Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa - qua thực tiễn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 83 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




THIỀU THỊ THÚY NGÂN






XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY NỘI ĐỊA -
QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











HÀ NỘI - 2013



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



THIỀU THỊ THÚY NGÂN




XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY NỘI ĐỊA -
QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI


Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung



HÀ NỘI - 2013


3
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng



MỞ ĐẦU
1

Chương 1: PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG THỦY NỘI ĐỊA
7
1.1.
Vị trí, vai trò của giao thông, vận tải đường thủy Việt Nam
7
1.2.
Khái niệm vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
9
1.2.1.
Khái niệm
9
1.2.2.
Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy nội địa
12
1.3.
Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
15
1.3.1.
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy nội địa
15
1.3.2.
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc

phục hậu quả trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
17
1.3.3.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy nội địa
22

Chương 2: TÌNH HÌNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG THỦY NỘI
ĐỊA (QUA THỰC TIỄN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
30
2.1.
Thực trạng quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
30

4
2.1.1.
Thời hiệu xử phạt
30
2.1.2.
Thẩm quyền xử phạt
32
2.1.3.
Hình thức xử phạt vi phạm phạm hành chính trong giao
thông đường thủy nội địa
34
2.1.4.
Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong giao
thông đường thủy nội địa

37
2.1.5.
Phương thức nộp phạt
39
2.1.6.
Xác định yếu tố của vi phạm hành chính
41
2.1.7.
Quy định về tạm giữ phương tiện giao thông
43
2.2.
Thực trạng thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
44

Chương 3: KIẾN NGHỊ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO
THÔNG ĐƢỜNG THỦY NỘI ĐỊA
55
3.1.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
55
3.1.1.
Phù hợp với thực tế, nhu cầu khách quan của sự phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước
55
3.1.2.
Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản pháp

luật và hội nhập với pháp luật quốc tế
56
3.1.3.
Bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền lợi hợp pháp của cá
nhân, tổ chức vi phạm
56
3.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
57
3.2.1.
Đối với hình thức xử phạt
57
3.2.2.
Quy định về biện pháp ngăn chặn- tạm giữ phương tiện giao thông
58
3.2.3.
Thủ tục xử phạt
59

5
3.2.4.
Đối với phương thức nộp phạt
60
3.2.5.
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
61
3.2.6.
Cần tăng cường trong công tác quản lý nhà nước về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa

62
3.2.7.
Tăng cường công tác tuần tra kiểm soát của các chiến sĩ công
an đường thủy để nhanh chóng kịp thời phát hiện các hành vi
vi phạm hành chính
64
3.2.8.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về giao thông đường thủy nội địa
65
3.2.9.
Vi phạm hành chính có tính phổ biến nên cần quan tâm xử
phạt nghiêm đối với vi phạm hành chính hơn là xử phạt mọi
vi phạm hành chính
66
3.2.10.
Các hình thức xử phạt đối với vi phạm hành chính không
nhằm mục đích trừng trị mà nhằm giáo dục người vi phạm
và toàn xã hội
67
3.2.11.
Bổ sung nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
68
3.2.12.
Bổ sung hình thức xử phạt vi phạm hành chính, xác định lại
tính chất của các hình thức đó
59
3.2.13.
Sửa đổi, bổ sung các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành
chính và đảm bảo xử phạt vi phạm hành chính theo hướng

bảo vệ quyền con người
70

KẾT LUẬN
72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
74


6



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân các cấp (3 cấp) - quy định tại Điều 33
Nghị định 60/2011/NĐ-CP
22
2.2
Thẩm quyền xử phạt của lực lượng Công an nhân dân -
quy định tại Điều 34 Nghị định 60/2011/NĐ-CP
23
2.3

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra
giao thông đường thủy nội địa- quy định tại điều 35 Nghị
định 60/2011/NĐ-CP
24
2.4
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Giám đốc
cảng vụ đường thủy nội địa- quy định tại điều 36 Nghị
định 60/2011/NĐ-CP25

2.5
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội biên
phòng- quy định tại điều 37 Nghị định 60/2011/NĐ-CP
26
2.6
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Cảnh sát
Biển- quy định tại điều 38 Nghị định 60/2011/NĐ-CP
26


