Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Huy động vốn tại công ty xuất nhập khẩu xi măng, trực thuộc tổng công ty xi măng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.17 KB, 79 trang )

Lời mở đầu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ loại hình doanh nghiệp
nào, vốn đều đợc xem là yếu tố không thể thiếu, là đòi hỏi đầu tiên bắt buộc
phải có và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp.
Đối với một nền kinh tế mới vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý
của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu của quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nh nớc ta hiện nay, nhu cầu về vốn để đổi mới
công nghệ và phát triển của các doanh nghiệp rất lớn. Do đó, đi tìm lời giải về
vốn hay nói cách khác là các biện pháp nâng cao khả năng huy động vốn của
doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời sự và thiết thực đối với các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay.
Là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực ngoại thơng, Công ty xuất
nhập khẩu xi măng đơng nhiên không nằm ngoài xu thế này. Trong quá trình
thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng, đợc sự giúp đỡ và hớng dẫn nhiệt
tình của cô giáo hớng dẫn cũng nh các cán bộ trong Công ty, em đã bớc đầu đợc
làm quen với thực tế, nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, vận dụng lý luận vào thực tiễn và từ thực tiễn làm sáng tỏ hơn những lý
luận đợc nghiên cứu trong nhà trờng. Qua đó, em đã chú trọng đi sâu nghiên cứu
đề tài: Huy động vốn tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng, trực thuộc Tổng
công ty xi măng Việt Nam một trong những vấn đề, mà theo em, có ảnh h-
ởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của Công ty trên
thị trờng quốc tế.

1
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề
tốt nghiệp gồm ba chơng:
Chơng I: Huy động vốn của doanh nghiệp- những vấn đề lý luận cơ bản
Chơng II: Thực trạng huy động vốn tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng
Chơng III: Giải pháp tăng cờng huy động vốn tại Công ty xuất nhập khẩu xi
măng
Bằng những kiến thức thu thập đợc trong thời gian học tập ở trờng và


những kiến thức có đợc qua học hỏi thầy cô, bạn bè, các cán bộ phòng Kế toán
tài chính Công ty xuất nhập khẩu xi măng, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của cô
giáo hớng dẫn- PGS.TS Lu Thị Hơng- em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp
này.
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị trong Công ty, các thầy cô
giáo trong khoa và bạn bè đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của
mình.

2
CHƯƠNG I
Huy động vốn của doanh nghiệp những vấn đề lý
luận cơ bản
----o0o----
1 1.1.Tầm quan trọng của vốn đối với doanh nghiệp
2 1.1.1.Khái quát về doanh nghiệp
Theo Luật Doanh nghiệp đợc Quốc hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua năm 1999, doanh nghiệp đợc định nghĩa nh sau: Doanh
nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, đợc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh. Trong đó, kinh doanh đợc hiểu là việc thực
hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu t, từ sản xuất đến
tiêu thụ sản phẩm, hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trờng nhằm mục đích sinh
lợi.
Có nhiều cách phân loại doanh nghiêp, nh căn cứ vào ngành nghề, hình
thức sở hữu song cách phân loại hữu ích cho quản trị tài chính doanh nghiệp
là dựa vào hình thức sở hữu, với cách phân loại này các doanh nghiệp đợc chia
thành:
- Các doanh nghiệp nhà nớc
- Các công ty cổ phần
- Các tổ chức kinh doanh góp vốn

- Kinh doanh cá thể

3
Mỗi loại hình kinh doanh có u, nhợc điểm riêng phù hợp với quy mô và
trình độ phát triển nhất định. Phần lớn các doanh nghiệp trong kinh tế thị trờng
tổ chức dới hình thức công ty bởi những u việt riêng của nó.
1.1.2.Tầm quan trọng của vốn đối với doanh nghiệp
3 1.1.2.1.Khái niệm vốn
Vốn là một phạm trù kinh tế quan trọng trong hệ thống lý luận cũng nh
hoạt động thực tế của doanh nghiệp. Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói
về vốn của một doanh nghiệp:
K.Marx cho rằng vốn là một trong ba yếu tố của sản xuất: đất đai, lao
động và vốn, là giá trị đem lại giá trị thặng d. Quan điểm này hạn chế ở chỗ cho
rằng chỉ có khu vực trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất mới tạo ra giá trị thặng
d.
Theo trờng phái tân cổ điển, Paul A.Samuelson lại cho rằng vốn là hàng
hoá đợc sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho
hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp nh máy móc, vật t, trang thiết bị,
nguyên vật liệu Quan điểm này lại không bao gồm các tài sản tài chính- các
giấy tờ có giá có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trờng, vốn đợc coi là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu
và các quá trình sản xuất tiếp theo, tức là không tham gia vào một quá trình sản
xuất riêng biệt mà trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ lúc mới hình
thành đến lúc kết thúc.
Thông thờng, ngời ta hiểu vốn là tiền thuần tuý, tuy nhiên cần phân biệt
vốn và tiền. Muốn có vốn thì phải có tiền, song có tiền cũng cha hẳn là có vốn.
Tiền đợc coi là vốn chỉ khi thoả mãn những điều kiện sau:
Tiền phải đợc đại diện cho một lợng hàng hoá nhất định, nói cách khác
là tiền phải đợc bảo đảm bằng một lợng tài sản có thực.


