Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.33 KB, 89 trang )


4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
6
1.1.
Quyền tiếp cận thông tin
6
1.2.
Ý nghĩa của quyền tiếp cận thông tin
12

Chương 2: QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG PHÁP LUẬT
QUỐC TẾ


16
2.1.
Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế
16
2.1.1.
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948
16
2.1.2.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966
17
2.1.3.
Luật mẫu về tự do thông tin (do ARTICLE 19 xây dựng)
19
2.1.3.1.
Các nguyên tắc của Luật mẫu về tự do thông tin
19
2.1.3.2.
Một số nội dung cơ bản của Luật mẫu về tự do thông tin
22
2.1.4.
Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003
29
2.2.
Xu hướng ban hành và đặc điểm luật tiếp cận thông tin của
các quốc gia trên thế giới
31

Chương 3: QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG PHÁP LUẬT
VIỆT NAM
43

3.1.
Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin
43
3.2.
Nguyên nhân thực trạng, nhu cầu và giải pháp hoàn thiện
pháp luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam
65

5
3.2.1.
Nguyên nhân thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền tiếp
cận thông tin
65
3.2.2.
Nhu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền
tiếp cận thông tin ở Việt Nam
72



KẾT LUẬN
81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
83


6
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiếp cận thông tin đã trở thành một nhu cầu và một quyền cấp thiết cần
phải bảo đảm đối với mọi công dân bởi thông tin, đặc biệt là thông tin về pháp
luật, chính sách và hoạt động của các cơ quan nhà nước được coi là yếu tố cốt
yếu trong mọi hoạt động khi xã hội được quản lý, vận hành theo nguyên tắc của
nhà nước pháp quyền.
Quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin là quyền cơ bản của
con người, đây không phải là khái niệm mới nhưng nó chỉ trở thành mối quan
tâm trên phạm vi quốc tế sau khi Liên hợp quốc ra đời. Trong phiên họp thứ
nhất, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 59, quy định: tự
do thông tin là quyền con người cơ bản và là nền tảng của tất cả các quyền tự
do khác. Tiếp đó, bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người được
thông qua vào năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 và trong một số công ước quốc tế như Công ước quốc tế về quyền
trẻ em năm 1989, Công ước quốc tế về chống tham nhũng năm 2003… cũng
đều đề cập đến quyền tiếp cận thông tin.
Nhiều quốc gia cũng đã công nhận tầm quan trọng của tiếp cận thông
tin với tư cách là một quyền của con người và cũng là một quyền quan trọng
trong việc nâng cao khả năng điều hành, tăng cường tính minh bạch, phòng và
chống tham nhũng trong các hoạt động của Chính phủ. Điều này được ghi
nhận bằng các đạo luật của quốc gia. Trên thế giới, tính đến tháng 9 năm
2009, đã có 140 quốc gia ban hành Luật về tiếp cận thông tin. Rất nhiều quốc
gia cũng đang trong quá trình chuẩn bị ban hành luật này hoặc ban hành nghị
định riêng để điều chỉnh về vấn đề này.
Ở Việt Nam, quyền tiếp cận thông tin là một trong những quyền cơ bản
của con người, Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền được thông tin.

7
Theo đó, công dân có quyền được biết những chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, được thông tin những vấn đề cấp thiết, gắn liền với cuộc sống

hàng ngày. Quyền được thông tin của người dân phản ánh bản chất xã hội ta là
Nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi việc của quốc gia phải được cho dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Trước đây, vì nhiều lý do, nhất là trải qua chiến tranh, nên việc tạo điều
kiện cho công dân được thông tin còn hạn chế. Đến nay, chúng ta nhận thấy
quyền tiếp cận thông tin là quyền rất cần thiết và quyền đó phải được thể hiện
một cách chính thống thông qua một đạo luật để quy định cụ thể những gì
người dân được thông tin, những gì hạn chế, cấm thông tin. Vì vậy, việc nghiên
cứu quyền tiếp cận thông tin trên cơ sở những quy định của pháp luật quốc tế
và pháp luật Việt Nam là vô cùng cần thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật hiện hành.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Trên thực tế, quyền tiếp cận thông tin đã có nhiều công trình nghiên cứu
do các học giả, cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước thực hiện như: đề tài của
nhóm tác giả: Nguyễn Đăng Dung - Phạm Hồng Thái - Vũ Công Giao - Trịnh
Quốc Toàn - Lã Khánh Tùng (2011), "Tiếp cận thông tin: pháp luật và thực
tiễn trên thế giới và ở Việt Nam", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; đề
tài cấp bộ của PGS.TS Thái Vĩnh Thắng năm 2011: "Cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin phục vụ xây dựng Luật
tiếp cận thông tin", đề tài của GS.TS Nguyễn Đăng Dung và TS. Vũ Công Giao
(2011), "Dự thảo Luật tiếp cận thông tin của Việt Nam: phân tích, so sánh với
Luật mẫu của ARTICLE 19 và luật của một số nước trên thế giới", Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 2.
Bên cạnh đó có rất nhiều Hội thảo trong nước được tổ chức nhằm
nghiên cứu về quyền tiếp cận thông tin, như: Hội thảo "Quyền tiếp cận thông
tin - Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam" do Viện Nghiên cứu Quyền con người,

