163 BLDS 2005
"là quyền trị giá đƣợc bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lƣu dân sự, kể cả
quyền sở hữu trí tuệ". Đây cũng là khái niệm về tài sản đƣợc các nƣớc trên thế giới sử
dụng trong các văn bản pháp lý. Đồng thời, khi giải quyết các vấn đề liên quan đến tài
sản, cũng nhƣ xem xét về quy chế pháp lý của tài sản hầu hết các nƣớc đều sử dụng hệ
thuộc Luật nơi có tài sản để điều chỉnh (Lex rei sitae). Tuy nhiên, quy tắc này không


phải lúc nào cũng đƣợc áp dụng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tài
sản. Chẳng hạn, về quyền sở hữu trí tuệ, vì quyền sở hữu trí tuệ mang tính chất lãnh
thổ tuyệt đối nên quyền sở hữu phát sinh theo pháp luật nƣớc nào thì chỉ có hiệu lực
trong phạm vi lãnh thổ nƣớc đó, còn khi ở nƣớc ngoài nếu không có điều ƣớc quốc tế
ký kết giữa các nƣớc với nhau hoặc pháp luật của nƣớc sở tại không cho phép bảo hộ
thì quyền sở hữu trí tuệ sẽ không đƣợc bảo hộ.
Bên cạnh tài sản và quyền tài sản là khách thể của quan hệ dân sự có YTNN

đƣợc nêu ở trên, thì quyền nhân thân phi tài sản cũng là khách thể của quan hệ này.
Khi giải quyết xung đột pháp luật phát sinh liên quan đến quyền nhân thân, các nƣớc
đều sử dụng hệ thuộc Luật nhân thân (Lex personalis) của các đƣơng sự. Ở đây cho
phép lựa chọn một trong hai phân hệ của hệ thuộc trên đó là Luật quốc tịch của chủ thể
(lex patriae) hoặc Luật nơi cƣ trú (Lex domicili). Ngoài ra xung đột pháp luật về quyền
nhân thân còn đƣợc điều chỉnh bởi Luật nơi thực hiện hành vi (Lex loci actus).
- Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự cũng là dấu
hiệu nhận biết quan hệ dân sự có YTNN tùy thuộc vào các biện pháp tác động đối với
quan hệ dân sự đó. Có thể hiểu một cách chung nhất về sự kiện pháp lý là những sự
kiện thực tế mà sự xuất hiện thay đổi, hay mất đi của chúng đƣợc pháp luật gắn với
việc hình thành thay đổi hay chấm dứt một quan hệ pháp luật. Sự kiện thực tế chỉ xuất
hiện sự kiện pháp lý chỉ khi nào pháp luật xác định rõ điều đó.
Đối với các sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp
luật dân sự có YTNN đƣợc mỗi nƣớc quy định khác nhau, việc thừa nhận hay không
thừa nhận một sự kiện thực tế nào đó là sự kiện pháp lý đều xuất phát từ lợi ích của xã
hội, của giai cấp cầm quyền nƣớc đó. Thứ nhất, sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ
dân sự có YTNN: Chẳng hạn trong trƣờng hợp các bên kết hôn có cùng quốc tịch
nhƣng lại kết hôn với nhau trƣớc cơ quan có thẩm quyền tại nƣớc mà các bên không
mang quốc tịch. Trƣờng hợp này pháp luật đƣợc áp dụng để giải quyết vấn đề liên
quan nhƣ xác định điều kiện kết hôn, nghi thức kết hôn của các bên có thể là Luật của
2 nƣớc có hữu quan. Thứ hai, sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ dân sự có YTNN:
Trên thực tế, có nhiều trƣờng hợp các bên trong quan hệ hôn nhân gia đình không còn
coi nhau nhƣ vợ chồng nhƣng chƣa muốn ly hôn với nhau. Trƣờng hợp này, ở các
nƣớc công nhận việc ly thân, pháp luật cho phép các bên ly thân với nhau trên cơ sở
quyết định của Tòa án. Việc Tòa án tuyên bố cho phép các bên ly thân là sự kiện pháp


