Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.39 KB, 69 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý cuả Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một
chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ
nghĩa xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh.
Thực hiện chủ trương trên, từ sau Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986)
đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một số chủ trương chính sách nhằm
khuyến khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Từ đó, cùng
với các doanh nghiệp quốc doanh, các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh
như các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần...
đã phát triển nhanh chóng, đang trở thành lực lượng đáng kể trong sự nghiệp
phát triển kinh tế- xã hội và ngày càng thể hiện vai trò của mình trong quá trình
phát triển kinh tế đất nước.
Hiện nay, các doanh nghiệp ở nước ta tuy có tốc độ phát triển tương đối
khá nhưng gặp khó khăn về nhiều mặt như : thiết bị và công nghệ lạc hậu, trình
độ quản lý và tổ chức yếu kém, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm
kém, giá thành sản phẩm cao, thị trường không ổn định, bị hàng hoá nhập khẩu
lậu cạnh tranh gay gắt...
Khó khăn lớn nhất của hầu hết các doanh nghiệp nước ta hiện nay là vốn
để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị, công nghệ... Thực trạng nhu
cầu vốn đang là nhu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp bởi vì các doanh nghiệp
trong nước tích luỹ nội bộ thấp, vốn tự có ít. Mặt khác đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vốn trong nước và từ năm 1996 đến nay,
đầu tư nước ngoài đã bắt đầu chững lại. Nắm bắt được nhu cầu vốn của thị
trường, hệ thống ngân hàng đã tăng cường hoạt động của mình để góp phần
cung cấp vốn cho nền kinh tế nhằm đem lại vốn cho các doanh nghiệp, đồng
thời đem lại lợi nhuận cho mình.

Website: Email : Tel : 0918.775.368


Hoà nhập chung cùng với sự phát triển kinh tế đất nước, hoạt động của
ngành ngân hàng đã có những bước chuyển biến tích cực. Hệ thống ngân hàng
một cấp đã được chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp, có sự phân biệt rõ
ràng chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh tín dụng, tiền tệ,
cung ứng và điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền của Ngân hàng
Nhà nước với chức năng kinh doanh tín dụng, tiền tệ, hoạt động theo nguyên tắc
tự chủ của Ngân hàng thương mại.
Trong những năm gần đây, các Ngân hàng thương mại đã cung cấp tín
dụng, góp phần đáng kể vào tiến trình phát triển nền kinh tế đất nước. Nhưng
bên cạnh đó, các phương tiện thông tin đại chúng đã nhiều lần đề cập đến một
loạt các vấn đề nóng bỏng liên quan đến hoạt động của các Ngân hàng thương
mại Việt Nam như : ứ đọng vốn, vốn đóng băng, nợ quá hạn cao, rủi ro tín dụng
gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng... Các vấn đề này đã được nêu ra nhiều lần và
đã có nhiều đề xuất, kiến nghị, giải pháp nhưng rủi ro trong hoạt động cho vay
của Ngân hàng thương mại vẫn xảy ra, vẫn tồn tại và có chiều hướng gia tăng.
Đối với các Ngân hàng thương mại, đây là một bài toán cực kỳ nan giải,
là những câu hỏi mà các Ngân hàng thương mại đang trăn trở để tìm ra câu trả
lời.
Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội cũng không nằm ngoài tình trạng trên.
Hoạt động cho vay trung và dài hạn đang trở thành một hoạt động chính của
Ngân hàng. Cho vay trung và dài hạn là cho vay theo các dự án đầu tư. Chất
lượng của các khoản vay phụ thuộc rất lớn vào chất lượng công tác thẩm định tài
chính dự án đầu tư. Song công tác này của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội
bên cạnh những thành công còn một vài vấn đề tồn tại cần xem xét.
Trong quá trình học tập tại Trường Đại học và thời gian thực tập tốt
nghiệp tại Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội, tôi nhận thấy đây là vấn đề mà
Ngân hàng rất quan tâm và đang đề ra nhiều biện pháp để thực hiện. Xuất phát
từ thực tế đó, đồng thời được sự đồng ý của Trường cùng sự khuyến khích ủng
hộ của các cán bộ của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội, tôi quyết định đi sâu
tìm hiểu, nghiên cứu để làm Khoá luận Tốt nghiệp của mình vấn đề : “Một số


Website: Email : Tel : 0918.775.368
giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt
động cho vay của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội”.
Với mong muốn có thể tìm tòi, phát hiện được một số hạn chế, qua đó có
thể đưa ra một số giải pháp đóng góp nhằm khắc phục những tồn tại để nâng cao
hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Đây là đề tài nghiên cứu một nội dung nhỏ
trong tổng thể rất nhiều nội dung cần xem xét đến đối với một khoản vay hay
một dự án đầu tư. Vì vậy, đối tượng và phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn và tập
trung chủ yếu vào thẩm định tài chính dự án đầu tư gắn với hoạt động cho vay
của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội.
Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản liên quan tới thẩm
định tài chính dự án đầu tư, đánh giá công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân
hàng TMCP Á Châu Hà Nội để đưa ra giải pháp, Khoá luận Tốt nghiệp của tôi
được kết cấu theo ba chương:
Chương 1: Ngân hàng thương mại đối với hoạt động thẩm định tài
chính dự án đầu tư.
Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong
hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính
dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội.
Do trình độ hiểu biết thực tế còn nhiều hạn chế và thời gian thực tập tại
Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội không nhiều nên những vấn đề nêu ra trong
Khoá luận Tốt nghiệp của tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp, sửa chữa để Khoá luận Tốt nghiệp của
tôi hoàn thiện thêm, góp phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu các biện pháp cụ thể
nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho
vay của Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội.
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp, viết Báo cáo thực tập, làm Khoá luận
Tốt nghiệp, tôi đã được sự giúp đỡ và chỉ dẫn nhiệt tình của Tiến sĩ Nuyễn Võ

Ngoạn, giáo viên hướng dẫn khoa học, cùng sự giúp đỡ chân tình của chú Phan
Công Khoa- Phó phòng Tín dụng và thanh toán quốc tế cùng các nhân viên của