8
Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Đại sứ
quán Anh tổ chức ngày 10 - 11/01/2008, tại Hà Nội nhằm góp phần cung cấp

những cơ sở khoa học, pháp lý cho việc nghiên cứu, soạn thảo Luật về bảo đảm
quyền được thông tin của công dân. Bộ Tư pháp cũng đã tổ chức Hội thảo "Xây
dựng Luật tiếp cận thông tin ở Việt Nam" tại Hà Nội trong hai ngày 06 -
07/5/2009 với sự tham gia của đại diện Ban soạn thảo, Tổ biên tập Luật tiếp cận
thông tin, các chuyên gia quốc tế, chuyên gia nghiên cứu Việt Nam và đại diện
một số cơ quan, ban, ngành có liên quan tại trung ương và địa phương. Tham dự
Hội thảo còn có bà Kara Owen - Phó Đại sứ Anh tại Việt Nam, và ông Toby
Mendel - chuyên gia nghiên cứu về tiếp cận thông tin của Tổ chức Article 19
để trao đổi kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và thực hiện Luật Tiếp cận thông
tin. Và ngày 19/8/2009, tại thành phố Nha Trang được sự hỗ trợ của Trung tâm
Nhân quyền Na Uy, Hội Luật Gia Việt Nam đã tổ chức Hội thảo về "Dự thảo
Luật Tiếp cận thông tin - kinh nghiệm của một số nước trên thế giới" dưới sự
chủ trì của Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam Phạm Quốc Anh, GS.TSKH Đào Trí
Úc - Phó chủ tịch Thường trực kiêm Tổng thư kí Hội Luật gia Việt Nam và ông
Fredrik Steen, Giám đốc Chương trình Việt Nam, Trung tâm nhân quyền Na Uy.
Tuy nhiên, vẫn có ít công trình đề cập đến quyền tiếp cận thông tin theo
hướng nghiên cứu tổng thể giữa các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam. Vì vậy, tác giả chọn đề tài "Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam" làm đề tài luận văn của mình với mong muốn
góp phần làm rõ thêm những quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam về vấn đề này, cũng như xác định nguyên nhân và gợi ý một số giải pháp
để thực thi có hiệu quả những quy định về quyền tiếp cận thông tin trong pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu
Luận văn nhằm góp phần làm rõ khái niệm, cơ sở hình thành, phát
triển của quyền tiếp cận thông tin và nghiên cứu các quy định của pháp luật

9
quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền tiếp cận thông tin. Đồng thời luận

văn cũng tập trung phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn đặt ra đối với
việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, từ đó đề xuất các giải
pháp để hoàn thiện các cơ chế pháp lý ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích một cách tổng thể những quy định về quyền tiếp cận thông
tin trong pháp luật quốc tế và trong pháp luật Việt Nam.
- Phân tích thực trạng pháp luật về quyền tiếp cận thông tin ở Việt
Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp pháp lý, thực tiễn nhằm hoàn thiện khuôn
khổ pháp luật bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Quyền tiếp cận thông tin bao gồm những vấn đề rất rộng và được quy
định trong rất nhiều những văn bản quốc tế và quốc gia. Dưới góc độ luật học và
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả sẽ nghiên cứu một cách tổng thể
trên cơ sở khái quát các quy định có liên quan để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu,
luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông thường của khoa học xã
hội và luật học như: phân tích, tổng hợp, so sánh,… Luận văn này tiếp cận
theo hướng nghiên cứu định tính.
Nguồn tài liệu nghiên cứu là các văn bản pháp luật quốc tế và quốc gia
về vấn đề quyền tiếp cận thông tin, cũng như một số báo cáo, nghiên cứu,
đánh giá của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội về vấn đề này ở Việt Nam.
6. Đóng góp của luận văn
Với việc nghiên cứu tổng thể các quy định về quyền tiếp cận thông tin
trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, tác giả hi vọng những kiến thức

10
trong luận văn sẽ góp phần bổ sung thêm vào nguồn tài liệu nghiên cứu về
quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam. Đồng thời, những giải pháp, phương

hướng đưa ra trong Luận văn sẽ được đánh giá và sử dụng để góp phần hoàn
thiện hơn pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về quyền tiếp cận thông tin.
Chương 2: Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật quốc tế.
Chương 3: Quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật Việt Nam.


11
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN

1.1. QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
Khái niệm quyền tiếp cận thông tin
Quyền tiếp cận thông tin (the right of access to information) theo
nghĩa chung là nói về khả năng của tổ chức, cá nhân nhận được thông tin về
hoạt động của các cơ quan công cộng qua các kênh thông tin công khai, sẵn
có mà không cần phải yêu cầu.
Trong ngôn ngữ tiếng Việt, thuật ngữ thông tin được hiểu là "tin tức
về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh" [55]. Theo cách hiểu này thì
mọi tin tức về các sự kiện diễn ra trên thế giới tự nhiên và xã hội đều trở
thành thông tin. Thực tiễn không phải mọi thông tin đó đều có ý nghĩa với nhà
nước, xã hội; đều được sử dụng trong quản lý nhà nước và là nhu cầu cần
thiết của mọi công dân, tổ chức. Mặt khác, trong đời sống nhà nước, xã hội,
không chỉ có sự kiện mới là những thông tin mà còn là những số liệu, sự thực,
hiện tượng, các quá trình, quan hệ đều trở thành những thông tin phục vụ cho
hoạt động nhà nước. Nhưng để sử dụng một cách có hiệu quả đòi hỏi phải thu
thập, xử lý và hệ thống hóa những thông tin đó dưới những hình thức nhất định.

Ngày nay, trong một thế giới mở, nhu cầu thông tin của cá nhân, tổ
chức ngày càng nhiều, càng đa dạng, phong phú, tùy theo nhu cầu của mình
mà cần những thông tin khác nhau: thông tin về tri thức của nhân loại trên các
lĩnh vực tự nhiên, xã hội; thông tin chính trị, thông tin kinh tế, xã hội, thông
tin pháp luật; thông tin trong nước, thông tin quốc tế Như vậy, có bao nhiêu
chủ thể - cá nhân, tổ chức thì có bấy nhiêu nhu cầu khác nhau về thông tin.
Trong quyền tiếp cận thông tin, thông tin được tiếp cận chủ yếu là những
thông tin do các cơ quan công cộng nắm giữ mà chủ thể có quyền tìm kiếm,

