1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN NGỌC HƯNG
GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN NGỌC HƯNG
GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƯỜI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung
HÀ NỘI - 2011
4
MỤC LỤC
Mục lục
2
Danh mục chữ viết tắt
3
Mở đầu
4
Chƣơng 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI
10
1.1.
Khái niệm giáo dục quyền con ngƣời
10
1.2.
Chủ thể, khách thể, hình thức, nội dung, phƣơng pháp giáo dục
quyền con ngƣời
32
1.3.
Vai trò của giáo dục quyền con ngƣời trong điều kiện xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay
43
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
46
2.1.
Giáo dục quyền con ngƣời của Liên Hợp Quốc và của một số nƣớc
trên thế giới
46
2.2.
Hoạt động giáo dục quyền con ngƣời ở Việt Nam hiện nay
57
2.3.
Những thành tựu, tồn tại và nguyên nhân rút ra từ thực tiễn giáo dục
quyền con ngƣời ở Việt Nam trong thời gian qua
86
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG
CƢỜNG GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI Ở NƢỚC TA HIỆN
NAY
93
3.1.
Những quan điểm chung về giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta hiện
nay
93
3.2.
Phƣơng hƣớng, giải pháp tăng cƣờng giáo dục quyền con ngƣời nƣớc ta
hiện nay
99
KẾT LUẬN
116
DANH MỤC THAM KHẢO
118
PHỤ LỤC
129
5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
- CEDAW : Công ƣớc Liên Hợp Quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ
- CRC : Công ƣớc Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em.
- ECOSOC : Hội đồng kinh tế xã hội.
- GDNQ : Giáo dục nhân quyền
- ILO : Tổ chức lao động quốc tế
- NGO : Tổ chức phi chính phủ
- RADDA BARNEN: Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển
- UNDP : Chƣơng trình phát triển Liên Hợp Quốc
- UNESCO : Tổ chức văn hóa khoa học giáo dục của Liên Hợp
Quốc
- UNICEF : Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc
- VOV : Chƣơng trình tiếng nói Việt Nam
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con ngƣời là những yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã hội dân
chủ, văn minh. Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời (nhân quyền) đã hình thành từ
rất sớm trong lịch sử nhân loại; nhƣng không phải trong bất cứ hình thái kinh
tế - xã hội nào, trong bất cứ kiểu Nhà nƣớc nào nó cũng tồn tại và đƣợc thừa
nhận một cách đầy đủ. Vì thế, quyền con ngƣời là một phạm trù lịch sử và là
kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại vƣơn tới những lý
tƣởng, giải phóng hoàn toàn con ngƣời nhằm xây dựng một xã hội thật sự
công bằng, dân chủ, nhân đạo.
Giai cấp tƣ sản khi thực hiện cách mạng tƣ sản, đã coi nhân quyền nhƣ
một vũ khí của mình để tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến và để
tập hợp lực lƣợng trong xã hội; do đó từ thế kỷ XVIII vấn đề nhân quyền đã
đƣợc giai cấp tƣ sản đề cập đến nhƣ Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ năm 1789, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị đập
tan năm 1945, vấn đề nhân quyền đã trở thành mối quan tâm của cả Nhà nƣớc
xã hội chủ nghĩa và tƣ bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời
thì vấn đề cơ bản, đầu tiên của tổ chức này là vấn đề nhân quyền. Nhân quyền
đã trở thành vấn đề quan trọng, thƣờng xuyên đƣợc đề cập đến trong quan hệ
quốc tế. Liên Hợp Quốc đã ban hành hàng loạt các văn kiện khẳng định các
quyền và tự do của tất cả mọi ngƣời, đặc biệt là Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc
1945. Vào ngày 10-12-1948 tại Lâu đài Chailót ở Pari (Pháp), 48 trong số 58
nƣớc thành viên đầu tiên của Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn thế giới
về quyền con ngƣời (the Universal Declaration of Human Rights) đánh dấu
một bƣớc tiến quan trọng trong quá trình phát triển xã hội loài ngƣời. Đây là
7
lần đầu tiên mà các quyền cơ bản và tự do kể trên của con ngƣời đã đƣợc
cộng đồng quốc tế công nhận và đƣợc đảm bảo bằng một văn kiện pháp lý
chính thức. Mặc dù không phải là một văn bản có giá trị pháp lý ràng buộc,
không có cơ chế đảm bảo và hệ thống chế tài đối với các hành vi vi phạm,
Tuyên ngôn đã đƣợc toàn thế giới chấp nhận là nền tảng pháp lý cho việc xây
dựng các công ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời làm cơ sở hình thành hệ thống
pháp luật quốc tế về quyền con ngƣời hiện nay. Qua Tuyên ngôn thế giới về
quyền con ngƣời 1948, vấn đề nhân quyền đã chuyển sang một bƣớc ngoặt
mới trong lịch sử nhân loại, trở thành một quan hệ cơ bản đƣợc điều chỉnh
bằng pháp luật quốc tế. Đến nay quyền con ngƣời đã đƣợc ghi nhận, khẳng
định trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, kể từ khi giành đƣợc độc lập (năm 1945), Đảng và Nhà
nƣớc ta luôn tôn trọng quyền con ngƣời. Tuyên ngôn độc lập của nƣớc Việt
Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trƣờng Ba
Đình, Hà Nội ngày 2/9/1945 đƣợc coi là một văn kiện có tính lịch sử trên
phƣơng diện quốc tế về quyền con ngƣời. Trên cơ sở đó, quyền con ngƣời đã
đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp nƣớc ta: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm
1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Điều 50 Hiến pháp năm
1992 của nƣớc ta khẳng định: "Ở nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con ngƣời về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội đƣợc tôn
trọng và bảo đảm thực hiện". Gần đây nhất, vấn đề nhân quyền đã đƣợc tiếp
tục khẳng định trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: "Phải bảo đảm
quyền con ngƣời, quyền công dân và các điều kiện để mọi ngƣời đƣợc phát
triển toàn diện”[35, tr. 100]. Chỉ thị 12 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng
(khoá VII) xác định: “Tăng cƣờng công tác tuyên truyền giáo dục trong nhân
8
dân ta để mọi ngƣời hiểu rõ quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nƣớc về quyền con ngƣời và quyền công dân…”.
