Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Hoàn thiện nâng cao hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng ( VP Bank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.81 KB, 84 trang )

Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hoài

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới giảng viên hướng dẫn Tiến sĩ
Nguyễn Thị Thanh Hoài cùng các anh chị trong phịng Thanh tốn và Tài trợ
thương mại xuât nhập khẩu tại Trung tâm Dịch vụ giao dịch của ngân hàng
VP Bank đã giúp em thu thập tài liệu, thực hiện và hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn !!!

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hoài

MỤC LỤC

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hoài


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ngân hàng nhà nước

NHNN

Ngân hàng thương mại

NHTM

Xuất nhập khẩu

XNK

Xuất khẩu

XK

Nhập khẩu

NK

Thanh toán quốc tế

TTQT

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

MSV: 0754010098



Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hoài

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Với xu thế quốc tế hóa, tồn cầu hóa, Việt Nam thực hiện mở cửa nền
kinh tế. Trong q trình đó, hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) có vai trị đặc
biệt quan trọng. Hiện nay, nước ta đang thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế về
mọi mặt, đặc biệt là về kinh tế.
Để thực hiện tốt quá trình hội nhập với khu vực và thế giới, hoạt động
ngoại thương của Việt Nam đã có nhiều thay đổi mạnh mẽ cả về lượng và
chất nhằm đáp ứng nhu cầu hợp tác quốc tế ngày càng tăng. Để làm được điều
này các ngân hàng và các doanh nghiệp Việt Nam phải có một hệ thống thanh
tốn quốc tế (TTQT) hiệu quả, nhanh chóng, phù hợp với yêu cầu đổi mới
của nền kinh tế.
Tuy nhiên, tình hình thế giới ln có nhiều biến động. Trước những khó
khăn gặp phải, hoạt động XNK của các ngân hàng thương mại (NHTM) gặp
rất nhiều khó khăn địi hỏi phải có những biện pháp khắc phục, thúc đẩy hoạt

động thanh toán quốc tế ngày một phát triển và trở thành một trong những
hoạt động chính của NHTM. Xuất phát từ tính thiết thực của việc nâng cao
chất lượng thanh toán quốc tế nên em đã chọn đề tài: “Giải pháp hồn thiện
hoạt động thanh tốn quốc tế tại ngân hàng VP Bank”.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động thanh tốn
quốc tế.
- Phân tích một số quy trình hoạt động tiêu biểu.
- Phân tích, đánh giá những yếu tố thuận lợi, khó khăn và kiến nghị giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động.

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

1

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hoài

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài tập trung vào phân tích hoạt động thanh tốn quốc tế tại ngân
hàng VP Bank.
- Đưa ra kiến nghị nâng cao hiệu quả và phát triển hoạt động này trong
thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Vận dụng lý luận vào thực tiễn, sử dụng phương pháp phân tích, so

sánh, khái quát hóa và tổng hợp.
- Sử dụng và phân tích số liệu thống kê trên cơ sở tư duy logic.

5. Khóa luận được trình bày theo kết cấu sau:
Lời nói đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về thanh tốn quốc tế tại NHTM.
Chương 2: Hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng VP Bank.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hồn thiện và nâng cao chất lượng
thanh tốn quốc tế tại ngân hàng VP Bank.
Kết luận

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

2

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TỐN QUỐC TẾ TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Lý luận cơ bản về ngân hàng thương mại:
1.1.1. Khái niệm cơ bản về ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hồn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm

phương tiện thanh toán.
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại:
NHTM ra đời tồn tại song song và gắn bó với lịch sử phát triển nền kinh
tế quốc dân. Những đóng góp của ngành ngân hàng Việt Nam cho đất nước
có tầm quan trọng đặc biệt và được mọi người thừa nhận. Trong thời đại nền
kinh tế thông tin và kinh tế tri thức đang dần chiếm ưu thế thì vai trị của ngân
hàng càng quan trọng.
Trong các định chế tài chính, NHTM là định chế có kỳ hạn quan trọng
nhất, điều này được chứng minh trong tính ưu việt và tầm quan trọng của
chúng.
Có thể thấy tầm quan trọng của NHTM thơng qua các chức năng của nó.
• Chức năng tạo tiền:
Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các
ngân hàng khơng cịn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó
ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của
các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong
hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

3

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hoài

Một trong những chức năng chủ yếu của ngân hàng là khả năng tạo tiền
và huỷ tiền. Chức năng này được thực hiện thơng qua hoạt động tín dụng và