7
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn hai mươi năm đổi mới, thực hiện chủ trương, đường lối của
đảng, pháp luật, chính sách của nhà nước từ năm 1986, Việt Nam đã từng
bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đạt được những thành tựu to
lớn về tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Nền
kinh tế phát triển toàn diện và tích cực, tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định,
chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng được cải
thiện. Văn hóa xã hội có tiến bộ nhiều mặt; công tác giáo dục đào tạo, khoa

học công nghệ, giáo dục, y tế có những bước phát triển mới cả về chiều rộng và
chiều sâu; đặc biệt, lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo và lao động, việc làm được
quan tâm đầu tư và đạt được những thành tựu rất quan trọng và đáng khích lệ.
Đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên trong xã hội còn rất nhiều vấn đề cần phải được giải quyết,
thậm chí còn nan giải hơn trước đây. Đó là tình trạng vi phạm pháp luật, đặc
biệt trong lĩnh vực quản lý nhà nước không hề có hướng thuyên giảm, thậm
chí còn có khu vực bị gia tăng, tình trạng vi phạm hành chính và xử phạt vi
phạm hành chính ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra một cách không có kiểm
soát hay sự kiểm soát của nhà nước tỏ ra kém kiệu quả ở chỗ giới hạn của xử
phạt vi phạm hành chính hiện nay không giới hạn được.
Pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
thủy nội địa nội địa cũng là một bộ phận cấu thành của Luật Hành chính Việt
Nam, có vai trò và ý nghĩa to lớn trong việc đấu tranh phòng chống vi phạm
hành chính- một loại vi phạm diễn ra tương đối phổ biến và phức tạp hiện
nay. Đặc biệt tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
thủy nội địa ở Việt Nam trong những năm gần đây diễn ra rất phức tạp. Số vụ
tai nạn giao thông đường thủy nội địa gia tăng có thể xuất phát từ nhiều

8
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ các hành vi vi phạm hành chính. Vì
vậy, tăng cường công tác đấu tranh phòng ngừa vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường thủy nội địa là một nội dung rất quan trọng của hoạt
động quản lý nhà nước, là một yêu cầu tất yếu của Nhà nước và xã hội để lập
lại an toàn giao thông đường thủy nội địa. Những biện pháp hạn chế vi phạm
hành chính, lập lại trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa rất phong phú
và đa dạng như hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hoàn thiện về pháp luật,
tuyên truyền phổ biến và nâng cao trình độ hiểu biết của người dân…Trong
những biện pháp trên, hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa là một trong những biện pháp quan

trọng để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp
luật giao thông đường thủy nội địa nói riêng và vi phạm pháp luật nói chung
vì nó là cơ sở để tạo ra những ứng xử chuẩn mực, đúng đắn trong việc tham
gia giao thông của người dân. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này là rất cần
thiết. Đề tài "Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
thủy nội địa - Qua thực tiễn thành phố Hà Nội" góp phần vào việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật Việt Nam là đảm bảo tính tương thích, từng bước hội
nhập với pháp luật quốc tế, tạo những thuận lợi cơ bản, giảm thiểu những rào
cản về pháp lý trong quá trình Việt Nam tham gia và trở thành quốc gia thành
viên của các tổ chức quốc tế chủ yếu và quan trọng trong cộng đồng quốc tế.
Giảm tình trạng chồng chéo, trùng lặp, mâu thuẫn giữa các quy định trong hệ
thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính hiện hành.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quan của đề tài "Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường thủy nội địa - Qua thực tiễn thành phố Hà Nội" góp
phần vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam là đảm bảo tính
tương thích, từng bước hội nhập với pháp luật quốc tế, tạo những thuận lợi cơ
bản, giảm thiểu những rào cản về pháp lý trong quá trình Việt Nam tham gia