12
tiếp cận và phổ biến nhằm mục đích thực hiện hoặc bảo vệ các quyền; lợi ích
hợp pháp của mình.
Chủ thể của quyền tiếp cận thông tin: gồm hai loại chủ thể là chủ thể
có quyền tiếp cận thông tin và chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin
- Chủ thể có quyền tiếp cận thông tin: gồm tất cả mọi cá nhân, công
dân, tổ chức. Với tư cách là chủ thể có quyền, họ nhận được những thông tin
cần thiết qua các kênh truyền thông công khai, sẵn có mà không cần phải yêu
cầu; được yêu cầu các chủ thể có nghĩa vụ cung cấp những thông tin mà mình
cần hoặc quan tâm trong phạm vi khuôn khổ pháp luật cho phép; và được
truyền đạt, chia sẻ quan điểm, thông tin với các chủ thể có quyền khác không
phân biệt ranh giới hay hình thức phổ biến.
- Chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin: gồm các cơ quan công cộng.
Theo quan điểm pháp lý của một số nước, chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông
tin thậm chí có thể là tư nhân có hoạt động công quyền, kể cả các doanh
nghiệp có sử dụng ngân sách công hoặc ngân sách nhà nước. Với tư cách là
chủ thể có nghĩa vụ cung cấp thông tin, họ phải công khai những thông tin và
hoạt động của mình một cách thường xuyên; có trách nhiệm cung cấp thông
tin khi có yêu cầu của chủ thể có quyền; tôn trọng, không được ngăn cản quan
hệ trao đổi, phổ biến thông tin của các chủ thể có quyền.
Các hình thức công khai thông tin

Để bảo đảm những thông tin phục vụ cho nhu cầu của mình, của cộng
đồng, xã hội, mỗi chủ thể khác nhau có thể tự tìm kiếm, xử lý thông tin qua
các kênh như: phương tiện thông tin đại chúng; các ấn phẩm khoa học; văn
kiện, văn bản của các cơ quan nhà nước và các tổ chức khác nhau trong xã
hộp; niêm yết công khai tại trụ sở của cơ quan nhà nước; thông qua mạng
điện tử của cơ quan nhà nước; công bố cuộc họp; thông báo bằng văn bản;
hay thông qua người phát ngôn chính thức của cơ quan, đơn vị

13
Giới hạn của việc công khai thông tin
Mỗi cá nhân là một thành viên trong cộng đồng, xã hội, mỗi tổ chức là
một bộ phận, thiết chế cấu thành xã hội luôn có nhu cầu trao đổi thông tin cho
nhau. Chính từ đây nảy sinh quyền thu thập, xử lý, bảo quản thông tin, quyền
sử dụng thông tin, quyền trao đổi thông tin, quyền yêu cầu, đòi hỏi các chủ
thể khác cung cấp thông tin cho mình. Khi có những thông tin, các cá nhân, tổ
chức vì những mục đích khác nhau lại có nhu cầu truyền thông tin của mình
cho các chủ thể khác nhau xã hội. Tất cả những quyền này hợp thành "quyền
về thông tin" của cá nhân, tổ chức.
Khi các cá nhân, tổ chức có quyền về thông tin, thì cũng cần phải ý
thức được rằng quyền về thông tin cũng có phạm vi, giới hạn nhất định. Nếu
vượt qua giới hạn của nó sẽ xâm phạm với quyền của chủ thể khác trong xã
hội. Đó là những bí mật của cá nhân, tổ chức, nhà nước, các tổ chức chính trị,
chính trị - xã hội và các tổ chức khác. Vì vậy, tự do thông tin không phải tất
cả các tin tức của nhà nước đang nắm giữ sẽ công khai hết, và tiếp cận thông
tin không đồng nhất với việc cá nhân, công dân được tự do tìm kiếm, tiếp cận
tất cả các loại hồ sơ, tài liệu lưu giữ thông tin. Việc thực hiện quyền này kèm
theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt, và do đó có thể dẫn tới một số
hạn chế nhất định do pháp luật quy định. Những giới hạn đó là: tôn trọng các
quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công
cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng.

Nói chung, những giới hạn của quyền tiếp cận thông tin phải được
pháp luật cho phép hay quy định trước. Điều đó có nghĩa là, việc giới hạn
thực hiện quyền này phải được quy định cụ thể trong pháp luật của quốc gia.
Theo đó, chính phủ mỗi nước cần xác định rõ những loại thông tin nào là
thông tin công cần phải được công khai và những loại thông tin nào cần phải
được bảo mật. Nguyên tắc chung là không cần thiết phải giữ kín nếu như việc
tiết lộ các loại thông tin đó không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật

14
tự, sức khỏe, đạo đức của công chúng; không phương hại tới quyền hoặc uy
tín của người khác.
Hiện nay, xu hướng chung các nước trên thế giới là áp dụng nguyên
tắc chính phủ mở theo hướng minh bạch hóa, công khai hóa và tính trách
nhiệm. Vì vậy, nếu việc can thiệp chỉ thuần túy dựa trên một quyết định hành
chính, hay ý kiến chủ quan của cơ quan công quyền mà không rõ ràng, không
có căn cứ pháp lý cụ thể có thể dẫn tới vi phạm quyền tiếp cận thông tin của
cá nhân đã được pháp luật quốc tế quy định.
Khái quát quyền tiếp cận thông tin trong quy định của pháp luật quốc
tế và pháp luật Việt Nam
Quyền tiếp cận thông tin đôi khi còn được gọi theo nghĩa rộng là quyền
tự do thông tin hay gọi tắt là quyền được thông tin, là một trong những quyền
cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị. Nó được dùng để
chỉ quyền của công dân được biết thông tin của Nhà nước, theo các cách thức
trực tiếp lẫn gián tiếp, để thỏa mãn các nhu cầu cuộc sống của mình cũng như
để bảo vệ và thực hiện các quyền năng khác đã được pháp luật ghi nhận.
Quyền tiếp cận thông tin của con người được ghi nhận trong Tuyên
bố toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966. Các quyền này tiếp tục được khẳng
định trong Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng; Tuyên bố
Rio về môi trường và phát triển; Công ước UNECE về tiếp cận thông tin

môi trường. Đến nay, ngày càng có nhiều điều ước, hiệp ước quốc tế, kế
hoạch hành động, các tuyên bố quốc tế yêu cầu hoặc khuyến khích các quốc
gia ban hành Luật tiếp cận thông tin. Nhiều quốc gia đã công nhận tầm quan
trọng của tiếp cận thông tin với tư cách là một quyền của con người và cũng
là một quyền quan trọng trong việc nâng cao khả năng điều hành, tăng
cường tính minh bạch, phòng và chống tham nhũng trong các hoạt động của
Chính phủ.