4
Tiền phải đợc tích tụ và tập trung đến một lợng nhất định. Sự tích tụ và
tập trung một lợng tiền đến một mức độ nào đó mới làm cho nó có đủ sức để
đầu t cho một dự án kinh doanh, cho dù là một dự án rất nhỏ. Nếu tiền nằm rải
rác ở khắp các nơi, không đợc thu gom lại đủ lớn thì không làm đợc việc gì.
Khi đã có đủ về lợng, tiền phải đợc vận động nhằm mục đích sinh lợi.
Cách vận động và phơng thức vận động của tiền tệ khác nhau tuỳ thuộc vào loại
hình kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trong quá trình vận động, nó có thể
thay đổi hình thái biểu hiện, nhng trong bất cứ trờng hợp nào, điểm xuất phát
ban đầu và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị là tiền.
Tóm lại, ta có thể hiểu vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá
trình sản xuất kinh doanh tiếp theo của doanh nghiệp nhằm đem lại giá trị thặng
d.
1.1.2.2.Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần
phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trờng, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa
quyết định tới quá trình kinh doanh tiếp theo của hoạt động kinh doanh. Vốn
phải đợc hình thành trớc khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh và nó sẽ tiếp
tục đợc bổ sung sau mỗi chu kỳ sản xuất. Vốn của doanh nghiệp không thể bị
mất đi, vì đồng nghĩa với mất vốn là nguy cơ phá sản.
Tại bất kỳ một doanh nghiệp nào, ba vấn đề quan trọng đầu tiên cần phải
giải quyết là:(1) xác định đợc mục tiêu cho đầu t dài hạn, (2) tìm đợc nguồn tài
trợ cho đầu t đó và (3) đa ra các quyết định tài chính cho hợp lý. Nh vậy, các vấn
đề quan trọng này đều gắn liền với hoạt động liên quan đến vốn.
Đất nớc ta đang trong quá trình phát triển theo mô hình kinh tế thị trờng
định hớng xã hội chủ nghĩa, do vậy quản lý tài chính doanh nghiệp cũng phải đ-
ợc thay đổi cho phù hợp với xu hớng phát triển đó. Hơn nữa nớc ta đã và sẽ hội
nhập chủ động hiệu quả vào khu vực AFTA/ASEAN, mức độ mở cửa thị trờng

5

hàng hoá, dịch vụ, tài chính, đầu t sẽ đạt ngang bằng với các nớc trong khối
ASEAN, từng bớc tạo điều kiện về kinh tế, pháp lý để hội nhập sâu hơn vào kinh
tế khu vực và thế giới. Vốn là yếu tố cơ bản không thể thiếu đợc của mọi quá
trình sản xuất kinh doanh và đồng thời cũng là yếu tố quan trọng nhất đối với sự
tăng trởng phát triển kinh tế của đất nớc. Muốn cho quá trình sản xuất kinh
doanh đợc liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn đầu t vào các giai đoạn khác
nhau của quá trình đó. Doanh nghiệp phải làm ăn có lãi thì vốn mới đợc bảo
toàn và phát triển, đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng tái sản xuất mở rộng,
phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Thực tế đã chứng minh, có những
doanh nghiệp có đầy đủ khả năng về yếu tố con ngời và cơ hội đầu t nhng vì
không đáp ứng đủ yêu cầu về tài chính nên đành bó tay.
Nh vậy, vốn đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó không chỉ đảm bảo duy trì hoạt động của
doanh nghiệp mà còn là tiềm lực, là điều kiện quyết định đối với sự phát triển
của doanh nghiệp.
1.2.Các nguồn vốn của doanh nghiệp và phơng thức
huy động
Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: vốn chủ sở hữu
và nợ; mỗi bộ phận này đợc cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo
tính chất của chúng. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các doanh
nghiệp khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt các nhân tố
nh:


Trạng thái của nền kinh tế.


Ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.



Quy mô khoa học Kỹ thuật và trình độ quản lý.


Chiến lợc phát triển và chiến lợc đầu t của doanh nghiệp.

6


Thái độ của chủ doanh nghiệp.


Chính sách thuế v.v
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh
nghiệp có thể có các phơng thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh
tế thị trờng, các phơng thức huy động vốn của doanh nghiệp đợc đa dạng hoá
nhằm khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam, do thị trờng tài chính cha phát triển hoàn chỉnh nên việc khai
thác vốn có những nét đặc trng nhất định. Sự phát triển nhanh chóng của nền
kinh tế và thị trờng tài chính sẽ sớm tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng
khả năng thu hút vốn vào kinh doanh.
Sau đây là các nguồn vốn và các phơng thức huy động vốn (còn gọi là ph-
ơng thức tài trợ) mà các doanh nghiệp có thể sử dụng.
1.2.1.Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
bao gồm các bộ phận chủ yếu:
Vốn góp ban đầu
Lợi nhuận không chia
Tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới.
1.2.1.1.Vốn góp ban đầu
Khi doanh nghiệp đợc thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có

một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông chủ sở hữu góp. Khi nói đến
nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở
hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình
thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nớc, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu t của
Nhà nớc. Chủ sở hữu các doanh nghiệp Nhà nớc là Nhà nớc. Hiện nay, cơ chế