9
và trở thành quốc gia thành viên của các tổ chức quốc tế chủ yếu và quan
trọng trong cộng đồng quốc tế. Giảm tình trạng chồng chéo, trùng lặp, mâu
thuẫn giữa các quy định trong hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính hiện hành;
2.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, đề tài thiết kế theo các mục tiêu
cụ thể sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính nói chung và pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường thủy nội địa nói riêng.
- Phân tích thực trạng quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp
luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội
địa, từ đó thấy được những bất cập, khó khăn cũng như vướng mắc trong thực
tế thi hành áp dụng.
- Đề ra phương hướng, giải pháp đổi mới, hoàn thiện pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa đáp
ứng yêu cầu quản lý nhà nước ngày càng phức tạp trong giai đoạn hiện nay.
3. Tính mới và đóng góp của đề tài
Luận văn là chuyên khảo nghiên cứu tương đối toàn diện về vấn đề xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa. Vì
vậy, luận văn có những đóng góp khoa học mới như sau:
Thứ nhất, đưa ra và luận giải được những nguyên nhân dẫn đến việc
gia tăng vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.
Thứ hai, từ khó khăn và thực trạng trong việc thực hiện và áp dựng hệ
thống pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nói chung và pháp luật xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa nói riêng phân
tích được các nguyên nhân và vấn đề còn tồn tại.

10
Thứ ba, trên cơ sở khoa học và thực tiễn, đưa ra giải pháp, kiến nghị
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu lĩnh vực pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa bao gồm hệ thống các văn
bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính về nội dung và thực tiễn thực
hiện các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
5. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Học viên đã tiếp cận một số công trình khoa học về vấn đề xử phạt vi

phạm hành chính được công bố trong khoảng hơn 10 năm gần đây như:
- Nguyễn Văn Thạch (1997), Trách nhiệm hành chính, Luận văn thạc
sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật.
- Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Hoàng Yến (2002), "Tăng cường và đổi mới cơ chế kiểm tra, giám
sát trong xử phạt vi phạm hành chính", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (8).
- Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Bình luận khoa học
Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 2002, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Quân Ngọc Anh (2010), Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực xây dựng, Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Trần Thị Lâm Thi (2010), Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực môi trường, Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Bùi Xuân Đức (2006), "Về vi phạm hành chính và hình thức xử phạt
hành chính: những hạn chế và giải pháp đổi mới", Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, (2).

11
- Đỗ Hoàng Yến (2007), "Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và
việc xây dựng Bộ luật Xử phạt vi phạm hành chính", Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, (5).
- Đỗ Hoàng Yến (2007), "Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính ở
một số nước trên thế giới", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (10).
- Nguyễn Ngọc Bích (2007), "Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính và những bất cập trong quy định pháp luật hiện hành", Tạp chí Luật
học, (8).
- Kim Long Biên (2007).Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật
học, Viện Nhà nước và Pháp luật phối hợp đào tạo với Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh.

- Bùi Huy Tùng (2007), Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giáo dục, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Bộ Tư pháp (2007), Báo cáo đánh giá hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, Hà Nội.
- Bộ Tư pháp, Cơ quan phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) - Dự án
VIE/02/015 (2008), Kỷ yếu Hội thảo: Định hướng xây dựng Luật Xử phạt vi
phạm hành chính, Quảng Ninh, 08-09/5/2008.
- Trương Khánh Hoàn (2008), "Bất cập của các quy định về biện pháp
khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính", Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, (31, 32).
- Các Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, của Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Các công trình trên là tài liệu tham khảo quan trọng cho luận văn thạc
sĩ này.

12
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử: Xem xét pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính theo từng thời kỳ. Mỗi giai đoạn sẽ có pháp luật phù hợp. Từ đó tìm ra
quy luật của sự phát triển pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn kế thừa, tổng kết lại
những kết quả của các công trình nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính.
Tuy nhiên, đây không phải là sự sao chép vì đã có sự sắp xếp theo kết cấu
khác theo góc nhìn của tác giả.
Phương pháp so sánh: So sánh pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa của nước ta trong từng giai
đoạn; So sánh pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy với lĩnh vực khác.
Các phương pháp của xã hội học pháp luật: Phân tích cơ sở xã hội của

việc xử phạt vi phạm hành chính.
Phương pháp của thống kê xã hội học: Từ những kết quả thống kê, điều
tra, khảo sát về thực trạng vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa để đề ra những giải pháp hợp lý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường thủy nội địa.
Chương 2: Tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy nội địa (qua thực tiễn thành phố Hà Nội)
Chương 3: Kiến nghị phương hướng hoàn thiện pháp luật và thực hiện
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường.