Vấn đề nhân quyền có vai trò quan trọng nhƣ vậy, nên nhiều nƣớc trên
thế giới coi trọng việc giáo dục nhân quyền nhằm làm cho mỗi con ngƣời ý
thức biết tôn trọng quyền của ngƣời khác và tự mình biết bảo vệ quyền của
mình. Năm 1978 UNESCO cũng đã triệu tập Hội nghị quốc tế về giáo dục
nhân quyền tại Viên (Thủ đô nƣớc Áo) để phát triển hơn nữa những lý do cho
việc giáo dục nhân quyền. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị công nhận rằng:
"Giáo dục nên làm cho mỗi cá nhân thấy quyền của mình, đồng thời họ cũng
phải biết tôn trọng những quyền của ngƣời khác".
Nƣớc ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền dƣới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì việc giáo dục nhân quyền lại
càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết, nhằm làm cho Việt Nam sớm hội
nhập với thế giới và khu vực, góp phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền
toàn cầu.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên cứu
làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá những thành tựu, ƣu điểm đã đạt đƣợc và làm
rõ những khuyết điểm tồn tại của vấn đề giáo dục nhân quyền; đồng thời xác
định phƣơng hƣớng, nội dung, phƣơng pháp tiếp tục thực hiện giáo dục nhân
quyền trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề giáo dục quyền con ngƣời đã đƣợc Liên Hợp Quốc, các nhà khoa
học pháp lý nƣớc ta và thế giới quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, có thể xuất
phát từ quan điểm cho rằng giáo dục pháp luật đã bao hàm cả giáo dục quyền
con ngƣời nên các nhà luật học nƣớc ta mới chỉ tập trung nghiên cứu về giáo
9
dục pháp luật mà chƣa quan tâm nghiên cứu vấn đề giáo dục quyền con ngƣời
nhƣ là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập, riêng biệt. Vì thế thời gian qua, ở
nƣớc ta đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về giáo dục pháp luật nhƣ:
"Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa",
luận án Phó tiến sĩ của Trần Ngọc Đƣờng; "Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa
và giáo dục pháp luật cho nhân dân lao động (ở Việt Nam)", luận án Phó tiến
sĩ của Nguyễn Đình Lộc; "Giáo dục pháp luật cho nhân dân" của Nguyễn
Ngọc Minh (Tạp chí Cộng sản, số 10, 1983); "Giáo dục ý thức pháp luật để
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con người mới" của
Phùng Văn Tửu (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, 1985); "Giáo dục ý thức
pháp luật" của Nguyễn Trọng Bình (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4, 1989);
"Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" đề tài
khoa học cấp nhà nƣớc, mã số 07-17 do Viện Nhà nƣớc - Pháp luật thuộc
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì; "Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", đề tài khoa học cấp
Bộ, mã số 92-98-223ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ
pháp; "Tìm kiếm mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một
số dân tộc ít người" đề tài khoa học cấp bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học
pháp lý; "Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta", luận án Phó tiến sĩ của
Đinh Xuân Thảo; "Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam",
luận án Phó tiến sĩ của Dƣơng Thị Thanh Mai; "Giáo dục pháp luật cho dân
tộc Khơme - Nam Bộ (qua thực tiễn tỉnh An Giang)", luận án Thạc sĩ của Lê
Văn Bền; "Bàn về giáo dục pháp luật" sách của Trần Ngọc Đƣờng - Dƣơng
Thị Thanh Mai; "Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật" sách của Đào
Trí Úc chủ biên; "Một số vấn đề về phổ biến giáo dục pháp luật trong giai
đoạn hiện nay" của Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật - Bộ Tƣ pháp; "Đổi mới
10
giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay",
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Khoa Nhà nƣớc - Pháp luật, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; "Thực trạng và phương hướng đổi mới giáo
dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay", luận văn Thạc
sĩ của Đặng Ngọc Hoàng
Trong khi đó vấn đề giáo dục quyền con ngƣời mới chỉ đƣợc nghiên cứu
ở mức độ rất hạn chế. Đến nay, mới có một công trình đi sâu nghiên cứu vấn
đề này một cách tƣơng đối có hệ thống, đầy đủ là "Giáo dục quyền con người-
Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, tuy
vậy, các bài viết trong cuốn sách này mới chỉ nêu một vài khía cạnh cụ thể
hoặc khái quát của vấn đề, chƣa đề cập một cách có hệ thống.
Vì vậy, có thể nói, luận văn này là công trình trình bày tƣơng đối có hệ
thống về vấn đề giáo dục quyền con ngƣời trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề giáo dục quyền con ngƣời
để đề xuất các giải pháp nhằm tăng cƣờng công tác giáo dục quyền con ngƣời
trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận về giáo dục quyền con ngƣời, quyền công dân.
- Đánh giá thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cƣờng công tác giáo dục quyền con
ngƣời trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở
Việt Nam.
11
4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung vào vấn đề giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta hiện
nay, qua khảo sát thực tiễn vấn đề này ở nƣớc ta thời gian qua.
5. Cái mới của luận văn
- Là công trình chuyên khảo nghiên cứu tƣơng đối có hệ thống về giáo
dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta hiện nay.
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, tính đặc thù của giáo dục quyền con
ngƣời ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân, làm hạn chế hiệu quả
giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta trong thời gian qua; trên cơ sở đó đề
xuất các giải pháp góp phần thực hiện tốt vấn đề giáo dục quyền con ngƣời
ở Việt Nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quan hệ giữa Nhà nƣớc pháp quyền
với quyền con ngƣời, về giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta.
Luận văn đặc biệt coi trọng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử để nghiên cứu nhà nƣớc pháp quyền với việc giáo dục quyền con ngƣời;
sử dụng phƣơng pháp thống kê, hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp để
đánh giá thực trạng giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta hiện nay nhằm phân
tích, luận chứng một cách khoa học khi đề ra sự cấp thiết, phƣơng hƣớng, giải
pháp tăng cƣờng giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc ta.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn đƣợc chia làm 3 chƣơng, 8 tiết.
