Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 99 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN MẠNH QUÂN





HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2013



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN MẠNH QUÂN





HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


luận văn thạc sĩ luật học




Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế





HÀ NỘI - 2013


4




MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
8
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa thi hành án dân sự
8
1.1.1.
Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự
8
1.1.2.
Vai trò, ý nghĩa của thi hành án dân sự
21
1.2.
Nội dung cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự
25
1.2.1.
Đối tượng điều chỉnh của luật thi hành án dân sự Việt Nam
25
1.2.2.
Phương pháp điều chỉnh
28
1.2.3.
Phạm vi điều chỉnh
29
1.3.
Các tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật thi hành án
dân sự
30
1.4.
Lịch sử hình thành và phát triển của thi hành án dân sự Việt Nam
37

1.4.1.
Giai đoạn từ 1945 đến 1989
37
1.4.2.
Giai đoạn từ 01/01/1990 đến 30/6/1993
41
1.4.3.
Giai đoạn từ 1993 đến đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành
án dân sự năm 2004
42
1.4.4.
Giai đoạn từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004 đến trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008
43

5

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
HIỆN HÀNH VÀ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT NÓI CHUNG
51
2.1.
Thực trạng pháp luật thi hành án dân sự
51
2.1.1.
Về hệ thống tổ chức thi hành án dân sự
51
2.1.2.
Ngạch, thi tuyển, nhiệm kỳ bổ nhiệm Chấp hành viên (Điều
17, Điều 18)

52
2.1.3.
Về thời hiệu yêu cầu thi hành án (Điều 30)
52
2.1.4.
Về điều kiện xem xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối
với khoản thu nộp Ngân sách nhà nước (Điều 61)
53
2.1.5.
Về các biện pháp bảo đảm thi hành án (từ Điều 66 đến Điều 69)
53
2.1.6.
Về biện pháp và thủ tục cưỡng chế thi hành án (Chương IV)
54
2.1.7.
Về định giá, định giá lại, bán đấu giá tài sản kê biên (Điều
98, 99 và Điều 101)
54
2.1.8.
Về thi hành nghĩa vụ buộc nhận người lao động trở lại làm
việc (Điều 121)
55
2.1.9.
Về thi hành án đối với một số trường hợp cụ thể (từ Điều 122
đến Điều 149)
55
2.1.10.
Về nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong thi hành
án dân sự (Chương VIII)
55

2.2.
Pháp luật thi hành án dân sự hiện hành trong mối quan hệ
với hệ thống pháp luật nói chung
58
2.2.1.
Mô hình quản lý nhà nước về công tác thi hành án chưa hoàn chỉnh
60
2.2.2.
Các văn bản pháp luật về thi hành án và các văn bản pháp
luật thuộc các lĩnh vực khác trong hệ thống pháp luật còn
mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, thống nhất
62
2.2.3.
Hệ thống pháp luật còn có những "khoảng trống" làm ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác thi hành án
69

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM
74

6
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
VIỆT NAM
3.1.
Giải pháp hoàn thiện
74
3.1.1.
Tăng cường việc nghiên cứu, triển khai chủ trương của Đảng
về xây dựng văn bản pháp luật chung điều chỉnh hoạt động
Thi hành án và chủ trương thống nhất đầu mối quản lý công

tác thi hành án
74
3.1.2.
Hoàn thiện việc thi hành án dân sự và các văn bản hướng
dẫn thi hành
75
3.2.
Những đề xuất, kiến nghị
81

KẾT LUẬN
88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90


7
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói
chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án
chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án
có ý nghĩa vô cùng quan trọng và là công đoạn cuối cùng bảo đảm cho bản
án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm
minh của pháp luật, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa;
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của
bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ:

"Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành" [36].
Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án, từ khi thực hiện
đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về
thi hành án dân sự, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX (2004) và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020. Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà

8
nước trước đây, nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh
Thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 và gần
đây là Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004.
Kết quả sau hơn ba năm thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004 cho thấy, nhiều quy định về thủ tục thi hành án đã thể hiện được quan
điểm cải cách tư pháp, cải cách hành chính, phù hợp với sự chuyển đổi từ cơ
chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, tháo gỡ kịp thời một số tồn tại,
vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự, góp phần từng bước nâng cao
hiệu quả của công tác thi hành án. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì Pháp lệnh năm 2004 đã bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập, nhất là quy định về trình tự, thủ tục; trách nhiệm, cơ chế
phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thi hành án; cơ chế quản