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phòng và Ban lãnh đạo Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội. Tôi xin chân thành
cám ơn những người đã giúp đỡ tôi trong quá trình tôi thực hiện Khoá luận Tốt
nghiệp này.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH TÀI
CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Ngân hàng thương mại và hoạt động cơ bản của một Ngân hàng
thương mại
Trong hoạt động sản xuất tiêu dùng của xã hội luôn xảy ra tình trạng đối
nghịch là có những cá nhân, tổ chức có vốn tiết kiệm, nhàn rỗi không có nhu cầu
hoặc chưa có nhu cầu sử dụng đến nó trong khi đó lại có những cá nhân, tổ chức
có nhu cầu cần một khoản vốn để sử dụng cho mục đích đầu tư hay tiêu dùng cá
nhân. Ngân hàng thương mại là một trung gian trên thị trường tài chính đóng vai
trò cầu nối, dẫn vốn từ nơi nhàn rỗi sang nơi cần sử dụng vốn, làm cho phù hợp
với nguyện vọng giữa những người cần tiền và những người có tiền. Kết quả là
tất cả các bên đều có lợi, nền kinh tế vận hành một cách nhịp nhàng, sản xuất
phát triển, đời sống xã hội được nâng cao.
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng và ngân hàng. Tất cả mọi hoạt động của ngân hàng đều hướng tới một mục
tiêu tối cao- chi phối các mục tiêu khác là tối đa hoá lợi nhuận. Theo đuổi mục
tiêu này, ngân hàng thương mại không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, cải
tiến dịch vụ, đa dạng hoá hoạt động và được thực hiện qua ba hoạt động chính :

hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay và đầu tư, các hoạt động trung gian.
Đây là ba hoạt động truyền thống của một ngân hàng thương mại. Chúng
có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau. Để có vốn cho vay, ngân hàng phải
huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các nhà tiết kiệm. Đồng thời với lợi thế là một
trung gian trên thị trường tài chính, ngân hàng thương mại thực hiện một số dịch
vụ cung cấp cho khách hàng. Các hoạt động dịch vụ này vừa tạo ra thu nhập,
vừa hỗ trợ cho các hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Hoạt động huy động vốn:
Huy động vốn của ngân hàng thương mại được thể hiện tập trung thông
qua việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng. Ngân hàng tập trung
được một số vốn lớn từ các tài khoản séc, tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi
có kỳ hạn, từ các công cụ kỳ phiếu, trái phiếu... Bên cạnh đó, khi cần vốn cho
nhu cầu thanh khoản hay đầu tư, cho vay, ngân hàng có thể vay của Ngân hàng
Trung ương hay của các tổ chức tín dụng khác. Trên bảng cân đối tài sản, hoạt
động huy động vốn được biểu hiện qua các tài sản nợ của ngân hàng.
- Hoạt động cho vay và đầu tư :
Ngân hàng thương mại sử dụng tiền tiết kiệm, nhàn rỗi huy động được từ
công chúng đem cho vay hoặc đầu tư chứng khoán. Trên bảng cân đối tài sản,
các hoạt động này được biểu hiện là tài sản có của ngân hàng.
Các hoạt động cho vay và đầu tư đem lại cho ngân hàng thương mại một
khoản thu nhập chiếm một tỷ trọng lớn trong thu nhập của ngân hàng.
- Hoạt động trung gian:
Các ngân hàng thương mại còn thực hiện các nghiệp vụ trung gian theo
yêu cầu của khách hàng như : thanh toán, chuyển tiền, uỷ thác, ký thác, tư vấn,
bảo lãnh, bảo quản vật có giá... Nghiệp vụ này không những mang lại lợi nhuận
cho ngân hàng mà còn tạo điều kiện mở mang cho các nghiệp vụ trên.
2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Đây là hoạt động truyền thống mang tính chất đặc trưng cơ bản của ngân

hàng thương mại. Nó đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Trên
cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng tiến hành cho vay và thu một khoản
lãi nhất định trên số tiền cho vay theo nguyên tắc vốn vay phải được hoàn trả
đúng thời hạn và thu lãi phải đủ để trang trải các khoản chi và có lợi nhuận.
Ngân hàng thương mại có thể cho vay theo nhiều hình thức khác nhau:
- Theo mục đích cho vay: Cho vay nông nghiệp.
Cho vay công nghiệp.
Cho vay xây dựng cơ bản.
Cho vay xuất- nhập khẩu.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Theo thành phần kinh tế: Cho vay quốc doanh.
Cho vay ngoài quốc doanh.
- Theo tài sản đảm bảo : Cho vay có tài sản đảm bảo.
Cho vay không có tài sản đảm bảo.
- Theo thời hạn cho vay: Cho vay ngắn hạn.
Cho vay trung hạn.
Cho vay dài hạn.
Một hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng thương mại là cho vay
theo dự án đầu tư. Đây chính là hình thức cho vay trung và dài hạn với đặc điểm
là có số vốn lớn, thời hạn cho vay dài, chịu nhiều biến động và do đó có độ rủi
ro cao. Tuy nhiên, nếu là một dự án đầu tư tốt thì sẽ đem lại cho ngân hàng một
khoản thu nhập xứng đáng và đảm bảo an toàn vốn. Và để đạt được mục tiêu
này, ngân hàng thương mại phải làm tốt công tác thẩm định tài chính dự án đầu
tư trước khi đi đến quyết định tài trợ.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU
TƯ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Đầu tư được hiểu là việc bỏ vốn vào một hoạt động nhất định nhằm mục
đích thu lại khoản vốn có giá trị lớn hơn hay là việc sử dụng tiền vào mục đích
sinh lời. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động đầu tư có vai trò vô cùng quan

trọng. Đầu tư sẽ duy trì những tiềm lực sẵn có, đảm bảo cho quá trình tái sản
xuất diễn ra bình thường và tạo một tiềm lực lớn hơn trong tương lai.
1. Đầu tư dự án
Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với những mục
tiêu, phương pháp và phương tiện cụ thể để đạt tới trạng thái mong muốn.
* Các yếu tố cấu thành dự án đầu tư :
- Mục tiêu: Mục tiêu của dự án đầu tư mang tính xác định, là những lợi
ích cần đạt được thông qua việc thực hiện dự án đầu tư, ngoài ra còn có các mục
tiêu khác do việc thực hiện dự án đầu tư tạo ra.
- Các hoạt động của dự án: là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực
hiện trong dự án để tạo ra các kết quả nhất định, được thực hiện theo một lịch