7
quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn của doanh nghiệp Nhà nớc nói riêng
đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế.
Đối với các doanh nghiệp, theo Luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp
phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Chẳng hạn, đối với công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu
tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty
và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy
nhiên, các công ty cổ phần cũng có một số dạng tơng đối khác nhau, do đó cách
thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau. Trong các loại hình doanh nghiệp
khác nh công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài
(FDI), các nguồn vốn cũng tơng tự nh trên; tức là vốn có thể do chủ đầu t bỏ ra,
do các bên tham gia các đối tác góp, v.v Tỷ lệ và quy mô góp vốn của các bên
tham gia công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau (nh luật pháp, đặc điểm
ngành kinh tế-kỹ thuật, cơ cấu liên doanh).
1.2.1.2.Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Quy mô vốn góp ban đầu của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy
nhiên, thông thờng, số vốn này cần đợc tăng theo quy mô phát triển của doanh
nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng
trởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi
nhuận đợc sử dụng tái đầu t, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia nguồn vốn nội bộ là một phơng

thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì
doanh nghiệp giảm đợc chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều
doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu t từ lợi nhuận để lại (retained
earnings), họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lợng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm
tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng.

8
Nguồn vốn tái đầu t từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện đợc nếu nh
doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, đợc phép tiếp tục đầu t. Đối
với doanh nghiệp Nhà nớc thì việc tái đầu t phụ thuộc không chỉ vào khả năng
sinh lợi của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến
khích tái đầu t của Nhà nớc.
Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan
đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong
năm cho tái đầu t, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ
đông không đợc nhận phần lãi cổ phần (cổ tức) nhng bù lại, họ có quyền sở hữu
số vốn cổ phần tăng lên của công ty.
Nh vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ
bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt, khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu
lâu dài, nhng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ tr-
ớc mắt (ngắn hạn) do cổ đông chỉ nhận đợc một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ
chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị
giảm sút.
Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu t, chính sách phân phối cổ tức của
công ty cổ phần phải lu ý đến một số yếu tố có liên quan nh:
Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ.
Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trớc.
Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trờng và tính ổn định của thị giá
cổ phiếu của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó.
1.2.1.3.Phát hành cổ phiếu

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ
sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới.

9
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy
động vốn cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu đợc gọi là hoạt động tài trợ dài
hạn của doanh nghiệp. Chúng ta sẽ xem xét một số yếu tố cơ bản liên quan đến
việc phát hành và kiểm soát các loại cổ phiếu khác nhau.
Cổ phiếu thờng (Common Stock/Share)
Cổ phiếu thờng (còn gọi là cổ phiếu thông thờng) là loại cổ phiếu thông
dụng nhất vì nó có những u thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá
trình lu hành trên thị trờng chứng khoán. Cổ phiếu thờng là chứng khoán quan
trọng nhất đợc trao đổi, mua bán trên thị trờng chứng khoán, điều đó cũng đủ để
minh chứng tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác.
Giới hạn phát hành: mặc dù việc phát hành cổ phiếu có nhiều u thế so
với các phơng thức huy động vốn khác nhng cũng có những hạn chế và các ràng
buộc cần đợc doanh nghiệp cân nhắc kỹ lỡng. Giới hạn phát hành là một quy
định ràng buộc có tính pháp lý. Lợng cổ phiếu tối đa mà công ty đợc quyền phát
hành gọi là vốn cổ phiếu đợc cấp phép. Đây là một trong những quy định của
Uỷ ban chứng khoán Nhà nớc nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt
động phát hành và giao dịch chứng khoán. Tại nhiều nớc, số cổ phiếu đợc phép
phát hành đợc ghi trong điều lệ của công ty; tuy nhiên, một số nớc khác không
quy định ghi số lợng đó trong điều lệ công ty. Muốn tăng vốn cổ phần thì trớc
hết cần phải đợc đại hội cổ đông cho phép, sau đó phải hoàn tất những thủ tục
quy định khác.
Hầu hết các nớc đều sử dụng giới hạn phát hành nh một công cụ quan
trọng để kiểm soát và hạn chế các rủi ro cho công chúng. Thông thờng, một
công ty có thể phát hành một lần hoặc một số lần trong giới hạn số cổ phiếu đã
đợc cấp phép phát hành. Ví dụ, công ty X đợc phép phát hành 400 triệu cổ
phiếu, giả sử năm trớc công ty đã phát hành 117 triệu cổ phiếu thì công ty đơng

nhiên còn đợc phát hành thêm 283 triệu cổ phiếu nữa (400-117=283).

10
Tuy nhiên, trên thực tế, việc quản lý và kiểm soát quá trình phát hành
chứng khoán tuỳ thuộc vào chính sách cụ thể của nhà nớc và của Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nớc. ở Việt Nam hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy về chứng
khoán mới đợc xây dựng và đang trong quá trình hoàn thiện để tạo điều kiện tốt
hơn cho hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp và lu chuyển vốn trong nền
kinh tế.
Sau khi phát hành, phần lớn những cổ phiếu nằm trong tay các nhà đầu t-
các cổ đông (shareholder). Những cổ phiếu này gọi là những cổ phiếu đang lu
hành trên thị trờng. Tuy nhiên, có thể chính công ty phát hành mua lại một số cổ
phiếu của mình và giữ chúng nhằm mục đích nào đó. Những cổ phiếu đợc công
ty mua lại nh vậy gọi là cổ phiếu ngân quỹ. Những cổ phiếu này đợc coi nh tạm
thời không lu hành. Việc mua lại hoặc bán ra những cổ phiếu này phụ thuộc vào
một số yếu tố nh:
Tình hình cân đối vốn và khả năng đầu t
Tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trờng.
Chính sách đối với việc sáp nhập hoặc thôn tính công ty (chống thôn
tính)
Tình hình trên thị trờng chứng khoán và quy định của Uỷ ban chứng
khoán Nhà nớc.
Mệnh giá và thị giá
Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu gọi là mệnh giá (par value), giá cả của cổ
phiếu trên thị trờng gọi là thị giá. Giá trị của cổ phiếu đợc phản ánh trong sổ
sách kế toán của công ty gọi là giá trị ghi sổ (book value), đó cũng chính là
mệnh giá của các cổ phiếu đã phát hành.
Mệnh giá không chỉ đợc ghi trên mặt cổ phiếu mà còn đợc ghi rõ trong
giấy phép phát hành và trên sổ sách kế toán của công ty. Tuy nhiên, mệnh giá
chỉ có ý nghĩa khi phát hành cổ phiếu và đối với khoảng thời gian ngắn sau khi


