Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Đề cương giới thiệu luật tố tụng hình sự năm 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.61 KB, 26 trang )

Bộ T pháp Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật Viện khoa học kiểm sát
Đề CƯƠNG giới thiệu
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
I. Sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa của việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình
sự
-
Bộ luật tố tụng hình sự đợc Quốc hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01 tháng 7 năm 2004.
Bộ luật tố tụng hình sự này thay thế Bộ luât tố tụng hình sự đợc Quốc hội thông
qua ngày 29 tháng 6 năm 1988 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố
tụng hình sự đợc Quốc hội thông qua ngày 30 tháng 6 năm 1990, ngày 22 tháng 12
năm 1992 và ngày 09 tháng 6 năm 2000.
- Bộ luật tố tụng hình sự năm1988 là Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nớc ta đ-
ợc ban hành trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Bộ luật tố tụng hình sự đã góp
phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của
Nhà nớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, phục vụ tích cực công cuộc
đổi mới, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
- Trong quá trình thi hành, Bộ luật tố tụng hình sự đã đợc Quốc hội nớc ta sửa đổi,
bổ sung 3 lần. Các lần sửa đổi, bổ sung đã đáp ứng kịp thời yêu cầu, đòi hỏi của thực
tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm trong từng thời kỳ và đã từng bớc thể chế hóa một
số quan điểm về cải cách t pháp ở nớc ta.
Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa X ngày 29 tháng 4 năm 1999, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã thay mặt các cơ quan soạn thảo trình Quốc hội cho ý kiến về dự án
Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), trong đó nêu rõ sự cần thiết phải sửa đổi Bộ luật tố
tụng hình sự một cách toàn diện để bảo đảm cho Bộ luật phù hợp với những nội dung
cải cách t pháp, với dự kiến sửa đổi Bộ luật hình sự. Trong khi chờ Quốc hội xem xét,
thông qua Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) thì Bộ luật hình sự mới đã đợc Quốc hội
khóa X thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 tại kỳ họp thứ 6 và có hiệu lực kể từ


ngày 1 tháng 7 năm 2000. Để bảo đảm thi hành một số nội dung mới theo quy định của
Bộ luật hình sự năm 1999, giải quyết một số vấn đề bức xúc do thực tiễn đặt ra, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đã trình Quốc hội khóa X thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự vào tháng 6 năm 2000 tại kỳ họp thứ 7.
1
Hiện nay, cùng với công cuộc cải cách kinh tế và cải cách hành chính, cải cách t
pháp đang đợc Đảng và Nhà nớc ta tích cực triển khai và coi đây là nhân tố quan trọng
thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần
làm cho dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong bối cảnh đó,
Hiến pháp năm 1992 đã đợc sửa đổi. Để tiếp tục thực hiện, đẩy mạnh hơn công cuộc
cải cách t pháp, ngày 2 tháng 1 năm 2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-
NQ/TƯ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác t pháp trong thời gian tới. Trong Nghị
quyết này đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể của tố tụng hình sự đòi hỏi phải đợc nghiên
cứu, phân tích một cách toàn diện để thể chế hóa thành những quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự, tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lợng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án hình sự. Mặt khác, thời gian qua cũng đã có nhiều văn bản pháp luật mới đợc
ban hành có các nội dung liên quan đến tố tụng hình sự nh Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2002, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002; đồng thời cũng cần
phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định Bộ luật tố tụng hình sự năm1988 cho phù
hợp với các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 nhằm bảo đảm tính thống nhất,
đồng bộ giữa các văn bản pháp luật.
Vì vậy, việc sửa đổi toàn diện Bộ luật tố tụng hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu cải
cách t pháp, đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ quyền tự do dân chủ của công
dân.
II. Các quan điểm cơ bản chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật
tố tụng hình sự
Việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự lần này phải quán triệt những quan
điểm chỉ đạo sau đây:
Thứ nhất, phải thể chế hóa những quan điểm của Đảng, Nhà nớc về cải cách t
pháp, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong tình

hình mới, tăng cờng khả năng chống bỏ lọt tội phạm và ngời phạm tội, chống làm oan
ngời vô tội, mọi hành vi phạm tội đều phải đợc phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính
xác và kịp thời.
Thứ hai, phải bảo đảm tốt hơn các quyền dân chủ của công dân, nâng cao tính an
toàn về mặt pháp lý cho công dân, khắc phục việc bắt, giữ, giam, điều tra, truy tố, xét
xử, oan, sai.
Thứ ba, phải bảo đảm các trình tự và các thủ tục tố tụng cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu,
có tính khả thi, tạo điều kiện cho những ngời tiến hành và tham gia tố tụng thực hiện
đầy đủ quyền và trách nhiệm tố tụng.
Thứ t, phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan và ngời tiến hành tố
tụng, phù hợp với những nội dung cải cách t pháp đợc khẳng định trong các nghị quyết
của Đảng; giải quyết đúng đắn vấn đề phân cấp thẩm quyền của các trình tự tố tụng
hình sự, chức trách của cơ quan tiến hành tố tụng và trách nhiệm của ngời tiến hành tố
2
tụng trong việc làm oan sai, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ t pháp trong sạch, vững
mạnh.
Thứ năm, việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự phải đợc tiến hành trên cơ sở tổng
kết thực tiễn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, kế thừa và phát triển những
quy định đã phát huy tác dụng tích cực trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
ở nớc ta; đồng thời nghiên cứu và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm về lập pháp tố
tụng hình sự của các nớc trong khu vực và trên thế giới.
III. Về phạm vi sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự:
Phạm vi sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự lần này là sửa đổi một cách cơ bản và
toàn diện, là quá trình rà soát lại toàn bộ Bộ luật, kế thừa và giữ lại những điều luật còn
phù hợp, loại bỏ, sửa đổi những quy định không còn phù hợp, bổ sung và xây dựng
những quy định mới để đáp ứng yêu cầu cải cách t pháp ở nớc ta hiện nay.
IV. Cơ cấu cuả Bộ luật tố tụng hình sự :
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 gồm: Lời nói đầu, 7 phần, 32 chơng, 293 điều.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không có Lời nói đầu, gồm 8 phần, 37 chơng, 346
điều. Nh vậy, so với Bộ luật cũ thì Bộ luật mới đã bổ sung một phần mới (Phần thứ tám

quy định về hợp tác quốc tế, gồm 2 chơng), bổ sung 5 chơng mới (đó là các chơng: Ch-
ơng I: Nhiệm vụ và hiệu lực của Bộ luật tố tụng hình sự; Chơng XXXIV: Thủ tục rút
gọn ; Chơng XXXV: Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự ; Chơng XXXVI: Những
quy định chung về hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự và Chơng XXXVII:
Dẫn độ và chuyển giao hồ sơ, tài liệu, vật chứng của vụ án) và tăng 53 điều luật.
V. Nội dung chủ yếu của Bộ luật tố tụng hình sự:
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đợc xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển
những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã phát huy tác dụng tích cực
trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm ở nớc ta thời gian qua, do đó trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 đã giữ lại nhiều nội dung của Bộ luật tố tụng hình sự
năm1988 vẫn còn phù hợp. Trong Đề cơng bài giới thiệu này chỉ tập trung nêu những
điểm mới cơ bản đợc quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chứ không nêu
toàn bộ những nội dung chủ yếu của Bộ luật. Dới đây là một số điểm mới của Bộ luật:
A. phần thứ nhất: những quy định chung
Phần những quy định chung của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 gồm 6 chơng,
84 điều. Phần này của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 gồm 7 chơng, 99 điều (tách
Chơng I thành 2 chơng: Chơng I. quy định nhiệm vụ và hiệu lực của Bộ luật tố tụng
hình sự ; Chơng II. quy định những nguyên tắc cơ bản). Nội dung sửa đổi phần này tập
trung vào những vấn đề chính sau:
3
1. Về nhiệm vụ và hiệu lực của Bộ luật tố tụng hình sự
Nhiệm vụ và hiệu lực của Bộ luật tố tụng hình sự đợc quy định tại Chơng I của
Bộ luật gồm 2 điều.
Về nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự, bên cạnh việc bổ sung phạm vi điều
chỉnh của Bộ luật ( quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những ngời tiến
hành tố tụng; quy định về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự) cho đầy đủ, Bộ luật đã
bổ sung một nhiệm vụ rất quan trọng đó là chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm.
Về hiệu lực của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật đã sửa đổi, bổ sung cho cụ thể,
rõ ràng và đầy đủ hơn trong đó khẳng định mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ
nớc CHXHCN Việt Nam phải đợc tiến hành theo quy định của Bộ luật này, trừ một số

