Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG NĂM 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.52 KB, 19 trang )


BỘ TƯ PHÁP
VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VỤ PHÁP CHẾ

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
Luật Bảo vệ và phát triển rừng đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm
2004. Luật có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 4 năm 2005 và thay thế Luật Bảo
vệ và phát triển rừng năm 1991.
I/ Mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết ban hành Luật bảo vệ và phát triển
rừng
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá VIII, tại Kỳ
họp thứ 9, ngày 12 tháng 8 năm 1991 đã thông qua Luật Bảo vệ và phát triển
rừng. Đây là một trong những luật quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho công tác
quản lý, bảo vệ, xây dựng, phát triển, khai thác và sử dụng rừng; bảo vệ môi
trường, cảnh quan thiên nhiên; bảo tồn thực vật rừng, động vật rừng quý,
hiếm; góp phần vào việc phòng chống thiên tai.
Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 đã hướng dẫn và thu hút mọi
tầng lớp nhân dân tích cực tham gia xây dựng, phát triển rừng; tạo công ăn
việc làm cho đồng bào sống ở vùng rừng, góp phần phát triển kinh tế và ổn
định trật tự trị an xã hội; bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Qua hơn mười năm thực hiện Luật Bảo vệ và phát triển rừng, tình trạng
tàn phá rừng đã giảm, nhiều vùng đất trống, đồi núi trọc đã được phủ xanh,
nhiều khu rừng được phục hồi, nên diện tích đất có rừng đã tăng lên rõ rệt; độ
che phủ của rừng tăng từ 28% (năm 1992) lờn 35,8% (năm 2002). Tính đến
ngày 31 tháng 12 năm 2002, diện tích có rừng tự nhiên là 9,8 triệu hecta, diện
tích có rừng trồng là 1,9 triệu hecta, diện tích đất chưa sử dụng vẫn còn 7,35


triệu hecta.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đổi mới đất nước, tình hình phát
triển về kinh tế - xã hội của đất nước có nhiều thay đổi, nhiều quy định trong
Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 không còn phù hợp, không đáp ứng
được yêu cầu đổi mới của đất nước và công tác quản lý, bảo vệ, phát triển
rừng, cụ thể như sau:
1. Luật Bảo vệ và phát triển rừng được xây dựng trong những năm đầu
của thời kỳ đổi mới. Một số nội dung của Luật vẫn còn thể hiện tính nhà nước
tập trung, bao cấp, chưa thể hiện quan điểm và tư tưởng chỉ đạo đổi mới của
Đảng là chuyển mạnh từ lâm nghiệp nhà nước sang lâm nghiệp xã hội, lâm
nghiệp nhân dân; chịu ảnh hưởng nhiều của tư duy quản lý tập trung bao cấp,
chỉ chú ý đến lâm nghiệp quốc doanh, chưa thực sự coi trọng và tạo điều kiện
cho lâm nghiệp xã hội phát triển; nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra hiện nay đòi
hỏi phải được quy định trong Luật để bảo đảm quản lý rừng bền vững như
quyền sở hữu rừng, quyền sử dụng rừng, quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
thuộc các thành phần kinh tế; phát triển kinh tế rừng; trong quá trình thực
hiện Luật Bảo vệ và phát triển rừng những vấn đề mới đã phát sinh và trở
thành những vấn đề nổi cộm cần được giải quyết như: vấn đề giao rừng cho
cộng đồng thôn, bản quản lý để phù hợp với nhu cầu còng như phong tục tập
quán của đồng bào dân tộc; vấn đề cho thuê rừng và đất lâm nghiệp; vấn đề
xác định chủ rừng và quyền lợi, trách nhiệm của các chủ rừng; vấn đề triển
khai thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác bảo vệ và phát triển rừng, trấn
áp các hành vi phá hoại tài nguyên rừng, việc phá rừng trong vài năm gần đây
đang có xu hướng gia tăng và có quy mô; việc kiện toàn hệ thống và đổi mới
hoạt động của lực lượng kiểm lâm để đáp ứng yêu cầu bảo vệ và phát triển
rừng bền vững Những vấn đề thực tiễn đặt ra hiện nay đòi hỏi phải được
quy định trong Luật để bảo đảm cho việc quản lý và bảo vệ, phát triển rừng
ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn.
2. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VIII đến nay, Quốc hội đã ban hành
nhiều luật mới như: Luật Tài nguyên nước; Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung vào