11
cổ phiếu đợc phát hành. Thị giá phản ánh sự đánh giá của thị trờng đối với cổ
phiếu, phản ánh lòng tin của các nhà đầu t đối với hoạt động của công ty.
Quyền hạn của cổ đông
Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thờng chính là những ngời sở hữu công ty,
do đó họ có quyền trớc hết đối với tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu nhập
của công ty. Cổ đông có quyền tham gia kiểm soát và điều khiển các công việc
của công ty. Tuy nhiên, thông thờng có một số lợng cổ đông của công ty, nên
mỗi cổ đông chỉ có một quyền lực giới hạn nhất định trong việc bỏ phiếu hoặc
chỉ định thành viên của ban giám đốc. Một số công việc hay những vấn đề đặc
biệt cần có sự nhất trí của đại đa số cổ đông.
Tuỳ theo việc quy định trong điều lệ công ty, có thể hình thành các phơng
thức bỏ phiếu khác nhau. Hai phơng pháp đợc sử dụng rộng rãi là bỏ phiếu theo
đa số và bỏ phiếu gộp.
Bỏ phiếu theo đa số (majority voting) là việc cổ đông có thể dùng mỗi lá
phiếu để bầu một ngời quản lý, các chức danh sẽ đợc bầu riêng rẽ. Điều này rõ
ràng có lợi cho những ngời đang nắm đa số cổ phiếu của công ty vì họ có thể tạo
áp lực mạnh hơn bằng số lớn cổ phiếu nắm giữ.
Cơ chế bỏ phiếu gộp (cumulative voting) cho phép cùng bỏ phiếu cho một
số ứng cử viên nào đó, tức là một cổ đông có thể dồn toàn bộ số phiếu có trong
tay cho một ứng cử viên đợc a chuộng. Đây là lý do tại sao một số các cổ đông
thiểu số ủng hộ cơ chế bỏ phiếu gộp.
Trong điều lệ công ty, có quy định rõ về phạm vi những sự vụ cần đợc đa
số (trên 50%) cổ đông tán thành và những vấn đề cần đợc tuyệt đại đa số (75%
trở lên) cổ đông nhất trí.
Vấn đề chống thôn tính, bảo vệ công ty trớc sự xâm thực bằng cổ phiếu
của các công ty khác là một khía cạnh đặc biệt. Huy động vốn qua phát hành cổ

12

phiếu phải xét đến nguy cơ bị thôn tính. Do đó, phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối
thiểu cần duy trì để giữ vững quyền kiểm soát của công ty.
Cổ phiếu u tiên (Preferred Stock)
Cổ phiếu u tiên thờng chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu
đợc phát hành. Tuy nhiên trong một số trờng hợp, việc dùng cổ phiếu u tiên là
thích hợp. Cổ phiếu u tiên có đặc điểm là nó thờng có cổ tức cố định. Ngời chủ
của cổ phiếu này có quyền đợc thanh toán lãi trớc các cổ đông thờng. Nếu số lãi
chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông u tiên thì các cổ đông thờng sẽ không đợc
nhận cổ tức của kỳ đó. Việc giải quyết đợc chính sách cổ tức đợc nêu rõ trong
điều lệ công ty.
Phần lớn các công ty cổ phần quy định rõ: công ty có nghĩa vụ trả hết số
lợi tức cha thanh toán của các kỳ trớc cho các cổ đông u tiên, sau đó mới thanh
toán cho các cổ đông thờng.
Các cổ phiếu u đãi có thể đợc chính công ty phát hành thu hồi lại (chuộc lại)
khi công ty thấy cần thiết. Những trờng hợp nh vậy cần quy định rõ những điểm
sau:
Trờng hợp nào thì công ty có quyền mua lại cổ phiếu.
Giá cả khi công ty mua lại cổ phiếu.
Thời hạn tối thiểu không đợc phép mua lại cổ phiếu (ví dụ 5 năm)
Trong thực tế, ở một số nớc nh Mỹ chẳng hạn, rất hiếm khi cổ đông u tiên
có quyền bỏ phiếu một cách đầy đủ. Tuy nhiên, nếu có ít nhất 2/3 cổ đông u tiên
nhất trí về một vấn đề nào đó thì ban lãnh đạo công ty phải xem xét ý kiến của
họ. Nếu các cổ phiếu u tiên không đợc trả cổ tức thì các cổ đông của những cổ
phiếu đó có thể đợc quyền bỏ phiếu.
Một vấn đề rất quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu u tiên, đó là
thuế. Khác với chi phí lãi vay đợc giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức

13
đợc lấy từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu u tiên. Mặc dù vậy,
nh đã đề cập, cổ phiếu u tiên vẫn có những u điểm đối với cả công ty phát hành

và cả nhà đầu t.
Khi nào các hãng phát hành và thu hồi cổ phiếu? Để trả lời câu hỏi này
cần xem xét những khía cạnh sau:
Các hãng thờng cố gắng cân bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu để giữ vững
khả năng thanh toán, củng cố uy tín tài chính. Khi tỷ lệ ở mức thấp, nếu cần vốn
thì các công ty thờng chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ (mà không
tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu). Nếu tỷ lệ nợ ở mức cao, công ty phải tránh
việc tăng thêm tỷ lệ nợ và chọn cách phát hành cổ phiếu.
Tuy nhiên, thực tế các công ty không quan tâm nhiều đến việc giữ một
mức cân bằng chính xác. Việc điều chỉnh vốn chủ sở hữu và các khoản nợ thờng
ngẫu hứng và theo kiểu linh hoạt tuỳ cơ ứng biến.
Sự phản ứng trớc các biến động của thị trờng chứng khoán là một yếu tố
quyết đáng chú ý.
Một số nhà phân tích tài chính doanh nghiệp đã đa ra những nhận xét nh
sau:
Phần lớn các cổ phiếu đợc phát hành bổ sung sau khi thị giá cổ phiếu của
doanh nghiệp tăng trên thị trờng chứng khoán.
Giá cổ phiếu tăng lên là một dấu hiệu có nhiều cơ hội đầu t mở rộng vào
những dự án có triển vọng trong doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ngời ta cha lý giải đợc một cách tờng tận tại sao trên thực tế
các công ty thờng lựa chọn việc phát hành cổ phiếu sau khi có sự tăng giá cổ
phiếu. Một số nguyên nhân có thể là những yếu tố sau đây:
Do đòi hỏi cân bằng tỷ lệ nợ (nh nói trên)

14
Do tỷ lệ P/E (Price-earnings Ratio) ở mức cao, tức là thị giá cổ phiếu
tăng mạnh hơn tốc độ tăng của tỷ suất lợi nhuận ròng.
Do yếu tố tâm lý của công chúng và các nhà đầu t trên thị trờng.
Ngoài ra, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể đợc bổ sung từ phần
chênh lệch đánh giá lại tài sản cố định, chênh lệch tỷ giá.


15
1.2.2.Nợ và các phơng thức huy động nợ của doanh
nghiệp
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp có thể
sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng; tín dụng thơng mại và vay thông
qua phát hành trái phiếu.
1.2.2.1.Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thơng mại
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng
Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan
trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà
còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các
doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thơng mại
cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn.
Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử
dụng tín dụng thơng mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên th-
ơng trờng. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thờng vay ngân hàng để
đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là
đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu t chiều sâu của doanh
nghiệp.
Về thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể đợc phân loại theo thời hạn vay,
bao gồm: vay dài hạn (thờng tính từ 3 năm trở lên; có nơi tính từ 5 năm trở lên),
vay trung hạn (từ 1 năm đến 3 năm) và vay ngắn hạn (dới 1 năm). Tiêu chuẩn và
quan niệm về thời gian để phân loại trong thực tế không giống nhau giữa các n-
ớc, và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thơng mại.
Tuỳ theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại
cho vay thành các loại nh: cho vay đầu t tài sản cố định, cho vay đầu t tài sản lu
động, cho vay để thực hiện dự án. Cũng có những cách phân chia khác nh: cho

16

vay theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền
vay.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều u điểm, nhng nguồn vốn này
cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm
soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi suất).
Điều kiện tín dụng: các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thơng
mại cần đáp ứng đợc những yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng.
Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà
ngân hàng yêu cầu. Trớc tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh
giá các thông tin liên quan đến dự án đầu t hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp vay vốn.
Các điều kiện đảm bảo tiền vay: khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung
các ngân hàng thờng yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các đảm bảo tiền vay,
phổ biến nhất là tài sản thế chấp. Việc yêu cầu ngời vay có tài sản thế chấp
trong nhiều trờng hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng đợc các điều kiện
vay, kể cả những thủ tục pháp lý về giấy tờ,v.v do đó, doanh nghiệp cần tính
đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Sự kiểm soát của ngân hàng: một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì
doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình
hình sử dụng vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gây khó khăn cho
doanh nghiệp, tuy nhiên, trong một số trờng hợp, điều đó cũng làm cho doanh
nghiệp có cảm giác bị kiểm soát.
L i suất vay vốnã : lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất
vốn vay ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trờng trong từng
thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử
dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. Có những thời kỳ ở nớc

17
ta, lãi suất vay vốn khá cao và thiếu tính cạnh tranh do đó không tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp đầu t mở rộng sản xuất kinh doanh.