Website: Email : Tel : 0918.775.368
trình cụ thể với trách nhiệm của các bộ phận liên quan tạo thành kế hoạch làm
việc của dự án đầu tư.
- Đầu vào của dự án đầu tư : là các nguồn lực đã được xác định về vật
chất, tài chính, con người để tiến hành các hoạt động của dự án đầu tư.
- Đầu ra của dự án đầu tư : đó là những kết quả cụ thể mang tính chuẩn
mực được tạo ra từ các hoạt động khác nhau của dự án đầu tư.
- Thời hạn: là khoảng thời gian từ khi bắt đầu nghiên cứu cơ hội đầu tư
đến khi dự án chấm dứt hoạt động, thông thường được xác định trong luận
chứng kinh tế kỹ thuật.
- Các chủ thể: bao gồm các bên liên quan phối hợp với nhau để thực hiện
dự án đầu tư và thụ hưởng những lợi ích do dự án mang lại.
* Các giai đoạn hình thành và phát triển của một dự án đầu tư :
Một dự án đầu tư từ khi hình thành đến khi kết thúc thường trải qua ba
giai đoạn: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành và khai thác dự án đầu
tư. Các công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần
tự nhưng không biệt lập mà đan xen gối đầu cho nhau, bổ sung cho nhau nhằm
nâng cao dần mức độ chính xác của các kết quả nghiên cứu và tạo điều kiện

thuận lợi cho việc tiến hành nghiên cứu ở các bước kế tiếp.
Các bước công việc của giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án đầu
tư có thể được minh hoạ tóm tắt trong bảng 1như sau:

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng 1. Các giai đoạn của chu kỳ dự án đầu tư.
Chuẩn bị đầu tư. Thực hiện đầu tư. Vận hành và khai thác.
Nghi
ên
cứu
phát
hiện
các

hội
đầu
tư.
Nghi
ên
cứu
tiền
khả
thi

bộ
lựa
chọn
dự
án.
Nghi

ên
cứu
khả
thi
lập
dự
án,
luận
chứn
g
kinh
tế kỹ
thuật
.
Đán
h giá

quyế
t
định:
thẩm
định
dự
án.
Đàm
phán


kết
các

hợp
đồng
.
Thiế
t kế

lập
dự
toán
thi
công
xây
lắp
công
trình
.
Thi
công
xây
lắp
công
trình
.
Chạ
y thử

nghi
ệm
thu
sử

dụng
.
Sử
dụng
chưa
hết
công
suất.
Sử
dụng
công
suất ở
mức
cao
nhất.
Công
suất
giảm
dần và
thanh
lý.
- Giai đoạn 1: Giai đoạn chuẩn bị đầu tư, bao gồm các hoạt động:
+Nghiên cứu, đánh giá cơ hội đầu tư : sản phẩm của bước này là báo cáo
về cơ hội đầu tư.
Đây là giai đoạn hình thành dự án và là bước nghiên cứu sơ bộ nhằm xác
định triển vọng đem lại hiệu quả và sự phù hợp với thứ tự ưu tiên trong chiến
lược phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của ngành trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của vùng, của đất nước.
Bản chất của việc nghiên cứu cơ hội là khá sơ lược. Việc xác định đầu
vào, đầu ra và hiệu quả tài chính kinh tế xã hội của cơ hội đầu tư thường dựa

vào các ước tính tổng hợp.
+Nghiên cứu tiền khả thi: sản phẩm của bước này là báo cáo tiền khả thi.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đây là bước nghiên cứu tiếp theo của cơ hội đầu tư có nhiều triển vọng đã
được lựa chọn. Bước này nghiên cứu sâu hơn các khía cạnh mà khi xem xét cơ
hội đầu tư còn phân vân, chưa chắc chắn.
Nội dung của nghiên cứu tiền khả thi bao gồm:
♦Nghiên cứu các bối cảnh chung về kinh tế, xã hội, pháp luật có ảnh
hưởng đến dự án.
♦Nghiên cứu thị trường.
♦Nghiên cứu kỹ thuật.
♦Nghiên cứu về tổ chức và nhân sự.
♦Nghiên cứu về tài chính.
♦Nghiên cứu về các lợi ích kinh tế xã hội.
+Nghiên cứu khả thi: sản phẩm của bước này là báo cáo khả thi hay luận
chứng kinh tế kỹ thuật.
Đây là bước sàng lọc lần cuối cùng để lựa chọn được dự án đầu tư tối ưu.
Các bước nghiên cứu cũng tương tự như nghiên cứu tiền khả thi nhưng chi tiết
hơn, chính xác hơn.
+Thẩm định và ra quyết định đầu tư.
- Giai đoạn 2: Giai đoạn thực hiện đầu tư.
Đây là giai đoạn cụ thể hoá về nguồn hình thành vốn đầu tư và triển khai
thực hiện dự án đầu tư. Trong các dự án đầu tư người ta thường ký kết một loạt
các hợp đồng như : hợp đồng liên doanh, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất,
thuê nhà xưởng nhận thiết kế, mua bán máy móc, thiết bị, chuyển giao công
nghệ, hợp đồng thuê lao động để xây dựng và đưa công trình vào hoạt động.
- Giai đoạn 3: Giai đoạn vận hành và khai thác.
Đây là giai đoạn đưa công trình vào hoạt động và chính thức đưa sản
phẩm ra tiêu thụ trên thị trường.

Trong ba giai đoạn trên đây, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo điều kiện tiền
đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở hai giai đoạn sau, đặc biệt là đối
với giai đoạn vận và khai thác dự án.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại
2.1. Thẩm định dự án đầu tư.
a. Khái niệm.
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan,
khoa học và toàn diện để cho phép đưa ra quyết định đầu tư.
b. Thẩm định về sự cần thiết phải đầu tư.
Với quan điểm mỗi dự án đầu tư là một mắt xích quan trọng trong chương
trình phát triển kinh tế trung hạn, dài hạn của ngành, vùng, lãnh thổ nhằm đạt
được mục tiêu của chương trình phát triển kinh tế đó, việc thẩm định sự cần thiết
phải đầu tư nhằm trả lời các câu hỏi: Dự án có ưu tiên thế nào trong quy hoạch
phát triển chung, Dự án nếu được đầu tư sẽ làm tăng thu nhập cho doanh nghiệp
và nền kinh tế được bao nhiêu, sử dụng các nguồn tài nguyên và cơ sở vật chất
sẵn có như thế nào, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và làm giảm chi ngoại
tệ.
c. Thẩm định dự án về phương diện thị trường.
Đây là khía cạnh quan trọng trong quyết định sự thành bại của dự án đầu
tư. Nhìn nhận dưới góc độ của một ngân hàng thương mại, thì sản phẩm của
doanh nghiệp chính là đối tượng tín dụng ngân hàng sẽ tài trợ. Xét dưới tác động
gián tiếp, thì rủi ro của ngân hàng sẽ gắn liền với sản phẩm của doanh nghiệp.
Vì vậy, việc phân tích, đánh giá vị thế của sản phẩm trên thị trường của doanh
nghiệp là vô cùng quan trọng. Việc thẩm định dự án về phương diện thị trường
được tiến hành trên các mặt giá cả, quy cách phẩm chất, mẫu mã... của sản phẩm
để từ đó xác định tính cạnh tranh và khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản
phẩm.