các năm 1993, 1998, 2001 và gần đây nhất đã ban hành Luật Đất đai năm
2003); Bộ Luật Dân sự; Luật Thương mại; Luật Bảo vệ môi trường; Bộ Luật
Hình sự; Luật Doanh nghiệp nhà nước; Luật Doanh nghiệp; Luật Phòng cháy,
chữa cháy; Luật Di sản văn hoá; Bộ Luật Tố tụng hình sự và nhiều luật khác.
Nội dung quy định trong các luật trên có nhiều điểm mới liên quan đến bảo vệ
và phát triển rừng.
2
3. Sau khi ban hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991, từ thực
tế yêu cầu quản lý và bảo vệ rừng, cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã ban
hành nhiều văn bản dưới luật, thực thi có hiệu quả, sau hơn 10 năm thực hiện
cần được rà soát, hệ thống hoá, pháp điển hoá quy định trong Luật Bảo vệ và
phát triển rừng để bảo đảm hiệu lực pháp lý cao hơn, đáp ứng được yêu cầu
của quản lý và phát triển rừng trong những năm tới.
4. Trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng của các cấp, các ngành cùng
với bộ máy quản lý chuyên trách về rừng chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng
và cụ thể nên trong quá trình các cơ quan này thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh
vực quản lý, bảo vệ và phát triển rừng còn nhiều chồng chéo, bỏ sót hoặc vận
dụng một cách tuỳ tiện không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
Mặt khác, các quy định trong Luật năm 1991 chưa có sức hấp dẫn để lôi cuốn
mọi thành phần kinh tế- xã hội tham gia quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
5. Trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, nhiều vấn đề có tính
toàn cầu đặt ra có liên quan đến Luật Bảo vệ và phát triển rừng như: tài
nguyên nước; bảo vệ môi trường; xoá đói giảm nghèo; phát triển bền vững
trong lâm nghiệp, nông nghiệp cần có sự hợp tác liên kết giữa các quốc gia
để cùng giải quyết.
Với các lý do nờu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ và phát triển
rừng là rất cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn xã hội đặt ra; tăng cường
quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng; bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ rừng; góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của đất
nước; tạo môi trường và động lực rộng rãi ở lĩnh vực bảo vệ và phát triển

rừng trong quá trình phát triển tổng thể kinh tế- xã hội của thời kỳ đổi mới mà
Đảng và Nhà nước đã xác định.
II/ Quan điểm chỉ đạo việc soạn thảo, xây dựng Luật bảo vệ và phát
triển rừng
Việc soạn thảo xây dựng Luật Bảo vệ và phát triển rừng quán triệt và
tuân theo những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo sau đây:
1. Quán triệt và kịp thời thể chế hoá chủ trương, đường lối đổi mới của
Đảng, cụ thể hoá Hiến pháp, đồng bộ và thống nhất với Luật Đất đai năm
2003 và các văn bản pháp luật liên quan, phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
2. Kế thừa những quy định còn phù hợp của Luật Bảo vệ và phát triển
rừng năm 1991, bổ sung những quy định mới đáp ứng với những yêu cầu của
3
thực tiễn, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia
nhập, khắc phục sự tản mạn, trùng lặp, thiếu đồng bộ trong các quy định của
pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng và phát triển rừng. Cùng với các Luật được
ban hành trong những năm gần đây tạo được một hệ thống pháp luật thống
nhất, chất lượng cao và có tính khả thi.
3. Quy định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước ở trung
ương và các cấp chính quyền địa phương trong việc bảo vệ và phát triển rừng,
đồng thời quy định rõ các quyền, nghĩa vụ của chủ rừng; tạo động lực kinh tế
để thu hút mọi tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ, phát triển rừng; góp phần tạo
việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho đồng bào sống ở vùng rừng
núi và người lao động làm nghề rừng.
4. Luật Bảo vệ và phát triển rừng được ban hành phải đáp ứng được các
yêu cầu của nước ta về hội nhập quốc tế, hợp tác quốc tế trong giai đoạn hiện
nay.
III/ Bố cục và nội dung cơ bản trong các chương của Luật bảo vệ và
phát triển rừng
1- Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc bảo vệ và

phát triển rừng
a) Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng (sau đây
gọi chung là bảo vệ và phát triển rừng); quyền và nghĩa vụ của chủ rừng.
b) Đối tượng áp dụng
Luật này áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân
nước ngoài có liên quan đến việc bảo vệ và phát triển rừng tại Việt Nam.
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của Luật này thì áp
dụng quy định của điều ước quốc tế đã.
c) Một số nguyên tắc bảo vệ và phát triển rừng
Những nguyên tắc được ghi trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng là
những quy định mang tính khái quát, những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt trong cả đạo luật bảo vệ và phát triển rừng, các nội dung tiếp sau
4
chỉ là cụ thể hoá mang tính nội dung, kỹ thuật, hình thức của những nguyên
tắc, quan điểm, tư tưởng này.
Ngoài ra còn các nguyên tắc chung khác như: nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa, nguyên tắc kết hợp quản lý ngành, địa phương và vùng lãnh
thổ
Những nguyên tắc có tính đặc thù riêng, có tính chuyên môn, kỹ thuật
sẽ được quy định cụ thể trong các chương. Thí dụ Điều 13 Chương II quy
định nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; Điều 22
Chương II quy định nguyên tắc giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng,
chuyển mục đích sử dụng rừng; Điều 45 Chương IV quy định nguyên tắc phát
triển, sử dụng rừng phòng hộ; Điều 49 Chương IV quy định nguyên tắc phát
triển, sử dụng rừng đặc dụng; Điều 55 Chương IV quy định nguyên tắc phát
triển, sử dụng rừng sản xuất.
Điều 9 Luật Bảo vệ và phát triển rừng có quy định 5 nguyên tắc chung