lý, mô hình tổ chức cơ quan thi hành án chưa ngang tầm với chức năng,
nhiệm vụ, tính chất công việc được giao; quyền hạn của cơ quan thi hành án,
của Chấp hành viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chưa có cơ chế
phối hợp hiệu quả giữa thi hành án dân sự với thi hành án phạt tù, đặc biệt là
các vụ án hình sự có bồi thường thiệt hại; chưa tạo ra cơ sở pháp lý để thực
hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự, v.v Các hạn chế, bất cập này
là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng án dân sự tồn đọng,
tuy có giảm dần, nhưng hiện nay vẫn còn lớn (năm 2005 có 327.658 vụ việc
tồn đọng chiếm 58.38%; năm 2006 có 331.092 vụ việc tồn đọng chiếm
54.99%; năm 2007 có 311.443 vụ việc tồn đọng chiếm 48.04%; năm 2008 có
313.428 vụ việc tồn đọng), làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,
tính nghiêm minh của pháp luật; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
và Nhà nước theo bản án, quyết định của Tòa án chưa được bảo đảm, nhiều
việc gây bức xúc trong xã hội.
Từ những vấn đề trên cho thấy Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004 bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, vì vậy cần phải tiếp tục hoàn thiện các
quy định về thi hành án dân sự. Ngày 14/11/2008, Quốc hội khóa XII tại kỳ

9
họp thứ tư đã thông qua Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 và Nghị
quyết về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự số 24/2008/QH12. Đây là hai
văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi
hành án dân sự. Để thi hành Luật Thi hành án dân sự, Chính phủ, các Bộ, ngành
đã ban hành hơn 20 văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành, một số văn bản quan trọng như: Nghị định 58/2009/NĐ-CP
hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự;
Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 4 năm 2009 quy định về tổ chức
và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm ở Thành phố Hồ Chí Minh;
Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản

lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác
thi hành án dân sự…
Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2009, đến nay
qua hơn hai năm thực hiện đã có sự chuyển biến tích cực, công tác thi hành án
dân sự đã đạt được một số kết quả đáng kể, cụ thể: Kết quả thi hành án dân sự
từ ngày 01/10/2010 đến ngày 30/9/2011 của cả nước như sau:
- Tổng số việc phải thi hành là 632.545 việc, tăng 17.134 việc (2,78%)
so với năm 2010. Qua phân loại thì có: 431.979 việc có điều kiện thi hành
(chiếm 68,29%); chưa có điều kiện thi hành là 200.566 việc (chiếm 31,71%).
Đã thi hành xong 379.990 việc đạt tỷ lệ 88% (vượt chỉ tiêu 7%), tăng 28.617
việc (1,65%) so với năm 2010 [9, tr. 3].
- Tổng số tiền phải thi hành là 35.416 tỷ 341 triệu 736 nghìn đồng,
tăng 4.718 tỷ 241 triệu 624 nghìn đồng (16,14%) so với năm 2010. Kết quả
phân loại số có điều kiện thi hành là 13.366 tỷ 290 triệu 661 nghìn đồng
(chiếm 37,74%), số chưa có điều kiện thi hành là 22.050 tỷ 51 triệu 75 nghìn
đồng (chiếm 62,26%). Đã thi hành được 10.167 tỷ 712 triệu 899 nghìn đồng,
đạt tỷ lệ 76,1% so số tiền có điều kiện thi hành (vượt chỉ tiêu 15,1%), tăng
1.866 tỷ 392 triệu 338 nghìn đồng so với năm 2010 [9, tr. 3].

10
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, Luật Thi hành án dân sự và các
văn bản hướng dẫn thi hành cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết ở chỗ các quy
định "chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tế, thiếu thống nhất với pháp luật có
liên quan" [8, tr. 13]. Đó cũng chính là những khó khăn vướng mắc trong thực
tiễn thi hành án làm ảnh hưởng nhiều đến kết quả thi hành án, là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến lượng án tồn đọng. Công tác thi hành án
dân sự hiện nay vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn với
nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra cần được giải quyết. Hiệu quả công
tác thi hành án dân sự chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, và sự
quan tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án

chưa thật sự đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy
định pháp luật thi hành án dân sự là hết sức cần thiết nhằm khắc phục những
hạn chế trong công tác ban hành văn bản pháp luật về thi hành án dân sự
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thi hành án, đảm bảo quyền và nghĩa
vụ hợp pháp của công dân.
Với những lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài "Hoàn thiện pháp luật
thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn thạc sĩ luật học, đây
là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với lĩnh vực thi
hành án dân sự nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật thi
hành án dân sự góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân và Nhà nước, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi
hành án dân sự, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành
án dân sự, cụ thể là: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và
thực tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu
Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì

11
thực hiện; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác
thi hành án", mã số 96-98- 027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp
chủ trì thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: "Luận cứ khoa học của
việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn
mới" do Bộ Tư pháp chủ trì; Đề tài: "Thi hành án dân sự, thực trạng và
hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001" do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự
án. Một số luận án và công trình nghiên cứu khác như: Luận văn thạc sĩ luật
học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng
hoàn thiện" của tác giả Nguyễn Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn
thiện pháp luật thi hành án dân sự" của Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc

sĩ luật học của Lê Xuân Hồng về "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt
Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Quang Thái về "Đổi mới tổ chức
và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của
Lê Anh Tuấn về "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam" Bên cạnh
đó là Giáo trình môn Luật tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội và
các trường đại học có chuyên ngành luật; một số bài viết đăng trên các tạp chí
Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự
ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở một số công trình cũng đã
đề cập đến vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về thi
hành án dân sự, nhưng kể từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được ban
hành cho tới nay thì chưa có công trình nghiên cứu vấn đề "Hoàn thiện pháp
luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" một cách toàn diện, chuyên sâu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở các vấn đề lý luận về thi hành án dân sự, tác giả đặt ra mục
đích của đề tài là chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật thi hành án dân
sự trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật nói chung để đưa ra các giải

12
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự góp phần nâng cao hiệu
quả công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích lớn đó cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án dân sự.
- Đánh giá đúng đắn về thực trạng pháp luật thi hành án dân sự.
- Đưa ra những giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện pháp luật thi hành
án dân sự.
4. Phạm vi nghiên cứu
"Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" là

một đề tài có tính khái quát cao, nội dung phong phú và phức tạp. Vì vậy,
trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở
lý luận về thi hành án dân sự; thực trạng pháp luật thi hành án dân sự Việt
Nam hiện nay; những bất cập của pháp luật thi hành án dân sự trong mối quan
hệ với hệ thống pháp luật nói chung, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp
nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp tổng hợp.
6. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn
- Ý nghĩa của luận văn:
+ Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về
khái niệm thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi hành án dân

13
sự, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa
học về pháp luật thi hành án.
+ Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy trong lĩnh vực thi hành án dân sự ở bậc Đại học và Cao đẳng và
tham khảo để xây dựng, hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
- Điểm mới của luận văn:
+ Đưa ra một số tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật thi hành
án dân sự;
+ Chỉ ra được những điểm tồn tại bất cập, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ
của các văn bản pháp luật thi hành án dân sự kể từ khi Luật Thi hành án dân
sự năm 2008 được ban hành trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật nói

chung làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật thi hành án dân sự hiện hành và trong
mối quan hệ với hệ thống pháp luật nói chung.
Chương 3: Những giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam.



14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Kể từ khi hoạt động thi hành án dân sự được chuyển giao từ Tòa án
nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ thì khái niệm thi hành án
(nhất là thi hành án dân sự) trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trên diễn đàn
khoa học pháp lý. Có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận và
cách tiếp cận khác nhau về thi hành án nhưng trong đó nổi lên hai quan điểm
cơ bản, đó là quan điểm coi thi hành án là giai đoạn tố tụng và quan điểm coi
thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thi hành án là một giai đoạn tố tụng:
Bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được mục tiêu chung
của toàn bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện

trong bản án, quyết định của Tòa án, thì mới dừng lại ở việc làm rõ
đúng hay sai, phải hay trái trên văn bản giấy tờ. Muốn nó được thực
hiện trên thực tế, cần phải chờ ở hiệu quả của công tác thi hành án.
Vì vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử. Ở
giai đoạn này, cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp được
pháp luật quy định để đưa chân lý trở thành hiện thực trong đời
sống thực tế.
Hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét xử, tiếp
theo quá trình xét xử. Thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật
khác về bản chất với các hoạt động hành chính là tổ chức và quản

15
lý. Thi hành án là nhằm mục đích thực thi các phán quyết của Tòa
án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành và thi hành
có hiệu quả trên thực tế. Hoạt động thi hành án này gắn liền với quá
trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử [54, tr. 8].
Theo quan điểm này thì thi hành án là giai đoạn nằm trong quá trình
giải quyết vụ án, theo đó giai đoạn tố tụng trước của giai đoạn xét xử là giai
đoạn chuẩn bị xét xử, còn thi hành án là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn xét xử,
giai đoạn thực thi các phán quyết của Tòa án trên thực tế. Căn cứ duy nhất để thi
hành án là bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật. Tính
lệ thuộc của thi hành án vào công tác xét xử được thể hiện ở việc khẳng định xét
xử là tiền để của thi hành án. Trong quá trình thi hành án, vai trò và trách nhiệm
của Tòa án gắn chặt với hoạt động thi hành án, thể hiện ở trách nhiệm của Tòa
án trong việc "giải thích những điểm chưa rõ, có sai sót hoặc sai lầm về số
liệu" trong bản án, quyết định khi cơ quan thi hành án yêu cầu, hoặc thẩm
quyền của Tòa án trong việc hoãn thi hành án theo thời gian luật định, hay
"xem xét, kháng nghị để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với
bản án quyết định có vi phạm thủ tục tố tụng" khi cơ quan thi hành án kiến
nghị. Hậu quả pháp lý của việc xem xét theo trình tự này có thể làm thay đổi