12
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI
1.1. KHÁI NIỆM GIÁO DỤC QUYỀN CON NGƢỜI
1.1.1. Khái niệm quyền con ngƣời
Quyền con ngƣời - Nhân quyền là một phạm trù lịch sử. Từ thời cổ đại
những tƣ tƣởng và yêu sách về các quyền, mà trƣớc hết yêu sách về các quyền
con ngƣời đã đƣợc phát sinh ở vùng Địa Trung Hải là nơi có nền văn minh,
kinh tế phát triển rực rỡ nhất lúc bấy giờ. Sau khi các quyền con ngƣời đƣợc
triển khai ở các quốc gia trong vùng và khu vực xung quanh rồi mới xâm
nhập vào xã hội châu Âu cổ đại và châu Âu mới.
Năm 1776, hầu hết các nƣớc thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ đã tuyên bố
độc lập với đế chế Anh. Trong một văn bản có tên là "Tuyên ngôn độc lập của
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ", đã khẳng định: " tất cả mọi ngƣời sinh ra đều
bình đẳng tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm đƣợc,
trong những quyền đó có quyền đƣợc sống, quyền tự do và quyền mƣu cầu
hạnh phúc" [93, tr. 15].
Nhƣ vậy, trong lịch sử phát triển của quyền con ngƣời, Tuyên ngôn độc
lập của Mỹ năm 1776 có thể đƣợc coi là sự xác nhận chính thức, đầu tiên về
mặt nhà nƣớc về quyền con ngƣời. Khi đánh giá về văn kiện này, C.Mác đã
cho rằng: Nƣớc Mỹ - đó là nơi "lần đầu tiên xuất hiện ý tƣởng về một nƣớc
cộng hòa dân chủ vĩ đại thống nhất, bản tuyên ngôn nhân quyền đầu tiên đã
đƣợc công bố và đã có sự thúc đẩy đầu tiên đối với cuộc cách mạng châu Âu
thế kỷ XVIII" [57, tr. 65]. Tuyên ngôn này là cơ sở để xây dựng nên bản Hiến
pháp của Mỹ năm 1787.
Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, vấn đề nhân quyền càng trở nên bức
xúc và trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở đó,
13
ngày 24-10-1945 tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời và đã thông qua bản "Hiến
chƣơng Liên Hợp Quốc" với mục đích chính là vì vấn đề quyền con ngƣời
trên phạm vi toàn cầu. Tiếp đến, tháng 12-1948 Liên Hợp Quốc đã công bố
bản "Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền". Trên cơ sở này, hàng loạt văn kiện
quốc tế về nhân quyền đƣợc tuyên bố, ký kết và trở thành luật pháp quốc tế về
quyền con ngƣời.
Ở Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì Việt Nam
đã có một lịch sử truyền thống lâu đời, trải qua suốt quá trình dựng nƣớc và
giữ nƣớc về sự hình thành và đảm bảo quyền con ngƣời. Tuy nhiên, phải đến
khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công mới thực sự mở ra một kỷ
nguyên mới về quyền con ngƣời, thời kỳ mà quyền con ngƣời đƣợc đề cao,
đƣợc chính thức ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật.
Mặc dù vấn đề quyền con ngƣời đã đƣợc hình thành từ rất sớm trong lịch
sử nhân loại. Ở Việt Nam cũng vậy, nhƣng do nó đƣợc nhìn nhận dƣới những
góc độ khác nhau (triết học, chính trị học, kinh tế học, luật học ), xuất phát từ
những mục đích, màu sắc tƣ tƣởng, lãnh địa chính trị của các quốc gia khác
nhau; nên mặc dầu đã có nhiều hội thảo quốc tế, nhiều công trình nghiên cứu,
nhƣng khái niệm quyền con ngƣời vẫn tồn tại một cách trừu tƣợng, chung
chung và ngày càng trở nên mơ hồ, rắc rối hơn.
Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ về khái niệm quyền con ngƣời và nội
dung của nó chính là cơ sở, nền tảng để xây dựng phƣơng hƣớng, nội dung,
phƣơng pháp, điều kiện cho việc thực hiện giáo dục quyền con ngƣời ở nƣớc
ta hiện nay.
Khái niệm quyền con người (Nhân quyền)
"Nhân quyền" là một từ Hán Việt, theo "Đại Từ điển Tiếng Việt" của
Viện Ngôn ngữ học thì "Nhân quyền" là "quyền con ngƣời" [104, tr. 1239].
Từ điển này mới chỉ giải trình đơn thuần nghĩa Hán - Việt của từ Nhân quyền,
mà chƣa đề cập đến khái niệm của vấn đề này theo nghĩa đƣợc khái quát hóa
từ những đặc điểm, nội dung, tính chất đặc thù của nó.
14
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con ngƣời, mỗi
định nghĩa là một sự biểu hiện khác nhau về góc độ nhìn nhận về vấn đề nhân
quyền. Tuy nhiên, tổng hợp lại các quan niệm đó đƣợc phân chia thành ba
quan niệm chủ yếu, khác nhau về quyền con ngƣời nhƣ sau :
- Quan niệm thứ nhất: Bắt nguồn từ chỗ coi con ngƣời là một thực thể tự
nhiên, nên quyền con ngƣời phải là quyền "bẩm sinh", là "đặc quyền", nghĩa
là quyền con ngƣời, quyền lợi của con ngƣời với tƣ cách là ngƣời, gắn liền
với cá nhân con ngƣời, không thể tách rời.
Quan điểm này đƣợc các đại biểu tƣ tƣởng của giai cấp tƣ sản ở thế kỷ
XVII, XVIII nhƣ Crotius, Hobbes, Kant, Locke, Spinoza, Rousseau hoàn
thiện và nêu ra trong học thuyết về pháp luật tự nhiên. Trƣờng phái này cho
rằng, quyền tự nhiên, pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà
nƣớc.
- Về quan niệm thứ hai: Trái với quan niệm thứ nhất, quan niệm này lại
chỉ đặt con ngƣời và quyền con ngƣời trong mối quan hệ xã hội. Quan niệm
này cho rằng, con ngƣời chỉ là một thực thể xã hội, nên quyền của nó chỉ
đƣợc xác định trong mối tƣơng quan với các thực thể xã hội khác và vì là
quan hệ xã hội nên nó đƣợc chế độ nhà nƣớc, pháp luật điều chỉnh bảo vệ.