trờng hợp do luật định thì hoạt động tố tụng hình sự đợc tiến hành theo quy định của
điều ớc quốc tế hoặc vụ án đợc giải quyết bằng con đờng ngoại giao ( Điều 1 BLTTHS)
2. Về những nguyên tắc cơ bản
Chơng I của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định về những nguyên tắc cơ
bản trong tố tụng hình sự. Qua tổng kết thực tiễn cho thấy các quy định tại chơng này
đã thể hiện các vấn đề có tính nguyên tắc, tạo cơ sở pháp lý cho việc quy định cụ thể
các trình tự, thủ tục, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng và ngời tiến
hành tố tụng. Tuy nhiên, để thể hiện nội dung nghị quyết của Đảng về cải cách t pháp
và giải quyết những vấn đề bức xúc do thực tiễn đặt ra cần sửa đổi, bổ sung, xây dựng
mới một số nguyên tắc. Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung
và xây dựng mới một số nguyên tắc sau đây:
2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền đợc bồi thờng thiệt hại do ngời có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
Thực tiễn giải quyết việc bồi thờng thiệt hại trong tố tụng hình sự hiện nay cho
thấy đây là vấn đề nổi cộm, bức xúc, kéo dài; khiếu nại của công dân trong lĩnh vực
này diễn biến phức tạp. Một trong những nội dung quan trọng của cải cách t pháp hiện
nay là phải kiên quyết khắc phục các trờng hợp oan, sai và bảo đảm quyền đợc bồi th-
ờng thiệt hại do các cơ quan tiến hành tố tụng gây ra. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị yêu cầu: Khẩn trơng ban hành và tổ chức thực
hiện nghiêm túc các văn bản pháp luật về bồi thờng thiệt hại đối với những trờng hợp
bị oan, sai trong hoạt động tố tụng. Ngày 17/3/2003, Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội đã ra
Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 về bồi thờng thiệt hại cho ngời bị oan do ng-
ời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Vì vậy, Bộ luật đã sửa đổi, bổ
sung khoản 3 Điều 24 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 để quy định thành hai nguyên
tắc:
a) Nguyên tắc bảo đảm quyền đợc bồi thờng thiệt hại và phục hồi danh dự,
quyền lợi của ngời bị oan
4
"Ngời bị oan do ngời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có
quyền đợc bồi thờng thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền

trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thờng thiệt hại và phục hồi danh
dự, quyền lợi cho ngời bị oan, ngời đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ
quan có thẩm quyền của pháp luật" (Điều 29 BLTTHS).
b) Nguyên tắc bảo đảm quyền đợc bồi thờng của ngời bị thiệt hại do cơ quan
hoặc ngời có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra
"Ngời bị thiệt hại do cơ quan hoặc ngời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự gây ra có quyền đợc bồi thờng thiệt hại.
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự phải bồi thờng cho ngời
bị thiệt hại; ngời đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật (Điều 30 BLTTHS).
2.2. Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 cha quy định nguyên tắc hai cấp xét xử. Quán
triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá VIII về việc
thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử và để bảo đảm đồng bộ với Luật tổ chức Toà án
nhân dân năm 2002, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã bổ sung nguyên tắc này nh
sau: Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử . Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có
thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có
hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ
án phải đợc xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật. Đối
với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm
pháp luật hoặc có tình tiết mới thì đợc xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm( Điều 20 BLTTHS).
2.3. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 cha quy định nguyên tắc chung về việc giải
quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Thực tiễn cho thấy các cơ quan tiến hành tố
tụng thờng giải quyết các vấn đề dân sự gắn liền với việc chứng minh tội phạm nhng
việc thực hiện vấn đề này còn thiếu thống nhất. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết
vấn đề bồi thờng, bồi hoàn trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm bảo đảm việc giải
quyết vụ án hình sự đợc nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm quyền lợi của những ngời tham

gia tố tụng, Bộ luật đã bổ sung nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
nh sau: việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự đợc tiến hành cùng với việc
giải quyết vụ án hình sự. Trong trờng hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi th-
5
ờng, bồi hoàn mà cha có điều kiện để chứng minh và không ảnh hởng đến việc giải
quyết vụ án hình sự thì có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự ( Điều
28 BLTTHS).
2.4. Nguyên tắc về việc giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với
hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, ngời tiến hành tố tụng
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 cha có quy định về việc giám sát đối với hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng, ngời tiến hành tố tụng. Nghị quyết số 08- NQ/TW
của Bộ chính trị nêu rõ phải " tăng cờng sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân,
của các tổ chức xã hội và của nhân dân đối với công tác t pháp". Để tạo cơ sở pháp lý
thực hiện quyền giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử và nhân dân đối với
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngời tiến hành tố tụng, góp phần khắc
phục việc oan sai, bỏ lọt tội phạm, Bộ luật đã quy định nguyên tắc chung về việc giám
sát là : Cơ quan nhà nớc, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận, đại biểu dân cử, có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng, ngời tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ
quan tiến hành tố tụng, ngời tiến hành tố tụng. Nếu phát hiện những hành vi trái pháp
luật của cơ quan tiến hành tố tụng, ngời tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nớc, đại biểu
dân cử có quyền yêu cầu, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét,
giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị và yêu cầu đó theo quy định của pháp luật
(Điều 32 BLTTHS).
3. Về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những ngời tiến hành tố
tụng
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã có nhiều quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của những ngời tiến hành tố tụng. Tuy nhiên các quy định này còn có

những bất cập, cha phân định đợc rõ ràng, cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của các chức danh tố tụng. Điều này làm giảm hiệu quả hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung -
ơng Đảng khoá VII về việc xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng chức danh
tố tụng, phân định rõ thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng nhằm nâng cao
trách nhiệm của những ngời tiến hành tố tụng, Bộ luật đã sửa đổi, bổ sung một số nội
dung sau:
3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trởng, Phó Thủ trởng cơ quan
điều tra và Điều tra viên
- Quy định rõ những nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trởng Cơ quan điều tra (Điều
34 BLTTHS).
6
- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trởng, Phó thủ tr-
ởng Cơ quan điều tra khi thực hiện việc điều tra vụ án hình sự (khoản 2 Điều 34
BLTTHS).
- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên khi đợc
phân công điều tra vụ án hình sự (Điều 35 BLTTHS).
3.2 Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trởng, Phó Viện trởng Viện
kiểm sát và Kiểm sát viên
- Quy định rõ những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trởng Viện kiểm sát (khoản
1, Điều 36 BLTTHS).
- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trởng, Phó viện trởng Viện
kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng hình sự (khoản 2 Điều 36 BLTTHS).
- Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên khi đợc
phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng hình sự nh (Điều 37 BLTTHS).
3.3 Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó chánh án, Thẩm
phán, Hội thẩm, Th ký phiên toà
- Quy định rõ những nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án (khoản 1 Điều 38