lý làm thay đổi quan hệ hôn nhân. Theo quyết định này, hôn nhân chƣa chấm dứt
nhƣng quan hệ vợ chồng thì thay đổi. Sự thay đổi này thể hiện trong quan hệ nhân thân
và quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Khi vợ chồng quyết định chấm dứt quan hệ hôn

nhân nói trên tại một Tòa án của một quốc gia khác mà ở đó không công nhận việc ly
thân sẽ làm nảy sinh vấn đề công nhận bản án, quyết định của Tòa án trƣớc đó đã ra
quyết định để xử lý quan hệ hôn nhân và tài sản con chung liên quan giữa vợ chồng.
Đây chỉ là một ví dụ nhỏ trong rất nhiều trƣờng hợp có thể xảy ra liên quan đến sự
kiện pháp lý xảy ra ở nƣớc ngoài làm thay đổi quan hệ dân sự. Cũng tƣơng tự nhƣ vậy
đối với sự kiện pháp lý xảy ra ở nƣớc ngoài làm chấm dứt quan hệ dân sự.
Hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự nhằm làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong quan hệ dân sự nói chung và quan hệ dân sự có
YTNN nói riêng bao gồm cả các quyết định của cơ quan có thẩm quyền và hành vi cụ
thể của các chủ thể tham gia quan hệ đó. Nhƣ vậy xác định đúng thời điểm mà sự kiện
pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự có YTNN có ý nghĩa rất
quan trọng. Nó giúp cơ quan có thẩm quyền xác định đúng luật áp dụng để giải quyết
xung đột pháp luật phát sinh giữa các nƣớc hữu quan, từ đó giải quyết chính xác những
tranh chấp liên quan giữa các bên tham gia quan hệ.
YTNN trong quan hệ dân sự theo pháp luật của các nƣớc cũng nhƣ pháp luật
Việt nam thƣờng chỉ nói tới ba yêu tố nƣớc ngoài nhƣ đã phân tích trên. Tuy nhiên,
qua thực tiễn cũng nhƣ quá trình nghiên cứu về lĩnh vực Tƣ pháp quốc tế, nhiều nhà
luật học đã cho thấy, không chỉ có ba yếu tố trên mới xác định quan hệ dân sự có
YTNN mà ngoài ra yếu tố cƣ trú của các bên đƣơng sự cũng là một dấu hiệu khá quan
trọng để xác định quan hệ này. Khi nói đến yếu tố cƣ trú của các bên đƣơng sự tham
gia quan hệ dân sự có YTNN có thể xảy ra hai trƣờng hợp: Thứ nhất, Công dân nƣớc
sở tại ra nƣớc ngoài cƣ trú, Thứ hai, công dân nƣớc ngoài vào nƣớc sở tại cƣ trú, làm
ăn, sinh sống. Nhƣng đây chỉ là quan điểm của một số học giả [9, tr.62-65], với cá
nhân tác giả đề tài cho rằng, xét cho cùng thì việc cƣ trú mà không làm phát sinh sự
kiện pháp lý thì cũng không làm phát sinh quan hệ cũng nhƣ tranh chấp có YTNN.
Hiện tại pháp luật Việt Nam đã định nghĩa quan hệ hay vụ việc có YTNN trong
một số văn bản, đây là điều khá đặc biệt so với Tƣ pháp quốc tế của một số nƣớc.
Cộng Hòa Pháp có hệ thống Tƣ pháp quốc tế khá phát triển nhƣng không có văn bản
nào định nghĩa về khái niệm "Yếu tố nƣớc ngoài". Ba nƣớc có Luật tƣ pháp quốc tế ở