Quan niệm này có tính tích cực khi coi quyền con ngƣời là một khái
niệm có tính lịch sử, đặt con ngƣời trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Vì
con ngƣời là thực thể của xã hội, có mối quan hệ phổ biến với xã hội nên
quyền con ngƣời cũng luôn gắn liền với đấu tranh giai cấp, đấu tranh chống
áp bức bóc lột, đấu tranh chống bạo lực, chống bất công trong xã hội. Cơ sở
của quyền con ngƣời ở đây chính là trình độ phát triển của nền kinh tế, văn
hóa, xã hội và do chế độ kinh tế, chế độ xã hội quyết định.
- Quan niệm thứ ba: Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề
quyền con ngƣời. Quan niệm này đã khắc phục đƣợc tính phiến diện, phản
khoa học về con ngƣời, quyền con ngƣời ở các quan niệm trên.
15
Xuất phát từ quan niệm coi con ngƣời vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là
sản phẩm của xã hội, con ngƣời mặc dù vẫn là một thực thể tự nhiên nhƣ các
loài động vật khác, nhƣng lại khác với loài động vật khác ở chỗ con ngƣời chỉ
thực sự tồn tại với tƣ cách là một con ngƣời khi nó đƣợc tồn tại trong cộng
đồng xã hội. Hai mặt này tồn tại biện chứng trong một con ngƣời. Trong cái
tự nhiên của con ngƣời có mặt xã hội và trong cái xã hội của con ngƣời có
mặt tự nhiên. Mặt này trở thành tiền đề cho mặt kia trong mối quan hệ chặt
chẽ không thể tách rời. Xuất phát từ quan niệm này về quyền con ngƣời nên
chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề quyền con ngƣời: "Về bản chất bao
hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội" [65, tr. 12].
Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con ngƣời là "động vật xã
hội" [63, tr. 855] có khả năng "tái sinh ra con ngƣời", con ngƣời là động vật cao
cấp nhất trong quá trình tiến hóa. Do đó, về mặt này, cũng nhƣ quan niệm thứ
nhất, quyền con ngƣời trƣớc hết là một thuộc tính tự nhiên. Quyền con ngƣời
không phải là một "tặng vật", do giai cấp thống trị ban phát thông qua nhà
nƣớc mà quyền con ngƣời trong hình thức lịch sử tự nhiên của nó mang bản
chất tự nhiên, đƣợc thể hiện ở quyền đƣợc sống, quyền tự do, quyền đƣợc
sáng tạo, phát triển, quyền đƣợc đối xử nhƣ con ngƣời, xứng đáng với con
ngƣời.
Xét về mặt thứ hai của quan niệm này, con ngƣời mặc dù là động vật cao
cấp nhất của tự nhiên, nhƣng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp,
con ngƣời đã sống thành bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội.
Trong luận cƣơng thứ VI về Phoi-ơ-bắc, C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con ngƣời là tổng hòa những quan hệ xã hội" [64, tr. 21].
Nhƣ vậy, con ngƣời mặc dù vẫn là thực thể tự nhiên sinh học, là bộ phận của
tự nhiên, nhƣng bên cạnh đó, để đƣợc gọi là ngƣời nó còn phải tồn tại trong
cộng đồng xã hội, và biến đổi cùng với cộng đồng xã hội của mình. Bằng khả
năng của mình, con ngƣời tác động vào tự nhiên, xã hội làm biến đổi tự nhiên
16
và xã hội để phục vụ nhu cầu tự tồn tại, phát triển của mình. Ngƣợc lại, những
biến đổi của tự nhiên, của xã hội do con ngƣời tạo ra cũng tác động chi phối
trở lại con ngƣời, làm biến đổi con ngƣời. Do đó xét về khía cạnh xã hội, thì
"quyền con ngƣời, ngay từ khi có xã hội loài ngƣời, bên cạnh bản tính tự
nhiên còn in đậm bản tính xã hội" [65, tr. 13].
Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nƣớc đã tạo ra những
chuyển biến có tính "bƣớc ngoặt" trong sự biến đổi mối quan hệ tƣơng quan
giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con ngƣời. Đi kèm xã hội
có giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; do đó, trong điều kiện
xã hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp. Và ngay cả
bản tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con ngƣời cũng tất yếu
chịu sự chi phối của giai cấp thống trị xã hội.
Mặt khác, quyền con ngƣời, kể cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị ràng
buộc, chi phối vào chính khả năng khám phá chinh phục tự nhiên của chính
con ngƣời, nghĩa là phụ thuộc vào khả năng hoàn thiện, phát triển của con
ngƣời, sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội. Con ngƣời càng có khả năng chế ngự, chinh phục thiên nhiên bao nhiêu
thì tự do, quyền con ngƣời ngày càng đƣợc mở rộng, ngày càng đƣợc đảm bảo
bấy nhiêu.
Từ quan điểm trên cho thấy, về bản chất, quyền con ngƣời bao gồm cả
quyền tự nhiên và quyền xã hội. Quyền tự nhiên phải đƣợc đặt trong tổng hòa
các mối quan hệ xã hội, chịu sự chi phối, ràng buộc của xã hội, gắn liền với
quá trình chinh phục tự nhiên và xã hội. Quyền con ngƣời chỉ đƣợc đặt ra khi
nó tồn tại trong cộng đồng ngƣời. Khái niệm quyền con ngƣời chỉ xuất hiện
khi con ngƣời bị những thực thể ngƣời khác xâm hại đến lợi ích của mình.
Hoặc ngƣợc lại, nếu con ngƣời tồn tại độc lập, không có mối liên hệ cộng
đồng, không bị các thực thể khác trong cộng đồng tác động xâm hại đến lợi
ích của mình thì không thể làm xuất hiện khái niệm quyền con ngƣời.
17
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con ngƣời không phải
chỉ là phép cộng đơn giản đối với hai quan niệm về quyền con ngƣời nêu trên,
mà từ phân tích nêu trên cho thấy bản chất hai mặt tự nhiên và xã hội của
quyền con ngƣời có những thuộc tính phức tạp và luôn có sự thống nhất giữa
hai mặt đối lập.