kết quả thi hành án hay cách thức tiến hành thi hành án của cơ quan thi hành án.
Với quan điểm này, thi hành án được hiểu là giai đoạn kết thúc trình
tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử làm cho phán
quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động hành chính - tư pháp.
Theo quan điểm này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án
chấm dứt khi Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Tòa án đã
xác định quyền, nghĩa vụ các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai
đoạn khác, không thuộc quá trình tố tụng. Thi hành án không phải là giai đoạn
tố tụng, bởi vì:

16
Thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, tố tụng
là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế,
trên cơ sở đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng quy
định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt
động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật [38, tr. 21].
Cùng quan điểm trên PGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: Không thể đồng
nhất hoạt động thi hành án với hoạt động tố tụng, bởi lẽ hoạt động thi hành án
có tính chất chính trị, pháp lý, xã hội của nó. Nghiên cứu hoạt động thi hành
án hiện nay cần đặt trong vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Về bản chất,
hoạt động thi hành án được thể hiện ở ba phương diện chủ yếu sau đây:
- Xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình thi
hành án;
- Tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án;
- Đặc thù trong các quan hệ về thủ tục thi hành án (đây là một vấn đề
có thể dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng). Quan hệ thủ tục thi hành án
có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính -
tư pháp. Nhưng cần khẳng định rằng, các quan hệ mang tính hành chính tư

pháp chủ yếu hơn. Thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy
nhiên, ở một số lĩnh vực, một số công việc Nhà nước có thể xây dựng hành
lang pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động này. Đây là điểm khác so với
hoạt động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không thể
xã hội hóa [54, tr. 10-11].
Cùng quan điểm, TS. Đinh Trung Tụng cũng cho rằng: Thi hành án không
mang tính tố tụng thuần túy mà có nhiều tính chất của giai đoạn mang tính hành
chính - tư pháp. Ở đây có nhiều điểm khác nhau giữa tố tụng và quá trình thực
hiện thi hành án. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực

17
thi không phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá trình thi hành án mang nặng
tính hành chính - tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi hành án kinh tế, tuyên bố
phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi hành án hình sự đối với
loại hình phạt không phải là hình phạt tù ) [54, tr. 12].
Ngoài hai quan điểm cơ bản nêu trên, còn có quan điểm khác về thi
hành án:
Quan điểm thứ ba khẳng định, thi hành án là hoạt động tư pháp [43, tr. 8].
Bởi vì, gốc của hoạt động thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án và các
quyết định theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ, Cơ quan thi
hành án phải thi hành theo đúng quyết định của Tòa án chứ không phải theo
mệnh lệnh hành chính. Thi hành án phần lớn thông qua vai trò hoạt động của
các cá nhân những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản
án, quyết định như Chấp hành viên, Giám thị viên hoặc các cơ quan tổ chức
và người có thẩm quyền khác. Hoạt động hành chính trong lĩnh vực thi hành
án chẳng qua cũng chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính của cơ quan
thi hành án là tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật. Nếu cho rằng
thi hành án (nhất là thi hành án dân sự) là giai đoạn độc lập có tính hành chính -
tư pháp vì hoạt động thi hành án được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan của
Chính phủ là không hợp lý vì một hoạt động mang bản chất như thế nào

không thể phụ thuộc nhiều vào chủ thể thực hiện nó.
Quan điểm thứ tư, coi thi hành án là thủ tục tố tụng tư pháp. Quan điểm
này cho rằng không nên hiểu "tố tụng" chỉ là "thưa kiện tại Tòa án nói
chung", là hoạt động của cơ quan Tòa án xét xử để đi tìm "chân lý", mà cần
xem xét đến bản chất của tố tụng. Đó là việc thực hiện các quy định của pháp
luật hình thức theo thủ tục nhất định để giải quyết các quan hệ xã hội theo
đúng sự điều chỉnh của pháp luật nội dung nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tố tụng được thực hiện bởi nhiều cơ
quan, hoạt động nào tuân theo thủ tục do pháp luật hình thức quy định là hoạt