nhất, cụ thể như sau:
1. Hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm phát triển bền
vững về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng quy
hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước và địa phương; tuân
theo quy chế quản lý rừng do Thủ tướng Chính phủ quy định.
2. Bảo vệ rừng là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân. Hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm nguyên tắc quản lý
rừng bền vững; kết hợp bảo vệ và phát triển rừng với khai thác hợp lý để phát
huy hiệu quả tài nguyên rừng; kết hợp chặt chẽ giữa trồng rừng, khoanh nuôi
tái sinh phục hồi rừng, làm giàu rừng với bảo vệ diện tích rừng hiện có; kết
hợp lâm nghiệp với nông nghiệp và ngư nghiệp; đẩy mạnh trồng rừng kinh tế
gắn với phát triển công nghiệp chế biến lâm sản nhằm nâng cao giá trị sản
phẩm rừng.
3. Việc bảo vệ và phát triển rừng phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất. Việc giao, cho thuê, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng rừng và
đất phải tuân theo các quy định của Luật này, Luật đất đai và các quy định
khác của pháp luật có liên quan, bảo đảm ổn định lâu dài theo hướng xã hội
hoá nghề rừng.
4. Bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước với chủ rừng; giữa lợi ích
kinh tế của rừng với lợi ích phòng hộ, bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên
5
nhiên; giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; bảo đảm cho người làm nghề
rừng sống chủ yếu bằng nghề rừng.
5. Chủ rừng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn sử
dụng rừng theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật,
không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của chủ rừng khác.
d) Nhà nước có chính sách cụ thể để bảo vệ và phát triển rừng
1. Nhà nước có chính sách đầu tư cho việc bảo vệ và phát triển rừng
gắn liền, đồng bộ với các chính sách kinh tế - xã hội khác, ưu tiên đầu tư xây

dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, định canh định cư, ổn định và
cải thiện đời sống nhân dân miền núi.
2. Nhà nước đầu tư cho các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng đặc
dụng, rừng phòng hộ, rừng giống quốc gia; bảo vệ và phát triển các loài thực
vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm; nghiên cứu, ứng dụng kết quả
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho
việc bảo vệ và phát triển rừng; xây dựng hệ thống quản lý rừng hiện đại,
thống kê rừng, kiểm kê rừng và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng; xây dựng
lực lượng chữa cháy rừng chuyên ngành; đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và
trang bị phương tiện phục vụ chữa cháy rừng, phòng trừ sinh vật gây hại rừng.
3. Nhà nước có chính sách hỗ trợ việc bảo vệ và làm giàu rừng sản xuất
là rừng tự nhiên nghèo, trồng rừng sản xuất gỗ lớn, gỗ quý, cây đặc sản; có
chính sách hỗ trợ việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng rừng nguyên liệu;
có chính sách khuyến lâm và hỗ trợ nhân dân ở nơi có nhiều khó khăn trong
việc phát triển rừng, tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ lâm sản.
4. Nhà nước khuyến khích tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nhận đất phát
triển rừng ở những vùng đất trống, đồi núi trọc; ưu tiên phát triển trồng rừng
nguyên liệu phục vụ các ngành kinh tế; mở rộng các hình thức cho thuê, đấu
thầu đất để trồng rừng; có chính sách miễn, giảm thuế đối với người trồng
rừng; có chính sách đối với tổ chức tín dụng cho vay vốn trồng rừng với lãi
suất ưu đói, ân hạn, thời gian vay phù hợp với loài cây và đặc điểm sinh thái
từng vùng.
5. Nhà nước có chính sách phát triển thị trường lâm sản, khuyến khích
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư để phát
triển công nghiệp chế biến lâm sản, làng nghề truyền thống chế biến lâm sản.
6
6. Nhà nước khuyến khích việc bảo hiểm rừng trồng và một số hoạt
động sản xuất lâm nghiệp.
đ) Những hành vi bị nghiêm cấm được quy định trong Luật
1. Chặt phá rừng, khai thác rừng trái phép.

2. Săn, bắn, bắt, bẫy, nuôi nhốt, giết mổ động vật rừng trái phép.
3. Thu thập mẫu vật trái phép trong rừng.
4. Huỷ hoại trái phép tài nguyên rừng, hệ sinh thái rừng.
5. Vi phạm các quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng.
6. Vi phạm quy định về phòng, trừ sinh vật hại rừng.
7. Lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép.
8. Khai thác trái phép cảnh quan, môi trường và các dịch vụ lâm
nghiệp.
9. Vận chuyển, chế biến, quảng cáo, kinh doanh, sử dụng, tiêu thụ, tàng
trữ, xuất khẩu, nhập khẩu thực vật rừng, động vật rừng trái với quy định của
pháp luật.
10. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định về quản lý, bảo vệ
và phát triển rừng.
11. Chăn thả gia súc trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu rừng
đặc dụng, trong rừng mới trồng, rừng non.
12. Nuôi, trồng, thả vào rừng đặc dụng các loài động vật, thực vật
không có nguồn gốc bản địa khi chưa được phép của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
13. Khai thác trái phép tài nguyên sinh vật, tài nguyên khoáng sản và
các tài nguyên thiên nhiên khác; làm thay đổi cảnh quan thiên nhiên, diễn
biến tự nhiên của rừng; làm ảnh hưởng xấu đến đời sống tự nhiên của các loài
sinh vật rừng; mang trái phép hoá chất độc hại, chất nổ, chất dễ cháy vào
rừng.
7
14. Giao rừng, cho thuê rừng, chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế,
tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng, giá trị
rừng sản xuất là rừng trồng trái pháp luật.
15. Phá hoại các công trình phục vụ việc bảo vệ và phát triển rừng.
16. Các hành vi khác xâm hại đến tài nguyên rừng, hệ sinh thái rừng.
2) Bố cục của Luật Bảo vệ và phát triển rừng