đầu tư của NHTM.
Hoạt động tín dụng có mục tiêu là kiếm lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các
nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Ngân hàng phải xác định một tỷ lệ phân chia
vốn hợp lý trong phạm vi khoản mục cho vay, điều này có nghĩa là vốn phải
được phân chia vào các mục tiêu tiêu dùng, đầu tư, thương mại một cách hợp
lý. Sự phân chia này phụ thuộc vào khả năng sinh lời của từng lĩnh vực và
phụ thuộc mục tiêu kinh doanh riêng của từng ngân hàng. Hoạt động tín dụng
có một vai trị rất quan trọng, nó giúp điều hồ cung cầu tiền tệ trên thị
trường, giúp ổn định giá cả, tạo được việc làm cho người lao động và giúp
cho các doanh nghiệp tiến hành kinh doanh một cách liên tục.
• Chức năng trung gian thanh toán:
Cơ chế thanh toán hay sự vận động của vốn là một trong những chức
năng quan trọng do NHTM thực hiện. Thông qua hoạt động TTQT, chức
năng thanh toán giúp cho sự vận chuyển của đồng tiền một cách đơn giản và
nhanh gọn hơn. Trước đây ngân hàng sử dụng các phương tiện thanh toán chủ
yếu bằng phát hành Séc, ngày nay khi công nghệ thông tin phát triển đã giúp
cho hoạt động thanh toán diễn ra nhanh hơn, các hình thức chuyển tiền bằng
điện tử ra đời thay thế một phần việc sử dụng séc trong thanh toán.
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu
thông và độc quyền quản lý các cơng cụ đó (Séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh
tốn...) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thơng, đẩy nhanh tốc
độ ln chuyển vốn, thúc đẩy q trình lưu thơng hàng hóa. Ở các nước phát
triển phần lớn thanh toán được thực hiện qua Séc và được thực hiện bằng việc
bù trừ thông qua hệ thống ngân NHTM. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là
thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã
tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

4


MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

Dịch vụ này có vai trị rất lớn, nó tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện
các khoản thanh toán mà khơng phải mang theo bên mình một lượng tiền lớn,
nó được xác lập dựa trên cơ sở mối quan hệ quốc tế cũng như tính thuận tiện
của các phương tiện truyền tin.
• Chức năng sản xuất:
Chức năng này bao gồm việc huy động và sử dụng các nguồn lực để tạo
ra sản phẩm và dịch vụ ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.
Các ngân hàng thương mại thực hiện một dịch vụ rất quan trọng đối với
tất cả các khu vực của nền kinh tế bằng cách cung ứng những điều kiện thuận
lợi cho việc gửi tiền tiết kiệm của dân chúng. Người gửi tiết kiệm được nhận
một khoản tiền thưởng dưới danh nghĩa là lãi suất tiết kiệm trên tổng số tiền
gửi tiết kiệm ở các ngân hàng, với mức độ an tồn và hình thức thanh khoản
cao. Số tiền huy động được thơng qua hình thức tiết kiệm, ngân hàng dùng để
đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân nhằm mở rộng khả
năng sản xuất và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cá nhân như mua sắm hàng tiêu
dùng và nhà cửa...
Trong kinh tế học, sản xuất được định nghĩa như là quá trình sử dụng các
yếu tố nhập lượng bao gồm đất đai, lao động và vốn để tạo ra sản phẩm và
dịch vụ. Trên cơ sở sử dụng các yếu tố nhập lượng hay yếu tố đầu vào đặc thù
của quá trình sản xuất, NHTM tạo ra sản phẩm và dịch vụ đặc thù để cung cấp
cho khách hàng. Các sản phẩm và dịch vụ NHTM có thể cung cấp bao gồm:
- Các sản phẩm huy động vốn như tiền gửi và chứng từ có giá các loại.
- Các sản phẩm cấp tín dụng như cho vay doanh nghiệp, cho vay cá

nhân, cho vay tiêu dùng, cho vay sản xuất, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự
án, cho thuê tài chính,…
- Các sản phẩm thẻ như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ ATM,…
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

5

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hoài

- Các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ chuyển tiền, thanh tốn khơng dùng
tiền mặt, thanh tốn quốc tế,…
- Các sản phẩm kinh doanh ngoại tệ như các hợp đồng giao ngay, kỳ hạn,
hoán đổi, giao sau, quyền chọn,…
1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại:
* Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế:
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa
được sử dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa
được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và
họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh.
Nhưng những chủ thể này khơng quen biết nhau và cũng có thể không tin
tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai
trị trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và
đem số tiền ấy cho người muốn vay vay.
* Tạo điều kiện để tài trợ ngoại thương:
Mặc dù ngoại thương được hình thành và bắt nguồn từ các hoạt động nội

thương, nhưng nó có sự khác biệt đáng kể như là: các bên giao dịch thuộc các
quốc gia khác nhau, hàng hoá được trao đổi qua biên giới, đồng tiền thanh tốn
là đồng ngoại tệ đối với ít nhất một trong hai nước, khác nhau về mặt ngơn ngữ...
Chính vì có những sự khác biệt này, mà các hoạt động ngoại thương cần đến
ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại có khả năng cung ứng ngoại tệ
một cách nhanh chóng, giúp cho các bên mua đảm bảo được việc nhận hàng,
bên bán đảm bảo thu được tiền hàng. Như vậy có thể nói, ngân hàng thương mại
đã tạo điều kiện rất lớn cho hoạt động ngoại thương.
1.2. Lý luận về thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại:
1.2.1. Khái niệm thanh toán quốc tế:
TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, nảy sinh trên cơ sở các hoạt
động kinh tế và phí kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với tổ chức
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