Châu Âu là Thụy Sỹ, Bỉ, Ý nhƣng cả 3 bộ luật đều không có khái niệm này. Riêng
Nga là có định nghĩa này trong BLDS nhƣ ở Việt Nam. Theo Điều 758 BLDS năm
2005: "Quan hệ dân sự có YTNN là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham
gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài
hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam
nhƣng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nƣớc ngoài,
phát sinh tại nƣớc ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nƣớc ngoài". Tƣơng
tự, theo khoản 2 Điều 405 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung 2011: "Vụ việc dân sự có
YTNN là vụ việc dân sự có ít nhất một trong các đƣơng sự là ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời
Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài hoặc các quan hệ dân sự giữa các đƣơng sự là công
dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhƣng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ
đó theo pháp luật nƣớc ngoài, phát sinh tại nƣớc ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan
hệ đó ở nƣớc ngoài" Trong hai văn bản khá quan trọng của Tƣ pháp quốc tế Việt nam
có quy định về quan hệ dân sự có YTNN và vụ việc dân sự có YTNN, thông thƣờng
hai khái niệm này là giống nhau, tuy nhiên trong một số trƣờng hợp nó lại khác nhau.
Ví dụ: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý giải quyết vụ án tranh
chấp hợp đồng tặng cho nhà giữa Nguyên đơn ông Nguyễn Trọng Nam và ông Nguyễn
Hiếu Đức quốc tịch Việt nam với bị đơn ông Nguyễn Phú Trọng cũng mang quốc tịch
Việt Nam, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Phan Thị Sáu và ông Nguyễn
Nam Hùng (định cƣ ở Mỹ) với nội dung: Năm 1994, bà Sáu xuất cảnh hợp pháp định
cƣ tại Hoa Kỳ, trƣớc khi đi bà Sáu giao lại nhà cho các con do ông Nguyễn Phú Trọng
đại diện. Các anh em đã làm giấy thỏa thuận với nôi dung đồng ý để cho anh Trọng
đứng tên căn nhà, nếu căn nhà bán hoặc san nhƣợng cho ngƣời khác phải đƣợc sự
đồng ý của các anh em. Giấy thỏa thuận đã đƣợc tất cả anh em ký tên và UBND
phƣờng xác nhận. Nay phát sinh tranh chấp giữa ông Nam, ông Đức với ông Trọng
[8]. Ở đây, quan hệ dân sự là quan hệ tặng cho tài sản, không có YTNN vì quan hệ này
đƣợc thực hiên giữa những ngƣời con của bà Sáu với ông Trọng. Nhƣng trong vụ án
dân sự có đƣơng sự là ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Phan Thị Sáu với
ông Nguyễn Nam Hùng đang định cƣ ở Mỹ, do đó theo quy định của BLTTDS 2004

sửa đổi, bổ sung thì đây là vụ án dân sự có YTNN.
Nhƣ vậy, theo pháp luật Việt Nam, tranh chấp dân sự có YTNN là những tranh
chấp mà có ít nhất một trong các bên đƣơng sự là ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam


định cƣ ở nƣớc ngoài hoặc các quan hệ dân sự giữa các đƣơng sự là công dân, cơ quan,
tổ chức Việt nam nhƣng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật
nƣớc ngoài, phát sinh tại nƣớc ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ ở nƣớc ngoài.
*Tố tụng dân sự quốc tế
Về mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn, thuật ngữ Tố tụng dân sự quốc tế thƣờng
đƣợc sử dụng chỉ mang tính tƣơng đối, bởi lẽ trên thực tế một số lƣợng khá lớn các vụ
việc không thuộc nhóm vụ việc dân sự theo nghĩa rộng có YTNN cũng đƣợc giải quyết
theo thể thức tố tụng dân sự quốc tế. Chẳng hạn nhƣ, việc xác định thẩm quyền xét xử,
xác định địa vị pháp lý của ngƣời nƣớc ngoài tham gia tố tụng dân sự, vấn đề chứng cứ
tƣ pháp và thực hiện các ủy thác tố tụng quốc tế riêng biệt, vấn đề công nhận và cho
thi hành các bản án, quyết định dân sự, thƣơng mại của Tòa án nƣớc ngoài Tuy nhiên,
chỉ có các vụ việc dân sự có YTNN mà Luật quy định thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án một quốc gia mới thuộc phạm vi nghiên cứu của Tƣ pháp quốc tế về tố tụng
quốc gia đó. Phạm vi và nội dung các vấn đề trên hoàn toàn thuộc vào chủ quyền quy
định của mỗi quốc gia. Do đó, trong khoa học pháp lý, không có Luật tƣ pháp quốc tế
chung cho mọi quốc gia mà chỉ có Tƣ pháp quốc tế của từng quốc gia - tức chỉ khi có
quy phạm pháp luật tƣ pháp quốc tế của mỗi quốc gia nhất định quy định thì mới điều
chỉnh quan hệ tƣ pháp có YTNN liên quan đến quốc gia đó.