Nguồn vốn tín dụng thơng mại
Các doanh nghiệp cũng thờng khai thác nguồn vốn tín dụng thơng mại
(commercial credit) hay còn gọi là tín dụng của ngời cung cấp (supplierscredit).
Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua
bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thơng mại có ảnh hởng hết sức to
lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong
một số doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thơng mại dới dạng các khoản phải trả
(Accounts payable) có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể
chiếm tới 40% tổng nguồn vốn.
Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thơng mại là một
phơng thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa, nó còn
tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các
điều kiện ràng buộc cụ thể có thể đợc ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán
hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cần nhận thấy tính chất rủi ro của
quan hệ tín dụng thơng mại khi quy mô tài trợ quá lớn.
Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của
khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ đợc tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ.
Khi mua bán hàng hóa trả chậm, chi phí này có thể ẩn dới hình thức thay đổi
mức giá, tuỳ thuộc quan hệ và thoả thuận cụ thể giữa các bên. Trong xu hớng
hiện nay ở Việt Nam cũng nh trên thế giới, các hình thức tín dụng ngày càng đ-
ợc đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn; do đó các doanh
nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của
doanh nghiệp.
1.2.2.2.Phát hành trái phiếu công ty

18
Trái phiếu là một tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn, bao
gồm: trái phiếu Chính phủ (government bond) và trái phiếu công ty (corporate
bond). Trái phiếu còn đợc gọi là trái khoán. Trong phần này, chúng ta chỉ xem
xét trái phiếu công ty trên một số khía cạnh cơ bản.

Một trong những vấn đề cần xem xét trớc khi phát hành là lựa chọn loại
trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình
trên thị trờng tài chính.
Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến
chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.
Trớc khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và u nhợc điểm của mỗi
loại trái phiếu. Trên thị trờng tài chính ở nhiều nớc, hiện nay thờng lu hành
những loại trái phiếu doanh nghiệp nh sau:
Trái phiếu có lãi suất cố định
Loại trái phiếu này thờng đợc sử dụng nhiều nhất, tức là phổ biến nhất
trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất đợc ghi ngay trên mặt trái phiếu
và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Nh vậy cả doanh nghiêp (ngời đi
vay) và ngời giữ trái phiếu (ngời cho vay) đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ
trong suốt thời gian tồn tại (kỳ hạn) của trái phiếu. Việc thanh toán lãi trái phiếu
cũng thờng đợc quy định rõ, ví dụ trả 2 lần trong năm vào ngày 30/6 và 31/12.
Để huy động vốn trên thị trờng bằng trái phiếu, phải tính đến mức độ hấp
dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn phụ thuộc vào những yếu tố sau:
L i suất của trái phiếuã : đơng nhiên, ngời đầu t muốn đợc hởng mức lãi suất
cao nhng doanh nghiệp phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận đợc
đối với trái phiếu của họ, chứ không thể trả thật cao cho các nhà đầu t.
Lãi suất của trái phiếu phải đợc đặt trong tơng quan so sánh với lãi suất
trên thị trờng vốn, đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh với trái phiếu của các
công ty khác và trái phiếu Chính phủ. Giả sử trái phiếu kho bạc Nhà nớc kỳ hạn

19
5 năm có lãi suất 7,0%/năm, trái phiếu trung bình của một số công ty khác cùng
kỳ hạn: 8,0%/năm; khi đó để phát hành thành công trái phiếu, cần quy định lãi
suất trái phiếu sao cho có thể cạnh tranh đợc với mức lãi suất đó. Tuy nhiên, một
ràng buộc khác là chi phí lãi vay mà công ty phải trả cho các trái chủ. Nếu đa
thêm các yếu tố khuyến khích vào trái phiếu thì có thể không cần nâng cao mức

lãi suất.
Kỳ hạn của trái phiếu: đây là yếu tố rất quan trọng không những đối với
công ty phát hành mà cả đối với nhà đầu t. Khi phát hành, doanh nghiệp phải
căn cứ vào tình hình thị trờng vốn và tâm lý dân c mới có thể xác định kỳ hạn
hợp lý. Ví dụ, trong tháng 9/2001, Ngân hàng Đầu t và phát triển Việt Nam phát
hành các loại trái phiếu vô danh và ghi danh với kỳ hạn 5 năm và 7 năm. Loại
trái phiếu 5 năm bán đợc với số lợng rất lớn nhng loại trái phiếu 7 năm thì
không hấp dẫn công chúng.
Uy tín của doanh nghiệp: Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thu hút
đợc công chúng mua trái phiếu vì nhà đầu t phải đánh giá uy tín của doanh
nghiệp thì mới quyết định mua hay không mua. Các doanh nghiệp có uy tín và
vững mạnh thì dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy
động vốn.
Trong việc phát hành trái phiếu, cũng cần chú ý đến mệnh giá vì nó có thể
liên quan đến sức mua của dân chúng. Đặc biệt, ở Việt Nam khi phát hành trái
phiếu, doanh nghiệp cần xác định một mức mệnh giá vừa phải để nhiều ngời có
thể mua đợc, tạo sự lu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trờng.
Trái phiếu có lãi suất thay đổi
Tuy gọi là lãi suất thay đổi nhng thực ra loại này có lãi suất phụ thuộc vào
một số nguồn lãi suất quan trọng khác. Chẳng hạn, lãi suất LIBOR (London
Interbank offered Rate) hoặc lãi suất cơ bản (Prime Rate).