Nhận thức khái niệm quyền con ngƣời với đầy đủ bản chất, thuộc tính
của nó cho thấy quyền con ngƣời là một phạm trù phức tạp. Vì vậy, cần thiết
phải đƣa ra định nghĩa về quyền con ngƣời. Tuy nhiên, nếu chỉ đƣa ra định
nghĩa quyền con ngƣời với tƣ cách là một phạm trù riêng biệt của chính trị
học, kinh tế học, triết học, luật học sẽ là điều phiến diện, không đầy đủ, vì nhƣ
thế nó mới chỉ thể hiện đƣợc quyền con ngƣời dƣới góc độ khoa học, mà
không thể hiện đƣợc bản chất cũng nhƣ tính đa diện của vấn đề này. Hay nói
cách khác, nó mới chỉ thể hiện trạng thái tĩnh của quyền con ngƣời.
Jacques Mourgon (giáo sƣ đại học khoa học xã hội Toulouse) đƣa ra
định nghĩa: "Quyền con ngƣời là những đặc quyền đƣợc các quy tắc điều
khiển mà con ngƣời giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá nhân
và với chính quyền" [68, tr. 12]. Định nghĩa này chủ yếu đề cập đến quyền
con ngƣời ở khía cạnh tự nhiên của nó.
Một học giả Việt Nam cho rằng:
Quyền con ngƣời là các khả năng của con ngƣời đƣợc đảm bảo bằng pháp
luật (luật quốc gia và luật quốc tế) về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã hội, các
giá trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã hội trong
phạm vi luật định và quyền quyết định các hoạt động của mình và của ngƣời
khác trên cơ sở pháp luật [31, tr. 34].
Định nghĩa này cũng mới chỉ đề cập đến quyền con ngƣời với tƣ cách là
phạm trù luật học.
18
Chúng tôi nhận thức rằng, khái niệm quyền con ngƣời phải là một phạm
trù tổng hợp, bao hàm cả bản chất và những thuộc tính đa diện - nhiều mặt
của nó. Có một định nghĩa đang đƣợc sử dụng phổ biến trong giảng dạy,
nghiên cứu về nhân quyền ở nƣớc ta hiện nay: "Nhân quyền (hay quyền con
ngƣời) là những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con ngƣời, với tƣ
cách là thành viên cộng đồng nhân loại, đƣợc thể chế hóa bằng pháp luật quốc
gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [90, tr. 10]. Chúng tôi cho rằng, khái
niệm này bắt nguồn từ khái niệm của Mác về quyền con ngƣời. Theo Mác:
"Quyền con ngƣời là những đặc quyền chỉ có ở con ngƣời mới có, với tƣ cách
là con ngƣời, là thành viên xã hội loài ngƣời" [57, tr. 14]. Định nghĩa này
cũng tƣơng ứng với nội dung của khái niệm quyền con ngƣời do Trƣởng đoàn
đại biểu Việt Nam phát biểu tại hội nghị quốc tế về nhân quyền ở Viên (Áo)
tháng 6 năm 1993: Quyền con ngƣời là một phạm trù tổng hợp, vừa là "chuẩn
mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của một quá
trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triền", quyền con ngƣời "không
thể tách rời", đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế - xã hội Quyền con ngƣời là một tổng thể những quyền gắn bó
với nhau trong mối tƣơng quan biện chứng. Đó là quyền cá nhân và quyền
của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế văn hóa xã hội,
quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội Trong thời đại ngày
nay, quyền con ngƣời không thể tách khỏi hòa bình, dân chủ và phát triển.
Nhƣ vậy, định nghĩa trên về nhân quyền đã đƣợc khái quát hóa từ góc độ
bản chất của vấn đề, đƣợc xem xét từ các đặc điểm của nó (so sánh giữa con
ngƣời và động vật khác), và cũng đƣợc xem xét từ góc độ giới hạn, phạm vi
của vấn đề. Định nghĩa này không chỉ khắc phục đƣợc tính phiến diện của các
định nghĩa khác, mà nó còn xác định rõ ràng "ranh giới" của vấn đề, hạn chế
19
của việc hiểu và vận dụng lệch lạc về quyền con ngƣời. Chúng tôi tán thành
với khái niệm này.
1.1.2. Khái niệm giáo dục quyền con ngƣời
1.1.2.1. Các quan niệm khác nhau về giáo dục quyền con người
Hiện đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục quyền con
ngƣời, quyền công dân.
- Quan niệm ở một số nước phương Tây: Các nƣớc phát triển ở phƣơng
Tây hiện đang rất quan tâm đến vấn đề giáo dục quyền con ngƣời. Vấn đề này
đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, liên tục cho mọi đối tƣợng cả trong phạm vi
quốc gia và cả trên phạm vi toàn cầu dƣới nhiều hình thức, phƣơng pháp khác
nhau, nhằm đạt đƣợc những mục đích khác nhau. Xuất phát từ lợi ích chính trị
của mình, họ chỉ tập trung vào việc giáo dục một số quan điểm về quyền con
ngƣời dƣới đây:
Ưu tiên giáo dục các quyền tự nhiên:
Quan niệm này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa quyền tự nhiên của con
ngƣời, dẫn đến việc tuyệt đối hóa cá nhân trong quan hệ cộng đồng xã hội, coi
quyền con ngƣời là bất khả xâm phạm, không phụ thuộc vào không gian, thời
gian, quốc gia, dân tộc. Mục đích của việc giáo dục quan điểm này nhằm:
Thứ nhất, đối với dân chúng trong nƣớc, quan điểm này tạo ra đƣợc một
hình thức xã hội dân chủ. Mọi ngƣời đều có quyền nhƣ nhau trong việc thực
hiện các mục tiêu, ý tƣởng sống, đƣợc quyền tự do, quyền sở hữu, quyền
đƣợc an toàn và chống áp bức
Thứ hai, khi quyền, tự do cá nhân đƣợc đề cao tuyệt đối sẽ dẫn đến việc
triệt tiêu quyền lợi của tập thể, nhóm, giới, xóa nhòa quyền giai cấp và sẽ dẫn
đến hệ quả mà giai cấp tƣ sản - giai cấp đang thống trị xã hội mong muốn là ý
thức đấu tranh giai cấp trong xã hội bị thủ tiêu, ý thức đấu tranh đòi quyền lợi
của tập thể dân cƣ, sắc tộc, bộ phận xã hội bị xóa bỏ.