BLTTHS).
- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, Phó chánh án khi tiến
hành giải quyết vụ án hình sự (khoản 2 Điều 38 BLTTHS).
- Quy định cụ thể những nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán (Điều 39
BLTTHS).
- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm (Điều 40 BLTTHS).
- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Th ký phiên toà (Điều 41 BLTTHS).
4. Về quyền và nghĩa vụ của những ngời tham gia tố tụng
Quyền và nghĩa vụ của những ngời tham gia tố tụng nh bị can, bị cáo, ngời bào
chữa, ngời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngời có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, ngời giám định, ngời phiên dịch đợc quy định tại Chơng III Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988. Quán triệt Nghị quyết số 08- NQ/TW của Bộ Chính trị về vấn
đề tranh tụng tại phiên toà và việc tham gia của ngời bào chữa vào quá trình tố tụng nh
tham gia hỏi cung bị can, tranh luận dân chủ tại phiên toà, để bảo đảm thực hiện đầy đủ
hơn các quyền của họ trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung một số
vấn đề chính sau đây:
- Quy định ngời bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ ngời khác bào chữa
( các điều 11, 48 BLTTHS).
7
- Quy định rõ hơn quyền khiếu nại của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những
ngời tham gia tố tụng khác đối với các hành vi và quyết định của cơ quan và ngời có
thẩm quyền tiến hành tố tụng; bị cáo, ngời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và
ngời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền phát biểu ý kiến tại phiên toà
để bảo vệ quyền và lợi ích của mình ( các điều 48, 49, 50, 51, 52, 53, 54 BLTTHS).
- Bổ sung quy định Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho ngời bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình (Điều 57 BLTTHS).
- Mở rộng quyền của ngời bào chữa theo hớng: ngời bào chữa đợc tham gia tố
tụng từ khi khởi tố bị can, trong trờng hợp bắt ngời theo quy định tại Điều 81 và Điều

82 Bộ luật tố tụng hình sự thì đợc tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ; đợc
đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa
sau khi kết thúc điều tra; xem các biên bản về hoạt động tố tụng khi có mặt của họ và
xem các quyết định tố tụng có liên quan đến ngời mà họ bào chữa; đợc đề nghị cơ quan
điều tra báo trớc về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị
can; bổ sung quyền của ngời bào chữa đợc thu thập đồ vật, tài liệu, tình tiết liên quan
đến việc bào chữa từ ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngời thân thích của những ngời này
cũng nh từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân nếu không thuộc bí mật nhà nớc và bí mật
công tác (Điều 58 BLTTHS).
Đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm của ngời bào chữa (khoản 3,4 Điều 58).
5. Về những biện pháp ngăn chặn
Những biện pháp ngăn chặn đợc quy định tại Chơng V của Bộ luật tố tụng hình
sự năm1988 gồm có: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi c trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản để bảo đảm. Thực tiễn thi hành Bộ luật thời gian qua cho thấy việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn đã phát huy tác dụng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm, bảo đảm quyền công dân; tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn
xảy ra những trờng hợp oan, sai. Các nghị quyết của Đảng về cải cách t pháp, nhất là
Nghị quyết số 08- NQ/TW của Bộ chính trị đã nhấn mạnh phải: "nghiên cứu, đề xuất
các giải pháp nhằm hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can trong một
số loại tội"; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn, nhất là trách nhiệm phê chuẩn của Viện kiểm sát.
Căn cứ vào tổng kết thực tiễn và để quán triệt các nghị quyết của Đảng, nâng cao
trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác bắt, giam, giữ, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 đã quy định chặt chẽ hơn việc áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp,
tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi c trú , bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm.
Cụ thể nh sau:
- Quy định chặt chẽ việc xét phê chuẩn việc bắt khẩn cấp. Trong trờng hợp cần
thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi ngời bị bắt trớc khi xem xét quyết định việc
phê chuẩn hoặc không phê chuẩn; thời hạn xét phê chuẩn của Viện kiểm sát là 12 giờ
8

kể từ khi nhận đợc đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp;
trong trờng hợp Viện kiểm sát không phê chuẩn việc bắt khẩn cấp thì Cơ quan điều tra
phải trả tự do ngay cho ngời bị bắt (Điều 81 BLTTHS).
- Quy định cụ thể những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận ngời bị bắt
theo lệnh truy nã nh sau:
Sau khi bị bắt hoặc nhận ngời bị bắt trong trờng hợp khẩn cấp hoặc phạm tội
quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra
quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho ngời bị bắt.
Đối với ngời bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận ngời bị
bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận ngời bị bắt.
Sau khi nhận ngời bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết
định đình nã. Trong trờng hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định không thể đến nhận
ngay ngời bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận ngời bị bắt phải ra
ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết.
Sau khi nhận đợc thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt
để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã đợc Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận ngời bị bắt. Sau khi nhận đợc lệnh tạm
giam, Cơ quan điều tra nhận ngời bị bắt có trách nhiệm giải ngay ngời đó đến trại tạm
giam nơi gần nhất (Điều 83 BLTTHS).
- Quy định bổ sung đối tợng bị áp dụng biện pháp tạm giữ, thẩm quyền ra lệnh
tạm giữ, thời hạn gia hạn tạm giữ của Viện kiểm sát, cụ thể là:
Thời hạn tạm giữ không đợc quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận ngời
bị bắt.
Trong trờng hợp cần thiết, ngời ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nh-
ng không quá ba ngày. Trong trờng hợp đặc biệt, ngời ra quyết định tạm giữ có thể gia
hạn tạm giữ lần thứ hai nhng không quá ba ngày. Mọi trờng hợp gia hạn tạm giữ đều
phải đợc Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận đợc
đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra
quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay

cho ngời bị tạm giữ.
Thời gian tạm giữ đợc trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ đợc tính
bằng một ngày tạm giam (Điều 87 BLTTHS).
- Quy định chặt chẽ và rõ ràng hơn về những trờng hợp có thể áp dụng biện pháp
tạm giam đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dới 36 tháng tuổi,
là ngời già yếu, ngời bị bệnh nặng mà nơi c trú rõ ràng:
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dới ba mơi sáu
tháng tuổi, là ngời già yếu ngời bị bệnh nặng mà nơi c trú rõ ràng thì không tạm giam
mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trờng hợp sau đây:
a. Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
9
b. Bị can, bị cáo đợc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhng tiếp tục phạm tội
hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c. Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng
nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây ra ngay hại đến an ninh quốc gia ( Điều 88
K2).
- Quy định rõ những ngời có thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Thủ tr-
ởng, Phó thủ trởng Cơ quan điều tra; Viện trởng, Phó Viện trởng Viện kiểm sát; Chánh
án, Phó chánh án Toà án các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó chánh toà Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao và Hội đồng xét xử.
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định về các
biện pháp ngăn chặn khác nh cấm đi khỏi nơi c trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để
bảo đảm, cụ thể nh sau:
+ Cấm đi khỏi nơi c trú là biện pháp ngăn chặn đợc quy định tại Điều 74 Bộ luật
tố tụng hình sự năm1988. Thực tiễn hoạt động tố tụng cho thấy việc áp dụng biện pháp
này còn có những hạn chế vì điều luật quy định cha rõ điều kiện, cơ chế bảo đảm việc
áp dụng biện pháp này. Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định: cấm đi
khỏi nơi c trú là biện pháp ngăn chặn có thể đợc áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi c
trú rõ ràng; chính quyền xã, phờng, thị trấn có trách nhiệm quản lý ngời đợc áp dụng
biện pháp ngăn chặn này (Điều 91 BLTTHS).

+ Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn đợc quy định tại Điều 75 Bộ luật tố tụng hình
sự 1988.Thực tiễn cho thấy việc áp dụng biện pháp này còn gặp nhiều khó khăn, vớng
mắc vì điều luật cha quy định rõ trách nhiệm của tổ chức hoặc cá nhân đứng ra bảo
lĩnh, nhiều bị can, bị cáo sau khi đợc bảo lĩnh đã không có mặt khi cơ quan tiến hành tố
tụng triệu tập, tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra, truy
tố, xét xử. Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi quy định về biện pháp
này theo hớng:
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can,
bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định cho họ đợc bảo lĩnh.
Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là ngời thân thích của họ. Trong
trờng hợp này thì ít nhất phải có hai ngời. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị
cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải
làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của
bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi
làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh đợc thông báo về những tình
tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
Những ngời quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán đợc phân
công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.
Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là ngời có t cách, phẩm chất tốt,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền
10
địa phơng nơi ngời đó c trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi ngời đó làm việc. Đối với tổ chức
nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của ngời đứng đầu tổ chức.
Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu
trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trờng hợp này bị can, bị cáo đợc nhận
bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác (Điều 92 BLTTHS).
Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định đặt tiền hoặc tài sản để
bảo đảm là biện pháp ngăn chặn chỉ có thể đợc áp dụng đối với bị can, bị cáo là ngời n-
ớc ngoài. Để thực hiện chủ trơng hạn chế các trờng hợp tạm giam theo Nghị quyết số

08-NQ/TW của Bộ Chính trị, nhiều ý kiến đề nghị cần quy định áp dụng biện pháp đặt
tiền hoặc tài sản để bảo đảm đối với cả bị can, bị cáo là ngời Việt Nam. Thực tiễn hiện
nay cho thấy có những trờng hợp có thể áp dụng biện pháp này mà không cần thiết phải
áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ. Vì vậy Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã
sửa đổi và quy định theo hớng:
Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để thay thế
biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án có thể quyết định cho họ đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo sự
có mặt của họ theo giấy triệu tập.
Những ngời quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán đợc phân
công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để bảo đảm. Quyết định của những ngời quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ
luật này phải đợc Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trớc khi thi hành
Cơ quan ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm phải
lập biên bản ghi rõ số lợng tiền, tên và tình trạng tài sản đã đợc đặt và giao cho bị can
hoặc bị cáo một bản.
Trong trờng hợp bị can, bị cáo đã đợc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án
triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ bị
sung quỹ Nhà nớc và trong trờng hợp này bị can, bị cáo sẽ áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác.
Trong trờng hợp bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì
cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền hoặc tài sản đã đặt.
Trình tự, thủ tục, mức tiền hoặc giá trị tài sản phải đặt để bảo đảm, việc tạm giữ,
hoàn trả, không hoàn trả số tiền hoặc tài sản đã đặt đợc thực hiện theo quy định của
pháp luật (Điều 93 BLTTHS).
11
B. phần thứ hai : khởi tố và điều tra vụ án hình sự
Phần những quy định về khởi tố điều tra vụ án hình sự của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 gồm 8 chơng 64 điều. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định phần

này gồm 8 chơng, 70 điều. Nội dung sửa đổi tập trung vào những vấn đề chính sau
đây:
1. Về các cơ quan điều tra và các cơ quan khác đợc giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra
Các nghị quyết của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều
tra, đặc biệt là những nội dung đợc đề cập trong Nghị quyết số 08- NQ/TW của Bộ
Chính trị đã chỉ rõ: Nâng cao chất lợng công tác điều tra, thực hiện tốt công tác tiếp
nhận, xử lý tin báo, tố giác về tội phạm, tăng cờng phối hợp giữa cơ quan điều tra
chuyên trách với các cơ quan khác đợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra để phục vụ tốt công tác đấu tranh phòng chống tội phạm; sắp xếp, củng cố lại cơ
quan điều tra; quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Thủ trởng cơ quan điều tra và
điều tra viên; kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra và trinh sát Để thực hiện các
nghị quyết của Đảng, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi , bổ sung một số
vấn đề sau đây:
a) Về cơ quan điều tra
Điều 92 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định các cơ quan điều tra gồm có:
cơ quan điều tra của lực lợng Cảnh sát nhân dân, cơ quan điều tra của lực lợng An ninh
nhân dân, cơ quan điều tra trong Quân đội và cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân.
Quán triệt chủ trơng thu gọn đầu mối cơ quan điều tra theo tinh thần các nghị
quyết của Đảng về cải cách t pháp, để nâng cao chất lợng, hiệu quả công tác điều tra,
phân định thẩm quyền điều tra của các cơ quan điều tra ở từng ngành và giữa các cấp
điều tra, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung các quy định về cơ quan
điều tra nh sau:
- Cơ quan điều tra gồm có: cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, cơ quan
điều tra trong Quân đội nhân dân và cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
- Quy định thẩm quyền điều tra của từng hệ thống cơ quan điều tra thuộc mỗi
Bộ, ngành: Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ
những tội phạm do cơ quan điều tra trong Quân đội và những vụ án do Cơ quan điều tra

Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra; cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều
tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự; Cơ quan điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động t pháp mà
ngời phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan t pháp.
- Quy định nguyên tắc chung là cơ quan điều tra cấp nào thì điều tra những vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp đó; cơ quan điều tra cấp bộ trong Công an
12
nhân dân và Quân đội nhân dân điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dới nh-
ng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Đồng thời Bộ luật cũng quy định: tổ chức bộ máy và thẩm quyền cụ thể của các
cơ quan điều tra sẽ do Uỷ ban thờng vụ Quốc hội quy định (Điều 110 BLTTHS).
b) Các cơ quan khác đợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
Theo quy định tại Điều 93 Bộ luật tố tụng hình sự 1988, các cơ quan khác đợc
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là Bộ đội Biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm và các cơ quan khác của lực lợng Cảnh sát nhân dân, lực lợng An ninh nhân
dân, Quân đội nhân dân.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm của các
cơ quan điều tra và qua khảo sát tại các cơ quan Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm
lâm, Cảnh sát biển cho thấy hoạt động của các cơ quan này đã góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn và trong lĩnh vực mà họ quản lý.
Trên tinh thần đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung các quy định
về thẩm quyền của các cơ quan đợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
theo hớng:
Tiếp tục quy định: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm và bổ sung thêm
Cảnh sát biển (do tính chất hoạt động quản lý của Cảnh sát biển có nhiều điểm giống
nh Bộ đội biên phòng) đợc tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội ít nghiêm
trọng trong trờng hợp phạm pháp quả tang, chứng cứ rõ ràng, ngời phạm tội có lai lịch
rõ ràng, hoàn thành hồ sơ chuyển cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 20
ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.

Đối với các tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng và tội ít
nghiêm trọng nhng phức tạp thì đợc khởi tố vụ án, tiến hành một số hoạt động điều tra
ban đầu và chuyển cho cơ quan điều tra trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày ra quyết định
khởi tố vụ án (Điều 111 BLTTHS).
c) Về trách nhiệm của cơ quan điều tra trong việc giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm và khởi tố vụ án
Trách nhiệm của cơ quan điều tra trong việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
khởi tố vụ án đợc quy định tại các điều 86, 87, 90 Bộ luật tố tụng hình sự 1988. Thực
tiễn cho thấy cơ quan điều tra khởi tố khoảng 95-97% tổng số vụ án đợc khởi tố, Viện
kiểm sát chỉ khởi tố khoảng 2-3%, còn lại là các cơ quan khác đợc giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra thực hiện. Do Bộ luật tố tụng hình sự cha phân định rõ
ràng việc nào thì Viện kiểm sát khởi tố, việc nào thì cơ quan điều tra khởi tố, nên có tr -
ờng hợp Viện kiểm sát hoặc cơ quan điều tra đều kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết
định việc khởi tố trong cùng một vụ việc hoặc dẫn tới bỏ lọt tội phạm và ngời phạm tội.
Để bảo đảm"tăng cờng sự phối hợp giữa các cơ quan t pháp trong hoạt động tố tụng
trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không
13
hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm" theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của
Bộ chính trị, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định để
phân định rõ ràng trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết tin báo, tố giác
tội phạm, khởi tố vụ án theo hớng:
- Quy định cơ quan điều tra có nhiệm vụ giải quyết tin báo, tố giác tội phạm,
kiến nghị khởi tố và thông báo kết quả giải quyết tin báo, tố giác tội phạm hoặc kiến
nghị khởi tố cho cơ quan, tổ chức hoặc ngời đã tố giác tội phạm; Viện kiểm sát có trách
nhiệm kiểm sát việc giải quyết của cơ quan điều tra đối với tin báo, tố giác về tội phạm
và kiến nghị khởi tố (Điều 103 BLTTHS).
- Bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan điều tra, của các cơ quan khác đ-
ợc quyền khởi tố vụ án phải gửi quyết định khởi tố, quyết định không khởi tố vụ án cho
Viện kiểm sát trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định để Viện kiểm sát kiểm sát
việc khởi tố (Điều 104, 108 BLTTHS).