Luật Bảo vệ và phát triển rừng bao gồm 8 chương và 88 điều.
Chương I. Những quy định chung
Chương I gồm có 12 điều, từ Điều 1 đến Điều 12. Nội dung chương
này quy định những vấn đề có tính cơ bản nhất, chung nhất xuyên suốt cả đạo
luật. Các quy định trong các chương sau phải phù hợp không được mâu thuẫn
hoặc trái với những điều quy định trong chương này. Nội dung cụ thể của
Chương I quy định về: phạm vi điều chỉnh của luật là những vấn đề về quản
lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng; quyền và nghĩa vụ của chủ rừng; quy
định những đối tượng được thực hiện áp dụng luật; quy định về những căn cứ
để phân loại rừng; quy định về những tổ chức, đơn vị, cá nhân nào được coi là
chủ rừng; quy định những quyền của Nhà nước đối với rừng; quy định về
trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng; những nguyên tắc
bảo vệ và phát triển rừng; chính sách của Nhà nước về bảo vệ và phát triển
rừng; quy định về nguồn tài chính để bảo vệ và phát triển rừng; quy định
những hành vi bị nghiêm cấm trong việc bảo vệ và phát triển rừng.
Đặc biệt trong Chương I của Luật Bảo vệ và phát triển rừng còn quy
định một điều (Điều 3), đây là một điều mới, giải thích rõ 21 thuật ngữ được
quy định trong luật để mọi cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân hiểu một cách
thống nhất trong khi thực hiện theo các quy định của pháp luật về bảo vệ và
phát triển rừng. Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 không có điều giải
thích thuật ngữ, không nêu một thuật ngữ cụ thể nào.
Nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng không quy
định riêng một chương như Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 (chương
II- Quản lý nhà nước về rừng và đất trồng rừng), mà quy định 11 điểm nói về
nội dung quản lý nhà nước tại Điều 8 của Luật. Đây còng là một trong những
nội dung mới được xây dựng trên tinh thần đổi mới xây dựng và nâng cao
chất lượng văn bản quy phạm pháp luật hiện nay.
8
Chương II. Quyền của Nhà nước về bảo vệ
và phát triển rừng

Bao gồm 23 điều, từ Điều 13 đến Điều 35. Chương này được chia
thành 5 mục.
Mục 1- Quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng
Mục này có 9 điều (từ Điều13 đến Điều 21) quy định về nguyên tắc lập
quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; quy định những căn cứ, nội
dung, kỳ và trách nhiệm lập quy hoạch, kế koạch bảo vệ và phát triển rừng;
quy định thẩm quyền phê duyệt, quyết định xác lập các khu rừng và điều
chỉnh quy hoạch, xác lập các khu rừng; công bố quy hoạch, kế hoạch và bảo
vệ phát triển rừng.
Đặc biệt trong mục này có điều quy định về việc thực hiện quy hoạch,
kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng thuộc các cơ quan cụ thể là Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch, kế
hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước; Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn tổ chức chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch
bảo vệ và phát triển rừng của địa phương và quy định cơ chế định kỳ ba năm
một lần kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch, hàng năm phải kiểm
tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng ở các cấp.
Mục 2- Giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục đích
sử dụng rừng
Trong mục này có 7 điều (từ Điều 22 đến Điều 28) quy định về nguyên
tắc, căn cứ và thẩm quyền giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển mục
đích sử dụng rừng. Quy định cụ thể về giao rừng, cho thuê rừng đặc dụng,
rừng phòng hộ, rừng sản xuất cho các đối tượng; quy định thu hồi rừng trong
những trường hợp nào và chế độ chính sách cho các chủ rừng khi bị thu hồi
rừng.
Mục 3- Giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn; quyền và nghĩa vụ
của cộng đồng dân cư thôn được giao rừng
Mục này có 2 điều (Điều 29 và Điều 30), đây là điều mới và rất có ý
nghĩa về mặt pháp lý. Quy định điều kiện để cộng đồng thôn được giao rừng,

được giao những loại rừng nào; chỉ có Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
9
thành phố thuộc tỉnh có đủ thẩm quyền giao, thu hồi rừng đối với cộng đồng
thôn. Quy định quyền và nghĩa vụ của cộng đồng dân cư thôn được giao rừng.
Mục 4- Đăng ký quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất
là rừng trồng; thống kê rừng, kiểm kê rừng, theo dõi diễn biến tài nguyên
rừng
Mục này có 2 điều (Điều 31 và Điều 32) quy định việc quản lý, bảo vệ
và phát triển rừng, sử dụng tài nguyên rừng. Nêu lên trách nhiệm của chủ
rừng, cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý thống kê, kiểm kê, theo
dõi diễn biến tài nguyên rừng.
Mục 5- Giá rừng
Mục này có 3 điều (từ Điều 33 đến Điều 35). Đây là một mục mới được
quy định khá chi tiết về việc xác định và hình thành giá rừng; việc đấu giá
quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; quy định giá
trị quyền sử dụng rừng để phục vụ cho việc đấu giá, tính vào giá trị tài sản,
ghi vào giá trị vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp, xác định lại giá trị quyền
sử dụng rừng khi cổ phần hoá doanh nghiệp
Chương III. Bảo vệ rừng
Bao gồm 8 điều, từ Điều 36 đến Điều 44. Chương này được chia thành
2 mục.
Mục 1- Trách nhiệm bảo vệ rừng
Mục này có 4 điều (từ Điều 36 đến Điều 39).
Trách nhiệm bảo vệ rừng được xác định trong luật là trách nhiệm của
toàn dân (Điều 36):
Cơ quan nhà nước, tổ chức, cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình, cá
nhân có trách nhiệm bảo vệ rừng, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về bảo
vệ rừng theo quy định của Luật này, pháp luật về phòng cháy, chữa cháy, pháp
luật về bảo vệ và kiểm dịch thực vật, pháp luật về thú y và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.

Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân hoạt động trong rừng, ven rừng có trách
nhiệm thực hiện các quy định về bảo vệ rừng; thông báo kịp thời cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền hoặc chủ rừng về cháy rừng, sinh vật gây hại rừng
và hành vi vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ rừng; chấp hành sự huy động
10
nhân lực, phương tiện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi xảy ra cháy
rừng.
Điều 37, 38, 39 quy định nội dung cụ thể, chi tiết trách nhiệm bảo vệ
rừng của các chủ rừng, của Uỷ ban nhân dân các cấp và của các bộ, cơ quan
ngang bộ.
Mục 2- Nội dung bảo vệ rừng
Mục này có 5 điều (từ Điều 40 đến Điều 44) quy định về bảo vệ hệ sinh
thái rừng khi tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, khi xây dựng mới,
thay đổi hoặc phá bỏ các công trình ảnh có hưởng đến hệ sinh thái phải tuân
theo các quy định của Nhà nước. Việc khai thác thực vật rừng phải thực hiện
theo quy chế quản lý rừng; việc săn, bắt, bẫy, nuôi nhốt động vật rừng phải
được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tuân theo các quy định
của pháp luật về bảo tồn động vật hoang dã; việc quản lý, bảo vệ theo chế độ
đặc biệt đối với những loài động vật rừng, thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
Quy định phương án về phòng cháy, chữa cháy rừng để bảo vệ rừng. Việc
phòng trừ sinh vật gây hại rừng, quy định trách nhiệm cụ thể của chủ rừng và
cơ quan bảo vệ, kiểm dịch thực vật, kiểm dịch động vật. Quy định về kinh
doanh, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái
nhập, quá cảnh thực vật rừng, động vật rừng.
Trong chương quy định trách nhiệm của chủ rừng trong việc bảo vệ
rừng đã được đề cao hơn trước. Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước,
của Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc phối hợp xây dựng và chỉ đạo thực
hiện phòng cháy, chữa cháy rừng trên địa bàn. Mọi đối tượng phải tuân thủ
pháp luật về phòng cháy, chữa cháy khi có cháy rừng xảy ra.
Chương IV. Phát triển rừng, sử dụng rừng

Chương này gồm 14 điều, từ Điều 45 đến Điều 58 và được chia làm 3
mục, đó là:
Mục 1- Rừng phòng hộ
Mục này có 4 điều (từ Điều 45 đến Điều 48).
Nội dung mục này quy định những nguyên tắc phát triển, sử dụng rừng
phòng hộ, đối với rừng phòng hộ đầu nguồn phải được xây dựng thành rừng
tập trung, liền vùng, nhiều tầng; xây dựng thành các đai rừng phù hợp với
điều kiện tự nhiên ở từng vùng để có hiệu quả đối với rừng phòng hộ chắn
gió, chắn cát bay, chắn sóng, lấn biển, bảo vệ môi trường và các quy định
11
trong việc khai thác các lợi ích khác của rừng phòng hộ như: kết hợp sản xuất
nông- lâm- ngư nghiệp, kinh doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái-
môi trường, khai thác lâm sản và các lợi ích khác của rừng phòng hộ phải
tuân theo quy chế quản lý rừng. Quy định tổ chức quản lý rừng phòng hộ;
việc quản lý, sử dụng rừng sản xuất và đất đai xen kẽ trong rừng phòng hộ và
việc khai thác lâm sản trong rừng phòng hộ.
Mục 2- Rừng đặc dụng
Mục này gồm 6 điều (từ Điều 49 đến Điều 54)
Nội dung mục này quy định nguyên tắc phát triển và sử dụng rừng đặc
dụng là: bảo đảm việc phát triển tự nhiên của rừng, bảo tồn đa dạng sinh học
và cảnh quan khu rừng; xác định rõ trong khu bảo tồn thiên nhiên và vườn
quốc gia các phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái, vùng
đệm và phân khu dịch vụ- hành chính; mọi hoạt động ở khu rừng đặc dụng
phải tuân theo quy chế quản lý rừng và phải được phép của chủ rừng. Các quy
định về tổ chức quản lý rừng, khai thác lâm sản, hoạt động nghiên cứu khoa
học, giảng dạy thực tập, hoạt động kết hợp kinh doanh cảnh quan, nghỉ
dưỡng, du lịch, sinh thái – môi trường và ổn định đời sống dân cư sống trong
khu rừng đặc dụng và vùng đệm cũng đã được quy định khá đầy đủ, rõ ràng
và chi tiết ở mục này.
Mục 3- Rừng sản xuất