1.1.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp có YTNN bằng Toà án
Tố tụng dân sự quốc tế là một phần thuộc đối tƣợng nghiên cứu của Tƣ pháp
quốc tế, do vậy những đặc trƣng của Tƣ pháp quốc tế cũng phần nào đƣợc biểu hiện
trong đó. Mặc dù chƣa có một định nghĩa chính thức nêu rõ các đặc điểm của Tƣ pháp
quốc tế, nhƣng những dấu hiệu đặc trƣng đƣợc nhiều nƣớc thừa nhận và vận dụng để
đƣa quan hệ dân sự có YTNN vào phạm vi nghiên cứu của mình bao gồm: Chủ thể tham

gia quan hệ là ngƣời nƣớc ngoài, hoặc đang định cƣ ở nƣớc ngoài đối với quốc gia sở
tại; Sự kiện pháp lý (căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt) của quan hệ đó theo pháp
luật nƣớc ngoài hoặc phát sinh tại nƣớc ngoài; Khách thể (Chủ yếu là tài sản) liên quan
đến quan hệ đang tranh chấp đang ở nƣớc ngoài. Nói một cách tổng quát, các quan hệ
dân sự có YTNN dù ít dù nhiều đều có phạm vi liên quan vƣợt ra khỏi biên giới một
quốc gia, có liên quan tới ít nhất hai quốc gia, do vậy việc nhận biết để phân biệt nhằm
áp dụng đúng các quy phạm pháp luật điều chỉnh là một điều hết sức cần thiết.


Bên cạnh những dấu hiệu vốn có của Tƣ pháp quốc tế, tố tụng dân sự quốc tế
cũng có những nét đặc trƣng. Thông thƣờng tố tụng dân sự quốc tế là quá trình tố tụng
đƣợc thực hiện trong quan hệ với Tòa án của một quốc gia nhất định. Xuất phát từ lý
luận cơ bản của Tƣ pháp quốc tế là không có một hệ thống tƣ pháp quốc tế cho mọi
quốc gia trên thế giới mà pháp luật của từng quốc gia tự định ra hệ thống các quy
phạm pháp luật đặc thù để điều chỉnh các quan hệ dân sự có YTNN liên quan. Cho nên
khi xét xử các vụ án dân sự có YTNN, thông thƣờng Tòa án chỉ áp dụng các quy định
pháp luật tố tụng của quốc gia mình. Đặc điểm này cũng cho phép phân biệt tố tụng
dân sự có YTNN với hoạt động tố tụng của các cơ quan tài phán quốc tế trong Công
pháp quốc tế. Trong luật quốc tế, các tranh chấp quốc tế đƣợc giải quyết bởi các cơ
quan tài phán quốc tế, theo một trình tự tố tụng thực sự có tính chất quốc tế do các
quốc gia hoặc các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận chấp nhận hay cùng xây
dựng đƣợc thể hiện trong các Điều ƣớc quốc tế hoặc trong các thỏa thuận quốc tế.
Chủ thể tham gia quan hệ tố tụng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài có thể là ngƣời
nƣớc ngoài (Ngƣời không mang quốc tịch nƣớc sở tại), ngƣời trong nƣớc cƣ trú làm ăn
sinh sống ở nƣớc ngoài, có thể là tổ chức nƣớc ngoài, tổ chức quốc tế, thậm chí Nhà
nƣớc nƣớc ngoài. Trong số những chủ thể này bao gồm cả những bộ phận có thân phận
ngoại giao, do vậy khi tham gia quan hệ tố tụng dân sự quốc tế, những chủ thể này có
địa vị tố tụng khác biệt nhất định so với những chủ thể của quan hệ tố tụng thông thƣờng
do những quyền ưu đãi miễn trừ mà các nước hữu quan cam kết dành cho những công
dân của nhau trong quan hệ dân sự có liên quan trên cơ sở Điều ƣớc quốc tế hoặc