d) Về thủ tục tiến hành các hoạt động điều tra
Thủ tục tố tụng điều tra đợc quy định cụ thể trong Phần thứ hai (từ Chơng VII
đến Chơng XIII, gồm các điều từ Điều 83 đến Điều 140) Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988 về cơ bản đang phát huy tác dụng. Tuy nhiên, để góp phần nâng cao chất lợng
công tác điều tra, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định chặt chẽ và cụ thể hơn
một số trình tự, thủ tục tố tụng để thuận lợi trong việc áp dụng nh sau:
- Quy định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra; việc
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can; việc áp giải bị
can, việc dẫn giải ngời làm chứng ( các điều 106, 127, 130, 134 BLTTHS).
- Quy định đầy đủ và chặt chẽ hơn thủ tục tiến hành các hoạt động điều tra nh
khám nghiệm hiện trờng, khám nghiệm tử thi, hỏi cung bị can, lấy lời khai ngời làm
chứng, ngời bị hại (các điều 131, 135, 150, 151 BLTTHS).
2. Về vấn đề giám định
Bộ luật tố tụng hình sự 1988 đã có nhiều quy định về vấn đề giám định (các điều
14, 44, 48, 55, 99, 101, 130, 131, 132, 133, 134, 168, 189 và 281). Thực tiễn áp dụng
cho thấy các quy định này còn có những hạn chế, vớng mắc làm cho việc giải quyết vụ
án bị kéo dài, thiếu chính xác.
Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ chính trị nêu rõ: "Từng bớc hoàn thiện các tổ
chức giám định t pháp. Thành lập cơ quan giám định pháp y quốc gia, sớm hoàn thiện
pháp luật về giám định t pháp".
Quán triệt Nghị quyết của Đảng, trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa
đổi, bổ sung một số điều nhằm quy định rõ ràng những vấn đề có tính nguyên tắc trong
giám định, góp phần bảo đảm công tác điều tra, truy tố, xét xử đúng ngời, đúng tội,
đúng pháp luật. Bởi vì, giám định là vấn đề quan trọng đối với việc phát hiện và xử lý
vụ án hình sự; kết quả giám định là một trong những tài liệu chứng cứ để tiến hành tố
14
tụng đối với vụ án, nhất là trong điều kiện phát triển công nghệ, thông tin nh hiện nay.
Cụ thể là:
- Quy định rõ và đầy đủ những trờng hợp bắt buộc phải giám định nh giám định
về ma tuý, tiền giả, tuổi của bị can, bị cáo, tuổi của ngời bị hại (Điều 155 BLTTHS).

- Bổ sung quyền đợc yêu cầu thông báo về nội dung và trình bày ý kiến về kết
luận giám định của những ngời tham gia tố tụng (Điều 158 BLTTHS).
- Quy định rõ trình tự, thủ tục trng cầu giám định, trách nhiệm của cơ quan hoặc
ngời giám định phải thông báo cho cơ quan đã trng cầu giám định biết rõ lý do trong tr-
ờng hợp không thể tiến hành giám định theo thời hạn trng cầu ( các điều 155, 156
BLTTHS).
- Quy định rõ căn cứ của việc giám định bổ sung hoặc giám định lại (Điều 159
BLTTHS).
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra
Các điều 87, 90, 91, 141 Bộ luật tố tụng hình sự năm1988 quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn
điều tra. Các nghị quyết của Đảng về cải cách t pháp, nhất là Nghị quyết số 08-NQ/TW
của Bộ chính trị đã chỉ rõ: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố, hoạt
động công tố phải đợc thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố
tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và ngời phạm tội, không làm oan ngời vô
tội. Quán triệt nội dung của Nghị quyết, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002 đã quy định rõ hoạt động thực hành quyền công tố và phân định với hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra. Để Viện kiểm sát thực hiện
tốt chức năng công tố cần cụ thể hoá hơn nhiêm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi
thực hành quyền công tố, quy định các biện pháp nhằm bảo đảm hoạt động công tố của
Viện kiểm sát phát huy hiệu lực trong thực tiễn. Trên tinh thần đó, Bộ luật tố tụng hình
sự 2003 đã sửa đổi, bổ sung các nội dung chính sau đây:
- Sửa đổi Điều 141 Bộ luật tố tụng hình sự 1988 để quy định rõ hơn nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong
giai đoạn điều tra; trách nhiệm thực hiện các yêu cầu hoặc quyết định của Viện kiểm
sát ( các điều 112, 113, 114, 115 BLTTHS).
- Quy định rõ trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can: Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố vụ án của các cơ quan
có thẩm quyền khởi tố; trực tiếp khởi tố trong trờng hợp Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết
định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra và trong trờng hợp Hội đồng xét xử yêu

cầu khởi tố vụ án, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố các tội
xâm phạm hoạt động t pháp thuộc thẩm quyền; Viện kiểm sát có quyền quyết định thay
đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, có trách nhiệm phê chuẩn quyết định khởi
tố bị can của những ngời có thẩm quyền (các điều 103, 104, 106, 108, 109 BLTTHS).
15
Các điều 141, 142 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định Viện kiểm sát có
quyền truy tố bị can, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002 đã quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc quyết định các
vấn đề này. Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quyền hạn trên, khắc phục tình trạng
đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc ra quyết
định đình chỉ điều tra, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung một số vấn
đề sau đây:
- Trong trờng hợp có căn cứ để đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra phải đình
chỉ điều tra và trong thời hạn 2 ngày kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, Cơ quan điều
tra phải gửi bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ
án cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc đình chỉ điều tra. Nếu thấy quyết định
đình chỉ điều tra không có căn cứ thì Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra
và yêu cầu cơ quan điều tra tiếp tục điều tra. Nếu thấy đủ căn cứ để truy tố bị can thì
Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra của cơ quan điều tra và ra quyết định
truy tố ( các điều 162, 164 BLTTHS).
- Quy định Viện kiểm sát cấp trên huỷ bỏ quyết định đình chỉ vụ án không có
căn cứ và trái pháp luật của Viện kiểm sát cấp dới và yêu cầu ra quyết định truy tố
(Điều 169 BLTTHS).
c. Phần thứ ba: xét xử sơ thẩm
Phần thứ ba của Bộ luật tố tụng hình sự năm1988 quy định về xét xử sơ thẩm
gồm 7 chơng, 60 điều. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định phần này cũng gồm
7 chơng, 60 điều. Nội dung sửa đổi tập trung vào những vấn đề chính sau đây:
1. Về việc tranh tụng tại phiên toà
Tranh tụng không phải là nội dung hoàn toàn mới trong tố tụng hình sự Việt
Nam mà vấn đề này cũng đã đợc thể hiện tại nhiều quy định cụ thể trong Bộ luật tố

tụng hình sự năm1988. Tuy nhiên những quy định này cha thể hiện đầy đủ việc tranh
tụng, nhất là tranh tụng tại phiên toà.
Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu rõ : Việc phán quyết của
Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ,
toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của ngời bào chữa, bị cáo, nhân
chứng, nguyên đơn, bị đơn và những ngời có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản
án, quyết định đúng pháp luật .
Để thể chế hoá quan điểm của Đảng về tranh tụng tại phiên toà, nâng cao chất l-
ợng xét xử các vụ án hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trớc Toà án và các quy định khác để Kiểm sát
viên phải chủ động trong việc thực hành quyền công tố khi tranh luận còn ý kiến khác
nhau thì phải đa ra lập luận của mình đối với từng ý kiến. Bị cáo, ngời bào chữa và
những ngời tham gia tố tụng khác có quyền đa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu đợc trình bày
hết ý kiến và tranh luận dân chủ tại phiên toà. Hội đồng xét xử khi nghị án chỉ đợc căn
16
cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã đợc thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ,
toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những ngời tham gia tố
tụng khác (các điều 217, 218, 222 BLTTHS)
2. Về thẩm quyền xét xử của Toà án cấp huyện
Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định: Toà án nhân dân cấp
huyện và Toà án quân sự cấp khu vực xét xử sơ thẩm những tội phạm mà Bộ luật hình
sự quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống, trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia và
các tội quy định tại các điều 95, 96, khoản 1 Điều 173 và các điều 222, 223, 263, 293,
294, 295, 296 Bộ luật hình sự (24 tội). Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp
quân khu có thể lấy lên để xét xử sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án
cấp huyện.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ơng Đảng (khoá VII) chỉ rõ
nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân dân cấp huyện theo hớng việc xét
xử sơ thẩm đợc thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp này.
Thực hiện chủ trơng này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã sửa đổi để quy