18
động tố tụng. Do đó có nhiều loại tố tụng: tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố
tụng hành chính, tố tụng thi hành án. Ngoài ra, khi xem xét về tính chất của
việc thi hành án, thì tất cả các bản án, quyết định của Tòa án và của Trọng tài
đều có tính chất tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, tức không chỉ là việc xét xử mà
bao gồm cả lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Vì tất cả những lý do nêu trên thi hành án
được hiểu theo nghĩa rộng là thủ tục tố tụng tư pháp.
Để có thể xem xét thi hành án dân sự có phải là hoạt động tố tụng hay
không, mang bản chất hành chính hay tư pháp, theo chúng tôi cần phải xem
xét một số vấn đề sau:
Thứ nhất, mục đích của thi hành án dân sự
Trong quá trình tố tụng, cũng như sau khi đã kết thúc quá trình tố
tụng, Tòa án đưa ra một bản án hoặc quyết định giải quyết một cách tổng thể
về nội dung vụ án (trường hợp vụ án được đưa ra xét xử). Bằng bản án,
quyết định của mình Tòa án nhân danh Nhà nước xác định rõ sự thật khách
quan của vụ án; xác định rõ quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia vào quá
trình tố tụng. Tuy nhiên, lúc này quyền và nghĩa vụ của các bên mới chỉ xác
định được về mặt lý thuyết, trên cơ sở áp dụng các quy định của pháp luật có
liên quan để giải quyết vụ việc và còn nằm trên giấy. Tương tự như vậy, khi
giải quyết các tranh chấp, Trọng tài thương mại cũng mới chỉ vận dụng các

quy định của pháp luật để giải quyết vụ việc và kết quả của quá trình giải
quyết tranh chấp đó cũng vẫn chỉ nằm trên giấy. Để các quyền, nghĩa vụ này
được thực thi trên thực tế, cần thiết phải có một hoạt động tiếp theo để tổ
chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết
định đó.Do đó, có thể thấy, mục đích của thi hành án dân sự là tổ chức thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án và Trọng tài thương mại, biến các
quyền, nghĩa vụ về mặt lý thuyết thành các quyền, nghĩa vụ thực tế. Thông
qua thi hành án dân sự, trật tự pháp luật, tình trạng ban đầu của cácquan hệ
do bị hành vi vi phạm xâm hại được khôi phục. Như vậy, nếu coi mục đích

19
của tố tụng là khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm hại, đưa nó trở về
trạng thái ban đầu như trước khi bị vi phạm, thì thi hành án dân sự là một
giai đoạn của tố tụng. Có thể nói, mục đích của quá trình tố tụng bao trùm
lên mục đích của thi hành án dân sự. Mục đích của thi hành án dân sự là
nhằm củng cố thêm mục đích của tố tụng.
Thứ hai, tính chất công việc mà cơ quan thi hành án phải thực hiện
Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, thì cơ quan thi
hành án dân sự có trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lựcpháp luật (bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm; bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định của Trọng tài thương mại
Việt Nam có hiệu lực thi hành) và những bản án, quyết định của Tòa án chưa
có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay (bản án, quyết định sơ thẩm
về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã
hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; nhận người lao động trở
lại làm việc; quyết định khẩn cấp tạm thời để bảo đảm lợi ích cấp thiết của

đương sự, bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án ) đều là kết quả của quá
trình giải quyết tranh chấp, nhưng tính chất lại khác nhau. Bản án, quyết định
của Tòa án là kết quả của quá trình tố tụng, nên nó mang bản chất tư pháp.
Còn quyết định của Trọng tài thương mại, là kết của quá trình giải quyết tranh
chấp thông thường, nên nó không mang bản chất tư pháp.
Thứ ba, tính chất các hoạt động cơ bản do cơ quan thi hành án tiến
hành để tổ chức thi hành một bản án, quyết định về dân sự
Nếu coi xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng và bản án,
quyết định là điểm nút kết thúc giai đoạn đó và đồng thời kết thúc quá trình tố