20
Để hiểu rõ quan điểm này của giai cấp tƣ sản, chúng tôi xin nêu một số
dẫn chứng cụ thể sau:
+ Nhà hoạt động xã hội ngƣời Mỹ Barbara B.Bird đã viết:
chúng tôi khai quốc bằng một cuộc cách mạng chống chủ nghĩa thực
dân áp bức. Những sự kiện ấy kết hợp với chủ nghĩa cá nhân thô thiển. Sự
thiếu chủ nghĩa cổ điển, sự tin tƣởng vào những tự do mà Hiến chƣơng về
quyền lợi (Bill of Rights) đảm bảo đã dẫn đến sự chấp nhận bạo lực khi dân
chúng tôi tìm cách chiếm đoạt đất hoang, thú vật và ngƣời da đỏ vốn là thổ
dân ở đây trƣớc. Điều này khiến cho ngƣời ta đặt ƣu tiên vào cá nhân hơn là gia
đình hoặc cộng đồng trong khi di chuyển để cắm những địa bàn di dân, nhiều
khi ở những miền hẻo lánh, chúng tôi đã đƣa điều ấy tới chỗ cực đoan.
Tôi lấy làm buồn vì sự tan vỡ của gia đình và cộng đồng Mỹ. Tôi kinh
tởm bạo lực trong nền văn hóa của chúng tôi. Ấy là tôi đặc biệt nghĩ đến một
sự kiện lịch sử nhƣ sự phá hủy văn hóa và các dân tộc thổ dân Mỹ, sự bóc lột
nô lệ da đen châu Phi trong khi xây dựng kinh tế quốc gia [3, tr. 50].
+ Khi phân tích về quan hệ giai cấp ở Mỹ, trong tác phẩm "Lối sống
Mỹ" (đã xuất bản ở 9 nƣớc, bằng 7 ngôn ngữ khác nhau) A.R.Lanier đã viết:
Hoa Kỳ thƣờng tự hào là một xã hội không giai cấp. Khách lạ dễ thấy
ở Mỹ lƣơng cao và mức sinh hoạt cao, quần áo các kiểu may sẵn hàng loạt, ăn
nói bỗ bã, hay sử dụng tên cúng cơm Thực ra thì có giai cấp, bắt đầu ngay
từ khu vực ở. Có điều là ranh giới giai cấp ấy rất dễ bị hủy bỏ, chỉ cần có nghị
lực và thành công. Biết bao nhiêu ngƣời giàu sang xuất thân hàn vi. Ngƣời
Mỹ lại thay đổi chổ ở luôn; trong 5 gia đình, có 1 cứ ba năm lại dọn nhà một lần.
Với tâm lý tự lực, không có thành kiến giai cấp nhƣ ở nƣớc khác.
Giai cấp gắn với gia đình. Từ thế chiến II, gia đình Mỹ càng lỏng lẻo;
thành công cá nhân ít có ảnh hƣởng đến gia đình, do đó, khái niệm giai cấp
cũng có phần mờ nhạt hơn. Ngày nay, các khái niệm chủng tộc, gốc rễ dân
21
tộc, địa phƣơng thƣờng át khái niệm giai cấp. Vị trí xã hội không phải là
một yếu tố ổn định, thừa hƣởng của giai cấp nhƣ nhiều nơi khác" [78, tr. 152].
Ở Pháp, quốc gia đƣợc coi là cái nôi của quyền tự do công dân khi từ
năm 1789 đã công bố bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nổi tiếng.
Nội dung Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp gần đây nhất tiếp
tục đƣợc thể hiện trong Hiến pháp của Cộng hòa Pháp năm 1958, đã toát lên
tƣ tƣởng chủ đạo của nó là:
Hoạt động tự do của con ngƣời là một quyền tự nhiên, vì vậy, không cần
phải liệt kê lại những quyền gì là đƣợc phép: tất cả những gì luật pháp không
nghiêm cấm đều đƣợc phép làm; ngƣợc lại, cần phải xác định rõ những điều
cần nghiêm cấm dĩ nhiên là có xét đến những quy định trong Hiến pháp [47,
tr. 370].
Đặc trƣng cơ bản cho các quyền tự do của con ngƣời đƣợc Hiến pháp
của Pháp ghi nhận là quyền sở hữu. Ở đây, quyền này đƣợc quan niệm nhƣ là
quyền sở hữu, sử dụng hay phân chia từng phần tùy theo ý chí chủ nhân. Theo
một số nhà nghiên cứu thì quyền này đã đƣợc phản ánh một cách nhất quán và
chi tiết hóa qua các tiêu chuẩn của Bộ luật Dân luật của Napoleon năm 1804.
Mà Bộ luật này theo nhận xét của Ăngghen chính là: "Là khung Bộ luật cơ
bản mẫu mực của xã hội tƣ bản". Với tinh thần coi tài sản sở hữu là nền tảng
của tự do nêu trên, Điều 554 Bộ Dân luật Pháp quy định: "Sở hữu là quyền
đƣợc sử dụng và phân chia tài sản hoàn toàn tuyệt đối miễn sao việc sử dụng
và phân chia tài sản không phạm vào những gì sắc luật và quy chế không
cấm". Nhà làm luật không có quyền xâm phạm hoặc hạn chế quá mức việc
chiếm giữ, sử dụng và phân chia tài sản, phải theo đúng nguyên tắc: "Cho phép
làm tất cả những gì không gây phƣơng hại đến những ngƣời khác, hay làm hại
đến lợi ích xã hội" [47, tr. 372], hoặc theo ý kiến của Giscard d'Estaing thì
nhà làm luật:
22
Chỉ có đƣợc quyền can thiệp vào các quan hệ kinh tế tự do dựa trên cơ sở
cạnh tranh và thị trƣờng trong những trƣờng hợp bất đắc dĩ hoặc trong những
trƣờng hợp phải kìm lại sự tiến triển buộc cá nhân phải mất qua nhiều công sức
vất vả không đáng có, hoặc nhằm mục đích thay đổi quá trình chuyên môn hóa
nền kinh tế đang khiến nó phụ thuộc quá vào ngƣời cấp vốn và thị trƣờng quốc
tế [47, tr 372].