định về thẩm quyền xét xử của Toà cấp huyện nh sau: Toà án nhân dân cấp huyện và
Toà án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng , trừ các tội phạm
xâm phạm an ninh quốc gia (14 tội); các tội phá hoại hoà bình, chống loài ngời và tội
phạm chiến tranh ( 4 tội) và 21 tội phạm khác mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt
đến 15 năm tù nhng có tính chất phức tạp. Đồng thời vẫn giữ khoản 2 Điều 145 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 1988 quy định về Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân sự cấp
quân khu có thể lấy lên để xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện
(nh tội phạm có yếu tố nớc ngoài, các tội phạm liên quan đến một số đối tợng mà việc
điều tra, truy tố, xét xử cần phải đợc cân nhắc kỹ ( Điều 170 BLTTHS).
Để bảo đảm tính khả thi của quy định về việc tăng thẩm quyền xét xử của Toà án
cấp huyện, trên cơ sở đề nghị của các cơ quan hữu quan, Uỷ ban thờng vụ Quốc hội sẽ
quyết định cụ thể Toà án cấp huyện ở những địa phơng có đủ điều kiện sẽ thực hiện
ngay thẩm quyền mới, kể từ ngày Bộ luật tố tụng hình sự mới có hiệu lực vào ngày
01/7/1004. Các địa phơng khác tiếp tục củng cố các cơ quan t pháp cấp huyện, củng cố
đến đâu thì giao tiếp đến đó, phấn đấu tối đa sau 5 năm thì tất cả Toà án cấp huyện trên
phạm vi cả nớc sẽ thực hiện thẩm quyền mới.
3. Về giới hạn xét xử
Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định : " Toà án chỉ xét xử những
bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết
định đa ra xét xử ". Trên cơ sở tổng kết thực tiễn xét xử của Toà án các cấp cho thấy
cần phải sửa đổi, bổ sung quy định này cho phù hợp; Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
đã bổ sung quy định về giới hạn xét xử cho chặt chẽ hơn nh sau: "Toà án chỉ xét xử
những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã
17
quyết định đa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện
kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn
tội mà Viện kiểm sát đã truy tố" (Điều 196 BLTTHS).
D. phần thứ t: xét lại bản án và quyết định cha có hiệu lực pháp
luật theo thủ tục phúc thẩm

Phần thứ t Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định về xét lại bản án và quyết
định cha có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm gồm 2 chơng , 23 điều. Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 quy định phần này gồm 2 chơng và 25 điều. Nội dung sửa đổi
tập trung vào những vấn đề chính sau đây:
1. Về việc áp dụng, thay đổi , huỷ bỏ biện pháp tạm giam trong giai đoạn
xét xử phúc thẩm
Điều 215 a Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 cha quy định rõ ngời có thẩm
quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử phúc thẩm của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; cha quy định rõ việc tạm
giam đối với bị cáo để bảo đảm việc thi hành án. Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 đã quy định ngời có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét
xử phúc thẩm của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là Thẩm phán giữ chức vụ
Chánh Toà, Phó chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; đồng thời quy định
rõ thẩm quyền và thời hạn bắt, tạm giam đối với bị cáo theo hớng: đối với bị cáo đang
bị tạm giam mà bị tuyên án phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên toà thời hạn tạm giam
đã hết thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc
thi hành án. Đối với bị cáo không bị tạm giam nhng bị tuyên án phạt tù thì Hội đồng
xét xử ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án. Thời hạn tạm giam là
45 ngày, kể từ ngày tuyên án (Điều 243 BLTTHS).
2. Về thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm
Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 không quy định cho Toà án cấp phúc
thẩm đợc huỷ án sơ thẩm trong trờng hợp án sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội, mặc
dù tại phiên toà phúc thẩm thấy đủ căn cứ xác định bị cáo phạm tội vẫn phải giữ
nguyên bản án sơ thẩm và kiến nghị ngời có thẩm quyền kháng nghị theo trình tự giám
đốc thẩm để Toà giám đốc xem xét giải quyết, dẫn đến việc giải quyết vụ án bị kéo dài
một cách không cần thiết. Để giải quyết tình trạng này Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 đã sửa đổi Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và quy định Toà án cấp
phúc thẩm có quyền huỷ án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm (Điều 250 BLTTHS).
3. Về thời hạn giao bản án và quyết định phúc thẩm
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 cha quy định thời hạn giao bản án và quyết

định phúc thẩm. Việc chậm giao bản án và quyết định phúc thẩm đã dẫn đến tình trạng
chậm thi hành án, nhiều ngời bị tạm giam dài ngày trong các trại tạm giam để chờ thi
hành án. Để giải quyết vấn đề này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định rõ:
trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày ra quyết định, Toà án cấp
phúc thẩm phải gửi bản án hoặc quyết định phúc thẩm cho ngời kháng nghị; Toà án,
18
Viện kiểm sát, Cơ quan Công an nơi đã xử sơ thẩm ngời đã kháng cáo, ngời có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc ngời đại diện hợp pháp
của họ Trong trờng hợp Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xử phúc thẩm thì thời
hạn này có thể dài hơn nhng không quá 25 ngày ( Điều 254 BLTTHS) .
đ. phần thứ năm: thi hành bản án và quyết định của Toà án
Phần thứ năm Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định về thi hành án hình sự
gồm 5 chơng, 16 điều. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định phần này gồm 5 ch-
ơng, 17 điều. Nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung vào 1 số vấn đề sau:
1. Về việc truy nã ngời bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 cha quy định về việc truy nã ngời bị kết án
phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn, nên thực tiễn hoạt động thi hành án gặp nhiều vớng
mắc. Khắc phục hạn chế này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: Trong trờng
hợp ngời bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn thì Chánh án Toà án đã ra quyết
định thi hành án yêu cầu Cơ quan công an cùng cấp ra quyết định truy nã (Điều 256
BLTTHS).
2. Về việc hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù.
Điều 231 và 232 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định về việc hoãn hoặc
tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, tuy nhiên những quy định này còn thiếu cụ thể dẫn
đến vớng mắc trong thực tiễn áp dụng. Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã bổ
sung một số nội dung cho đầy đủ hơn, cụ thể là:
- Quy định rõ chậm nhất là 7 ngày trớc khi hết thời hạn hoãn hoặc tạm đình chỉ
thi hành án phạt tù, Chánh án Toà án đã cho hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phải ra
quyết định thi hành án và gửi cho Cơ quan Công an cùng cấp để thực hiện nhiệm vụ thi
hành bản án, quyết định của Toà án. Nếu quá thời hạn 7 ngày kể từ ngày hết thời hạn

hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án mà ngời bị kết án không có mặt tại Cơ quan Công
an để đi chấp hành hình phạt tù mà không có lý do chính đáng thì Cơ quan Công an
phải áp giải ngời bị kết án đi chấp hành hình phạt tù.
3. Về thẩm quyền cho ngời bị kết án đợc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù.
Theo quy định tại Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thì việc cho ngời
bị kết án đợc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù thuộc thẩm quyền của Chánh án Toà án
đã ra quyết định thi hành. Tuy nhiên thực tế cho thấy nhiều trờng hợp ngời bị kết án
chấp hành hình phạt ở địa phơng khác với nơi đã ra quyết định thi hành án, khi xét đề
nghị cho họ đợc tạm đình chỉ thi hành án do họ bị lâm bệnh nặng thì gặp khó khăn và
không kịp thời. Để khắc phục hạn chế này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định
trong trờng hợp ngời bị kết án mà bị bệnh nặng thì Chánh án Toà án cấp tỉnh nơi ngời
đó đang chấp hành hình phạt tù có thể cho họ đợc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
Còn các trờng hợp khác quy định tại các điểm b, c, d, khoản 1 Điều 61 và Điều 62 thì
19
vẫn thuộc thẩm quyền quyết định của Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án nh
quy định trớc đây (Điều 262 BLTTHS).
e. Phần thứ sáu: xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực
pháp luật
Phần thứ sáu của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định về việc xét lại bản
án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật gồm 2 chơng, 30 điều. Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 quy định phần này gồm 2 chơng, 29 điều. Nội dung sửa đổi tập trung vào
những vấn đề chính sau đây :
1. Về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm
Điều 244 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định: Phó Viện trởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm. Thực hiện nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật tổ
chức Toà án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 đã bỏ thẩm quyền này của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối
cao và Phó viện trởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 275 BLTTHS).
2. Về thời hạn trả lời việc không kháng nghị giám đốc thẩm

Điều 246 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 cha quy định rõ thời hạn ngời có
quyền kháng nghị trả lời cho ngời hoặc cơ quan, tổ chức đã phát hiện vi phạm của bản
án đã có hiệu lực pháp luật biết rõ lý do của việc không kháng nghị. Để nâng cao trách
nhiệm của những ngời có thẩm quyền kháng nghị và cũng để khắc phục việc khi phát
hiện đợc vấn đề cần kháng nghị thì đã quá thời hạn luật định, Bộ luật tố tụng hình sự
sửa đổi và quy định: nếu không có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì tr-
ớc khi hết thời hạn kháng nghị, ngời có quyền kháng nghị phải trả lời cho ngời hoặc cơ
quan , tổ chức đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị (Điều 277
BLTTHS).
3. Về thẩm quyền giám đốc thẩm
Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định về thẩm quyền giám đốc
thẩm. Thực tiễn áp dụng quy định này cho thấy, nhiều trờng hợp những bản án và quyết
định trong cùng một vụ án hình sự khi kháng nghị giám đốc thẩm lại thuộc thẩm quyền
xem xét của nhiều cấp giám đốc thẩm khác nhau. Ví dụ: những phần không bị kháng
nghị, kháng cáo của bản án sơ thẩm cấp huyện thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của
Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh; những phần bị kháng cáo, kháng nghị của
chính bản án sơ thẩm ấy đợc xét xử phúc thẩm ở cấp tỉnh mà phát hiện có vi phạm pháp
luật thì lại thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao.
Nh vậy việc giám đốc về cùng một vụ án lại thuộc thẩm quyền của hai cấp khác nhau
và trong thực tế cấp này phải chờ cấp khác xem xét xong thì mới có hồ sơ vụ án để tiến
hành giám đốc. Thực hiện nh trên dẫn đến việc giám đốc thẩm bị kéo dài. Để giải quyết
vấn đề này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: việc giám đốc thẩm những bản
20
án, quyết định về cùng một vụ án, thuộc thẩm quyền của các cấp khác nhau thì cấp có
thẩm quyền cấp trên tiến hành giám đốc thẩm toàn bộ vụ án (Điều 279 BLTTHS).
4. Về thành phần Hội đồng giám đốc thẩm
Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1998 quy định: khi Uỷ ban thẩm phán
hoặc Hội đồng thẩm phán giám đốc thẩm thì số thành viên tham gia xét xử phải chiếm
hai phần ba tổng số các thành viên của Uỷ ban thẩm phán hoặc Hội đồng thẩm phán.
Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban thẩm phán hoặc Hội đồng thẩm phán phải đợc

quá nửa tổng số thành viên tán thành thì mới có giá trị.
Thực tế cho thấy để bảo đảm việc xét xử của Uỷ ban thẩm phán hoặc Hội đồng
thẩm phán đợc chính xác thì cần quy định cụ thể cách thức biểu quyết của Uỷ ban thẩm
phán hoặc Hội đồng thẩm phán. Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định:
Tại phiên toà giám đốc thẩm của Uỷ ban thẩm phán(TAND cấp tỉnh, Toà án quân sự
cấp quân khu) hoặc Hội đồng thẩm phán (Toà án nhân dân tối cao), khi biểu quyết về
nội dung kháng nghị thì phải biểu quyết theo trình tự những ý kiến đồng ý với kháng
nghị, những ý kiến không đồng ý với kháng nghị. Nếu không có loại ý kiến nào đợc
quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban thẩm phán hoặc Hội đồng thẩm phán biểu quyết
tán thành thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày ra
quyết định hoãn phiên toà thì Uỷ ban thẩm phán hoặc Hội đồng thẩm phán phải mở
phiên toà xét xử lại vụ án với sự tham gia của toàn thể các thành viên (Điều 281
BLTTHS).
5. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm
Điều 254 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định Hội đồng giám đốc thẩm có
quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Trong bối cảnh cải cách t pháp hiện nay, để bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử
thì cần bỏ thẩm quyền sửa bản án của Hội đồng giám đốc thẩm. Giám đốc thẩm là cấp
kiểm tra các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Trong trờng hợp Toà án
giám đốc thấy bản án sơ thẩm xử đúng thì huỷ bản án phúc thẩm và giữ nguyên bản án
sơ thẩm; nếu xét thấy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm đều sai thì phải huỷ cả hai
bản án đó, giám đốc thẩm không nên sửa hình phạt. Do đó, trong Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 không quy định Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản án đã tạo ra
tâm lý coi giám đốc thẩm nh một cấp xét xử thứ ba (Điều 285 BLTTHS).
G. Phần thứ bảy Về thủ tục đặc biệt
Phần thủ tục đặc biệt của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 gồm 2 chơng, 16
điều. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định phần này gồm 4 chơng, 39 điều (trong
đó xây dựng hai chơng mới: Chơng XXXIV về thủ tục rút gọn và Chơng XXXV về
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự). Các nội dung sửa đổi chính cụ thể nh sau:
1. Thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là ngời cha thành niên

Thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là ngời cha thành niên đợc quy định tại
Chơng XXXI Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Để bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp
21
pháp của ngời cha thành niên phạm tội, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã bổ sung
một số quy định nh sau:
- Quy định trách nhiệm của cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam ngời cha
thành niên phạm tội phải thông báo cho ngời đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau
khi bắt, tạm giữ, tạm giam (Điều 303 BLTTHS).
- Quy định ngời đại diện hợp pháp của ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ngời cha
thành niên có thể lựa chọn ngời bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho ngời bị tạm giữ, bị
can, bị cáo (Điều 305 BLTTHS).
- Quy định rõ ngời bị tạm giữ, bị can là ngời từ đủ 14 tuổi nhng dới 16 tuổi hoặc
là ngời cha thành niên có nhợc điểm về thể chất hoặc tâm thần hoặc trong những trờng
hợp cần thiết khác thì khi lấy lời khai của họ phải có đại diện gia đình của ngời đó. Đại
diện gia đình bị cáo, đại diện nhà trờng hoặc tổ chức tham gia phiên toà có quyền đa ra
tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi ngời tiến hành tố tụng, tham gia tranh luận,
khiếu nại các hành vi tố tụng của những ngời có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các
quyết định của Toà án (Điều 306 BLTTHS).
2. Về thủ tục áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
Để phù hợp với quy định tại Điều 43 Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 đã bổ sung một điều mới về áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với ngời
đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi nh sau:
Trong trờng hợp có căn cứ để cho rằng ngời đang chấp hành hình phạt tù mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù, Chánh án Toà
án cấp tỉnh hoặc Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu, nơi ngời bị kết án chấp hành
hình phạt, phải trng cầu giám định pháp y. Căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định
pháp y, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh án Toà án quân sự cấp quân
khu, nơi ngời bị kết án chấp hành hình phạt có thể quyết định đa họ vào một cơ sở điều