6

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hoài

hay cá nhân nước khác hoặc giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua
quan hệ giữa các ngân hàng có liên hệ.
* Tính tất yếu khách quan của hoạt động thanh toán quốc tế:
TTQT là một trong những khâu quan trọng trong xuất nhập khẩu hàng
hoá, hay nói rộng hơn thì nó là một khâu quan trọng của hoạt động thương
mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hố, dịch vụ giữa các nước

thơng qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội
và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng hố
riêng biệt giữa các quốc gia.
Ta có thể chứng minh sự hình thành hoạt động TTQT là tất yếu trong q
trình trao đổi hàng hố trên phạm vi thanh toán quốc tế qua sơ đồ sau:
(1)

Người

(2)

Xuất

(3)

Khẩu

(4)

Người
Nhập
Khẩu

(5)

Sơ đồ 1: Luồng chuyển dịch hàng, tiền, chứng từ.
Trong đó :
(1) Người xuất khẩu tiến hành giao hàng cho người nhập khẩu.
(2) Người xuất khẩu tiến hành giao chứng từ cho người nhập khẩu.
(3) Giao hàng đối lưu (người nhập khẩu đồng thời là người xuất khẩu

và ngược lại).
(4) Chuyển giao nghĩa vụ, khoản nợ.
(5) Người nhập khẩu tiến hành giao tiền cho người xuất khẩu.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

7

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hoài

Sự kết hợp các luồng dịch chuyển ở sơ đồ trên tạo ra một số phương thức
thanh toán.
Khi (1) kết hợp với (2) người xuất khẩu tiến hành giao hàng cho người
nhập khẩu, sau đó chuyển bộ chứng từ cho người nhập khẩu đi nhận hàng.
Việc thanh toán giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu có thể bằng cách
giao trực tiếp, nhưng trên thực tế do cách xa về mặt địa lý mà việc thanh toán
trực tiếp ở đây là rất ít. Mặt khác sau khi giao hàng và chứng từ người xuất
khẩu không chắc chắn việc thu tiền của mình nên họ phải nhờ đến bên thứ ba có
thể là hệ thống NHTM để đảm bảo việc thu tiền của mình. Hệ thống NHTM có
vai trị như thế nào còn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa người nhập khẩu và
xuất khẩu. Phương thức thanh tốn được hình thành ở đây có thể là nhờ thu,
chuyển tiền, L/C. Khi khách hàng áp dụng phương thức L/C thì vai trò của ngân
hàng là rất lớn, điều này sẽ được trình bày ở phần dưới đây.
(1)kết hợp với (3) đây là phương thức giao hàng đối lưu. Phương thức
giao dịch này người xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với người nhập khẩu, người
bán đồng thời là người mua, lượng hàng hố trao đổi ở đây có giá trị tương

đương. Đồng tiền ở đây đóng vai trị là đồng tiền tính giá. Trong trường hợp
này có thể cần đến hệ thống NHTM như một nhà trung gian giúp đảm bảo
thực hiện hợp đồng bằng cách dùng thư tín thương mại đối ứng, khống chế
chứng từ sở hữu hàng hoá.
(2) kết hợp với (4) ở đây bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng
cho bên thứ ba, khi này nghĩa vụ trả tiền hàng cho người xuất khẩu khơng cịn
thuộc nghĩa vụ của người nhập khẩu. Để đảm bảo việc thanh toán tiền hàng
cho người xuất khẩu, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà hệ thống NHTM có tham
gia vào quy trình thanh tốn hay khơng.
(1) kết hợp với (5) trong phương thức giao dịch này người xuất khẩu và
người nhập khẩu gặp nhau trực tiếp để giao hàng và thanh tốn tiền hàng, khi
này vai trị của hệ thống NHTM được thể hiện không rõ.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

8

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

Như vậy có thể thấy hoạt động TTQT được sử dụng ở hầu hết các
phương thức giao dịch, người ta có thể áp dụng phương thức TTQT trong
giao dịch hay khơng điều này cịn tùy thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên,
mức độ quen thuộc của bạn hàng và phụ thuộc vào phong tục tập quán về hoạt
động thanh tốn của nước đó. Qua sự chứng minh trên ta có thể thấy sự tồn tại
tất yếu khách quan của hoạt động TTQT trong q trình trao đổi hàng hố
trên phạm vi quốc tế.