15
Quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin đã được quy định
trong rất nhiều Hiến pháp của các quốc gia. Trên 90 quốc gia có các quy định
trong Hiến pháp trao cho các công dân quyền được tiếp cận thông tin. Số
lượng các Hiến pháp có các quy định này đã tăng đáng kể trong vòng 10 năm
qua. Hầu hết Hiến pháp thành văn mới ban hành của các quốc gia đang
chuyển đổi, đặc biệt là ở Đông Âu, Trung Âu và châu Mỹ La tinh đều có quy
định về quyền tiếp cận thông tin. Ngoài ra, một số quốc gia đã ban hành Hiến
pháp từ lâu đời, trong đó có Phần Lan và Na Uy, gần đây đã sửa đổi Hiến
pháp của mình và bổ sung quy định về quyền tiếp cận thông tin.
Ở một số quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pakistan, Israel
và Pháp, Tòa án tối cao đã ra phán quyết rằng, quyền tiếp cận thông tin là
quyền hiến định và là một yếu tố điển hình của quyền tự do ngôn luận và
quyền tự do báo chí. Khoảng một nửa các quốc gia mà Hiến pháp quy định về
quyền tiếp cận thông tin đã ban hành Luật về tiếp cận thông tin hoặc tự do
thông tin.
Một số Luật tự do thông tin hoặc tiếp cận thông tin nêu rõ là bản thân
các quy định về quyền tiếp cận thông tin đã là các quy định hiến định, ví dụ
như ở Thụy Điển, Luật Tự do báo chí là một trong bốn đạo luật nền tảng tạo
thành Hiến pháp của Thụy Điển. Một số quốc gia quy định Luật thông tin có
địa vị pháp lý cao hơn các luật khác. Ở Canada, Tòa án đã tuyên bố rằng Luật
về Tiếp cận thông tin là quy định mang tính chất của Hiến pháp. Ở Newzeland,

vào năm 1988, Tòa phúc thẩm đã phán quyết rằng tầm quan trọng của Luật
Thông tin chính thức là ở chỗ, các biện pháp trong Luật này có thể được coi là
các biện pháp mang tính hiến định.
Trên thế giới, tính đến tháng 9 năm 2009, đã có 140 quốc gia ban hành
Luật về tiếp cận thông tin. Rất nhiều quốc gia cũng đang trong quá trình
chuẩn bị ban hành luật này hoặc ban hành nghị định riêng để điều chỉnh về
vấn đề này.

16
Ở Việt Nam, quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin đã
được thể hiện trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua
Đại hội VII năm 1991 khẳng định: bảo đảm quyền được thông tin của công
dân. Thể chế hóa đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 1992 quy định rõ: "Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin…" [28].
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992 về bảo đảm quyền được
thông tin, nhằm phát huy dân chủ ở cơ sở, năm 1998 Chính phủ đã ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, ban hành kèm theo Nghị
định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998, được sửa đổi năm 2003 trong đó
quy định những việc chính quyền địa phương phải có trách nhiệm thông tin và
công khai để dân biết những công việc ở địa phương.
Những năm gần đây, Quốc hội cũng đã ban hành nhiều luật, trong đó
có quy định về công khai thông tin như thông tin về ngân sách, tài chính công,
thông tin về tài chính kế toán doanh nghiệp, thông tin về kiểm toán và kết quả
kiểm toán (Luật kiểm toán nhà nước), công khai về nhà ở, quỹ nhà, nhà ở
thương mại (Luật Nhà ở), công khai minh bạch trong hoạt động của nhà nước
và quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định
trong Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí; cung cấp thông tin trên lĩnh vực môi trường (Luật Bảo vệ môi trường
năm 2005); thông tin, truyền thông về phòng chống bệnh truyền nhiễm (Luật

Phòng chống bệnh truyền nhiễm năm 2007)
Thông qua việc ban hành các văn bản có các nội dung quy định về
quyền được thông tin của người dân, nhà nước ta luôn quan tâm đến quyền
được thông tin của người dân. Tuy nhiên, phải nhận thấy là, các quy định về
nội dung này còn chung chung, chưa làm rõ trách nhiệm khi quyền tiếp cận
thông tin của người dân không được tôn trọng. Điểm rất thiếu của các quy
định trên là vắng bóng các thủ tục thực hiện các quyền và trách nhiệm cung

17
cấp thông tin như hình thức yêu cầu tiếp cận, hình thức cung cấp thông tin và
thời hạn thực hiện chúng… Thiếu các quy định về thủ tục thì các quy định về
nội dung khó có thể thực thi được trên thực tế. Cũng vì vậy mà việc thực thi
quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam còn nhiều hạn chế.
Mặt khác, ở nước ta hiện nay chưa có một đạo luật riêng về bảo đảm
quyền được thông tin của công dân. Để bảo đảm quyền được thông tin của
công dân, việc xây dựng Luật Tiếp cận thông tin ở Việt Nam là một yêu cầu
cấp thiết. Nắm được thông tin và xử lý thông tin là những điều kiện quan
trọng để thực thi quyền lực, dù đó là quyền lực của Nhà nước hay quyền hiến
định của các công dân. Luật Tiếp cận thông tin sẽ tạo một thói quen mới trong
quá trình tiếp cận thông tin của người dân và của toàn xã hội. Thói quen cung
cấp thông tin, đón nhận thông tin phản hồi, xử lý chính xác các thông tin mình
có là các thói quen tốt của xã hội dân sự. Luật Tiếp cận thông tin cũng sẽ là
một phương tiện hữu hiệu để đảm bảo nguyên tắc hoạt động quyền lực nhà
nước "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
Minh bạch thông tin là yêu cầu cấp thiết trong một xã hội văn minh.
Việc thiếu minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý nhà nước và thiếu cơ
chế tiếp cận thông tin là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, lạm quyền. Vì vậy,
trong Luật Tiếp cận thông tin, quyền được thông tin của công dân phải được quy
định cụ thể thành trình tự, thủ tục bảo đảm quyền được biết, quyền được nhận,
quyền được tiếp cận và quyền được phổ biến, được chia sẻ thông tin một cách tự

do. Xây dựng Luật Tiếp cận thông tin là một bước hoàn thiện hơn nữa hệ thống
pháp luật, nhằm bảo đảm thực hiện các quyền công dân một cách tốt hơn.
1.2. Ý NGHĨA CỦA QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
Quyền tiếp cận thông tin hay quyền tự do thông tin được quy định và
thừa nhận rộng rãi trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người
và pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Quyền này không chỉ là công cụ,
phương tiện thiết yếu để công dân có điều kiện tham gia vào công việc nhà