13
Chương 1
PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG THỦY NỘI ĐỊA

1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA GIAO THÔNG, VẬN TẢI ĐƢỜNG THỦY
VIỆT NAM
Giao thông vận tải có tầm quan trọng đặc biệt với nền kinh tế quốc
dân. Tuy bản thân giao thông vận tải không tạo giá trị vật chất, song nó xúc
tiến quá trình tái sản xuất mở rộng, đưa nguyên liệu đến nơi sản xuất và sản
phẩm đến người tiêu thụ. Bời vậy, giao thông vận tải là một trong những
thành phần quan trọng không thể thiếu của nền kinh tế quốc dân.
Cùng với giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, hàng không, giao
thông vận tải đường thủy góp phần làm cho hệ thống giao thông vận tải Việt
Nam hoàn chỉnh, tạo ra ưu thế cho nền kinh tế quốc dân.
Giao thông vận tải thủy bao gồm giao thông vận tải biển và giao thông

vận tải thủy nội địa. Đường biển đống vai trò quan trọng trong giao lưu quốc
tế, đáp ứng ngày càng tăng yêu cầu cung cấp năng lượng, nguyên vật liệu cho
các ngành công nghiệp hàng đầu của đất nước, là đầu mối trong giao lưu, trao
đổi kinh tế, văn hóa với các quốc gia khác. Giao thông vận tải thủy nội địa
được tiến hành trên các sông, kênh rạch, các hồ nước, vùng nước nội thủy.
Vận tải thủy nội địa, với những tính chất ưu việt riêng có, nó chuyên
chở chủ yếu là quặng, than, vật liệu xây dựng, lương thực, phân bón v.v…
được coi là hàng hóa đặc trưng cơ bản của nước công nghiệp hóa. Vận tải
thủy nội địa lại vận chuyển được các loại hàng cồng kềnh, siêu trường, siêu
trọng mà các loại hình vận tải khác khó có thể đảm nhận được. Đồng thời, vận
tải thủy nói chung, thủy nội địa nói riêng có giá thành vận chuyển thấp, chi
phí đầu tư xây dựng cơ bản ít tốn kém, duy tu bảo dưỡng công trình cũng đơn

14
giản hơn. Đặc biệt, vận tải thủy nội địa có mức độ bảo đảm an toàn khá lớn, ít
xảy ra sự cố, thường chiếm từ 2 - 2,5% tai nạn, sự cố trong tổng số tai nạn, sự
cố của các loại hình giao thông vận tải khác.
Ngoài ra, giao thông đường thủy nội địa còn gắn chặt với đời sống,
sinh hoạt của một bộ phận lớn dân cư và phục vụ nhiều ngành kinh tế như
nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, khai thác cát, sỏi phục vụ xây dựng, môi
trường, du lịch.
Hơn nữa, Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi, kiến tạo cho trên 2.360
con sông, kênh với chiều dài khoảng 200.000 km, lại được thông qua 175 của
sông nối với vùng nước nội thủy rộng lớn (bằng 2/5 diện tích đất liền) từ
3.260 km ven biển, tạo thành hệ thống giao thông đường thủy nội địa hoàn
chỉnh, rộng lớn. Đặc biệt, sông, kênh trên đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng
sông Cửu Long đạt mật độ 4km/km
2
, đưa hệ thống giao thông đường thủy nội
địa nước ta trở thành một trong 10 quốc gia có hệ thống đường thủy nội địa

lớn nhất. Từ những điều kiện thuận lợi đó, trên hệ thống giao thông đường
thủy nội địa cả nước hiện thường xuyên có 1.062 tàu biển, 119.893 phương
tiện thủy nội địa, khoảng 95.000 tàu cá và trên 25.000 phương tiện cơ giới
nhỏ có trọng tải 5 tấn trở xuống hoạt động, tạo mật độ phương tiện hoạt động
lớn, phong phú, đa dạng, góp phần quan trọng và sự phát triển kinh tế của đất
nước và đời sống dân sinh. Chỉ tính riêng hiệu quả vận tải của đội tàu thủy nội
địa, cũng chỉ tính hàng hóa, hành khách vận chuyển thông qua các cảng, bến
có sự quản lý của cơ quan nhà nước, hàng năm vận chuyển được khoảng 45-
50 triệu tấn hàng, hàng chục triệu lượt khách, đạt khoảng 30% tỷ trọng vận tải
trong các loại hình vận tải của cả nước. Điều đó khẳng định vị trí, vai trò quan
trọng của hệ thống giao thông thủy nội địa Việt Nam và giao thông đường
thủy nội địa đang được phát huy tiềm năng, khai thác vận tải đạt hiệu quả cao.
Với tiềm năng giao thông to lớn nói trên, hàng năm tốc độ tăng trưởng
vận tải đạt bình quân 10%. Một số tuyến giao thông trọng điểm (Phả Lại-Hòn