Ngày nay, thương mại quốc tế có tính chất sống cịn vì nó giúp mở rộng
khả năng sản xuất và tiêu dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có
thể tiêu dùng so với ranh giới của khả năng sản xuất, tiêu dùng trong nước khi
thực hiện chế độ tự cung tự cấp. Sự trao đổi hàng hố dịch vụ thơng qua mua
bán là cần thiết bởi vì với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phạm vi mở rộng
của chun mơn hố ngày một tăng. Một đất nước sản xuất ra không đáp ứng
được nhu cầu của người dân nước đó thì địi hỏi phải có sự trao đổi bn bán
ra bên ngồi. Sự tồn tại tất yếu khách quan của thương mại quốc tế cịn có
nhiều lý do khác nữa như là: Với lợi thế tương đối, mỗi nước có những điều
kiện hơn hẳn các nước khác về lĩnh vực sản xuất nhất định, nên có khả năng
sản xuất ra sản phẩm đó và trao đổi cho nước khác. Theo thuyết trên, khi mà
một nước nào đó có điều kiện tài nguyên thiên nhiên, về lao động hay về khoa
học kỹ thuật... thì sản xuất ra sản phẩm đó sẽ có ưu thế và có thể xuất khẩu
đạt hiệu quả. Ngồi ra cịn có nhiều yếu tố liên quan khác như chi phí cơ hội,
điều kiện mơi trường, pháp lý...Xuất phát từ các lý do này mà cần có sự trao
đổi hàng hố giữa các quốc gia khác nhau hay cần có thương mại quốc tế. Sự
tồn tại tất yếu khách quan của hoạt động thương mại quốc tế một lần nữa
khẳng định sự tồn tại của hoạt động TTQT.
1.2.2. Vai trò của hoạt động thanh tốn quốc tế:
TTQT có vai trị quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh này một phần lớn phụ thuộc vào
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

9

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An


GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

hoạt động thanh tốn. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong
những năm đổi mới đã làm cho hoạt động TTQT có điều kiện phát triển, sự
xố bỏ dần các điều kiện ràng buộc như hàng rào thuế quan, tham gia vào q
trình quốc tế hố đời sống là một trong những yếu tố thúc đẩy nhanh q trình
phát triển của hoạt động TTQT.
Q trình bn bán trao đổi hàng hoá làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng
tiền, phát sinh nghĩa vụ thanh toán giữa các bên với nhau, đây là khâu cuối
cùng của sản xuất và lưu thông, sự kết thúc của thương vụ, các quan hệ hàng tiền trở nên gắn liền với nhau thông qua trao đổi. Như vậy xu hướng mở rộng
nền kinh tế một lần nữa đã khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động
thương mại quốc tế nói chung và hoạt động TTQT nói riêng.
Trong xu thế nền kinh tế quốc tế hóa mạnh mẽ như hiện nay, sẽ khó có
một quốc gia nào đứng vững và phát triển nếu thực hiện đường lối đóng cửa,
khơng giao lưu với nước ngoài. Các quốc gia đều nhận thức được ý nghĩa to
lớn của việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, thương mại quốc tế và ý
nghĩa của sự hòa nhập nền kinh tế thế giới.
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, TTQT có một vị trí hết sức quan trọng
đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương. Hoạt động TTQT là khâu kết thúc của một
giao dịch buôn bán hàng hoá hay dịch vụ. Hiệu quả kinh tế của bất kì một giao
dịch nào trong hoạt động trao đổi, mua bán giữa các quốc gia với nhau phần lớn
đều phụ thuộc vào khâu kết thúc này. Ngoài ra, TTQT còn giữ vai trò đặc biệt
trong hệ thống cán cân của các nước. Tình trạng của nó sẽ ảnh hưởng đến sự thay
đổi của tỷ giá hối đoái, đến tình hình ngoại hối của các nước và ảnh hưởng toàn
bộ nền kinh tế của một nước, trước hết là đến ngoại thương.
1.2.3. Thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại:
1.2.3.1. Yêu cầu của thanh toán quốc tế:
Như trên đã nêu: thanh toán quốc tế là việc chi trả những khoản ngoại tệ,
tín dụng có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá đã được thoả
thuận, quy định trong hợp đồng thương mại quốc tế.

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

10

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

Trong xuất nhập khẩu hàng hố, việc thanh tốn cần phải xét đến các vấn đề:
+ Tỷ giá hối đoái.
+ Tiền tệ trong thanh toán quốc tế.
+ Thời hạn trong thanh tốn.
+ Các phương thức và hình thức thanh tốn quốc tế.
+ Các điều kiện đảm bảo hối đoái.
+ Các điều kiện đảm bảo tín dụng.
Trong quan hệ thanh tốn giữa các nước, có rất nhiều vấn đề có liên
quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên. Phương thức thanh toán là một
trong những biện pháp giúp chúng ta đảm bảo được phần nào quyền lợi của
bên xuất khẩu và nhập khẩu.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế phụ thuộc vào phương thức thanh toán áp
dụng và là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế. Để hoạt
động thanh toán đạt hiệu quả cao chúng ta phải nghiên cứu kỹ phương thức
thanh toán và vận dụng chúng một cách tốt nhất trong việc ký kết và thực hiện
các hợp đồng mua bán quốc tế.
Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động thanh toán quốc tế là:
- Đối với người xuất khẩu.
+ Bảo đảm chắc chắn thu được đúng, đủ tiền hàng, thu tiền về càng

nhanh càng tốt.
+ Bảo đảm giữ vững giá trị thực tế của số thu nhập ngoại tệ khi có biến
động tiền tệ xảy ra.
+ Góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, củng cố và mở rộng thị trường, phát
triển thêm thị trường mới.
- Đối với người nhập khẩu:
+ Bảo đảm chắc chắn nhập được hàng đúng số lượng, chất lượng, đúng
thời hạn.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