d. Thẩm định dự án về mặt kỹ thuật công nghệ.
Phân tích kỹ thuật là tiền đề cho việc phân tích mặt kinh tế tài chính của
dự án đầu tư. Không có số liệu của phân tích kỹ thuật thì không thể tiến hành
phân tích mặt kinh tế tài chính của dự án, tuy rằng các thông số kinh tế có ảnh
hưởng đến các quyết định về mặt kỹ thuật. Việc thẩm định về kỹ thuật phải xem

Website: Email : Tel : 0918.775.368
xét việc lựa chọn thiết bị, công nghệ, giải pháp kỹ thuật có phù hợp không, có
tiết kiệm được vốn đầu tư, chi phí sản xuất không, địa điểm có phù hợp không,
các giải pháp xử lý những tác động đến môi trường như thế nào.
Quyết định đúng đắn trong phân tích kỹ thuật không chỉ là loại bỏ các dự
án không khả thi về mặt kỹ thuật mà còn là chấp nhận dự án khả thi về mặt này.
Điều này cho phép, một mặt tiết kiệm được các nguồn lực, mặt khác tranh thủ
được cơ hội để tăng thêm nguồn lực.
Phân tích kỹ thuật là một công việc phức tạp, đòi hỏi có các chuyên gia kỹ
thuật chuyên sâu về từng khía cạnh kỹ thuật của dự án. Chi phí nghiên cứu mặt
kỹ thuật của dự án chiếm tới trên dưới 80% chi phí nghiên cứu khả thi và từ 1-
5% tổng chi phí đầu tư của dự án. Đối với ngân hàng đây cũng là một công việc
hết sức quan trọng bởi nếu thẩm định kỹ thuật không chính xác thì ngân hàng sẽ
đầu tư vào dự án không khả thi, và do đó hoạt động tín dụng của ngân hàng
không có hiệu quả.
e. Thẩm định về khía cạnh tổ chức quản lý.
Trong nhiều trường hợp, mức độ thành công hay thất bại của dự án không
phải do các yếu tố về thị trường hay kỹ thuật mà do chính năng lực tổ chức quản
lý và tổ chức thực hiện của các cơ quan có liên quan cũng như quan hệ phối hợp
giữa họ, đó là chủ dự án, các tổ chức thiết kế, thi công, cung ứng nguyên vật liệu
và thiết bị, đội ngũ nhân viên kỹ thuật chịu trách nhiệm vận hành dự án.
f. Thẩm định dự án về phương diện tài chính.
Thẩm định tài chính của dự án đầu tư nhằm mục đích:
- Xem xét nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực

hiện có hiệu quả các dự án đâù tư.
- Xem xét tình hình, kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án trên góc độ
hạch toán kinh tế của đơn vị thực hiện dự án đầu tư. Có nghĩa là xem xét những
chi phí sẽ và phải thực hiện kể từ khi soạn thảo cho đến khi kết thúc dự án, xem
xét những lợi ích mà đơn vị thực hiện dự án sẽ hoặc phải đạt được do thực hiện
dự án.
Trong quá trình phân tích, để biểu hiện tổng hợp các nguồn có liên quan

Website: Email : Tel : 0918.775.368
đến việc thực hiện dự án và những lợi ích thu được phải sử dụng đơn vị tiền tệ.
Mà tiền có giá trị về mặt thời gian. Do đó, trước khi đi vào tính toán và phân
tích về mặt tài chính của dự án phải hiểu thế nào là tiền có giá trị về mặt thời
gian và phải xử lý ra sao trong quá trình phân tích tài chính của dự án.
Việc thẩm định dự án đầu tư về khía cạnh tài chính giúp ngân hàng xem
xét, tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án, xem xét các kế
hoạch tài chính của dự án đầu tư có đem lại hiệu quả kinh tế tài chính hay
không. Qua đó giúp ngân hàng có quyết định quan trọng là có tài trợ cho dự án
hay không.
2.2. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Mỗi dự án đầu tư chứa đựng nhiều nội dung kinh tế kỹ thuật rất phức tạp.
Các nội dung này có quan hệ ràng buộc, tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau hình
thành nên dự án đầu tư. Do vậy, bất cứ trục trặc tại một mặt nào đó đều có ảnh
hưởng đến các mặt khác và có ảnh hưởng đến hiệu qủa cuối cùng của dự án.
Thẩm định tài chính dự án đầu tư phải xem xét tất cả các khía cạnh và đưa ra
câu trả lời: mỗi khía cạnh đó đã khả thi chưa. Tuy nhiên, các dự án đầu tư đưa
đến ngân hàng thương mại xin vay vốn thường rất đa dạng với nhiều phạm vi,
lĩnh vực và quy mô khác nhau. Trong điều kiện và khả năng có hạn, đặc biệt là
đối với các ngân hàng thương mại không chuyên sâu về lĩnh vực cho vay đầu tư
phát triển thì ngân hàng đó sẽ khó có thể thẩm định chi tiết được tất cả các khía
cạnh, ngân hàng chỉ tập trung vào khía cạnh tài chính. đây là mặt ngân hàng có

thế mạnh về chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ.
Dự án đầu tư thường do chủ dự án lập hoặc thuê các cơ quan tư vấn lập
trên cơ sở các ý đồ kinh doanh và ý muốn chủ quan của chủ dự án. Do vậy, dự
án đầu tư mang tính chủ quan của nhà đầu tư và thường không xem xét, đánh giá
được hết các khía cạnh liên quan. Vì vậy, việc thẩm định tài chính dự án đầu tư
khi dự án được đưa đến ngân hàng thương mại xin vay vốn là rất cần thiết.
Là một đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, hoạt động ngân
hàng có những tính đặc thù riêng mà các ngành khác không có được, đặc biệt là
mức độ rủi ro rất cao. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hạn chế rủi ro là mục

Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiêu của bất cứ ngân hàng nào. Lĩnh vực kinh doanh càng cao càng hứa hẹn sinh
lời cao thì càng chứa đựng nhiều rủi ro. Vấn đề là phải đánh giá tác động của các
rủi ro đó để có các biện pháp phòng tránh hoặc tính toán mức rủi ro có thể chấp
nhận được tương ứng với hiệu quả mà dự án mang lại.
Qua thẩm định tài chính dự án đầu tư, ngân hàng thương mại phải lựa
chọn và tìm ra được những dự án đầu tư có hiệu quả tài chính để cho vay. Bởi
vì, chỉ cho vay các dự án đầu tư có hiệu quả tài chính thì ngân hàng mới đảm
bảo và đạt được mục tiêu: nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro. Đây
chính là lý do và sự cần thiết mà ngân hàng thương mại phải thẩm định tài chính
dự án đầu tư trong hoạt động cho vay.
III. TRÌNH TỰ VÀ NỘI DUNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
ĐẦU TƯ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
Thẩm định dự án là xem xét, kiểm tra tính khả thi về tất cả các mặt của dự
án để từ đó đi đến kết luận dự án có hiệu quả không và hiệu quả ở mức độ nào.
Thẩm định tài chính là một trong rất nhiều khâu thẩm định và là nội dung quan
trọng nhất mang tính quyết định. Đây là một công việc khó, đòi hỏi người thẩm
định phải có chuyên môn và kinh nghiệm.
Nội dung của thẩm định tài chính dự án bao gồm:

* Xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư cho dự án.
Khi một dự án đầu tư đưa đến ngân hàng xin vay vốn thì dự án đó đã
được rất nhiều cấp xem xét, phê duyệt, tổng vốn đầu tư đã được xác định. Tuy
nhiên, ngân hàng vẫn phải tiến hành xem xét lại trên cơ sở các thẩm định khác
của ngân hàng. Điều này là rất quan trọng bởi vì vốn đầu tư đủ sẽ tạo ra điều
kiện cho dự án được thực hiện một cách thuận lợi, thông suốt, từ đó nâng cao
hiệu quả của dự án. Vốn đầu tư thiếu sẽ gây khó khăn cho việc thi công, xây
dựng cũng như hoạt động vận hành của dự án sau này. Ngược lại, thừa vốn đầu
tư sẽ gây lãng phí vốn, làm giảm hiệu quả tài chính của dự án.
Tổng vốn đầu tư cần thiết cho một dự án bao gồm: Vốn đầu tư cố định và
vốn lưu động ban đầu.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
* Xem xét các nguồn tài trợ cho dự án, khả năng đảm bảo từ mỗi nguồn
đó, từ đó xác định số vốn mà ngân hàng cần tài trợ.
Các nguồn tài trợ cho dự án có thể là nguồn vốn Ngân sách cấp phát, ngân
hàng cho vay, vay vốn nước ngoài, vốn liên doanh do các bên tham gia liên
doanh đóng góp... Ngân hàng cần làm rõ mức vốn đầu tư cần thiết từ nguồn để
đi sâu tìm hiểu khả năng thực hiện của các nguồn đó.
Vì vốn đầu tư phải được thực hiện theo đúng tiến độ ghi trong dự án, vừa
đủ đảm bảo tiến độ thực hiện các công việc chung của dự án, vừa để tránh ứ
đọng vốn, nên các nguồn tài trợ được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà
còn cả về thời điểm nhận được tài trợ.
* Xem xét dự toán các bảng tài chính và phân tích tài chính.
Ở nội dung này, ngân hàng thương mại sẽ thẩm định tính chính xác, hợp
lý, hợp lệ của bảng dự trù tài chính. Cơ sở để xem xét là dựa trên các nội dung
của luận chứng kinh tế kỹ thuật, các chỉ tiêu mức kinh tế kỹ thuật của ngành do
Nhà nước ban hành hoặc các cơ quan chức năng, chuyên môn công bố và dựa
trên kết quả thẩm định các mặt thị trường, tổ chức, kinh tế xã hội của Nhà nước.
Các bảng tài chính được thẩm định thông thường bao gồm:

+ Bảng dự trù chi phí sản xuất.
+ Bảng dự trù lỗ lãi.
+ Bảng dự trù tổng kết tài sản.
+ Bảng dự trù cân đối thu- chi.
Trên cơ sở thẩm định tính chính xác, hợp lý của các bảng này, ngân hàng
thương mại tiến hành phân tích tài chính dự án để xem xét tình hình tài chính,
hiệu quả hoạt động của dự án qua các năm và thường sử dụng các phương pháp
sau:
+ Phân tích các tỷ lệ tài chính.
• Tỷ lệ về khả năng thanh toán.
• Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn.
• Tỷ lệ về khả năng hoạt động.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Tỷ lệ về khả năng sinh lãi.
Các chỉ tiêu trên sẽ được tính toán từ các bảng dự trù tổng kết tài sản và
bảng dự trù lỗ lãi trong luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án đầu tư. Trong quá
trình phân tích, các chỉ tiêu này được so sánh qua các năm để thấy được xu
hướng thay đổi các tỷ lệ tài chính, đánh giá tình hình tài chính của dự án qua các
năm được cải thiện hay trở nên yếu kém để có các biện pháp khắc phục kịp thời.
Các chỉ tiêu này được so sánh với các dự án cùng loại để xác định vị thế của dự
án mà ngân hàng đang xem xét tài trợ
+ Phân tích các luồng tiền mặt.
Phân tích tài chính dự án quan tâm tới lượng tiền đi vào và đi ra từ dự án
hay còn gọi là các luồng tiền của dự án. Đảm bảo cân đối các dòng tiền( dòng
tiền vào và dòng tiền ra) là mục tiêu quan trọng của phân tích tài chính dự án.
Trên cơ sở bảng dự trù cân đối thu- chi, người thẩm định biết được tại thời
điểm nào tiền mặt của dự án tăng, giảm, nguyên nhân thay đổi dòng tiền.
Trong quá trình phân tích tài chính, ngân hàng có thể áp dụng các phương
pháp khác nhau, ngân hàng có thể tính hết các chỉ tiêu hoặc tính thêm một số chỉ

tiêu khác nữa phụ thuộc vào điêù kiện của từng dự án đầu tư cụ thể.
* Đánh giá tài chính dự án đầu tư.
Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư là đánh đổi lợi ích
hiện tại lấy lợi ích tương lai, lâu dài và bấp bênh nên chỉ tiêu đánh giá dự án đầu
tư cũng phải phản ánh không đồng thời các mặt nói trên của dự án. Các chỉ tiêu
thường được sử dụng khi phân tích, đánh giá tài chính dự án đầu tư bao gồm:
+ Khả năng sinh lợi của dự án đầu tư.
• Giá trị hiện tại ròng(Net Present Value- NPV).
NPV của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các
luồng tiền kỳ vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư. NPV của
một dự án đầu tư được tính theo công thức:

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong đó: C
o
: Vốn đầu tư ban đầu của dự án tính tại thời điểm o.
C
i
: Luồng tiền do dự án mang lại năm thứ i.
n : Thời kỳ phân tích.
r: Tỷ lệ chiết khấu áp dụng cho dự án.
Sử dụng: Chỉ chấp nhận các dự án có NPV >o. Nếu có nhiều dự án loại
trừ nhau thì ta chọn dự án có NPV
max
.
• Chỉ số doanh lợi(Profitarilyty Index – PI).
PI được tính dựa vào mối quan hệ giữa tỷ số thu nhập ròng hiện tại so với
vốn đầu tư ban đầu. Công thức xác định như sau:
Về nguyên tắc, dự án khả thi thì phải là dự án có PI >1, tức là giá trị hiện
tại của các khoản thu nhập trong thời kỳ phân tích tại thời điểm bắt đầu vận

hành dự án phải lớn hơn số vốn đầu tư ban đầu đã bỏ ra. Tuy nhiên, thực tế
người ta chỉ chấp nhận những dự án có PI nào đó mà chỉ số này đáp ứng được
yêu cầu của ngân hàng thương mại đối với chủ đầu tư.
• Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (Interal Rate of Return-IRR).
IRR đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án, nó là suất chiết khấu
mà với giá trị này thì giá trị hiện tại ròng củadự án bằng 0.
Cách tính: Đặt IRR = 0 và cho NPV = 0.
Dùng phương pháp nội suy ta có:

( )

=
+
+−=
n
i
i
i
r
NPV
C
C
1
0
1
( )
C
C
n
i

i
i
r
PI
0
1
1

=
+
=
( )
0
1
1
0
=
+
+−=

=
n
i
i
i
r
NPV
C
C
)(

12
21
1
1
rrr
NPVNPV
NPV
IRR


+=
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong đó : r
1
, r
2
là tỷ lệ chiết khấu lựa chọn.
NPV
1
là giá trị dương gần 0 với tỷ lệ chiết khấu r
1
.
NPV
2
là giá trị âm gần 0 với tỷ lệ chiết khấu r
2
.
Sử dụng: Nếu các dự án đầu tư là độc lập với nhau thì dự án có IRR ≥ r
sẽ được lựa chọn. Nếu các dự án là loại trừ nhau thì ta chọn dự án nào có IRR
lớn nhất.

+ Khả năng hoàn vốn .
Khả năng hoàn vốn của dự án đầu tư được biểu thị bằng thời gian thu hồi
vốn đầu tư ban đầu và thời gian hoàn trả vốn vay.
Thời gian hoàn trả vốn đầu tư ban đầu là thời gian từ khi bắt đầu thực
hiện đầu tư đến năm T được xác định từ công thức:
Thời gian hoàn trả vốn vay được xác định tương tự như với xác định thời
gian hoàn trả vốn ban đầu được xác định tương ứng với lượng vốn đi vay.
• Khả năng trả nợ.
Khả năng trả nợ được đánh giá bằng chỉ tiêu tỷ lệ đảm bảo nợ đến hạn
(Debt service coverage ratio –R
trả nợ
) và được xác định theo công thức sau:
Nguồn tiền để trả nợ hàng năm.
R
trả nợ
=
Số nợ phải trả hàng năm.
Nguồn tiền để trả nợ được xác định bằng Tổng mức khấu hao hàng năm
và Lợi nhuận dùng để trả nợ. Số nợ phải trả hàng năm bao gồm cả nợ gốc và lãi
phải trả trong năm.
Đánh giá khả năng trả nợ không những cho thấy mức độ tin cậy của dự án
về mặt tài chính mà còn là điều kiện để các ngân hàng thương mại, các tổ chức
tài chính xem xét tài trợ cho dự án. Đây là chỉ tiêu rất quan trọng và được các
nhà tài trợ tài chính đặc biệt quan tâm.

( )

=
+
=

T
t
t
i
r
C
C
1
0
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Các chỉ tiêu đánh giá mức độ rủi ro của dự án đầu tư.
• Điểm hoà vốn.
Xét về mặt lý thuyết , điểm hoà vốn là điểm mà doanh thu ngang bằng với
chi phí sản xuất. Điểm hoà vốn lý thuyết cho cả đời dự án là điểm mà tại đó
Tổng doanh thu bằng Tổng chi phí khả biến từ đầu dự án tới dự án tới điểm đó
và biểu thị bằng tổng số sản phẩm sản xuất và được xác định theo công thức:
f
x=
p - v
Trong đó : x là số sản phẩm cần sản xuất để hoà vốn.
f là tổng định phí cả đời dự án.
p là giá bán bình quân của một đơn vị sản phẩm.
v là biến phí một đơn vị sản phẩm.
Điểm hoà vốn lý thuyết tính cho từng năm là điểm doanh thu ngang bằng
với chi phí sản xuất năm.
.Một số chỉ tiêu biểu thị điểm hoà vốn:
Định phí.
Điểm hoà vốn lý thuyết =
Doanh thu – Biến phí.