20
tụng, thì thi hành án dân sự là một giai đoạn sau của giai đoạn xét xử, mang
tính chấp hành. Lúc này sự thật khách quan về vụ án đã được sáng tỏ, các
quyền và nghĩa vụ của các bên đã được xác định rõ, cơ quan thi hành án dân
sự sẽ căn cứ vào đó để tổ chức thi hành theo đúng các trình tự đã được
quyđịnh trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Cơ quan thi hành án dân sự phải tổ chức thi hành đúng nội dung phần quyết
định của bản án (trường hợp chủ động thi hành án); thi hành đúng nội dung
bản án và đơn yêu cầu thi hành án (trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu).
Cơ quan thi hành án không được tổ chức thi hành án trái với nội dung quyết
định của bản án. Đồng thời, trong quá trình tổ chức thi hành án, cơ quan thi
hành án dân sự, sử dụng quyền lực nhà nước trực tiếp tác động đến các bên có
liên quan đến việc thi hành án. Mặc dù, trong quá trình thi hành án, quyền
định đoạt của các bên đương sự vẫn được tôn trọng, người được thi hành án,
người phải thi hành án có quyền thỏa thuận với nhau về cách thức thi hành án.
Tuy nhiên, nếu như các bên không thỏa thuận được về phương thức thi hành
án, hoặc đã thỏa thuận nhưng bên phải thi hành án không tự nguyện thực hiện
đúng, thì cơ quan thi hành án dân sự sử dụng quyền lực nhà nước thông qua
việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để tổ chức thi hành dứt điểm
bản án,quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài thương mại. Đây là

một trong những dấu hiệu rất đặc trưng thể hiện bản chất hành chính của thi
hành án dân sự. Tất cả các trường hợp, nếu như đương sự có điều kiện thi
hành án, nhưng không tự nguyện thi hành, đều dẫn tới việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế để thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án và quyết định
của Trọng tài thương mại. Mặt khác, mặc dù trong quá trình tổ chức thi hành
bản án, quyết định, chấp hành viên - người được Nhà nước giao nhiệm vụ trực
tiếp tổ chức thi hành án, chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt
động của mình. Tuy nhiên, với tư cách là người thừa hành nhiệm vụ, chấp
hành viên vẫn phải tuân theo sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của cơ quan quản lý
thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và của thủ trưởng cơ quan thi

21
hành án dân sự. Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu như chấp hành viên
có vi phạm về mặt thủ tục thi hành án dẫn tới việc khiếu nại của đương sự, thì
việc giải quyết khiếu nại được thực hiện thông qua thủ tục hành chính. Người
có thẩm quyền sẽ giải quyết khiếu nại bằng một quyết định giải quyết khiếu
nại. Trong quyết định giải quyết khiếu nại sẽ chấp nhận, không chấp nhận,
chấp nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ khiếu nại của đương sự. Trường
hợp chấp nhận khiếu nại của đương sự, người có thẩm quyền sẽ hủy bỏ các
quyết định có vi phạm của chấp hành viên và yêu cầu chấp hành viên tổ chức
thi hành lại theo đúng trình tự thủ tục đã được quy định trong pháp luật thi
hành án dân sự mà không trực tiếp rút lên để giải quyết theo một trình tự, thủ
tục khác như trong tố tụng. Như vậy, có thể thấy rằng, thi hành án dân sự là
hoạt động mang đậm tính chấp hành và điều hành.
Thứ tư, mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan
khác trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân sự
Khác với các hoạt động tố tụng khác như hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, mối quan hệ giữa cơ quan điều tra, truy tố, xét xử được quy định chặt
chẽ trong luật tố tụng, quan hệ trên cơ sở luật tố tụng, thì trong hoạt động thi
hành án dân sự, mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan

chức năng khác chủ yếu dựa trên cơ sở của Pháp lệnh Thi hành án dân sự và
các luật, pháp lệnh, nghị định quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan, tổ chức có liên quan. Do đó, các quan hệ của cơ quan thi hành án với
các cơ quan khác chủ yếu là các quan hệ mang bản chất hành chính, có tính
chấp hành và điều hành. Thậm chí ngay cả các quan hệ với cơ quan tố tụng
như Tòa án, Công an, thì các quan hệ này cũng hầu như không được quy định
cụ thể trong luật tố tụng.
Mỗi quan điểm trên đều có những lập luận và cơ sở khoa học riêng.
Tuy nhiên từ những phân tích trên, theo tôi quan điểm thứ hai coi thi hành án
là hoạt động hành chính- tư pháp là có nhiều điểm hợp lý hơn cả. Bởi vì, thi

22
hành án không chỉ đơn thuần là hoạt động mang tính tư pháp, hay là giai đoạn
cuối cùng của hoạt động tố tụng, cũng không nên hiểu tố tụng theo một nghĩa
không truyền thống như quan điểm thứ tư để coi thi hành án là hoạt động tố
tụng tư pháp. Mà bản chất thi hành án thể hiện cả hai đặc điểm rất rõ đó là
tính hành chính và tính tư pháp trong hoạt động của mình. Ngoài ra, khác với
các hoạt động tố tụng khác đòi hỏi thủ tục rất chặt chẽ và chỉ do các cơ quan
tiến hành tố tụng thực hiện, thì việc thi hành bản án, trong một số trường hợp
có thể để người dân tự chịu trách nhiệm, tức là có thể tiến hành xã hội hóa
một số hoạt động thi hành án. Vì thế nên coi thi hành án là hoạt động hành
chính - tư pháp.
Có thể đưa ra khái niệm về thi hành án dân sự như sau: Thi hành án
dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp của Nhà nước, do cơ quan thi hành
án tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm bảo thi hành các
bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan
có thẩm quyền.
Trong khái niệm này, vấn đề cần tiếp tục làm rõ là phải hiểu như thế
nào về "dân sự" trong thi hành án?
Theo ý kiến thứ nhất thì "dân sự" được hiểu theo nghĩa hẹp. Cơ sở để