11

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

+ Trong điều kiện khác khơng thay đổi thì trả tiền càng chậm càng tốt.
+ Góp phần làm cho việc nhập khẩu của ta theo đúng nhu cầu phát triển
của nền kinh tế quốc dân một cách thuận lợi.
1.2.3.2. Các hình thức thanh tốn quốc tế và phương tiện thanh tốn
quốc tế:
a. Hình thức thanh tốn quốc tế:
Theo tính chất người ta chia TTQT ra làm hai loại:
• Thanh tốn mậu dịch.
• Thanh tốn phi mậu dịch.
Thanh tốn mậu dịch là quan hệ thanh toán phát sinh trên cơ sở hàng hoá,
dịch vụ thương mại kết hợp với xuất nhập khẩu dựa trên giá quốc tế. Trong

thanh toán mậu dịch các bên tham gia sẽ bị ràng buộc bởi hợp đồng kinh tế đã ký
kết và các cam kết thương mại khác. Nếu hai bên không ký hợp đồng mà chỉ có
đơn đặt hàng thì sẽ căn cứ vào đại diện các bên giao dịch.
Xuất phát từ khái niệm của thanh toán mậu dịch ta thấy rằng đây là một hoạt
động phức tạp, có nhiều bên tham gia, việc thanh tốn này xuất hiện dựa trên cơ sở
bn bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế. Đối
với loại này, nó ràng buộc trách nhiệm của các bên bởi các chứng từ mua bán, bởi
các thoả thuận mang tính chất pháp luật, nó được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống luật
khác nhau. Chính vì vậy thanh tốn mậu dịch có mức độ rủi ro cao và đây là đối
tượng của hoạt động TTQT, là đối tượng của NHTM.
Thanh toán phi mậu dịch là quan hệ thanh tốn phát sinh khơng liên quan tới
hàng hố khơng có tính thương mại. Thanh tốn phi mậu dịch bao gồm các chi
phí của các cơ quan ngoại giao ở các nước sở tại, chi phí vận tải, chi phí đi lại của
các đồn khách Chính phủ, của các tổ chức, của các đoàn khách cá nhân.
Dựa trên khái niệm ta có thể thấy thanh tốn phi mậu dịch đơn giản hơn
nhiều so với thanh toán mậu dịch, đối với NHTM thì thanh tốn mậu dịch là
đối tượng chính.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

12

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

b. Các phương tiện thanh tốn quốc tế:
Các phương tiện lưu thơng tín dụng hối phiếu, kỳ phiếu, Séc... được

dùng làm phương tiện TTQT hình thành trên cơ sở phát triển tín dụng thương
nghiệp và tín dụng trong ngân hàng có vai trị rất quan trọng trong TTQT.
Cùng với q trình hình thành và phát triển tín dụng thương nghiệp và tín
dụng ngân hàng, các phương tiện tín dụng đã ra đời rất lâu trong lịch sử dưới
các hình thức như giấy ghi nợ, nhận nợ ... Thương mại quốc tế ngày càng phát
triển, gắn liền với sự phát triển đa dạng và quy mô ngày càng lớn của các
nghiệp vụ tín dụng. Dần dần các phương tiện lưu thơng tín dụng đã trở thành
vật mang hình thái tiền tệ đặc thù.
Các phương tiện tín dụng được tạo ra chủ yếu trên cơ sở quan hệ hợp
đồng mua bán và nghiệp vụ tín dụng ngân hàng.
* Hối phiếu:
- Khái niệm:
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký
phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc
đến một ngày cụ thể nhất định, hoặc đến một ngày có thể xác định trong
tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh
của người này trả cho người khác hoặc người cầm phiếu.
Qua khái niệm trên cho thấy hối phiếu có ba đặc điểm quan trọng:
• Tính trừu tượng của hối phiếu:
Trên hối phiếu khơng cần phải ghi nội dung quan hệ tín dụng, tức là
nguyên nhân gây ra việc lập hối phiếu, mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả và
nội dung có liên quan đến việc trả tiền. Hiệu lực pháp lý của hối phiếu cũng
không bị ràng buộc do nguyên nhân gì sinh ra hối phiếu. Một khi tách ra khỏi
hợp đồng đến tay người thứ ba thì hồi phiếu trở thành một trái vụ độc lập, chứ
không phải trái vụ sinh ra từ hợp đồng. Hay nói một cách khác, nghĩa vụ trả
tiền của hối phiếu là trừu tượng.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