18
nước, quản lý, giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền, mà còn góp
phần nâng cao tính minh bạch, tính trách nhiệm trong hoạt động của cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa bệnh quan liêu, phòng
ngừa tham nhũng và các hành vi sai trái về chính quyền. Các nhà báo điều tra
và các tổ chức phi chính phủ làm nhiệm vụ giám sát có thể sử dụng quyền tiếp
cận thông tin để vạch trần những hành vi sai trái nhằm loại bỏ nó.
Ngày nay hầu khắp các quốc gia và các tổ chức quốc tế đều có chung
một nhận thức tự do thông tin là một quyền cơ bản của con người. Thực hiện
được quyền này là điều kiện cần thiết để các cá nhân có thể bảo vệ hữu hiệu
các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, ngăn ngừa và chống lại các
hành vi lạm dụng quyền lực, thúc đẩy dân chủ hóa và minh bạch hóa quá trình
hoạch định chính sách và ban hành pháp luật, thực thi pháp luật, củng cố lòng
tin và tăng cường sự ủng hộ của dân chúng với các chủ trương và chính sách
của chính quyền, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Một khi người dân chủ
động tham gia vào các hoạt động của nhà nước và xã hội; đóng góp ý kiến
vào xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật, sẽ giúp cho nhà nước hoạch
định chính sách, pháp luật vừa sát thực tế, vừa hợp với lòng dân, sẽ bảo đảm
sự đồng thuận xã hội trước khi ban hành quyết định, qua đó giúp cho điều
hành và quản trị xã hội được hiệu quả hơn.
Thông tin công khai và bảo đảm quyền tiếp cận công bằng sẽ giảm
thiểu sự độc quyền và lũng đoạn thông tin; tăng cường khả năng cạnh tranh

lành mạnh trong xã hội, qua đó, củng cố lòng tin của người dân đối với nhà
nước và chế độ xã hội, mở rộng các hoạt động chính trị, xã hội và làm cho đất
nước ngày một phồn thịnh, an ninh trật tự được giữ vững; các nhóm lợi ích
trong xã hội được duy trì và bảo đảm công bằng, phát triển hài hòa.
Bên cạnh đó, tự do thông tin còn giúp cho việc nâng cao tính trách
nhiệm của nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ
và thực hiện các quyền khác của con người được tốt hơn. Người dân có điều

19
kiện kiểm chứng quyền và nghĩa vụ của người dân được cơ quan công quyền
tôn trọng và thực hiện ở mức độ nào.
Đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng, tiếp cận thông tin giúp cho
các nhà đầu tư, nhà sản xuất, kinh doanh lựa chọn thị trường, nắm bắt được
nhu cầu, thị hiếu, về chính sách, pháp luật, sẽ giảm được chi phí khởi nghiệp,
tránh rủi ro; và qua đó tin tưởng hơn vào các kế hoạch sản xuất, kinh doanh
của mình; xây dựng cho mình các chiến lược,kế hoạch đầu tư, sản xuất kinh
doanh ngắn hạn và dài hạn, dự liệu và tiên đoán được những thay đổi và kịp
thời điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình cho phù hợp. Cụ thể:
- Về phía doanh nghiệp: tiếp cận được thông tin về trình tự, các thủ
tục hành chính, tư pháp sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với các cơ
quan công quyền trong việc thực hiện các thủ tục cần thiết liên quan đến hoạt
động đầu tư, sản xuất, kinh doanh… Minh bạch hóa các thủ tục này cũng giúp
phần giảm thiểu khả năng nhũng nhiễu và lạm dụng quyền lực từ phía cơ
quan công quyền. Tiếp cận được thông tin về những phán quyết của tòa án và
các cơ quan có thẩm quyền khác liên quan đến giải quyết tranh chấp trong đầu
tư, kinh doanh, thương mại sẽ giúp các doanh nghiệp tiên lượng được những
gì có thể xảy ra và tránh được những điều cần tránh. Hơn nữa, công khai các
phán quyết, quyết định giải quyết tranh chấp sẽ bảo đảm các cơ quan giải
quyết được khách quan hơn, tự nâng cao trách nhiệm đối với việc ban hành
quyết định và ra các bản án.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tự do thông tin về
những cam kết trong hội nhập kinh tế, quốc tế, về luật lệ, nguyên tắc kinh
doanh, làm ăn với các đối tác nước ngoài còn là cơ sở giúp doanh nghiệp, các
nhà đầu tư tự tin, sẵn sàng, chủ động hơn trong quá trình hội nhập, giảm thiểu
khả năng rơi vào tình thế bị động trước các đối thủ cạnh tranh.
- Về phía người tiêu dùng, tự do thông tin giúp cho người tiêu dùng
lựa chọn được sản phẩm hàng hóa đúng mẫu mã, chất lượng và giá thành;