đưa ra ý kiến này xuất phát từ quy định của Điều 1 Bộ luật Dân sự năm 1995
cho rằng, quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản
phát sinh trong giao lưu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự trong
thi hành án bao gồm bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và nhân
thân phi tài sản (như bản án, quyết định về tranh chấp các loại hợp đồng dân sự,
về hôn nhân gia đình và một số loại bản án, quyết định có tính chất dân sự).
Ý kiến thứ hai hiểu "dân sự" theo nghĩa rộng. Theo pháp luật của nhiều
nước trên thế giới, việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về
nội dung là luật tư (luật dân sự, luật kinh doanh, thương mại, lao động) được
thực hiện theo một thủ tục chung qui định trọng Bộ luật Tố tụng dân sự [31].

23
Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai. Tuy nhiên, theo pháp luật
Việt Nam thì "dân sự" trong thi hành án cần được hiểu một cách cụ thể. Đó là:
Những bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền,
tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự
trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành
chính của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản
của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định
của Trọng tài thương mại (Điều 1 Luật Thi hành án dân sự năm 2008).
1.1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
Từ góc độ tiếp cận về khái niệm của thi hành án dân sự như đã phân
tích ở trên, theo chúng tôi, thi hành án dân sự có những đặc điểm cơ bản sau đây.
- Thi hành án dân sự là hoạt động mang bản chất hành chính - tư
pháp, thể hiện tính chấp hành và điều hành.
Thi hành án dân sự là một dạng hoạt động mang tính hành chính - tư
pháp của Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư
pháp, bảo đảm hiệu lực thực tế của các bản án của Tòa án. Hoạt động này do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền (bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước về
thi hành án và cơ quan trực tiếp thi hành án) thực hiện.

Như đã phân tích ở trên, căn cứ để cơ quan thi hành án dân sự tổ chức
thi hành án là các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án và quyết định của
Trọng tài thương mại có hiệu lực thi hành. Sau khi bản án, quyết định có hiệu
lực, cơ quan thi hành án sẽ căn cứ vào nội dung của bản án, quyết định (trường
hợp cơ quan thi hành án chủ động thi hành án), căn cứ vào đơn yêu cầu thi hành
án và bản án, quyết định (trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu của người
được thi hành án, người phải thi hành án) để thi hành án. Cơ quan thi hành án có
trách nhiệm tổ chức thi hành đúng nội dung của bản án, quyết định; người được
thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến
việc thi hành án phải nghiêm chỉnh thi hành, các cơ quan nhà nước, tổ chức

24
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang và cá nhân tôn trọng [50]. Chính vì
vậy, ở đây thể hiện rất rõ tính chấp hành trong hoạt động thi hành án dân sự.
Đồng thời, chấp hành viên với tư cách là người được Nhà nước trao quyền và
chịu trách nhiệm điều hành quá trình tổ chức thi hành án, chấp hành viên căn
cứ vào các quy định của pháp luật về thi hành án chủ động phối hợp với các
cơ quan hữu quan để giải quyết các vấn đề có liên quan đến thi hành án. Đặc
biệt, trong nhiều trường hợp chấp hành viên còn chịu trách nhiệm và điều
hành cả các thành viên thuộc các cơ quan, tổ chức khác có tham gia vào quá
trình thi hành án. Ví dụ: làm Chủ tịch Hội đồng cưỡng chế, Chủ tịch Hội đồng
định giá tài sản, tiêu hủy tài sản
Mặt khác, hầu hết các hoạt động thi hành án đều hướng đến việc thực
hiện các nghĩa vụ về tài sản, trực tiếp tác động đến tài sản của các đương sự.
Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì cơ quan thi
hành án chịu trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án
về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế; bản án, quyết định dân sự
của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án
Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định về dân sự,

phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản thu
lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Tòa án về hình sự; quyết
định về phần tài sản trong bản án, quyết định về hành chính; quyết định
tuyên bố phá sản, quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam và bản án,
quyết định khác do pháp luật quy định. Như vậy, có thể thấy mọi hoạt động
của cơ quan thi hành án đều nhằm tới việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
liên quan đến tài sản theo nội dung quyết định của bản án, quyết định của
Tòa án - kết quả của hoạt động tư pháp. Trừ duy nhất một trường hợp là cơ
quan thi hành án tổ chức thi hành nghĩa vụ liên quan đến nhân thân đó là tổ
chức cưỡng chế cấm hoặc buộc người phải thi hành án không làm hoặc làm
công việc nhất định.