Trong mục này có 4 điều (từ Điều 55 đến Điều 58) quy định về nguyên
tắc phát triển, sử dụng rừng sản xuất; quy định việc quản lý khi rừng sản xuất
là rừng tự nhiên; việc quản lý khi rừng sản xuất là rừng trồng và quy định việc
quy hoạch và chỉ đạo xây dựng hệ thống rừng giống quốc gia; việc bình tuyển
rừng giống, công nhận rừng giống, việc sản xuất, kinh doanh giống cây lâm
nghiệp Nhiều nội dung rất quan trọng quy định về rừng sản xuất đã được
quy định ở mục này để phục vụ cho việc quản lý, trồng, chăm sóc, nuôi
dưỡng, khai thác, sử dụng, bảo đảm diện tích, phát triển kinh tế lâm- nông-
ngư nghiệp kết hợp
Chương V. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Đây không phải là chương mới nhưng được đầu tư xây dựng khá đầy
đủ, rõ ràng và cụ thể. Từ đã, các chủ rừng nắm vững được quyền và nghĩa vụ
của mình đối với từng loại rừng để có kế hoạch thực hiện đầu tư theo khả
năng của mình nhằm phát triển kinh tế rừng, nâng cao thu nhập, nâng cao đời
sống, góp phần bảo vệ và phát triển rừng, góp phần tăng thêm diện tích che
12
phủ của rừng, góp phần thực hiện mục tiêu của công cuộc đổi mới trong giai
đoạn công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Chương này gồm có 20 điều, từ Điều 59 đến Điều 78 và được chia làm
5 mục quy định các vấn đề sau:
Mục 1- Quy định chung về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Mục này có 2 điều (Điều 59 và Điều 60).
a) Điều 59 của Luật bảo vệ và phát triển rừng quy định chủ rừng có các
quyền cơ bản sau đây: được cơ quan có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng
rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; được Nhà nước bảo hộ quyền
và lợi ích hợp pháp đối với rừng được giao, được thuê; được sử dụng rừng ổn
định, lâu dài phù hợp với thời hạn giao rừng, cho thuê rừng và thời hạn giao
đất, cho thuê đất; được phát triển kinh tế kết hợp lâm- nông- ngư nghiệp (trừ
rừng đặc dụng); được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên diện tích
được giao; được thuê; bán thành quả lao động, kết quả đầu tư cho người khác;

được kết hợp nghiên cứu khoa học, kinh doanh cảnh quan, du lịch sinh thái –
môi trường theo dự án được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; được bồi
thường thành quả lao động, kết quả đầu tư để bảo vệ và phát triển rừng khi có
quyết định thu hồi rừng theo quy định của Luật này và các quy định khác của
pháp luật có liên quan; được hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ vốn theo chính
sách của Nhà nước để bảo vệ và phát triển rừng và được hưởng lợi ích do các
công trình công cộng bảo vệ, cải tạo rừng mang lại.
b) Điều 60 của Luật bảo vệ và phát triển rừng quy định những nghĩa vụ
chung của chủ rừng: bảo toàn vốn rừng, sử dụng rừng đúng mục đích, đúng
ranh giới đã quy định trong quyết định giao, cho thuê rừng và tuân theo quy
chế quản lý rừng; tổ chức bảo vệ rừng và phát triển rừng theo quy hoạch, kế
hoạch, dự án, phương án đã được phê duyệt; định kỳ báo cáo với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về diễn biến tài nguyên rừng và các hoạt động liên quan
đến khu rừng theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật này; giao lại rừng
khi Nhà nước có quyết định thu hồi rừng hoặc khi hết thời hạn sử dụng rừng;
thực hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp
luật; thực hiện quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật;
không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
Mục 2- Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là ban quản lý rừng đặc
dụng, ban quản lý rừng phòng hộ
Mục này gồm 2 điều (Điều 61 và Điều 62).
13
a) Chủ rừng là ban quản lý rừng đặc dụng có các quyền và nghĩa vụ
quy định tại Điều 59 và 60 của Luật này; được khoán bảo vệ rừng theo kế
hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt và quy định của Chính phủ; được cho các tổ chức kinh tế thuê cảnh
quan để kinh doanh du lịch sinh thái – môi trường theo dự án đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xét duyệt; được tiến hành hoặc hợp tác với tổ chức,
nhà khoa học trong việc nghiên cứu khoa học theo kế hoạch đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; tổ chức thực hiện các hoạt động hợp tác