20
tránh mua phải hàng nhái, hàng kém chất lượng; qua đó cải thiện cuộc sống vật
chất, tinh thần, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.
Qua những vấn đề nêu trên cho thấy, "quyền tiếp cận thông tin" là một
trong những công cụ pháp lý quan trọng nhất để làm trong sạch và nâng cao
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, phòng chống tham nhũng và dân
chủ hóa xã hội. Chính vì vậy, chỉ trong khoảng ba thập kỷ vừa qua, đã có
hàng trăm quốc gia ban hành văn bản pháp luật riêng về quyền tiếp cận thông
tin dựa trên các văn kiện quốc tế mà quốc gia đó ký kết, tham gia và dựa trên
tình hình cụ thể của đất nước. Sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của
mỗi nước, tác động từ bên ngoài, sức ép từ phía công chúng, các nhóm xã hội,
giới truyền thông, nhu cầu đấu tranh chống tham nhũng vì sự bình đẳng, tiến
bộ xã hội và phát triển kinh tế cũng đòi hỏi mỗi quốc gia không thể tự mình
tách ra khỏi thế giới mà phải chuyển mình, mở rộng và thực hiện tốt hơn các
quyền công dân bao gồm quyền tiếp cận thông tin cũng như các quyền liên
quan. Có thể nói, ban hành Luật tự do thông tin hay tiếp cận thông tin là một
yêu cầu bức thiết của hầu hết các nước trên thế giới. Nó đi đôi với việc ban
hành hay sửa đổi các đạo luật khác liên quan đến quyền tiếp cận thông tin từ
công chúng, đảm bảo quyền tìm kiếm thông tin, phổ biến, trao đổi thông tin
(ngoại trừ một số it những thông tin liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật cá
nhân, bí mật thương mại, bí mật điều tra tội phạm) của mọi cá nhân phục vụ
cho lợi ích của cộng đồng, của tập thể và cá nhân. Ở Việt Nam, quyền được

thông tin của công dân, tổ chức từ lâu đã được ghi nhận trong nhiều văn bản
pháp luật của nhà nước, tuy vậy chúng ta vẫn chưa có một đạo luật riêng quy
định về quyền tiếp cận thông tin.

21
Chương 2
QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ

2.1. QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
Tự do thông tin hay tiếp cận thông tin là một quyền cơ bản của mỗi
con người. Quyền này cho phép và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây là một sự bảo vệ quan trọng
chống lại những hình thức lạm dụng, những việc làm sai trái và tham nhũng.
Quyền này cũng có thể mang đến lợi ích cho các Chính phủ thông qua việc
đem lại sự minh bạch và cởi mở trong các quá trình ra quyết định, qua đó cải
thiện lòng tin của công chúng với các hoạt động của Chính phủ. Quyền tiếp
cận thông tin ngày càng được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật quốc tế. Rất
nhiều điều ước, hiệp ước quốc tế cũng như tuyên bố của các tổ chức quốc tế
và khu vực khuyến khích hoặc ràng buộc các Chính phủ ban hành Luật tự do
thông tin hay tiếp cận thông tin. Các vấn đề về tự do thông tin đã bắt đầu xuất
hiện trên các diễn đàn quốc tế.
2.1.1. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948
Quyền tự do thông tin hay tiếp cận thông tin lần đầu tiên được ghi
nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, Điều 19
quy định: "Mọi người có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến, quyền này
bao gồm quyền tự do giữ quan điểm không có sự can thiệp, và tự do tìm kiếm,
tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào và
không có biên giới" [22].
Có thể thấy, quyền tiếp cận thông tin có quan hệ mật thiết với quyền
tự do ngôn luận. Thực vậy, quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm chỉ có

thể được thực hiện trên thực tế nếu những người có quyền này có khả năng
tiếp cận thông tin mà họ cần để hình thành nên quan điểm của họ.

22
Điều 19 đã đề cập việc bảo vệ và phát triển quyền tự do phát biểu
quan điểm bao gồm cả việc tiếp cận thông tin và các phương tiện truyền
thông. Các quyền này được đảm bảo thông qua sự biện hộ của luật sư, các
chiến dịch, nghiên cứu, tranh tụng và xây dựng quan hệ đối tác. Để đạt hiệu
quả khi áp dụng Điều 19 cần:
- Tăng cường khung pháp lý, thể chế và chính sách cho quyền tự do
phát biểu và tiếp cận thông tin ở cấp toàn cầu, quốc gia và khu vực, bao gồm
cả việc thông qua và phát triển các quy phạm pháp luật đạt tiêu chuẩn;
- Các quốc gia, khu vực nên nhận thức đúng và ủng hộ những sáng
kiến đó;
- Tham gia các nhóm dân sự để xây dựng năng lực toàn cầu, quốc gia
và khu vực, để giám sát chính sách và hành động của chính phủ, của các tập
đoàn, các nhóm chuyên nghiệp và các tổ chức đa phương về vấn đề tự do phát
biểu và tiếp cận thông tin.
- Kêu gọi công dân tham gia vào các vấn đề công cộng mang tính quyết
định toàn cầu thông qua việc thúc đẩy tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin.
2.1.2. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966
Điều 19, khoản 2 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị quy định:
Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả
quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không
phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng hoặc bằng bản viết,
in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện
thông tin đại chúng khác, tùy theo sự lựa chọn của họ [23].
Như vậy, Công ước đã quy định nội hàm khái niệm quyền tự do ngôn
luận bao hàm cả quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin.
- Tự do tìm kiếm thông tin thể hiện tính chủ động hơn là bị động của

mỗi cá nhân để có được thông tin cần thiết mà cá nhân, công dân quan tâm.