nguyên tắc có đi có lại trong quan hệ quốc tế. Lúc này quan hệ tố tụng cũng sẽ phát sinh
trong những điều kiện nhất định (nếu các chủ thể đó đồng ý, hoặc họ đứng vai trò là
nguyên đơn) nhƣng cũng sẽ mang màu sắc khác so với quan hệ tố tụng trong nƣớc.
Một đặc điểm nữa cho phép phân biệt tố tụng dân sự quốc tế với Tố tụng dân sự
thông thƣờng trong nƣớc là vấn đề xác định thẩm quyền. Trong khi xác định thẩm
quyền đối với vụ kiện dân sự trong nƣớc là việc xác định thẩm quyền của Tòa án cụ
thể của quốc gia để xét xử vụ án thì đối với vụ kiện có YTNN, việc đầu tiên, chủ yếu
và quan trọng nhất là xác định thẩm quyền của Tòa án của quốc gia nào nói chung có
thẩm quyền xét xử vụ kiện. Sau khi xác định đƣợc thẩm quyền chung thuộc về Tòa án
của một quốc gia nhất định, Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng
trong nƣớc để xác định thẩm quyền cụ thể thuộc Tòa án cấp nào, địa phƣơng nào trong


việc xét xử vụ kiện. Thực chất đây là quá trình xác định thẩm quyền tƣ pháp của một
quốc gia đối với một tranh chấp nhất định có liên quan.
Để giải quyết các tranh chấp dân sự có YTNN, với khả năng có thể xảy ra hiện
tƣợng xung đột pháp luật, các quốc gia thƣờng giải quyết xung đột bằng cách xây dựng
và sử dụng các quy phạm xung đột. Việc áp dụng các quy phạm xung đột có nghĩa là
thừa nhận pháp luật nƣớc ngoài đƣợc áp dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự có
YTNN trong những trƣờng hợp nhất định. Với đặc thù trên nên khi có YTNN tranh chấp
phát sinh sẽ dẫn đến hệ quả tất yếu là khi thụ lý giải quyết một việc quan trọng phải tiến
hành là Tòa án nƣớc đó phải xác định đƣợc phải chọn luật thực chất của nƣớc nào để áp
dụng. Ở giai đoạn chọn luật này Tòa án chƣa thể đƣa ra phán quyết đƣợc mà chỉ đƣa ra
quyết định luật thực chất nƣớc nào đƣợc áp dụng và nguyên tắc nào về quy phạm thực
chất đƣợc thực thi. Nhƣ vậy, điều này cho phép trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự
có YTNN Tòa án có thẩm quyền có thể áp dụng luật thực chất nước ngoài để xác định
quyền, nghĩa vụ của các bên có tranh chấp trong vụ việc dân sự. Đây là vấn đề có tính
chất khách quan và tất yếu trong quan hệ dân sự có YTNN. Thực tiễn cho thấy nếu Tòa
án chỉ áp dụng pháp luật nƣớc mình để điều chỉnh bất kỳ mối quan hệ dân sự có YTNN
nào, bằng cách cố tình mở rộng phạm vi hiệu lực của pháp luật nƣớc mình mà không

tính đến phải áp dụng luật nƣớc ngoài đều dẫn tời sự thủ tiêu tính khách quan, công
bằng - những nguyên tắc cơ bản của bất kỳ quy trình tố tụng nào. Hậu quả là sẽ gây khó
khăn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân nƣớc ngoài
cũng nhƣ công dân, pháp nhân nƣớc mình ở nƣớc ngoài, bởi các hệ thống pháp luật đều
có sự khác nhau.
Tuy nhiên việc chọn luật này phải dựa trên những nguyên tắc nhất định, chứ
không thể mang tính chủ quan. Điều này có ý nghĩa là việc chọn hệ thống luật nào để
áp dụng sẽ không phụ thuộc vào ý chí của Tòa án có thẩm quyền hay của các bên tham
gia quan hệ mà trên cơ sở sự cho phép của pháp luật quốc gia hoặc các Điều ƣớc quốc
tế đƣợc ký kết giữa các quốc gia. Tòa án có thẩm quyền chỉ áp dụng Luật nƣớc ngoài
khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu tới hoặc đƣợc các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
Nếu quy phạm xung đột đã dẫn chiếu đến pháp luật nƣớc ngoài hoặc các bên đƣơng sự
thỏa thuận lựa chọn pháp luật để áp dụng trong khuôn khổ pháp luật cho phép thì Cơ
quan xét xử của một nƣớc không đƣợc phép tùy tiện gạt bỏ việc áp dụng pháp luật
nƣớc ngoài trừ trƣờng hợp vì mục đích bảo lƣu trật tự công cộng theo quy định của