quốc tế trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình; xây dựng và tổ chức
thực hiện nội quy bảo vệ khu rừng; lập và trình cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xét duyệt phương án quản lý, bảo vệ và phát triển rừng và thực hiện
phương án đã được duyệt.
b) Chủ rừng là ban quản lý rừng phòng hộ có các quyền và nghĩa vụ
quy định tại các điều 59, 60 và 61 của Luật này; được khai thác lâm sản trong
rừng phòng hộ theo quy định tại Điêu 47 của Luật này; được khai thác lâm
sản theo quy định tại khoản 2 Điều 55, điểm b và điểm d khoản 2, điểm a
khoản 3 và khoản 4 Điều 56, khoản 2 Điều 57 của Luật này đối với diện tích
rừng sản xuất xen kẽ trong khu rừng phòng hộ được giao cho Ban quản lý khu
rừng phòng hộ.
Mục 3- Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là tổ chức kinh tế
Mục này có 6 điều (từ Điều 63 đến Điều 68).
Chủ rừng là tổ chức kinh tế có các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều
59, Điều 60 của Luật này. Ngoài ra còn quy định cụ thể tại mục này (từ Điều
63 đến Điều 68) khi Nhà nước giao rừng sản xuất là rừng giống không thu
tiền sử dụng rừng; khi Nhà nước giao rừng sản xuất có thu tiền sử dụng rừng,
nhận chuyển nhượng rừng sản xuất; khi được Nhà nước giao rừng phòng hộ;
cho thuê rừng sản xuất; cho thuê rừng phòng hộ, rừng đặc dụng là khu bảo vệ
cảnh quan; khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để trồng rừng. Có thể
nói, tại mục này Luật Bảo vệ và phát triển rừng quy định rất chi tiết, đầy đủ,
có phân loại tính chất của từng loại rừng đối với chủ rừng là tổ chức kinh tế.
Mục 4- Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân
Mục này có 4 điều (từ Điều 69 đến Điều 72).
Chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân có các quyền quy định tại Điều 59, 60
của Luật này; ngoài ra còn có các quyền và nghĩa vụ khi được Nhà nước giao
14
rừng phòng hộ, khi được Nhà nước giao rừng sản xuất, khi được Nhà nước
thuê rừng sản xuất, khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để trồng rừng.
Những quy định tại các điều 69, 70, 71, 72 của Luật bảo vệ và phát

triển rừng nhằm khuyến khích các hoạt động về rừng cho hộ gia đình và cá
nhân, đẩy mạnh kinh tế rừng để cải thiện đời sống nhân dân, động viên được
tiền vốn trong dân, lao động dôi thừa và phát huy các nguồn lực trong nhân
dân để bảo vệ và phát triển rừng. Đây còng là sự thể chế hoá đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới ở
lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng, xã hội hoá nghề rừng. Chính những quy
định rõ ràng, cụ thể này sẽ động viên được toàn dân cùng bảo vệ rừng, trồng
rừng mới, chăm sóc rừng tốt hơn, coi rừng như tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình để ngày càng tăng diện tích rừng che phủ.
Mục 5- Quyền và nghĩa vụ của các chủ rừng khác.
Mục này có 6 điều (từ Điều 73 đến Điều 78) quy định quyền và nghĩa
vụ của chủ rừng là đơn vị vũ trang nhân dân; là tổ chức nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ, đào tạo, dạy nghề về lâm nghiệp; là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng sản xuất là
rừng trồng, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để trồng rừng sản
xuất theo dự án đầu tư; là tổ chức cá nhân nước ngoài được Nhà nước cho
thuê rừng sản xuất là rừng trồng; là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ
chức, cá nhân nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất để trồng rừng sản xuất
theo dự án đầu tư. Những quy định ở mục này thể hiện rất rõ chủ trương xã
hội hoá nghề rừng ở nước ta trong những năm tới đây, phát huy nguồn vốn và
nhân lực trong và ngoài nước để đầu tư cho phát triển kinh tế rừng, thể hiện
sự cụ thể hoá về hợp tác quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là ở lĩnh
vực quản lý và bảo vệ rừng của Nhà nước ta. Những chủ thể là người nước
ngoài được hoạt động phát triển kinh tế rừng ở nước ta phải tuân theo quy
định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng và các văn bản pháp luật khác
có liên quan, được Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp trong hoạt
động phát triển kinh tế rừng.
Chương VI. Kiểm lâm
Chương này gồm 5 điều, từ điều 79 đến Điều 83. So với Luật bảo vệ và
phát triển rừng năm 1991 tăng thêm 2 điều.

Kiểm lâm được xác định là lực lượng chuyên trách của Nhà nước có
chức năng bảo vệ rừng, giúp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
15
thôn và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về bảo
vệ rừng, bảo đảm chấp hành pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
Tổ chức lực lượng kiểm lâm cũng được xác định rõ trong Luật là được
tổ chức theo hệ thống thống nhất, bao gồm: kiểm lâm trung ương; kiểm lâm
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; kiểm lâm huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh.
Chính phủ quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, hệ
thống tổ chức, cơ chế hoạt động, cơ chế phối hợp giữa kiểm lâm các cấp với
tổ chức có liên quan ở địa phương; tiêu chuẩn, chức danh của công chức kiểm
lâm; các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn về trang bị đồng phục, phù hiệu, cấp
hiệu, cờ hiệu, giấy chứng nhận kiểm lâm; trang bị vũ khí chuyên dụng, công
cụ hỗ trợ và các phương tiện chuyên dùng; lương, phụ cấp ưu đói nghề, chế
độ thương binh, liệt sỹ và các chế độ đãi ngộ khác cho kiểm lâm.
Chương này còn dành 3 điều cụ thể để quy định về nhiệm vụ của kiểm
lâm với 8 nhiệm vụ chủ yếu là: xây dựng chương trình, kế hoạch bảo vệ
rừng, phương án phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và
phát triển rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng; hướng dẫn chủ rừng lập và thực
hiện phương án bảo vệ rừng; bồi dưỡng nghiệp vụ bảo vệ rừng cho chủ rừng;
kiểm tra, kiểm soát việc bảo vệ rừng, khai thác rừng, sử dụng rừng, lưu thông,
vận chuyển, kinh doanh lâm sản; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm
pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng; tuyên truyền, vận động nhân dân bảo
vệ và phát triển rừng; phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xây
dựng và bồi dưỡng nghiệp vụ cho lực lượng quần chúng bảo vệ rừng; tổ chức
dự báo nguy cơ cháy rừng và tổ chức lực lượng chuyên ngành phòng cháy,
chữa cháy rừng; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ rừng khi rừng bị
người khác xâm hại; tổ chức việc bảo vệ các khu rừng đặc dụng, rừng phòng
hộ trọng điểm; thực hiện việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ rừng và