15
Gai, Thành phố Hồ Chí Minh-Cà Mau ) đang được đầu tư nâng cấp và chuẩn
hóa để đảm bảo cho phương tiện hoạt động 24/24 giờ. Bên cạnh đó, ngành
giao thông vận tải đang tiếp tục thu hút đầu tư để mở rộng mạng lưới giao
thông đường thủy nội địa để tổ chức quản lý được trên 12.000 km sông, kênh.
Cùng với sự phát triển của phương tiện giao thông vận tải, hoạt động
của ngành kinh tế mũi nhọn hiện nay là khai thác thủy sản phục vụ xuất khẩu
được dự báo tốc độ tăng trưởng 12-15%/năm. Trong đó tập trung phát triển
Đội tàu đánh bắt xa bờ với hàng vạn phương tiện có công suất từ 150CV trở
lên. Ngoài ra, các ngành kinh tế khác, nhất là khai thác vật liệu xây dựng, du
lịch trên đường thủy nội địa cũng được dự báo phát triển mạnh với tốc độ tăng
trưởng 8-10%/năm.
Vì vậy, bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường thủy nói chung và
đường thủy nội địa nói riêng là yêu cầu tất yếu, khách quan. Là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống tổ chức nhà nước, chính quyền địa

phương, hệ thống chính trị.
1.2. KHÁI NIỆM VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG THỦY NỘI ĐỊA
1.2.1. Khái niệm
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung
do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống
trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo
thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích
trật tự và ổn định xã hội vì sự phát triển bền vững của xã hội [24, tr. 288].
Pháp luật có ba chức năng: điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục. Sở dĩ pháp luật có
chức năng bảo vệ vì trong xã hội vẫn tồn tại những "vi phạm pháp luật" - là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các lợi ích của xã hội, quyền và lợi
ích của công dân, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách
có lỗi [24, tr. 537]. Và người vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý -

16
hậu quả của vi phạm pháp luật và được thể hiện trong việc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế (chế tài xử lý) [24, tr. 550].
Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến
trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so
với tội phạm nhưng vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như
lợi ích chung của toàn thể cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm
tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu như không được ngăn
chặn kịp thời. Chính vì lẽ đó công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm
hành chính luôn là vấn đề được xã hội quan tâm. Nhà nước ta đã ban hành
khá nhiều văn bản pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành chính và đang
có hiệu lực pháp lý thi hành như là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002,
được sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008 (gọi chung là Pháp lệnh). Bên cạnh
Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành các nghị định quy định cụ thể việc xử lý

các vi phạm hành chính trên các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính
nhà nước như trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa, lĩnh vực giáo
dục- đào tạo, lĩnh vực hải quan, lĩnh vực thuế…
Trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa định nghĩa về vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa cũng đã được ghi nhận
trong văn bản pháp luật. Tại Khoản 2 Điều 1 Nghị định 60/2011/NĐ-CP quy định:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy
nội địa là những hành vi của tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của
pháp luật về giao thông đường thủy nội địa một cách cố ý hoặc vô ý
mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt vi phạm hành chính, bao gồm:
a) Vi phạm quy định về quản lý và bảo vệ công trình thuộc
kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội địa;
b) Vi phạm quy định về phương tiện thủy nội địa;