20
Khi nào nên phát hành loại trái phiếu thả nổi? Trong điều kiện có mức
lạm phát khá cao và lãi suất thị trờng không ổn định, doanh nghiệp có thể khai
thác tính u việt của loại trái phiếu này. Do các biến động của lạm phát kéo theo
sự giao động của lãi suất thực, các nhà đầu t mong muốn đợc hởng một lãi suất
thoả đáng khi so sánh với tình hình thị trờng. Vì vậy, một số ngời a thích trái
phiếu thả nổi. Tuy nhiên, loại trái phiếu này có một vài nhợc điểm:
Doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu,

điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính.
Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp
phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất.
Trái phiếu có thể thu hồi (callable bond)
Một số doanh nghiệp lựa chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu
hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu nh
vậy phải đợc quy định ngay khi phát hành để ngời mua trái phiếu đợc biết.
Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại
trái phiếu. Thông thờng, ngời ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ
không bị thu hồi, ví dụ trong thời gian 36 tháng.
Loại trái phiếu có thể thu hồi có những u điểm sau:
Có thể đợc sử dụng nh một cách điều chỉnh lợng vốn sử dụng. Khi
không cần thiết, doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu, tức là giảm số vốn
vay.
Doanh nghiệp có thể thay nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại
này bằng một nguồn tài chính khác thông qua mua lại các trái phiếu đó.
Tuy nhiên, nếu không có những hấp dẫn nào đó thì trái phiếu này không
đợc a thích.
Chứng khoán có thể chuyển đổi

21
Các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty Mỹ, thờng phát hành những
chứng khoán kèm theo những điều kiện có thể chuyển đổi đợc. Nói chung, sự
chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên (doanh nghiệp, ngời đầu t) có thể lựa
chọn cách thức đầu t có lợi và thích hợp.
Có một số hình thức chuyển đổi, ở đây chỉ đề cập đến hai loại:
Giấy bảo đảm (warrant): Ngời sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số
lợng cổ phiếu thờng, đợc quy định trớc với giá cả và thời gian xác định.
Trái phiếu chuyển đổi (convertible bond) là loại trái phiếu cho phép có
thể chuyển đổi thành một số lợng nhất định các cổ phiếu thờng. Nếu thị giá của

cổ phiếu tăng lên thì ngời giữ trái phiếu có cơ may nhận đợc lợi nhuận cao.
1.3.Các nhân tố ảnh hởng đến huy động vốn của
doanh nghiệp
1.3.1.Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1.Nhu cầu và mục tiêu tài chính của doanh nghiệp
Một yếu tố đầu tiên có ảnh hởng trực tiếp đến hoạt động huy động vốn
của doanh nghiệp là nhu cầu và mục tiêu tài chính của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp sẽ không thể quyết định huy động vốn ngắn hạn khi có nhu cầu vốn dài
hạn. Việc lựa chọn hình thức, quy mô, thời hạn nguồn vốn cần huy động phải
phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Tơng tự nh vậy, mục tiêu tài
chính có tác động lớn tới hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp. Các mục
tiêu cụ thể có thể là:
Khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán và mức dự trữ an toàn về tài chính nh thế nào phụ
thuộc rất nhiều vào đặc điểm của từng ngành, từng doanh nghiệp cụ thể. Với các
công ty trong các ngành đòi hỏi nhiều vốn hoạt động theo chu kỳ hay có mức độ
hoạt động cao, họ cần có một mức dự trữ tài chính lớn để có thể vợt qua các chu
kỳ kinh doanh và chu kỳ vốn chắc chắn sẽ xảy ra. Đờng lối cụ thể đợc định ra d-

22
ới dạng các yêu cầu phải duy trì một số điều kiện tài chính nhất định. Khả năng
thanh toán cần phải đợc lợng hoá để từ đó quyết định đợc cơ cấu tài trợ phù hợp.
Khả năng linh hoạt
Khả năng linh hoạt có thể là mục tiêu thứ hai trong quyết định tài trợ của
công ty. Khả năng linh hoạt này thể hiện ở chỗ, công ty sẽ không bị hạn chế các
hoạt động tài trợ trong tơng lai do các quy định hay điều khoản tài trợ trong quá
khứ, hay do cơ cấu tài chính của công ty. Nếu công ty thiếu khả năng linh hoạt
này, công ty có thể gặp khó khăn trong việc tận dụng các cơ hội trong tơng lai
và luôn ở trong tình trạng rủi ro trớc các dao động của hoạt động kinh doanh.
Ngoài ra còn một số mục tiêu khác nh: kiểm soát chi phí tài trợ, đa dạng

hoá các nguồn tài trợ và mục tiêu của bảng cân đối kế toán chúng ta sẽ nghiên
cứu sâu hơn trong các nhân tố tiếp sau.
1.3.1.2.Cơ cấu vốn và chi phí vốn
Cơ cấu vốn là một thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nghiệp sử dụng các
nguồn vốn khác nhau với một tỷ lệ nào đó. Qua cơ cấu vốn của doanh nghiệp, ta
có thể thấy đợc tổng thể các loại nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng, qui mô
và tỷ trọng của từng nguồn vốn đó trong toàn bộ nguồn vốn của doanh nghiệp.
Do mỗi nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động có chi phí khác nhau nên
khi xem xét đến vấn đề về cơ cấu vốn ngời ta thờng quan tâm đến một chỉ tiêu
nữa, đó là chi phí trung bình của vốn. Chi phí trung bình của vốn phản ánh chi
phí trung bình của tất cả các nguồn tài trợ dài hạn đợc doanh nghiệp sử dụng. Để
xác định đợc chi phí trung bình, thông thờng sử dụng chỉ tiêu chi phí bình quân
gia quyền của vốn (WACC).
Trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, mỗi nguồn vốn có một tỷ trọng nhất
định và chi phí bình quân gia quyền của vốn đợc xác định nh sau:
Ta quy ớc: -chi phí của nợ vay: Kd
-chi phí của nợ vay sau thuế: Kd(1-t). Trong đó t là thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp.
-Chi phí của cổ phiếu u tiên: Kp