kiểm soát kinh doanh, buôn bán thực vật rừng, động vật rừng.
Trong khi thi hành nhiệm vụ, kiểm lâm có quyền yêu cầu tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc
kiểm tra và điều tra; tiến hành kiểm tra hiện trường, thu thập chứng cứ theo
quy định của pháp luật; xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp
ngăn chặn hành vi vi phạm hành chính, khởi tố, điều tra hình sự đối với
những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng theo quy định
của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, pháp luật về hình sự và pháp luật
16
về tố tụng hình sự; được sử dụng vũ khí và công cụ hỗ trợ theo quy định của
pháp luật.
Điều 83 quy định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và
thành phố trực thuộc trung ương; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh trong quá trình chỉ đạo, điều hành lực lượng kiểm
lâm.
Chương VII. Giải quyết tranh chấp, xử lý vi pham
pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
Chương này gồm 3 điều, từ Điều 84 đến Điều 86. Nội dung chương này
quy định: những tranh chấp về quyền sử dụng rừng đối với các loại rừng,
quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng do Toà án nhân dân giải quyết.
Các tranh chấp về đất đai có liên quan đến rừng còng do Toà án nhân
dân giải quyết.
Các vi phạm về bảo vệ và phát triển rừng; những vi phạm của cán bộ,
công chức về bảo vệ và phát triển rừng sẽ tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật.
Trong Luật còn quy định một điều (Điều 86) về bồi thường thiệt hại khi
tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng mà gây thiệt
hại cho Nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thì ngoài việc bị xử lý tuỳ

theo tính chất, mức độ vi phạm theo Điều 85 của Luật này, còn phải bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Chương VIII. Điều khoản thi hành
Chương này có 2 điều, Điều 87 và Điều 88. Quy định Luật này có hiệu
lực từ ngày 01/4/2005. Luật này thay thế Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm
1991. Chính phủ được giao quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này.
IV/ Tổ chức thực hiện Luật Bảo vệ và phát triển rừng
Ngày 14/12/2004, Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 25/2004/L-CTN công
bố Luật Bảo vệ và phát triển rừng. Đây là một đạo luật quan trọng, có ý nghĩa
to lớn trong việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển
rừng, bảo vệ môi trường bên vững và phát triển kinh tế rừng; góp phần tích
17
cực vào việc đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ
đổi mới.
Để thực sự tạo được một bước chuyển biến mới trong lĩnh vực bảo vệ
và phát triển rừng, thiết thực đưa luật vào cuộc sống, đưa công tác bảo vệ và
phát triển rừng đi vào nền nếp, kỷ cương, cần tập trung tổ chức thực hiện một
số công việc sau:
1/ Tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc triển
khai thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004. Cụ thể là những điểm
chủ yếu sau:
a) Khẩn trương chuẩn bị các điều kiện để thi hành Luật Bảo vệ và phát
triển rừng;
b) Tổ chức thực hiện tốt Luật Bảo vệ và phát triển rừng, tạo ra những
chuyển biến rõ rệt về quản lý và sử dụng rừng;
c) Làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo
vệ và phát triển rừng và giải quyết khiếu nại, tố cáo về quản lý và sử dụng
rừng.
2/ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng kế hoạch tuyên
truyền, phổ biến Luật Bảo vệ và phát triển rừng và phối hợp với các Bộ,

ngành, địa phương tổ chức quán triệt rộng rãi trong nhân dân, nhất là đối với
các đối tượng có liên quan đến công tác bảo vệ và phát triển rừng. Nội dung là
những vấn đề cơ bản và những điểm mới so với Luật Bảo vệ và phát triển
rừng năm 1991.
3/ Các cơ quan quản lý chuyên môn về bảo vệ và phát triển rừng có kế
hoạch quán triệt và tập huấn, nghiên cứu kỹ nội dung trong Luật Bảo vệ và
phát triển rừng để thực hiện cho tốt trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của mình. Đặc biệt cần nghiên cứu kỹ nội dung để tránh hiểu sai,
hiểu lầm những nội dung quy định cụ thể trong Luật, tạo sự thống nhất chung
về nhận thức giữa đối tượng tuân thủ pháp luật và thực hiện áp dụng pháp
luật.
4/ Rà soát các văn bản có liên quan để phát hiện những văn bản không
còn phù hợp và soạn thảo, ban hành theo đúng tiến độ các văn bản hướng dẫn
thực hiện Luật Bảo vệ và phát triển rừng để có hệ thống pháp luật về rừng
đồng bộ, thống nhất và có tính khả thi cao, nhất là Nghị định hướng dẫn thực
hiện Luật Bảo vệ và phát triển rừng./.
18
19

×