23
Cá nhân, công dân có quyền yêu cầu, đề nghị các cơ quan, tổ chức, đơn vị
nắm giữ thông tin công, có nghĩa vụ cung cấp thông tin đó cho mình.
- Tự do tiếp nhận thông tin: cá nhân, công dân được nhận thông tin
qua các kênh khác nhau (các phương tiện thông tin đại chúng như các loại
hình báo chí) và trách nhiệm nhà nước là thường xuyên tổ chức cung cấp
thông tin định kỳ mà Nhà nước nắm giữ để cho công chúng biết, kể cả khi
công dân không có yêu cầu.
- Tự do phổ biến thông tin: cá nhân, công dân có thông tin được quyền
truyền đạt, chia sẻ quan điểm, thông tin mà mình đang nắm giữ cho mọi
người mà không có bất kỳ sự phân biệt nào về ranh giới hay các hình thức
đưa tin.
Ba nội dung trên chính là những nội dung cốt lõi của quyền tiếp cận
thông tin, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc
đảm bảo cho cá nhân, công dân được thực hiện quyền này. Bên cạnh đó,
quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin là những quyền có giới hạn.
Điều này có nghĩa là tiếp cận thông tin không phải tất cả các tin tức của nhà
nước đang nắm giữ sẽ công khai hết, và tiếp cận thông tin không đồng nhất
với việc cá nhân, công dân được tự do tìm kiếm, tiếp cận tất cả các loại hồ sơ,
tài liệu lưu giữ thông tin. Điều 19 khoản 3 Công ước quốc tế về các quyền dân
sự, chính trị năm 1966 quy định: Việc thực hiện quyền này kèm theo những
nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt và do đó có thể dẫn tới một số hạn chế nhất
định do pháp luật quy định.
Như vậy, theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, việc
thực hiện quyền tiếp cận thông tin là có giới hạn và giới hạn đó phải được quy
định trong pháp luật quốc gia, nhằm tôn trọng quyền và uy tín của người
khác; hay vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe
hay đạo đức công chúng.


24
2.1.3. Luật mẫu về tự do thông tin (do ARTICLE 19 xây dựng)
2.1.3.1. Các nguyên tắc của Luật mẫu về tự do thông tin
Để thúc đẩy việc thực thi quyền tiếp cận thông tin, nhiều tổ chức quốc
tế và khu vực đã xây dựng các nguyên tắc chuẩn về quyền quan trọng này.
Trong đó, ARTICLE 19 (một tổ chức phi Chính phủ quốc tế nổi tiếng trên thế
giới chuyên hoạt động nhằm thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin, được thành
lập từ năm 1987 ở Luân Đôn (Anh), lấy tên gọi theo Điều 19 (ARTICLE 19)
của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người) đã đặt ra các nguyên tắc
mẫu cơ bản của quyền tự do thông tin, trong đó có quyền tiếp cận thông tin.
Bộ các nguyên tắc quốc tế này như là những tiêu chuẩn để đánh giá
tính chất tiến bộ của các văn bản pháp luật quốc gia về quyền được tiếp cận
thông tin. Những nguyên tắc này đề cập một cách rõ ràng và cụ thể đến những
cách thức mà các Chính phủ có thể công khai hóa tối đa hoạt động của họ phù
hợp với các tiêu chuẩn và kinh nghiệm quốc tế tốt nhất. Ủy ban của Liên Hiệp
Quốc về quyền con người cũng đã kêu gọi và khuyến nghị các quốc gia cân
nhắc nghiên cứu bộ các nguyên tắc về tiếp cận thông tin.
- Nguyên tắc 1: Công khai thông tin một cách tối đa
Nguyên tắc này hàm nghĩa là tất cả thông tin của các cơ quan công
cộng cần phải được công khai, chỉ có thể bị hạn chế trong một vài trường hợp.
Hiến pháp cần có quy định rõ ràng rằng việc tiếp cận những thông tin chính
thức là một quyền cơ bản. Các cơ quan công cộng có nghĩa vụ công bố thông
tin và mọi thành viên trong xã hội có quyền được tiếp nhận thông tin. Không
nên yêu cầu cá nhân phải chứng minh những lý do cần thiết khi tiếp cận thông
tin mà chính các cơ quan công cộng phải chứng minh rằng thông tin mà họ
muốn giữ bí mật phải nằm trong phạm vi của một số trường hợp ngoại lệ.
- Nguyên tắc 2: Nghĩa vụ công khai
Tự do thông tin không chỉ có nghĩa là các cơ quan công cộng phải đáp
ứng những yêu cầu cung cấp thông tin mà họ còn phải công khai và phổ biến


25
rộng rãi các tài liệu nhằm bảo vệ lợi ích của công chúng, và việc này chỉ có
thể bị hạn chế một cách hợp lý do những nguyên nhân về thiếu nguồn lực và
năng lực. Việc xác định loại thông tin nào cần được công khai phụ thuộc vào
các cơ quan hữu quan. Pháp luật cần quy định nghĩa vụ chung phải công khai
thông tin và danh mục những thông tin chủ chốt cần phải được công khai.
- Nguyên tắc 3: Khuyến khích mô hình Chính phủ mở
Các cơ quan công cộng phải chủ động thúc đẩy mô hình Chính phủ
mở. Thông báo cho công chúng về quyền của họ và thúc đẩy một nền văn hóa
trong chính sách một chính phủ mở là rất cần thiết nếu mục đích của Luật tự
do thông tin được công khai. Tối thiểu, luật cần có điều khoản cho giáo dục
cộng đồng và phổ biến thông tin về quyền tiếp cận thông tin, phạm vi thông
tin có sẵn và cách thức mà các quyền đó có thể được thực hiện.
- Nguyên tắc 4: Phạm vi các trường hợp ngoại lệ
Tất cả những yêu cầu cá nhân đối với thông tin từ cơ quan công phải
được đáp ứng, trừ khi cơ quan công có thể công bố rõ ràng là thông tin liên
quan nằm trong phạm vi hạn chế hay các trường hợp ngoại lệ không được
công khai. Việc từ chối tiết lộ thông tin không chính thức chỉ có thể cho phép
khi các cơ quan công chứng minh được ba yếu tố:
+ Các thông tin không được cung cấp phải liên quan đến một mục đích
hợp pháp của luật.
+ Công khai thông tin đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể; và mức độ
thiệt hại phải lớn hơn lợi ích công cộng có được từ việc công khai thông tin.
+ Không có cơ quan nào hoàn toàn được miễn trừ khỏi phạm vi tác
động của luật pháp, ngay cả khi phần lớn các chức năng của cơ quan đó cho
phép có ngoại lệ trong việc công khai thông tin. Điều này áp dụng cho tất cả
các ngành của Chính phủ (hành pháp, lập pháp và tư pháp).
Ngoài ra, cần có một danh sách đầy đủ, rõ ràng các trường hợp ngoại
lệ với những mục đích hợp pháp để có thể biện minh tại sao không công khai