13


MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

• Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu:
Người trả tiền hối phiếu phải trả tiền theo đúng nội dung ghi trên tờ
phiếu. Người trả tiền không thể viện những lý do riêng của mình với người ký
phát phiếu, người ký hậu mà từ chối trả tiền, trừ trường hợp hối phiếu được
lập ra trái với đạo luật chi phối nó. Ví dụ một người đặt hàng máy móc sau
khi ký hợp đồng đã chấp nhận trả tiền vào tờ phiếu do người cung cấp hàng
gửi đến, hối phiếu đó đã được chuyển sang tay người thứ ba thì người đặt
hàng bắt buộc phải trả tiền cho người cầm phiếu này ngay cả trong trường
hợp người cung cấp hàng vi phạm hợp đồng khơng giao hàng cho người mua.
• Tính lưu thơng của hối phiếu:
Hối phiếu có thể được chuyển nhượng một hay nhiều lần trong thời hạn
của nó. Sở dĩ có được đặc điểm này, bởi vì hối phiếu là lệnh đòi tiền của
người này đối với người khác, hối phiếu có một trị giá tiền nhất định, có một
thời hạn nhất định, thời hạn này thường là ngắn hạn và được người trả tiền
chấp nhận. Tóm lại nhờ vào tính trừu tượng và tính bắt buộc trả tiền của hối
phiếu, mà hối phiếu có được tính lưu thơng.
- Các loại hối phiếu:
• Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia hối phiều làm
ba loại:
+ Hối phiếu trả tiền ngay: người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do
người cầm phiếu xuất trình thì phải trả tiền ngay cho họ.
+ Hối phiếu trả tiền sau một số ngày nhất định, thường từ 5-7 ngày:
người trả tiền khi nhìn thấy hối phiếu này do người cấm phiếu xuất trình thì

tiến hành ký chấp nhận trả tiền, sau đó từ 5-7 ngày thì trả tiền tờ hối phiếu đó.
+ Hối phiếu có kỳ hạn: sau một thời gian nhất định ghi trên hối phiếu,
người trả tiền hối phiếu phải trả tiền ghi trên hối phiếu, hoặc tính từ ngày chấp
nhận hối phiếu, ngày ký phát hối phiếu, hoặc tính từ một ngày khác quy định
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

14

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

cụ thể. Việc trả tiền cũng có thể phải thực hiện vào một ngày quy định cụ thể
trong tương lai.
• Căn cứ vào hối phiếu có kèm chứng từ hay khơng có thể được chia làm
hai loại:
+ Hối phiếu trơn: Loại hối phiếu này được gửi đến đòi tiền người trả
tiền khơng có kèm theo điều kiện có liên quan đến việc trao chứng từ hàng
hoá .Trong TTQT, hối phiếu này được dùng để thu tiền cước phí vận tải, bảo
hiểm, hoa hồng v.v... hoặc dùng để đòi tiền mua hàng của những thương nhân
nhập khẩu tin cậy.
+ Hối phiếu kèm chứng từ: Loại hối phiếu này được gửi đến cho người
nhập khẩu có kèm theo chứng từ hàng hóa. Hối phiếu kèm chứng từ có hai
loại. Loại hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay (Documents against payment viết tắt là D/P) và loại hối phiếu kèm chứng từ chấp nhận thanh toán
(Documents against acceptance - viết tắt là D/A).
• Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của hối phiếu có thể chia làm ba loại:
+ Hối phiếu đích danh: là loại hối phiếu ghi rõ tên người hưởng lợi hối

phiếu khơng kèm theo điều khoản theo lệnh. Ví dụ: hối phiếu ghi như sau
“Sau khi nhìn thấy hối phiếu này trả cho ông X một số tiền là...”. Hối phiếu
đích danh khơng chuyển nhượng được bằng thủ tục ký hậu theo luật định.
+ Hối phiếu theo lệnh: loại hối phiếu chi trả theo lệnh của người hưởng
lợi hối phiếu. Ví dụ ghi như sau: “Sau khi nhìn thấy hối phiếu này , trả theo
lệnh của ông X một số tiền là...”. Hối phiếu theo lệnh có thể được chuyển
nhượng bằng thủ tục ký hậu theo luật định. Đây là loại hối phiếu được sử
dụng rộng rãi trong TTQT.
+ Hối phiếu trả cho người cầm phiếu( to bearer bill).

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

15

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

• Căn cứ vào người ký phát hối phiếu, người ta chia hối phiếu làm hai loại:
+ Hối phiếu thương mại là hối phiếu do người xuất khẩu ký phát địi
tiền người nhập khẩu trong nghiệp vụ về thanh tốn hàng hoá xuất khẩu hoặc
dịch vụ cung ứng.
+ Hối phiếu ngân hàng là hối phiếu do ngân hàng phát ra lệnh cho đại lý
của mình thanh tốn một số tiền nhất định cho người hưởng lợi chỉ định trên
hối phiếu.
* Séc trong thanh tốn quốc tế:
Nếu như hối phiếu hình thành trên cơ sở của lưu thơng hàng hố thì séc