17
c) Vi phạm quy định về thuyền viên, người lái phương tiện;
d) Vi phạm quy định về quy tắc giao thông và tín hiệu của
phương tiện;
đ) Vi phạm quy định về hoạt động của cảng, bến thủy nội
địa và vận tải đường thủy nội địa [9].
Như vậy, vi phạm hành chính trên đường thủy là hành vi của cá nhân,
tổ chức cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước
thuộc lĩnh vực đường thủy hoặc xảy ra trên đường thủy nội địa nhưng chưa đến
mức là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Từ khái niệm này, cần xác định rõ một số vấn đề sau:
- Cần hiểu, đường thủy là một phạm vi địa bàn quản lý có tính đặc thù
trên lãnh thổ, bao gồm diện tích mặt nước sông, kênh, rạch, hồ nước, đầm
phá, vũng, vịnh, cửa sông và trên biển;
- Các hành vi vi phạm thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước về đường

thủy như lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa, hàng hải, thủy sản….;
- Các hành vi vi phạm thuộc các lĩnh vực quả lý nhà nước nói chung
có liên quan đến đường thủy hoặc xảy ra trong phạm vi đường thủy như: Lĩnh
vực an ninh trật tự, khai thác khoáng sản môi trường, du lịch…
Như vậy phạm vi trách nhiệm quản lý, kiểm tra, phát hiện và xử lý vi
phạm hành chính giao thông đường thủy tương đối rộng, không chỉ bó hẹp
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa. Đây là một đặc thù chi phối các
hoạt động nói chung của ngành đường thủy, xử lý vi phạm nói riêng.
Thông qua khái niệm về vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường thủy nội địa nêu trên, chúng ta thấy vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường thủy nội địa phản ánh những đặc điểm sau:
Một là: Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động áp dụng pháp luật
về vi phạm hành chính. Việc tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đòi hỏi

18
phải đúng trình tự, thủ tục đã được pháp luật quy định. Kết quả xử phạt vi
phạm hành chính phải được thể hiện bằng quyết định xử phạt vi phạm hành
chính có hiệu lực pháp luật.
Hai là: Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động cưỡng chế nhà nước
do các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính tiến hành và được
đảm bảo bằng quyền lực nhà nước.
Ba là: Mục đích của xử phạt vi phạm hành chính là nhằm truy cứu
trách nhiệm một hành vi vi phạm hành chính, qua đó buộc chủ thể vi phạm
hành chính phải gánh chịu một biện pháp cưỡng chế hành chính tương ứng
với hành vi vi phạm của mình.
Bốn là: Đối tượng tác động của xử phạt vi phạm hành chính là cá
nhân hoặc tổ chức đã thực hiện vi phạm hành chính.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đƣờng thủy nội địa
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa là một

dạng của vi phạm pháp luật. Do đó, những vi phạm này cũng có các yếu tố cấu
thành pháp lý gồm: Mặt khách quan; mặt chủ quan; chủ thể và khách thể. Các
yếu tố cấu thành vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường thủy nội địa nói riêng nằm trong một thể thống nhất.
Thứ nhất: Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa nói riêng là tổng hợp các
dấu hiệu bên ngoài của vi phạm hành chính bao gồm: hành vi trái pháp luật,
tính nguy hiểm cho xã hội, hậu quả và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả;
các dấu hiệu khác như công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm vi phạm.
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa là hành vi vi phạm hành chính.

19
Nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm phạm
các quy tắc quản lý nhà nước về giao thông đường thủy nội địa đã bị pháp
luật hành chính ngăn cấm hay không thực hiện những việc mà pháp luật bắt
buộc chủ thể phải làm.
Thứ hai: Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm là dấu hiệu bên trong của vi phạm hành
chính và thể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm. Lỗi là dấu hiệu cơ bản của
trong cấu thành mọi vi phạm hành chính. Hành vi lỗi được thể hiện dưới hình
thức cố ý hoặc vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở chỗ người có hành vi vi phạm nhận
thức được tính chất hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hoặc để mặc cho
hậu quả xảy ra. Lỗi vô ý thể hiện ở chỗ người thực hiện hành vi này phải
trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình
nhưng đã vô tình,thiếu thận trọng mà không nhận thức được hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội.
Trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường thủy nội địa, yếu tố động cơ, mục đích vi phạm cũng được tính đến khi

xem xét để quyết định các hình thức và mức xử phạt cụ thể.
Thứ ba: Mặt chủ thể
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là cá nhân, tổ chức có
năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.
Theo quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa, cá
nhân là chủ thể của vi phạm hành chính cụ thể là:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi
phạm hành chính do cố ý. Như vậy, khi xác định người ở độ tuổi này có vi
phạm hành chính hay không, cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của
họ. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành không định nghĩa thế nào
là lỗi cố ý hoặc vô ý trong vi phạm hành chính. Tuy nhiên, như đã phân tích ở