Theo quy định của Hiến pháp Pháp, một cơ sở quan trọng để bảo đảm
các quyền tự do là nguyên tắc tính phù hợp, dung hòa giữa các quyền tự do,
tính chất cùng tồn tại trong quan hệ thống nhất giữa các quyền tự do công cộng,
địa phƣơng và cá nhân. Trong đó, các quyền tự do công cộng (mục 2 Điều 34
Hiến pháp Pháp), các quyền tự do của các tập thể địa phƣơng và vùng lãnh
thổ (mục 4 Điều 34, mục 2 Điều 72 Hiến pháp Pháp) đều đƣợc coi là "nền
tảng để tôn cao quyền tự do của cá nhân, của công dân cũng nhƣ quyền chiếm
giữ và phân chia tài sản riêng" [47, tr. 373]. Nhƣ vậy, nghĩa vụ của bộ máy
nhà nƣớc là phải đảm bảo thực hiện đúng pháp luật và trách nhiệm của mình để
bảo đảm tôn trọng và thực hiện ở mức độ cao nhất các quyền, tự do của công
dân.
Ở Đức, quyền công dân bắt đầu đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp từ năm
1818 - 1819 (Hiến pháp Baria và Bađen năm 1818, Nurtemberg năm 1819),
khi đó, nƣớc Đức còn đang ở trong thời kỳ quân chủ lập hiến. Đây là thời kỳ
chuyển giao giữa chế độ phong kiến và chế độ tƣ bản chủ nghĩa nên thời kỳ
này đã có một sự dung hòa, thích nghi giữa trật tự pháp luật quân chủ tuyệt
đối với những đòi hỏi về kinh tế và chính trị của giai cấp tƣ sản mà trong đó,
cái ảnh hƣởng to lớn là những tƣ tƣởng của chủ nghĩa tự do kinh tế. Tƣ tƣởng
này đã trở thành căn cứ nền tảng cho việc hình thành nên những quyền và tự
do công dân có tính kinh điển đang dần đƣợc xác nhận trong pháp luật thực
định và tồn tại trong các Hiến pháp, văn bản pháp luật của nƣớc Đức sau này.
Điều 1 Luật cơ bản của Đức quy định: "Việc tôn trọng và bảo vệ các quyền của
23
con ngƣời đƣợc tuyên bố là nguyên tắc cơ bản của toàn bộ quyền lực nhà
nƣớc" [47, tr. 410]. Nguyên tắc quyền tự chủ của nhân dân và học thuyết
quyền tự nhiên đƣợc tiếp tục thể hiện ở Điều 4 Luật cơ bản khi nội dung của
điều luật này tuyên bố cấm vi phạm và xuyên tạc các quyền của con ngƣời.
Tập trung giáo dục các quyền dân sự và chính trị:
Quyền chính trị, dân sự vừa là mục đích, vừa là động lực của cách mạng
tƣ sản. Vấn đề này tiếp tục đƣợc đề cao trong quá trình phát triển của chủ
nghĩa tƣ bản vì những lý do chính trị của giai cấp tƣ sản. Hiện nay, một số
nhà khoa học, nhà chính trị tƣ sản vẫn tiếp tục phủ nhận ý nghĩa của các
quyền về kinh tế - xã hội đối với toàn bộ các quyền về chính trị, dân sự và các
quyền, tự do khác của con ngƣời. Họ cho rằng các quyền dân sự, chính trị có
tầm quan trọng hàng đầu trong việc đảm bảo thực hiện các quyền con ngƣời.
Thậm chí, họ còn phủ nhận cả trách nhiệm pháp lý của các quốc gia trong
việc bảo đảm thực hiện các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Mặc dù các
quyền đó đã đƣợc ghi rõ trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con ngƣời và
các Công ƣớc quốc tế khác về quyền con ngƣời. Một minh chứng rất điển
hình cho luận điểm này của giai cấp tƣ sản là việc Liên Hợp Quốc cùng lúc
thông qua hai "Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự, chính trị" và "Công
ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa". Giải thích về vấn đề
này, La-lê-ri Sa-lit-de cho rằng:
Khi Liên Hợp Quốc quyết định thảo ra một hiệp ƣớc về quyền con
ngƣời, Liên Xô tham gia hoàn chỉnh hiệp ƣớc này. Lập trƣờng của Liên Xô về
những quyền xã hội - kinh tế rất cứng rắn, khó mà các nƣớc tƣ bản thỏa hiệp
đƣợc với Liên Xô trên lĩnh vực này. Tuy thế, ngƣời ta vẫn tìm ra đƣợc cách
nhân nhƣợng nhau, đáng lẽ thảo chỉ một hiệp ƣớc về quyền con ngƣời, ngƣời
ta đã thảo ra hai bản. Hiệp ƣớc quốc tế về các quyền xã hội, kinh tế và văn
hóa, chủ yếu phản ánh quan điểm của Liên Xô và hiệp ƣớc quốc tế về các
24
quyền công dân và quyền chính trị của con ngƣời phản ánh chủ yếu quan
điểm phƣơng Tây [107, tr. 3].
Ông cũng cho rằng, hiện có nhiều ngƣời nghi ngờ thuật ngữ "các quyền
xã hội - kinh tế", họ thậm chí còn không cả thừa nhận các quyền này nhƣ là
một bộ phận trong toàn bộ các quyền cơ bản của con ngƣời và không chịu coi
đó là những quyền phải đƣợc nhà nƣớc bảo đảm. Cơ sở của quan điểm này là
việc trong các xã hội kinh doanh tƣ nhân (chủ yếu là Tây Âu và Bắc Mỹ), con
ngƣời phải tự lo liệu lấy cho mình và "trong những điều kiện ấy, nói đến bảo
đảm những quyền xã hội - kinh tế sẽ là vô nghĩa và mâu thuẫn với mâu thuẫn
xã hội. Trong lòng xã hội tự do kinh doanh, Nhà nƣớc không sản xuất hàng
hóa và dịch vụ, nó cũng không sở hữu nhà ở và bất động sản, do đó, nó không
thể bảo đảm cho con ngƣời những của cải loại ấy" [107, tr. 5]. Khi Nhà nƣớc
cần đảm bảo mức sống cho một bộ phận nhân dân nghèo khổ nhất trong xã
hội thì Nhà nƣớc phải bắt những ngƣời có thu nhập cao phải tự hạn chế mình
để nuôi sống bộ phận nghèo khổ trong xã hội. Điều này tuy đang đƣợc
khuyến khích ở các nƣớc tƣ bản nhƣng nó lại đƣợc coi là hoạt động từ thiện
chứ không phải là sự tôn trọng và bảo vệ các quyền xã hội và kinh tế của công
dân. Hay nói rõ hơn, nó không phải là một quyền của công dân.