Doanh thu hoà vốn = Điểm hoà vốn lý thuyết x Tổng doanh thu.
Sản lượng hoà vốn = Điểm hoà vốn lý thuyết x Tổng sản lượng.
Sản lượng hoà vốn.
Công suất hoà vốn =
Công suất hoạt động.
.Điểm hoà vốn tiền tệ: là điểm cho phép dự trù khả năng của dự án để có
tiền vay trả nợ trung, dài hạn ngân hàng.
Định phí – Khấu hoa cơ bản.
Điểm hoà vốn tiền tệ =

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Doanh thu – Biến phí.
Tính điểm hoà vốn khi thẩm định tài chính dự án đầu tư là một công việc
hết sức quan trọng bởi vì nó cho phép ngân hàng thấy được mức độ chịu đựng
của dự án đối với những thay đổi bất lợi và giúp ngân hàng đánh giá tốt hơn về
chất lượng tài chính của dự án đầu tư.
• Đánh giá độ nhạy của dự án đầu tư.
Đánh giá độ nhạy có mục đích xác định tính giới hạn an toàn của dự án
khi có sự thay đổi các yếu tố đầu tư và hoạt động xét theo hiệu quả của nó. Từ ý
nghĩa đó, độ nhạy của dự án đầu tư được đặc trưng bằng tỷ lệ mức độ thay đổi
các chỉ tiêu đánh giá dự án(khả năng sinh lời, khả năng hoàn vốn, ...) so với mức
độ thay đổi các yếu tố xác định của dự án. Tổng quát, độ nhạy của dự án đầu tư
được xác định như sau:
Trong đó: E là độ nhạy.
δχ
i
là mức biến đổi của nhân tố ảnh hưởng.
δF
j
là mức biến đổi của chỉ tiêu đánh giá dự án.

Khi thẩm định tài chính dự án đầu tư, việc ngân hàng phân tích độ nhạy
của dự án được thực hiện với một số khoản mục được chọn lọc để thử xem khi
ngân hàng muốn thay đổi những giả thiết trong Kế hoạch tài chính thì nó ảnh
hưởng như thế nào đối với hoạt động của dự án đầu tư. Lợi ích của việc phân
tích độ nhạy của dự án đầu tư là nó cung cấp cho ngân hàng một con số về hiệu
quả tài chính ngay lập tức cho những sai lầm có thể có trong những giả thiết
được dùng để lập Kế hoạch tài chính của dự án.
* Xác định bảng cân đối khả năng trả nợ.
Ở nội dung này, ngân hàng thương mại sẽ xác định tất cả số nợ gốc mà dự
án phải trả nợ hàng năm, so sánh với nguồn trả nợ từ khấu hao, phần lợi nhuận
dùng để trả nợ và các nguồn khác. Nếu dự án không có đủ khả năng trả nợ thì
phải tìm các giải pháp để bù đắp.

x
F
i
j
E
δ
δ
=
Website: Email : Tel : 0918.775.368
IV. CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ
ÁN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
1. Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư nhằm giúp ngân hàng đưa ra một quyết định tài
trợ có chất lượng cao. Đứng trên góc độ của các nhà quản lý ngân hàng, hoạt
động thẩm định được coi là có chất lượng khi nó hỗ trợ đắc lực cho việc đưa ra
một kế hoạch cho vay, thu nợ với lãi suất phù hợp với tình hình hoạt động của
dự án , cũng như các hoạt động của ngân hàng. Điều này có ý nghĩa là chất

lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tốt sẽ giúp ngân hàng nhanh chóng tìm
ra lời giải tối ưu cho bài toán : cho dự án nào vay, cho vay bao nhiêu, thời gian,
lãi suất, quản lý và thu hồi vốn ra sao, hỗ trợ dự án thế nào.
2. Các nhân tố ảnh hưởng.
- Phương pháp và chỉ tiêu thẩm định.
Thẩm định tài chính bao gồm tập hợp các hoạt động xem xét, đánh giá, dự
đoán các luồng chi phí, lợi ích tài chính của dự án và xác định giá trị ròng của
chúng trong điều kiện giá trị của tiền thay đổi theo thời gian trong các phương
pháp, chỉ tiêu thẩm định là rất quan trọng.
Một trong những yếu tố quan trọng để xác định hiệu quả kinh tế tài chính
là tỷ lệ chiết khấu được lựa chọn để tính toán. Nếu tỷ lệ này quá thấp sẽ khuyến
khích đầu tư vào các dự án kém hiệu quả, nhưng nếu quá cao sẽ hạn chế đầu tư.
- Thông tin.
Ngân hàng rất cần có những thông tin đầy đủ, chính xác, có chất lượng
cao về dự án cũng như khách hàng xin vay vốn. Chất lượng và sự đầy đủ của
những thông tin này phụ thuộc một phần vào việc lập, thẩm định dự án của chủ
đầu tư và cung cấp thông tin của các chủ thể liên quan.
Bên cạnh đó, phương pháp thu thập, xử lý, phân tích, lưu trữ và sử dụng
thông tin của ngân hàng cũng rất quan trọng. Nó ảnh hưởng đến chất lượng
thông tin và khả năng đảm bảo thông tin cho công tác thẩm định dự án đầu tư.
- Con người.
Con người là nhân tố quyết định chất lượng công tác thẩm định tài chính

Website: Email : Tel : 0918.775.368
dự án đầu tư. Con người với trình độ và kinh nghiệm của mình là nhân tố trung
tâm liên kết, phối hợp các nhân tố khác trong thẩm định. Vì vậy, đòi hỏi các
ngân hàng phải có những con người xử lý thông tin giỏi, phải có kiến thức, đủ
năng lực sử dụng công nghệ cao.
- Tổ chức quản lý và điều hành.
Thẩm định tài chính dự án đầu tư là tập hợp của rất nhiều hoạt động có

liên quan với nhau và có quan hệ mật thiết với các hoạt động khác. Kết quả thẩm
định sẽ phụ thuộc rất nhiều vào công tác tổ chức quản lý, điều hành, sự phối hợp
nhịp nhàng của các bên.
- Các nhân tố khác.
Đây là những nhân tố từ môi trường bên ngoài tác động tới chất lượng
thẩm định tài chính dự án đầu tư. Một dự án đầu tư thường có tuổi đời khá dài
nên khi tiến hành thẩm định, ngân hàng thương mại không thể dự đoán được tất
cả các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự án.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG
TMCP Á CHÂU HÀ NỘI
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
TMCP Á CHÂU HÀ NỘI
1. Đôi nét về Ngân hàng TMCP Á Châu và Ngân hàng TMCP Á Châu
Hà Nội
1.1. Đôi nét về Ngân hàng TMCP Á Châu
Ngân hàng TMCP Á Châu(Tên giao dịch quốc tế là Asia Commercial
Bank- viết tắt là ACB ) được thành lập ngày 13 tháng 05 năm 1993 và bắt đầu
hoạt động kinh doanh từ ngày 04 tháng 06 năm 1993 theo Giấy phép hoạt động
số 0032/NH-GP ngày 24 tháng 04 năm 1993 với thời hạn hoạt động là 50 năm.
Ngân hàng TMCP Á Châu là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần
được thành lập mới sau khi hai Pháp lệnh Ngân hàng của Việt Nam ra đời. Hội
sở chính của Ngân hàng TMCP Á Châu được đặt tại số 442- Đường Nguyễn Thị
Minh Khai- Quận 3- Thành phố Hồ Chí Minh.
Vốn điều lệ tại thời điểm thành lập Ngân hàng là 20 tỷ VND, thuộc sở
hữu của 27 cổ đông. Đến nay, sau 3 lần tăng vốn, Ngân hàng TMCP Á Châu đã