25
- Hoạt động thi hành án được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt
chẽ do pháp luật quy định.
Hoạt động thi hành án được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt
chẽ do pháp luật quy định từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, trên một cơ sở
pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo sự công bằng trong thực hiện quyền và
nghĩa vụ của các bên trong thi hành án.
- Thi hành án chỉ nhằm thực hiện các bản án, quyết định của cơ quan
tài phán.
Nó có tính chất bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức cơ quan có liên quan
đến bản án, quyết định của Tòa án. Việc không chấp hành, chấp hành không
nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án sẽ dẫn đến những hậu quả pháp
lý nhất định và có thể phải bị xử lý bằng các chế tài pháp luật nghiêm khắc.
- Tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự
Trong quá trình thi án, những người phải thi hành án và những người
được thi hành án vẫn có thể tự thỏa thuận với nhau để tự thi hành án phù hợp
với pháp luật và đạo đức xã hội. Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm
theo dõi, giám sát và ghi nhận việc tự thỏa thuận thi hành của các bên đương

sự. Đây là một hành lang "mở" nhằm tiếp tục bảo đảm nguyên tắc tự định
đoạt của các đương sự trong tố tụng dân sự ở giai đoạn thi hành án. Và chính
hành lang "mở" này đã và đang tạo ra những điều kiện quan trọng làm luận cứ
cho chủ trương xã hội hóa một số mặt hoạt động của thi hành án dân sự, giảm
thiểu sự can thiệp, hỗ trợ của Nhà nước, tăng tính chủ động của các đương sự,
phù hợp với những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về
nâng cao tính tích cực xã hội của công dân trong quản lý nhà nước và xã hội.
Khác với thi hành án hình sự, người bị kết án phải chấp hành nghiêm
chỉnh bản án, quyết định của Tòa án, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thi
hành án hình sự có trách nhiệm phải tổ chức thi hành dứt điểm các hình phạt
đối với người phạm tội. Trong thi hành án dân sự, ngoài các trường hợp cơ

26
quan thi hành án phải chủ động ra quyết định thi hành án (án phí, lệ phí Tòa
án, trả lại tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án; hình phạt tiền; tịch thu tài sản,
truy thu thuế, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính; xử lý vật chứng, tài
sản đã thu giữ; thu hồi đất theo quyết định của Tòa án; quyết định khẩn cấp
tạm thời của Tòa án), cơ quan thi hành án chỉ tổ chức thi hành án trên cơ sở
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án và người phải thi hành. Cơ
quan thi hành án chỉ ra quyết định trong phạm vi yêu cầu của người được
thi hành án, người phải thi hành án. Đồng thời, người được thi hành án có
quyền yêu cầu không thi hành án, hoặc cho người phải thi hành án hoãn việc
thi hành án; thỏa thuận với người phải thi hành án về phương thức, địa điểm
thi hành án.
- Thi hành án dân sự đề cao tính chủ động của chấp hành viên
Tùy từng trường hợp cụ thể, Chấp hành viên được lựa chọn biện
pháp thích hợp, chủ động giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình thi
hành án (cưỡng chế, kê biên tài sản, ủy thác thi hành án) sao cho việc thi hành
án đạt được mục đích và hiệu quả miễn là đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa.

Trong thi hành án dân sự, tính chủ động trong hoạt động tác nghiệp
của chấp hành viên được đề cao. Chấp hành viên căn cứ vào các quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự, căn cứ vào tình hình thực tế của vụ việc để
lựa chọn các biện pháp thi hành phù hợp. Ví dụ, vụ việc đơn giản, ý thức chấp
hành pháp luật của người phải thi hành án tốt, thì chấp hành viên lựa chọn
biện pháp giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành các
nghĩa vụ của mình theo đúng phán quyết của Tòa án hoặc của Trọng tài
thương mại (trường hợp người được thi hành án yêu cầu người phải thi hành
án thi hành toàn bộ các nghĩa vụ theo quyết định của bản án, quyết định của
Tòa án). Ngược lại, nếu sau khi xác minh thấy đương sự có điều kiện để thi
hành án, nhưng xét thấy người phải thi hành án ý thức chấp hành pháp luật

×