26
thông tin và phải được quy định trong luật. Ví dụ: việc phân loại thông tin mật
trên cơ sở an ninh quốc gia cũng có thể chấm dứt sau khi mối đe dọa an ninh
quốc gia được giảm bớt.
- Nguyên tắc 5: Tạo thuận lợi cho quá trình tiếp cận thông tin
Các cơ quan công có trách nhiệm giúp đương đơn làm rõ các yêu cầu
hoặc đưa ra gợi ý khi họ có yêu cầu liên quan đến công khai thông tin mà
hoặc không rõ ràng, hoặc có phạm vi thông tin quá rộng. Nhiều trường hợp cơ
quan công không cần cung cấp tài liệu cho đương đơn nhưng cần phải trực
tiếp thông báo nguồn thông tin cho đương đơn.
Trong mọi trường hợp, luật cần cho phép cá nhân được quyền khiếu
nại khi bị từ chối cung cấp thông tin bởi cơ quan công. Cả nguyên đơn và cơ
quan giải quyết khiếu nại đều có thể khởi kiện quyết định của cơ quan hành
chính lên tòa án.
- Nguyên tắc 6: Chi phí tiếp cận thông tin
Về cơ bản, người dân không phải trả chi phí hoặc chi phí quá cao cho
việc yêu cầu thông tin, nhằm đảm bảo rằng những chi phí cho việc yêu cầu
thông tin không là cản trở cho việc yêu cầu thông tin. Bởi vì, Luật tiếp cận
thông tin là để thúc đẩy tiếp cận thông tin và nhằm hướng tới lợi ích lâu dài
của sự mở cửa thông tin hơn là vấn đề chi phí. Trong một số trường hợp ở các
quốc gia, chi phí tiếp cận thông tin không phải là phương tiện hiệu quả để bù
cho các chi phí về quyền tự do thông tin. Đồng thời phải quy định việc miễn
hoặc giảm đáng kể mức phí cho các yêu cầu cung cấp thông tin cá nhân hoặc
những thông tin mà công chúng quan tâm.
- Nguyên tắc 7: Mở các cuộc họp
Tự do thông tin là quyền được biết của công chúng về những công
việc do Chính phủ làm đại diện cho công chúng thực hiện và đại diện ra quyết
định. Luật tự do thông tin thiết lập một giả định rằng tất cả các cuộc họp của


27
các cơ quan Chính phủ nên được công khai trước công chúng, có thể bằng
nhiều hình thức phù hợp như văn bản, nói chuyện trực tiếp, thông tin đại
chúng, truyền thông v.v
- Nguyên tắc 8: Công khai quyền ưu tiên
Những quy định pháp luật không phù hợp với nguyên tắc công khai
tối đa thông tin phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ. Về lâu dài, cần ban hành một
cam kết để đưa tất cả các luật liên quan đến thông tin phù hợp với các nguyên
tắc cơ bản của Luật tiếp cận thông tin.
- Nguyên tắc 9: Bảo vệ người cung cấp thông tin.
Cá nhân phải được pháp luật bảo vệ khi liên quan đến việc xử phạt đối
với cung cấp thông tin về việc làm sai trái. Việc làm sai ở đây có thể là việc
không thực hiện một nghĩa vụ pháp lý, một vụ án xử sai, tham nhũng hay sự
quản lý không nghiêm của một cơ quan nào đó Người cung cấp thông tin
phải được bảo vệ nếu hành vi của họ đáng tin và các thông tin được kể đúng
sự thật, kèm theo bằng chứng cho hành vi sai phạm. Việc bảo vệ cần áp dụng
cho cả trường hợp công khai thông tin theo đúng pháp luật.
2.1.3.2. Một số nội dung cơ bản của Luật mẫu về tự do thông tin
Luật mẫu về tự do thông tin do ARTICLE 19 xây dựng là một đạo luật
nhằm thúc đẩy tối đa việc cung cấp thông tin nhằm mục đích phục vụ các lợi
ích công, đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của mọi người và quy định cơ chế
hiệu quả để bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Nội dung của Luật
này quy định:
Đối tượng điều chỉnh
Theo Luật mẫu, đối tượng điều chỉnh bao gồm cả các cơ quan công
cộng và chủ thể tư nhân. Trong đó:
Cơ quan công cộng, theo mục 6 (1) là bất cứ cơ quan nào mà:

28
a) Được thành lập bởi hoặc theo quy định của Hiến pháp;

b) Được thành lập bằng một đạo luật;
c) Là một bộ phận ở bất cứ cấp nào của Chính phủ;
d) Được sở hữu, điều khiển hoặc tài trợ chủ yếu bởi các quỹ của
Chính phủ hoặc Nhà nước;
e) Thực hiện chức năng nhà nước hoặc do pháp luật quy định.
Cơ sở tư nhân, theo mục 6 (3) là bất cứ tổ chức nào, ngoại trừ một cơ
quan công cộng, mà:
a) Thực hiện các hoạt động thương mại, kinh doanh hoặc nghề nghiệp
trong khả năng của tổ chức đó;
b) Có năng lực pháp luật.
Như vậy, Luật mẫu về tự do thông tin đã xác định các thuộc tính cấu
thành của các chủ thể là đối tượng điều chỉnh thay vì dùng phương pháp liệt
kê các chủ thể đó. Điều này sẽ giúp cho việc bao quát hơn các chủ thể và
tránh phải sửa đổi, bổ sung luật nhiều lần khi có sự thay đổi.
Phạm vi thông tin phải công khai
Vấn đề phạm vi thông tin phải công khai được nêu ở mục 17 của Luật
mẫu. Đó là những thông tin:
a) Mô tả cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và ngân sách hoạt động;
b) Những thông tin chi tiết liên quan đến các dịch vụ cơ quan đó cung
cấp cho công dân;
c) Các yêu cầu trực tiếp hoặc cơ chế khiếu nại công dân có thể thực
hiện liên quan đến những việc cơ quan đó đã thực hiện hoặc chưa thực hiện,
cùng với bản tóm tắt các yêu cầu, khiếu nại hoặc các hoạt động khác do công
dân trực tiếp thực hiện và tình hình giải quyết các yêu cầu, khiếu kiện đó;

×