Website: Email : Tel : 0918.775.368
có vốn điều lệ là 353,711 tỷ VND trong tổng số vốn tự có của Ngân hàng là
404,311 tỷ VND. Các cổ đông góp vốn của Ngân hàng TMCP Á Châu bao gồm:
- Cổ đông nước ngoài( là các tập đoàn kinh tế và các quỹ đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam) chiếm 25,47%.
- Cổ đông trong nước là pháp nhân chiếm 17,97%.
- Cổ đông trong nước là cá nhân chiếm 56,57%.
Như vậy, trong hệ thống ngân hàng TMCP Việt Nam hiện nay, Ngân hàng
TMCP Á Châu là ngân hàng có vốn điều lệ cao nhất.
Hoạt động chính của Ngân hàng TMCP Á Châu bao gồm việc nhận tiền
gửi, cung cấp tín dụng bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ, thanh toán chuyển
khoản và nhờ thu, phát hành bảo lãnh ngân hàng, tín dụng chứng từ và đầu tư
vào các dự án... Ngân hàng TMCP Á Châu là Ngân hàng hoạt động sớm trong
lĩnh vực tạo ra sản phẩm và dịch vụ ngân hàng mới như : Phát hành thẻ tín dụng
ACB- Master Card và ACB-VISA; huy động và cho vay bằng vàng, cho vay trả
góp để mua nhà đất, xây dựng, sửa chữa nhà, các hình thức cho vay trả góp khác
để phục vụ nhu cầu của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Hiện nay, Ngân hàng TMCP Á Châu đã có 9 chi nhánh, 4 văn phòng giao
dịch và 3 trung tâm: Trung tâm thẻ, Trung tâm vàng và Trung tâm Giao dịch địa
ốc. Các chi nhánh của Ngân hàng TMCP Á Châu được trải rộng trên toàn quốc.
Cho đến nay, Ngân hàng TMCP á Châu đã mở các chi nhánh sau:
Hà Nội: Giấy chấp thuận số 0016/ GCT ngày 14 tháng 12 năm 1993.
Sài Gòn: Giấy chấp thuận số 0021/ GCT ngày 16 tháng 2 năm 1994.
An Giang: Giấy chấp thuận số 0019/ GCT ngày10 tháng 8 năm 1994.
Cần Thơ:Giấy chấp thuận số 0024/ GCT ngày 22 tháng 11 năm 1994.
Hải Phòng:Giấy chấp thuận số 0027/ GCT ngày 27 tháng 7năm 1995.
Chợ Lớn: Giấy chấp thuận số 0040/ GCT ngày 7 tháng 8 năm 1995.
Đà Nẵng: Quyết định số 212/ QĐ-NH5 ngày 18 tháng 8 năm 1996.
Cà Mau: Giấy chấp thuận số 0035/ GCT ngày 12 tháng 9 năm 1997.
Đaklak : Quyết định số 297/ QĐ-NH5 ngày 29 tháng 8 năm 1998.

Nhờ có mạng lưới rộng khắp này, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng

Website: Email : Tel : 0918.775.368
TMCP Á Châu đã gặp nhiều thuận lợi hơn. Ngân hàng TMCP Á Châu đã thiết
lập được hơn 1200 đại lý thanh toán thẻ tín dụng và chi trả tiền nhanh Western
Union trong phạm vi cả nước. Ngân hàng TMCP Á Châu đang có kế hoạch mở
thêm từ 2 đến 4 chi nhánh tại Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài ra, Ngân hàng TMCP Á Châu cũng đã thành lập Hội đồng
ALCO( Hội đồng quản lý tài sản Nợ và tài sản Có) để phân tích tình hình hoạt
động của ACB từ việc huy động vốn đến việc sử dụng vốn hợp lý và có hiệu quả
cũng như đảm bảo thanh khoản. Hội đồng ALCO dự trù những tình huống có
biến động thanh khoản cũng như phòng ngừa các rủi ro trong việc huy động
vốn.
Do Ngân hàng TMCP Á Châu có một hệ thống mạng lưới rộng cũng như
nhiều phòng ban chức năng, nên Ngân hàng TMCP Á Châu đã thành lập Ban
kiểm soát nội bộ để tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thường xuyên trong
toàn hệ thống. Nhờ vậy, Ngân hàng TMCP Á Châu có thể phát hiện những sai
sót kịp thời để nhanh chóng uốn nắn, sửa chữa những sai sót ngay cả khi nó còn
trong dạng tiềm ẩn, chưa bộc phát.
Cho đến nay, sau 6 năm hoạt động và phát triển, Ngân hàng TMCP Á
Châu liên tục được Ngân hàng Nhà nước đánh giá là Ngân hàng hoạt động an
toàn và có hiệu quả và được Tạp chí Global Finance bầu chọn trong hai năm liên
tiếp là Ngân hàng tốt nhất Việt Nam, là 1 trong 9 ngân hàng tốt nhất Châu Á.
Tại thời điểm ngày 31 tháng 9 năm 2000 Ngân hàng TMCP Á Châu có
702 nhân viên.
1.2. Đôi nét về Ngân hàng TMCP Á Châu Hà Nội.
Ngân hàng TMCP Á Châu- chi nhánh Hà Nội là một trong 8 chi nhánh
của Ngân hàng TMCP Á Châu trên toàn quốc. Ngân hàng TMCP Á Châu Hà
Nội được phép hoạt động kinh doanh theo Giấy chấp thuận số 0016/GCT ngày
14 tháng 12 năm 1993 và đặt trụ sở tại số 16-18 Phan Chu Trinh- Quận Hoàn

Kiếm- Thành phố Hà Nội. Từ ngày 01 tháng 12 năm 1999 Ngân hàng TMCP Á
Châu Hà Nội chuyển trụ sở về số 184- 186- Bà Triệu- Quận Hai Bà Trưng-
Thành phố Hà Nội.

×