hình thành trên cơ sở lưu thơng tín dụng ngân hàng.
Những người có tài khoản tiền gửi khơng kỳ hạn ở ngân hàng đều có thể
u cầu ngân hàng trích tiền của mình từ tài khoản đó để trả cho người khác.
Yêu cầu này được làm bằng văn bản dưới dạng hình mẫu nhất định, đó là séc
(cheque).
- Khái niệm:
Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng của
ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của
mình mở ở ngân hàng để trả cho người cầm Séc.
Xuất phát từ khái niệm trên mà Séc không chỉ là phương tiện chi trả
được sử dụng phổ biến trong thanh tốn nội bộ mà cịn được sử dụng trong
TTQT. Tuy nhiên việc thanh toán bằng Séc phụ thuộc nhiều vào số dư tài
khoản của Séc và thời hạn hiệu lực Séc. Nhược điểm này khiến Séc ít được sử
dụng hơn trong thanh toán so với hối phiếu.
- Các loại Séc:
+ Séc vô danh (cheque to bearer): Là loại Séc không ghi tên người
hưởng lợi, chỉ ghi câu “Trả cho người cầm Séc” (Pay to the bearer). Đối với
loại Séc này, ai cầm được Séc đều có thể lĩnh được tiền.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

16

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

+ Séc đích danh (nominal cheque): Loại Séc chỉ định rõ tên người được

hưởng và chỉ có người này mới được lĩnh tiền.
+ Séc theo lệnh (cheque to order): Loại Séc ghi “trả theo lệnh” của
người hưởng lợi. Séc này được chuyển nhượng bằng hình thức ký hậu, vì vậy
Séc theo lệnh được dùng phổ biến trong TTQT.
+ Séc gạch chéo (crossed cheque): Là loại Séc trên mặt trước của nó có hai
gạch chéo song song với nhau từ góc này sang góc kia của tờ Séc. Mục đích của
gạch chéo là dùng để chuyển khoản qua ngân hàng để khơng rút tiền mặt.
* Có hai loại gạch chéo:
Gạch chéo không tên và gạch chéo ghi tên.
Gạch chéo không tên còn gọi là gạch chéo thường (cheque crosed
generally) tức là giữa hai đường chéo song song không ghi tên ngân hàng lĩnh
hộ tiền. Với gạch chéo này thì ngân hàng nào cũng có thể nhận hộ tiền cho
người hưởng lợi.
Gạch chéo ghi tên còn gọi là gạch chéo đặc biệt (cheque crossed
specially) tức là giữa hai gạch chéo song song có ghi tên của ngân hàng lĩnh
hộ tiền cho người được hưởng lợi và chỉ có ngân hàng này mới lĩnh được tiền
mà thôi.
+ Séc chuyển khoản: Là loại Séc mà ngân hàng phải trích tiền từ tài
khoản của con nợ sang tài khoản của chủ nợ. Séc chuyển khoản không thể
chuyển nhượng và không lấy được tiền mặt.
+ Séc xác nhận: Là loại Séc được ngân hàng xác nhận việc trả tiền. Mục
đích của Séc xác nhận là nhằm đảm bảo khả năng chi trả của tờ Séc và chống
việc phát hành Séc khống.
+ Séc du lịch: Là loại Séc do ngân hàng phát hành và được trả tiền tại
bất cứ chi nhánh hay ở đại lý của ngân hàng đó ở trong hay ngồi nước.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

17

MSV: 0754010098



Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hoài

* Kỳ phiếu:
Ngược lại với hối phiếu, kỳ phiếu do người thụ trái viết ra để cam kết
hứa trả tiền cho người hưởng lợi. Với tính thụ động trong thanh tốn, kỳ phiếu
trong thanh tốn ít thơng dụng hơn hối phiếu.
- Khái niệm:
Kỳ phiếu là một chứng từ cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập hối
phiếu ký phát, trong đó người lập hối phiếu cam kết trả một khoản tiền nhất
định cho người hưởng lợi hoặc theo lệnh của người này trả cho một người thứ
ba theo quy định trong kỳ phiếu.
Đối với kỳ phiếu, luật không áp dụng thể thức chấp nhận và trong kỳ
phiếu người ký phát ra lệnh cho chính mình trả tiền cho người hưởng lợi.
* Thư tín dụng (L/C):
- Khái niệm:
Thư tín dụng là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam
kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình bộ chứng từ thanh tốn phù
hợp với nội dung của L/C.
- Nội dung chủ yếu của thư tín dụng:
+ Số hiệu của thư tín dụng: Tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu
riêng của nó, tác dụng của số hiệu là dùng để trao đổi thư từ, điện tín có liên
quan đến thư tín dụng.
+ Địa điểm mở thư tín dụng: Là nơi mà ngân hàng mở L/C cam kết trả
tiền cho người xuất khẩu.
+ Ngày mở L/C: Là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở
L/C với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính hiệu lực của L/C và nó là căn

cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu có mở L/C đúng như
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