23
-Chi phí lợi nhuận giữ lại: Ks
-Chi phí cổ phần thờng mới: Ke
-Tỷ trọng của mỗi nguồn vốn tơng ứng là: Wd, Wp, Ws,
We.
WACC=Wd.Kd(1-t) + Wp.Kp + Ws.Ks + We.Ke
Trong thực tiễn hoạt động, doanh nghiệp phải tìm ra một cơ cấu vốn phù
hợp với tình hình cụ thể tại doanh nghiệp đó, trên cơ sở đó để tiến hành huy
động vốn. Cơ cấu vốn mục tiêu của một doanh nghiệp là tỷ lệ giữa nợ, vốn cổ
phần u tiên và cổ phần thờng mà doanh nghiệp muốn duy trì và hớng tới trong

quá trình quản lý và huy động vốn. Tại một thời điểm nào tỷ lệ nợ mà ở dới mức
mục tiêu đề ra thì doanh nghiệp sẽ mở rộng vốn bằng cách vay nợ và ngợc lại.
Cơ cấu vốn mục tiêu mà doanh nghiệp hớng đến chính là cơ cấu vốn tối u của
doanh nghiệp.
Cơ cấu vốn tối u của doanh nghiệp là cơ cấu vốn làm cân bằng tối đa giữa
rủi ro và lãi suất (chi phí) và bằng cách đó tối đa hoá giá trị của các chủ sở hữu.
Với cơ cấu vốn tối u thì chi phí bình quân gia quyền của vốn là thấp nhất.
Nh vậy, quyết định về cơ cấu vốn liên quan đến việc cân nhắc giữa rủi ro
và lãi suất. Bởi lẽ, khi sử dụng nhiều nợ sẽ làm tăng rủi ro đối với lợi nhuận của
doanh nghiệp và do đó sẽ làm giảm giá trị của cổ phiếu (giá trị của chủ sở hữu).
Tuy nhiên sử dụng tỷ lệ nợ cao hơn trong một phạm vi nhất định cũng thờng dẫn
đến tỷ lệ lợi nhuận trên một cổ phiếu tăng, do đó làm tăng giá trị cổ phiếu. Nh
vậy, việc sử dụng nợ một mặt làm giảm giá cổ phiếu, mặt khác cũng bao hàm
các yếu tố làm tăng giá cổ phiếu và khi cân bằng đợc các nhân tố trên thì giá cổ
phiếu là cao nhất.
Có bốn nhân tố chính ảnh hởng tới quyết định về cơ cấu vốn:
Một là, rủi ro kinh doanh:
Rủi ro kinh doanh là rủi ro cố hữu trong tài sản của doanh nghiệp trong
trờng hợp doanh nghiệp không sử dụng nợ. Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ
nợ tối u càng thấp.

24
Hai là, thuế thu nhập của doanh nghiệp:
Trong phần chi phí vốn chúng ta đã đề cập đến chi phí của nợ vay sau
thuế. Do vậy lý do quan trọng của việc sử dụng nợ là thuế thu nhập càng cao thì
càng hạ thấp chi phí thực tế của nợ.
Ba là, khả năng linh hoạt tài chính hay là khả năng huy động vốn khi
những điều kiện thay đổi. Thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp đã chỉ ra
rằng những doanh nghiệp lớn và có nhiều ngời biết đến trên thị trờng thì sẽ có
uy tín trong việc huy động vốn hơn và nh vậy họ có thể duy trì tỷ lệ nợ cao hơn.

Cuối cùng, một nhân tố cũng ảnh hởng đến cơ cấu vốn là quan điểm của
các nhà quản lý. Tuỳ theo quan điểm của các nhà quản lý mà họ sẽ lựa chọn sử
dụng nợ hay vốn chủ sở hữu.
Nh vậy, cơ cấu vốn tối u sẽ đảm bảo một tỷ lệ hợp lý giữa vốn chủ sở hữu
và nợ vay sao cho lợi ích thu đợc là cao nhất. Đối với những doanh nghiệp mà tỷ
lệ nợ ở mức thấp thì việc sử dụng thêm nợ vay là hợp lý. Vì điều này sẽ đem lại
một nguồn vốn với chi phí sử dụng thấp hơn so với việc huy động thêm vốn chủ
sở hữu, đồng thời chia sẻ bớt rủi ro đối với vốn chủ sở hữu. Ngợc lại, với những
doanh nghiệp mà tỷ lệ nợ tơng đối cao thì việc sử dụng thêm nợ sẽ làm tăng rủi
ro đối với khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Hơn nữa, với cơ cấu tài chính
nh vậy, doanh nghiệp cũng khó có thể huy động đợc nguồn vốn phù hợp với chi
phí thấp. Do vậy, việc làm cần thiết đối với doanh nghiệp là tự đánh giá năng lực
của mình và xây dựng một cơ cấu vốn tối u để từ đó đề ra phơng hớng cụ thể
cho hoạt động huy động vốn.
Ngoài ra, chi phí vốn là một yếu tố quan hệ mật thiết với cơ cấu vốn và có
tác động không nhỏ đến quyết định huy động vốn của doanh nghiệp. Ta đã biết,
với cơ cấu vốn tối u thì chi phí vốn bình quân là thấp nhất. Doanh nghiệp sẽ lựa
chọn phơng thức huy động sao cho chi phí vốn thấp nhất trong điều kiện có thể
để đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn doanh nghiệp.
1.3.1.3.Tình trạng tài chính của doanh nghiệp

25

×