pháp luật nƣớc mình. Quy phạm xung đột ở đây có thể đƣợc chứa đựng trong luật
quốc nội của quốc gia có thể là trong các Điều ƣớc quốc tế mà quốc gia đó là thanh
viên. Trong trƣờng hợp hai nguồn trên đều chứa đựng quy phạm xung đột thì ƣu tiên
áp dụng quy phạm xung đột trong Điều ƣớc quốc tế. Khi quy phạm xung đột dẫn chiếu
tới luật pháp nƣớc ngoài có nghĩa là dẫn chiếu tới toàn bộ hệ thống pháp luật của nƣớc
đó bao gồm cả quy phạm thực chất (thực chất thống nhất và thực chất thông thƣờng)
và quy phạm xung đột, không đƣợc tùy tiện loại bỏ bất cứ điều luật hay nguồn luật
nào. Do áp dụng luật nƣớc ngoài là áp dụng toàn hệ thống nên nó phải đƣợc giải thích,
xác định nội dung và áp dụng một cách thiện chí và đầy đủ để giải quyết vụ việc đúng
nhƣ ở nƣớc đã ban hành nó.
Trong một số lĩnh vực quan hệ dân sự có YTNN, pháp luật các nƣớc và cả Việt
Nam không cho phép các bên đƣơng sự lựa chọn pháp luật để áp dụng. Ví dụ trong
quan hệ hôn nhân gia đình, quan hệ thừa kế … Riêng trong quan hệ hợp đồng thƣơng

mại, hợp tác khoa học – kỹ thuật, văn hóa, pháp luật các nƣớc ở những mức độ khác
nhau đều cho phép các bên đƣơng sự thỏa thuận chọn pháp luật để áp dụng chỉ khi các
bên không thỏa thuận đƣợc pháp luật áp dụng thì Tòa án mới áp dụng pháp luật nơi
thực hiện hợp đồng hoặc các quy tắc khác để xác định luật đích thực của hợp đồng.
Trong mối quan hệ với nguyên tắc có đi có lại, việc áp dụng pháp luật nƣớc
ngoài để giải quyết các tranh chấp dân sự có YTNN không bị giới hạn bởi nguyên tắc
này. Bỡi lẽ việc áp dụng luật nƣớc ngoài là nhu cầu khách quan để giải quyết các tranh
chấp dân sự quốc tế trên cơ sở phối hợp giữa hai hay nhiều hệ thống pháp luật mà tất
cả đều phải công nhận sự bình đẳng giữa các hệ thống pháp luật của nhau. Các nƣớc
đều quy định trong luật nƣớc mình việc cho phép áp dụng luật nƣớc ngoài trên cơ sở
tự nguyện, điều này đƣợc thể hiện rõ ngay khi ban hành hoặc thông qua văn bản pháp
luật đó. Có nghĩa là khi cơ quan tƣ pháp vận dụng luật nƣớc ngoài để giải quyết vụ
việc dân sự không nhất thiết phải xem xét là ở nƣớc ngoài đó đã áp dụng luật nƣớc
mình chƣa. Tòa án khi áp dụng luật nƣớc ngoài là để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
các đƣơng sự, chứ không gây thiệt hại cho các bên hay làm phƣơng hại đến chủ quyền
quốc gia. Việc cho phép áp dụng luật nƣớc ngoài là để tăng cƣờng và cũng cố sự hợp
tác về mọi mặt giữa các quốc gia với nhau trên cơ sở hiểu biết và tin tƣởng lẫn nhau
nhằm cùng thiết lập một trật tự pháp lý ổn định trên bình diện quốc tế.

×