18

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

hạn quy định trong hợp đồng khơng.
+ Tên địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng
chứng từ như người nhập khẩu, người xuất khẩu hay người hưởng lợi, ngân
hàng mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận.
+ Số tiền của thư tín dụng: Vừa được ghi bằng số vừa được ghi bằng
chữ và phải thống nhất nhau. Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng.
+ Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong thư
tín dụng, trong đó :
~ Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là thời hạn mà ngân hàng mở L/C
cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, nếu người xuất khẩu trình bộ chứng từ
phù hợp với những quy định trong L/C.
~ Ngày giao hàng phải nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C và không
được trùng với ngày hết hạn hiệu lực của L/C.
~ Ngày mở L/C phải trước ngày giao hàng một thời gian hợp lý, ngày
hết hạn hiệu lực của L/C phải sau ngày giao hàng một thời gian hợp lý .
~ Thời hạn trả tiền của L/C: là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền sau.
~ Thời hạn giao hàng cũng được ghi trong L/C và được hợp đồng mua
bán quy định. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn mở L/C.

+ Những nội dung về hàng hoá như tên hàng, số lượng, trọng lượng, giá
cả, quy cách, phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu... cũng được ghi vào thư tín dụng.
+ Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá như điều kiện cơ sở
giao hàng FOB, CIF,..., nơi gửi và nơi giao hàng, cách vận chuyển và cách
giao hàng,... cũng được ghi vào thư tín dụng.
+ Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình, đây là nội dung
then chốt của thư tín dụng.
SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

19

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hoài

+ Những điều khoản đặc biệt khác.
+ Chữ ký của ngân hàng mở thư tín dụng.
- Các loại thư tín dụng thương mại:
Các loại thư tín dụng thường thấy trong thanh tốn quốc tế :
+ Thư tín dụng khơng thể huỷ bỏ: Là loại thư tín dụng sau khi đã được
mở ra và người xuất khẩu thừa nhận thì ngân hàng mở L/C không được sửa
đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó, trừ khi có sự thoả
thuận khác của bên tham gia tín dụng.
+ Thư tín dụng khơng thể huỷ bỏ có xác nhận: Là loại thư tín dụng
khơng thể huỷ bỏ được một ngân hàng xác nhận đảm bảo trả tiền theo yêu cầu
của ngân hàng mở L/C.
+ Thư tín dụng khơng thể huỷ bỏ miễn truy đòi: Là loại L/C mà sau khi

người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C khơng cịn quyền địi
lại tiền người xuất khẩu trong bất cứ trường hợp nào.
+ Thư tín dụng chuyển nhượng: Là thư tín dụng khơng thể huỷ bỏ, trong
đó quy định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở
L/C chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay
nhiều người khác. L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển một lần.
+ Thư tín dụng tuần hồn: Là loại L/C khơng thể huỷ bỏ sau khi sử dụng
hoặc đã hết hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ và cứ như vậy nó tuần
hồn cho đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện.
+ Thư tín dụng giáp lưng: Sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở
cho mình hưởng người xuất khẩu dùng L/C này để thế chấp mở một L/C khác
cho người hưởng lợi khác hưởng với nội dung gần giống như L/C ban đầu, L/C
mở sau gọi là L/C giáp lưng.

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

20

MSV: 0754010098


Trường Đại học Chu Văn An

GVHD: T.S Nguyễn Thị Thanh Hồi

+Thư tín dụng đối ứng: Là loại thư tín dụng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi thư
tín dụng đối ứng với nó đã mở ra.
+Thư tín dụng dự phịng.
+Thư tín dụng thanh tốn dần về sau.
Thư tín dụng có tính chất quan trọng, nó hình thành trên cơ sở của hợp

đồng mua bán nhưng sau khi thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng
mua bán. Thư tín dụng là phương tiện rất quan trọng trong phương thức thanh
tốn tín dụng chứng từ, khơng mở được thư tín dụng chứng từ thì phương thức
này khơng được xác lập và người bán không thể giao hàng cho người mua.
1.2.3.3. Các hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại:
a. Thanh toán chuyển tiền( TTR-Telegraphic Transfer
Remittance):
* Khái niệm: là phương thức thanh tốn trong đó khách hàng ( người trả
tiền – người nhập khẩu ) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền
nhất định cho người khác ( người hưởng lợi – người xuất khẩu) ở một địa
điểm nhất định bằng hình thức chuyển tiền do khách hàng yêu cầu hoặc bằng
điện (telegraphic tranfer – T/T) hoặc bằng thư ( mail transfer – M/T). Ngân
hàng chuyển tiền thường phải thông qua đại lý, hoặc chi nhánh của mình ở
nước ngồi để thực hiện nhiệm vụ chuyển tiền.
* Các phương tiện:
- Điện chuyển tiền thông qua mạng Swift hoặc Telex ( MT103).
- Chuyển tiền qua mạng WU.
- VP Bank phát hành Bankdraft.
- Thông qua các ngân hàng nội địa.

SVTH: Nguyễn Thị Mai Linh

21

MSV: 0754010098


×