trị chuyên khoa y tế để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, ngời đó phải tiếp tục
chấp hành hình phạt, nếu không có lý do để miễn chấp hành hình phạt (Điều 315
BLTTHS).
3. Về Thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn là một dạng thủ tục tố tụng hình sự trong đó có một số thủ tục đ-
ợc rút ngắn nhằm giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử đợc nhanh chóng đối với những
vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch ngời phạm tội rõ ràng, góp phần
đấu tranh phòng và chống tội phạm kịp thời, có hiệu quả, bảo đảm các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự.
ở nớc ta, từ năm 1974 đã có những văn bản dới luật quy định về thủ tục rút gọn
và đã đợc áp dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử. Bộ luật tố tụng hình sự nhiều
22
nớc trong khu vực và trên thế giới cũng có quy định về thủ tục rút gọn để xử lý nhanh
những vụ phạm tội quả tang, đơn giản, rõ ràng.
Trong giai đoạn hiện nay, để tăng cờng hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm, đồng thời vẫn bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân, thì việc
quy định thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự là cần thiết. Nghị quyết số 08-
NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục rút
gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít
nghiêm trọng.
Trên tinh thần đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định thủ tục rút gọn
thành một chơng (Chơng XXXIV) gồm 7 điều, từ Điều 318 đến Điều 324 với những
nội dung sau đây:
- Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn:
Thủ tục rút gọn đợc áp dụng đối với những vụ án khi có đủ các điều kiện nh : Ng-
ời thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ
ràng; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; ngời phạm tội có căn cớc, lai
lịch rõ ràng (Điều 319 BLTTHS).
- Về thời hạn tố tụng của thủ tục rút gọn:
Toàn bộ thời gian điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm không quá 30 ngày, trong đó

thời hạn điều tra là 12 ngày, thời hạn truy tố là 4 ngày; thời hạn xét xử sơ thẩm là 14
ngày; khi áp dụng thủ tục rút gọn vẫn có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
bị can, bị cáo; trong trờng hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn thì thời hạn áp dụng các
biện pháp ngăn chặn không đợc vợt quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục
rút gọn (các điều 321, 322, 323, 324 Bộ luật tố tụng hình sự).
- Về một số thủ tục trong khi áp dụng thủ tục rút gọn:
Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra
quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát; Viện kiểm sát ra quyết
định truy tố thay cho bản cáo trạng (các điều 321, 323 BLTTHS).
1. Về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự đợc quy định tại Điều 24 và các điều 34,
36, 38, 39, 40, 41, 42a, 90, 144, 176 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.
Thực tiễn hiện nay cho thấy tình hình khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực t pháp còn
diễn biến phức tạp, nhiều vụ việc còn để dây da, kéo dài. Chỉ thị 53- CT/TW của Bộ
23
Chính trị yêu cầu các cơ quan t pháp phải "thờng xuyên kiểm tra và chỉ đạo tốt việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực t pháp".
Để bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, cùng
với việc sửa đổi, bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 còn sửa đổi, bổ sung các điều có liên quan để quy định rõ quyền của
những ngời tham gia tố tụng không chỉ đợc khiếu nại về các quyết định mà còn đợc
khiếu nại cả về hành vi của ngời tiến hành tố tụng. Đồng thời, để khắc phục tình trạng
tản mạn, thiếu rõ ràng, cha đầy đủ của các quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn và
thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, nâng cao trách nhiệm của cơ quan và ngời tiến
hành tố tụng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
đã xây dựng một chơng mới (Chơng XXXV) gồm 15 điều trong đó quy định về những
nội dung sau:
- Quy định về những ngời có quyền khiếu nại, tố cáo ( Điều 325, 334 BLTTHS).
- Quy định về quyền và nghĩa vụ của ngời khiếu nại, ngời bị khiếu nại; ngời tố
cáo, ngời bị tố cáo ( Các điều 326, 327, 335, 336 BLTTHS).

- Quy định về thời hiệu khiếu nại ( Điều 328 BLTTHS).
- Quy định về thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với những ngời có
thẩm quyền tiến hành TTHS ( Các điều 329, 330, 331, 332 BLTTHS).
- Quy định thời hạn giải quyết khiếu nại liên quan đến việc áp dụng biện pháp
bắt, tạm giữ, tạm giam (Điều 333 BLTTHS).
- Quy định thẩm quyền và thời hạn giải quyết tố cáo (Điều 337 BLTTHS).
- Quy định trách nhiệm của ngời có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo
(Điều 338 BLTTHS).
- Quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo.
H. Phần thứ tám: hợp tác quốc tế
Những năm gần đây trong điều kiện đất nớc mở cửa, hội nhập quốc tế ở nhiều
lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, tình hình tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia
với sự cấu kết giữa các băng nhóm tội phạm trong nớc và nớc ngoài diễn biến phức tạp.
Đã xuất hiện nhiều ngời Việt Nam phạm tội rồi bỏ trốn ra nớc ngoài, nhiều ngời nớc
ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Để phối hợp đấu tranh chống loại tội phạm này
có hiệu quả thì cần phải có những quy định về hợp tác quốc tế trong Bộ luật tố tụng
hình sự.
24
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 cha quy định cụ thể về hợp tác quốc tế trong tố
tụng hình sự. Từ năm 1981 đến nay, nớc ta đã ký kết Hiệp định tơng trợ t pháp với một
số nớc, tham gia công ớc quốc tế của Liên hợp quốc về kiểm soát ma tuý. Lực lợng
Cảnh sát Việt Nam đã tham gia tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế và khu vực (Interpol,
Aseanapol). Để " tổ chức thực hiện tốt các công ớc quốc tế, hiệp định tơng trợ t pháp
và các hiệp định phòng chống tội phạm mà Nhà nớc ta đã ký kết hoặc gia nhập" nh
Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã xác định rõ, Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 đã bổ sung một phần mới về Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự
(Phần thứ tám gồm 2 chơng với 7 điều luật trong đó quy định một số vấn đề mang tính
nguyên tắc, tạo cơ sở pháp lý cho việc hợp tác song phơng và đa phơng trong tố tụng
hình sự). Nội dung cụ thể đợc quy định từ Điều 340 đến 346 của Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2003.
VI. Về việc thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Sau khi Bộ luật tố tụng hình sự đợc thông qua, ngày 26 tháng11 năm 2003 Quốc
hội khóa XI, kỳ họp thứ 4 ban hành Nghị quyết số 24/2003/QH11 về việc thi hành Bộ
luật tố tụng hình sự gồm những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, về hiệu lực của Bộ luật tố tụng hình sự:
Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2004, thay thế Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ hai, về việc rà soát và xây dựng văn bản hớng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng
hình sự :
Giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan tự mình hoặc phối hợp với các cơ quan
hữu quan tổ chức việc rà soát những văn bản huớng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 để hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới cho phù hợp với quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 , bảo đảm hiệu lực của Bộ luật này từ ngày
01 tháng 7 năm 2004.
Thứ ba, về lộ trình thực hiện thẩm quyền xét xử mới quy định tại khoản 1, Điều
170 của BLTTHS :
Giao Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Chính phủ đề nghị Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội quyết định những Toà án nhân dân cấp
huyện, Toà án Quân sự cấp khu vực cụ thể nào đợc thực hiện thẩm quyền xét xử mới kể
từ ngày 01 tháng 7 năm 2004.
Đối với những Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án Quân sự cấp khu vực cha đủ
điều kiện để thực hiện thẩm quyền xét xử mới thì vẫn thực hiện thẩm quyền xét xử cũ
25

×