20
trên, thông thường người thực hiện hành vi hành chính với lỗi cố ý là người
nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm
mà vẫn cố tình thực hiện.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm
hành chính do mình gây ra.
Đối với chủ thể của vi phạm hành chính là tổ chức bao gồm: các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân.
Bên cạnh đó, quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập
trung huấn luyện và những người thuộc lực lượng Công an nhân dân vi phạm
hành chính thì bị xử lý như đối với các công dân khác; trong trường hợp cần
áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng một số giấy phép hoạt động vì
mục đích quốc phòng, an ninh thì người xử phạt không trực tiếp xử lý mà đề
nghị cơ quan, đơn vị Quân đội, Công an có thẩm quyền xử lý theo Điều lệnh
kỷ luật.
Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm

vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thì bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật
Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.
Ngoài ra, một số trường hợp cá nhân, tổ chức không bị xử lý vi phạm
hành chính đó là:
Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ
đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền, lợi ích
chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là
phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình

21
hoặc của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành
vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Người thực hiện hành vi do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp
không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó.
Người thực hiện vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm
thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình.
Thứ tư: Mặt khách thể
Vi phạm hành chính trong giao thông đường thủy nội địa cũng giống
như mọi vi phạm hành chính khác đều xâm hại đến các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa là hành vi vi phạm đã xâm phạm
trật tự quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội
địa, bao gồm: Các hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường thủy nội địa;
Các hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội
địa; Các hành vi vi phạm quy định về phương tiện tham gia giao thông đường

thủy nội địa; Các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện
tham gia giao thông đường thủy nội địa; Các hành vi vi phạm quy định về vận
tải đường thủy nội địa; Các hành vi vi phạm khác liên quan đến giao thông
đường thủy nội địa.
1.3. NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG THỦY NỘI ĐỊA
1.3.1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đƣờng thủy nội địa
Theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002,
sửa đổi năm 2008 và Nghị định số 60/2011/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa (gọi tắt là Nghị định

22
60/2011/NĐ-CP) có thể thấy xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy nội địa phải tuân theo các nguyên tắc đó là:
Thứ nhất: Nguyên tắc kịp thời, nhanh chóng, triệt để
Mọi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy
nội địa phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay. Việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông phải được tiến hành nhanh chóng,
triệt để, mọi hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra phải được khắc
phục theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai: Chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm
hành chính do pháp luật quy định.
Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi
phạm hành chính được quy định cụ thể trong các văn bản luật của Quốc hội,
pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của Chính phủ.
Các văn bản do Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ban hành để chỉ đạo,
hướng dẫn, tổ chức thực hiện xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền
không được quy định hành vi vi phạm hành chính và hình thức, mức xử phạt.

Thứ ba: Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính
một lần.
Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi
người vi phạm đều bị xử phạt. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm
hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.
Một hành vi vi phạm đã được người có thẩm quyền xử phạt ra quyết
định xử phạt hoặc đã lập biên bản để xử phạt thì không được lập biên bản, ra
quyết định xử phạt lần thứ hai đối với chính hành vi đó nữa. Trong trường
hợp hành vi vi phạm vẫn tiếp tục được thực hiện mặc dù đã bị người có thẩm
quyền xử phạt ra lệnh đình chỉ thì bị áp dụng tình tiết tăng nặng.

23
Một hành vi vi phạm hành chính đã được người có thẩm quyền xử
phạt ra quyết định xử phạt thì không đồng thời áp dụng biện pháp xử lý hành
chính khác như Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng;
Đưa vào cơ sở giáo dục; Đưa vào cơ sở chữa bệnh; Quản chế hành chính đối
với hành vi đó;
Trong trường hợp hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm bị chuyển hồ
sơ đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự mà trước đó đã có quyết định xử phạt
vi phạm hành chính thì người đã quyết định xử phạt phải hủy bỏ quyết định
xử phạt; nếu chưa ra quyết định xử phạt thì không xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi đó.
Thứ tư: Nguyên tắc xử lý công minh
Pháp luật quy định mọi hoạt động xử phạt vi phạm hành chính nói
chung và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy
nội địa nói riêng phải đảm bảo công minh. Xử phạt phải đúng người, đúng
tính chất hành vi, căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi
phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức, biện
pháp xử lý thích hợp.
1.3.2. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp

khắc phục hậu quả trong lĩnh vực giao thông đƣờng thủy nội địa
1.3.2.1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục
hậu quả là một trong những nội dung quan trọng của xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.
Hình thức xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường thủy nội địa thể hiện sự răn đe, trừng phạt của pháp luật đối
với những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các nguyên tắc quản lý nhà
nước trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa, buộc người vi phạm phải
chịu những hậu quả bất lợi về vật chất và tinh thần.

24
Ngoài mục đích ngăn chặn hành vi vi phạm, các quy định này còn
mang tính giáo dục đối với các cá nhân, tổ chức bị xử phạt, góp phần nâng
cao ý thức của công dân trong việc chấp hành pháp luật và các quy tắc quản
lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.
Theo Nghị định 60/2011/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa thì hình thức xử phạt vi phạm hành
chính bao gồm: hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung.
a. Hình thức xử phạt chính
• Hình thức phạt tiền
Đây là hình thức xử phạt phổ biến có tính chất kinh tế được áp dụng
với đa số hành vi vi phạm trong giao thông đường thủy nội địa. Phạt tiền là
việc tước bỏ của cá nhân, tổ chức vi phạm một khoản tiền nhất định để sung
quỹ nhà nước. Phạt tiền tác động trực tiếp đến vật chất, lợi ích kinh tế của cá
nhân, tổ chức vi phạm, gây cho họ những bất lợi về tài sản. Vì lý do đó, hình
thức xử phạt này có hiệu quả rất lớn trong việc phòng chống vi phạm hành
chính trong giao thông đường thủy nội địa, đồng thời thông qua đó giáo dục,
phổ biến pháp luật cho người tham gia vào lĩnh giao thông đường thủy nội
địa. Mức xử phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính trong giao thông

đường thủy nội địa theo Nghị định 60/2011/NĐ-CP được quy định mức tối
thiểu là 10.000 đồng và mức tối đa là 40.000.000 đồng. Khi áp dụng hình
thức phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành
chính là mức trung bình của khung tiền phạt quy định đối với hành vi đó;
nếu vi phạm có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống thấp
hơn mức trung bình nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung
tiền phạt; nếu vi phạm có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên
cao hơn mức trung bình nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung
tiền phạt.

25
Quy định này là phù hợp với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 và sửa đổi, bổ sung năm 2008. Theo pháp lệnh này, mức phạt tiền trong
xử phạt vi phạm hành chính là từ 10.000 đồng đến 500.000.000 đồng.
Mức phạt này được nghiên cứu dựa trên tính chất, mức độ xâm hại
của vi phạm đối với trật tự quản lý nhà nước trong giao thông đường thủy nội
địa, đồng thời dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng hình thức phạt tiền
nhằm đảm bảo tính phù hợp, hợp lý với điều kiện kinh tế, xã hội.
• Hình thức phạt cảnh cáo
Là một trong hai hình phạt chính trong xử phạt vi phạm hành chính
lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa. So với hình thức phạt tiền, cảnh cáo
là hình thức xử phạt nhẹ hơn, mang tính chất giáo dục, phổ biến, tuyên truyền
pháp luật. Tuy nhiên, hình phạt này vẫn mang tính cưỡng chế nhà nước, gây
cho người bị xử phạt những tổn thất nhất định về mặt tinh thần.
Cảnh cáo được áp dụng với những cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm
hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.
Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản.
b. Hình thức xử phạt bổ sung
Ngoài hình thức xử phạt chính nêu trên tùy theo tính chất, mức độ vi

phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc
các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
• Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, bằng, chứng chỉ chuyên
môn hoặc chứng chỉ hành nghề khác về pháp luật giao thông đường thủy nội
địa có thời hạn hoặc không thời hạn;
Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, bằng, chứng chỉ chuyên
môn hoặc chứng chỉ hành nghề khác về giao thông đường thủy nội địa có thời
hạn hoặc không thời hạn là hình phạt bổ sung được áp dụng đối với người

×