Về vấn đề này, chúng ta cũng có thể thấy đƣợc rất rõ trong hệ thống pháp
luật của Cộng hòa Liên bang Đức. Hiến pháp năm 1848 của Đức lần đầu tiên ghi
nhận một số quyền xã hội, phản ánh ảnh hƣởng của tƣ tƣởng xã hội - dân chủ,
thể hiện sự quan tâm đến quyền lợi của giai cấp khác ngoài giai cấp tƣ sản, thể
hiện quan niệm mới về quyền con ngƣời không chỉ là các quyền chính trị và dân
sự. Tuy nhiên, trong thực tế, các quyền này đƣợc phân biệt rất rõ ràng:
đồng thời với việc các quyền chính trị và tự do công dân đƣợc xem
nhƣ là những quyền có tính chất truyền thống, tức là những bảo đảm chống lại
sự tùy tiện của các cơ quan thừa hành và hành chính, ngƣời ta coi các quyền
25
xã hội nhƣ là những giá trị có tính chất cƣơng lĩnh nhất thời, chứ không hề có
tính bắt buộc phải thực hiện" [55, tr. 403].
Trong Hiến pháp năm 1949 của Cộng hòa Liên bang Đức, trong khi các
quyền và tự do cơ bản (quyền dân sự và chính trị "tự do" truyền thống) đƣợc
ghi rõ thuộc loại đầu thì lại không có những quy phạm đảm bảo cho các
quyền xã hội và những trƣờng hợp làm hại quyền xã hội không thể là căn cứ
để khiếu nại lên tòa án Hiến pháp.
Giáo dục quan điểm về quyền con người là tuyệt đối, vĩnh hằng, phổ
biến:
Chủ nghĩa nhân bản trừu tƣợng của giai cấp tƣ sản cho rằng, nhân quyền
là quyền lợi vốn có không thể tƣớc đi đƣợc của con ngƣời với tƣ cách là con
ngƣời. Mà quyền con ngƣời do "luật lệ của tự nhiên và của đấng tạo hóa đã
cho họ đƣợc hƣởng" [93, tr. 15] hoặc do "Quốc hội thừa nhận và tuyên bố, với
sự chứng kiến và sự bảo hộ của đấng tối cao, các quyền sau đây của con
ngƣời và của công dân" [94, tr. 21].
Vì thế, quyền con ngƣời trở nên tuyệt đối, vĩnh hằng và phổ biến. Thậm
chí các nhà lý luận chính trị của giai cấp tƣ sản còn cho rằng quan niệm nhân
quyền của họ nhƣ là giá trị phổ biến mà toàn thế giới phải tuân thủ.
Giáo dục quan niệm về nhân quyền cao hơn chủ quyền:
Cũng với căn cứ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa nhân bản trừu
tƣợng, luận điểm của các nhà lý luận, chính trị tƣ sản cho rằng, con ngƣời là
điểm xuất phát và cũng là điểm cuối cùng, là giá trị cao nhất trong mọi giá trị.
Vì thế, vấn đề thứ nhất của mọi quan hệ quốc tế là con ngƣời, quyền con
ngƣời. Nó còn cao hơn cả vấn đề chủ quyền quốc gia. Khi quyền con ngƣời ở
một quốc gia nào đó bị xâm phạm thì các nƣớc khác có nghĩa vụ phải can
thiệp để bảo vệ quyền con ngƣời ở đó. Thí dụ: điển hình cho quan điểm này là
sự can thiệp của Mỹ, Anh và các nƣớc NATO vào Irắc, Nam Tƣ cũ,
26
Apganistan, Libya trong thời gian qua. Hàng năm Mỹ đều có báo cáo về việc
bảo đảm nhân quyền của các nƣớc trên thế giới theo tiêu chí nhân quyền của
Mỹ; và coi đây là căn cứ để thực hiện chính sách can thiệp vào công việc nội
bộ của nƣớc khác.
- Quan điểm của Liên Hợp Quốc về giáo dục quyền con người: Ngay từ khi
ra đời, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã lập tức có giá trị nhƣ một văn
kiện vĩ đại trong lịch sử nhân loại. Nó tạo ra sức mạnh về các khía cạnh pháp
lý trong quan hệ quốc tế, quốc gia, chính trị, đạo đức và những giá trị đó ngày
càng không ngừng đƣợc nâng cao với nền văn minh nhân loại. Kỷ niệm 50
năm Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, Tổng thƣ ký Liên Hợp Quốc Kofi
Annan đã phát biểu:
Hôm nay, chúng ta ghi nhớ sự bắt đầu của năm thứ 50 sự ra đời của
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền. Ở khắp mọi nơi trên thế giới, đàn ông,
phụ nữ và trẻ em thuộc đủ các màu da và tín ngƣỡng sẽ tụ họp để đón nhận
những quyền con ngƣời chung của chúng ta Nhân quyền là cơ sở của sự tồn
tại và cùng tồn tại của con ngƣời. Quyền con ngƣời là phổ biến, không thể
chia tách và phụ thuộc lẫn nhau. Nhân quyền là cái làm nên nhân loại chúng
ta. Đó là những nguyên tắc mang tính cơ sở để chúng ta thiết lập cái ngôi nhà
thiêng liêng cho phẩm giá loài ngƣời Khi chúng ta nói về quyền sống, hoặc
về quyền phát triển, hoặc về quyền đƣợc bất đồng quan điểm và có sự khác
biệt, có nghĩa là chúng ta đang nói về khoan dung. Khoan dung nếu đƣợc tăng
cƣờng, bảo vệ và ghi nhận, sẽ bảo đảm cho tự do của tất cả chúng ta. Thiếu sự
khoan dung chắc chắn chúng ta sẽ không làm đƣợc gì tính phổ biến của
nhân quyền sẽ cho nhân quyền sức mạnh. Nó là động lực để nhân quyền liên
kết các biên giới quốc gia, vƣợt qua mọi trở ngại, thách thức và bạo lực
Cuộc đấu tranh cho các quyền con ngƣời trên toàn cầu luôn diễn ra ở khắp
mọi nơi và đã là cuộc đấu tranh chống trả tất cả các hình thức chuyên chế tàn
bạo và sự bất công, chống lại tình trạng nô lệ, chống lại chủ nghĩa thực dân,